THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 27




PHẦN III:     Nguồn cội

“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
.


CHƯƠNG V: XUÂN LỬA ĐỐNG ĐA

“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quí báu của ta. Từ xưa đên nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn; nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.”
(Hồ Chí Minh)

Triều đại nhà Lê do Lê Lợi khai nghiệp (1428 - 1527) thường được gọi là Triều Lê Sơ để phân biệt với triều Tiền Lê (mà Lê Hoàn là đời vua thứ nhất) và với triều Hậu Lê (được dựng lên sau triều Mạc).
Kinh đô Đại Việt, thành Đông Kinh thời Lê (Sơ), trên cơ sở thành Thăng Long - Đông Đô thời Lý, Trần, được tu bổ và xây dựng thêm theo qui cách đế đô của một quốc gia quân chủ chuyên chế phương Đông. Vòng thành ngoài vẫn mang tên là “thành Đại La”, vào năm 1477 được Lê Thánh Tông cho xây dựng lại vòng thành thứ hai được chính thức gọi là Hoàng Thành. Năm 1474 và năm 1500, nhà Lê cho sửa chữa và tôn tạo lại tường thành phía tây và phía đông của Hoàng Thành. Năm 1516, Hoàng Thành được mở rộng thêm về phía đông: “đắp thành to rộng mấy nghìn trượng, bao vây cả điện Tường Quang, quán Trấn Vũ, chùa Thiên Hoa ở phường Kim Cổ, từ phía đông đến phía tây - thành trong cùng gọi là Cung Thành hay Phượng Thành. Năm 1490, vòng thành này được “đắp rộng thêm ra ngoài trường đấu võ, dài rộng 8 dặm” (Sđd).

Khi Lê Thái Tông cho tiến hành vẽ thành tập bản đồ cả nước gọi là “Hồng Đức bản đồ” thì trong đó cũng có cả bản đồ thành Đông Kinh (theo lối họa đồ mang tính chất ước lệ, chưa có tỉ lệ). Theo bản đồ này thì Hoàng Thành được xây bằng gạch đá, trên có ụ bắn. Thành mở ba cửa: cửa Đông hay cửa Đông Hoa (nhìn ra Hàng Cân, Hàng Đường) và cửa Bảo Khánh (phía nam hồ Bảo Khánh, khu Giảng Võ, trước đình Giảng Võ trước đây có cổng đề là Bảo Khánh môn). Cung Thành hình chữ nhật, xây bằng gạch. Cửa chính của Cung Thành mở về phía nam gọi là Đoàn Môn, hai bên có hai cửa phụ là Đông Tràng An và Tây Tràng An.
Trong Cung Thành, nhà Lê cho xây dựng và bố trí lại nhiều cung điện, lầu gác. Kiến trúc trung tâm vẫn là điện Kính Thiên, được xây dựng lại từ năm 1428, đến năm 1467 có làm thêm hai lan can bằng đá chạm rồng ở thềm điện. Trước điện Kính Thiên có điện Thị Triều, làm nơi các quan vào chầu vua, bên phải là điện Chí Kính, bên trái là điện Vạn Thọ. Ngoài ra còn có các điện Cần Thánh, Cẩn Đức, Thúy Ngọc, Giảng Võ, Thạch Thất, Thượng Dương…, các cung Cảnh Linh, Vĩnh Ninh… Phía đông Cung Thành có Đông Cung giành cho Hoàng tử, điện Phụng Tiên thờ tổ tiên nhà vua… Trong Hoàng Thành còn nhiều lầu gác, đền miếu cùng các ao cảnh, núi giả, vườn Thượng uyển… làm nơi giải trí, thưởng ngoạn.
Ngoài Hoàng Thành, nhiều kiến trúc mới cũng được dựng lên. Phía nam cửa Đại Hưng có đình Quảng Văn là niêm yết các pháp lệnh, cáo thị của nhà nước. Viện Đãi Lận là nơi quan chờ để vào chầu, trước dựng ở ngoài cửa Tây, đến đời Thánh Tông thì dời về ngoài cửa Đại Hưng.
Dưới triều Lê, tư tưởng Nho giáo thịnh hành lấn át Phật giáo và trở nên chính thống, do đó khu Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng lại và mở mang nhiều. Văn Miếu gồm điện Đại Thánh thờ Khổng Tử, hai dãy giải vũ đông và tây thờ các Tiên hiền, Tiên nho, điện Cảnh Phục, nhà bếp, kho tế khí. Quốc Tử Giám hay nhà Thái Học ở phía sau Văn Miếu, được xây dựng thành một trường học cao cấp, có qui mô rộng lớn. Khu học xá này gồm nhà Minh Luân 3 gian, các giảng đường đông và tây mỗi dãy 14 gian làm chỗ giảng dạy, kho chứa ván in sách 4 gian và hai ký túc xá của học sinh, mỗi khu 3 dãy, mỗi dãy 25 gian. Lê Thánh Tông qui định 3 năm mở một kỳ thi hội và những người trúng tuyển gọi là tiến sĩ, dân gian gọi là Ông Nghè, được truyền loa xướng danh, được yết tên lên bảng vàng treo ở cửa Đông Hoa và được khắc tên vào bia đá dựng trước Quốc Tử Giám.
Từ khoa thi hội đầu tiên năm 1442 đến khoa thi hội cuối cùng năm 1526, gần 26 kỳ thi, triều Lê đã đào tạo được 984 tiến sĩ. Hiện nay ở Văn Miếu còn giữ được 13 bia tiến sĩ dựng từ đời Lê.
Dưới triều Lê, hàng loạt phủ đệ của quí tộc, dinh thự của quan lại, công đường của 6 bộ và các cơ quan trung ương, doanh trại quân đội… đua nhau mọc lên, lan ra cả ngoài Hoàng Thành.
Quá sùng bái tư tưởng Nho Giáo, nhà Lê đã làm hình thành nên một thứ văn hóa tạm gọi là “văn hóa lễ - nhạc cung đình”, mang tính câu nệ và nặng hình thức, dành riêng cho vua quan, tương đối phân biệt và tách rời nền văn hóa dân gian của Đại chúng; càng ngày càng có thái độ khinh thường vốn văn hóa cổ truyền. Nhà Lê cấm trình diễn chèo hát, múa rối trong cung đình, phân biệt đối xử với các nghệ sĩ dân gian, coi họ là “xướng ca vô loài” và cấm con trai đi thi, cấm con gái lấy chồng nhà quyền quí. Điều trớ trêu là vương triều Lê đã mở đường cho việc bắt chước máy móc, thiếu cân nhắc lựa chọn nhiều thứ từ văn hóa nhà Minh.
Nhưng bên cạnh một Đông Kinh của vua quan, vẫn có một Đông Kinh của dân chúng. Khu phố phường dân cư ngoài Hoàng Thành tiếp tục phát triển. Năm 1466, vùng Kinh sư đặt thành phủ Trung Đô gồm hai huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương. Năm 1469, phủ Trung Đô đổi tên thành phủ Phụng Tiên. Khu dân cư của hai huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương chia làm 36 phường. Phường vừa là một đơn vị hành chính cơ sở, tương tự như Xã ở nông thôn, vừa là tập hợp những người cùng nghề. Qui hoạch 36 phố phường của Thăng Long - Hà Nội bắt đầu từ đó.
Cư dân 36 phường của Đông Kinh bao gồm cả nông dân, thợ thủ công và thương nhân, trong đó có những phố - chợ buôn bán tấp nập và những phường thủ công nổi tiếng…
Những năm cuối triều Lê, Đông Kinh là nơi diễn ra những cuộc ăn chơi trác táng của “vua quỉ” Lê Uy Mục (1505 - 1509), “vua lợn” Lê Tương Dực (1509 - 1516), là chiến trường xung đột giữa các phe phái triều đình và cũng là mục tiêu tiến công của khởi nghĩa nông dân. Nghĩa quân nông dân do Trần Cao lãnh đạo, đã ba lần tiến đánh Đông Kinh, trong đó có một lần chiếm được Kinh thành.
Năm 1527, Triều Mạc (1527 - 1592) thay thế triều Lê Sơ. Chính sách cai trị của Triều Mạc nói chung có nới hơn so với triều Lê, song về cơ bản vẫn không đề ra được những cải cách mới, mở đường cho sự phát triển bình ổn lâu dài của xã hội. Trong khi đó, các thế lực gồm đông đảo các cựu thân nặng tư tưởng Nho giáo, trung quân mù quáng, nổi lên chống đối khắp nơi. Năm 1533, các lực lượng này tập hợp lại ở Thanh Hóa, dựng nên một triều Lê bù nhìn (triều Lê Trung Hưng hay Hậu Lê) để chống lại nhà Mạc. Từ năm 1545, quyền bính của triều Lê này thực chất nằm trong tay họ Trịnh. Đây là khởi đầu của cái chính quyền gọi là “vua Lê - chúa Trịnh” (về hình thức, giống như chính quyền quân chủ lập hiến ngày nay), kéo dài đến tận 1786. Cuộc xung đột Lê - Mạc và tiếp đó là Trịnh - Nguyễn phân tranh đã làm cho đất nước bị chia cắt trong một thời gian rất dài.
Đông Kinh thời nhà Mạc, rồi thời vua Lê - chúa Trịnh thường được gọi trở lại bằng tên Thăng Long…
Để đề phòng những cuộc tân cống của quân Lê - Trịnh, năm 1588, nhà Mạc cho đắp thêm ba lần lũy ngoài thành Đại La, đưa toàn bộ khu hồ Tây vào trong phạm vi thành Thăng Long. Năm 1592, sau khi đánh bại quân Mạc, chiếm được Thăng Long, quân Trịnh đã phá hủy hoàn toàn hệ thống thành lũy phòng vệ này, làm cho Thăng Long lại không có vòng thành ngoài.
Sang thế kỷ XVIII, nhất là từ thập kỷ 30, phong trào khởi nghĩa nông dân bộc phát dữ dội, uy hiếp nghiêm trọng nến thống trị của chúa Trịnh. Khởi nghĩa Quận He (Nguyễn Hữu Cầu) đã có lần tiến đánh kinh thành Thăng Long. Vì vậy, năm 1749, chúa Trịnh lúc đó là Trịnh Doanh điều động dân phu, dựa theo thành Đại La cũ, đắp lại vòng thành ngoài, gọi là thành Đại Đô.
Một nét mới trong quần thể kiến trúc cung đình của Thăng Long thời Lê - Trịnh là sự xuất hiện cụm kiến trúc Phủ Chúa. Phủ Chúa ở phía nam tháp Bảo Thiên (bị sập vào năm 1547) và phía tây hồ Hoàn Kiếm (lúc bấy giờ còn khá rộng, gồm hồ Tả Vọng và hồ Hữu Vọng). Kiến trúc chính của Phủ Chúa là các cung điện nguy nga, có tường thành bao bọc hình vương, mở hai cửa: Chính Môn ở phía nam và Tuyền Vũ ở phía đông (nhìn ra hồ Hoàn Kiếm).
Ngoài Phủ Chúa còn một loạt kiến trúc liên quan, bố trí bên bờ hồ Hoàn Kiếm, lan rộng đến bờ sông Hồng như: Nguyệt Đài, Thủy Tạ, cung Khánh Thụy, trên Gò Rùa có Tả Vọng Đình (nền tháp Rùa sau này), cung Tây Long (khoảng vị trì của Bảo tàng lịch sử), lầu Ngũ Long (khoảng Tràng Tiền), chuồng voi (thường nuôi khoảng 150 đến 200 voi chiến)…
Do sự phát triển của kinh tế hàng hóa và sự mở rộng quan hệ ngoại thương, thế kỷ XVII là giai đoạn hưng thịnh của các thành thị trên qui mô cả nước. Nhiều thành thị cũ trở nên thịnh vượng và một loạt thành thị, thương cảng mới ra đời. Trong đó nổi tiếng nhất là Thăng Long, Phố Hiến (Hưng Yên), Vị Hoàng (Nam Định) ở Đàng Ngoài; Phú Xuân (Huế), Thanh Hà (gần Huế), Hội An (Quảng Nam), Đia Định (thành phố Hồ Chí Minh), Cù Lao Phố (Biên Hòa), Hà Tiên (Kiên Giang) ở Đàng Trong. “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”, đứng đầu các thành thị ấy là Thăng Long mà người đương thời cũng quen gọi là Kinh Kỳ hay Kẻ Chợ. Các thương nhân và giáo sĩ phương Tây đều thống nhất nhìn nhận Thăng Long là một thành phố lớn ở Á Châu, thậm chí có người so sánh với Vơ-ni-dơ (Venise) của Ý hay Pa-ri (Paris) của Pháp (?)
Thời bấy giờ, hoạt động thương nghiệp của Thăng Long phát triển mạnh mẽ nhất qua các màng lưới chợ, bến cảng và phố xá. Mật độ chợ rất cao, thường họp ở các cửa ô thành ngoài, các cửa của Hoàng Thành và ven sông. Những chợ lớn, nổi tiếng đã có trên 10 chợ như: chợ cửa Đông, chợ cửa Nam, chợ Ông Nước (gần Ngọc Hà), chợ Yên Thọ (Ô Cầu Dền), chợ Thịnh Quang (Ô chợ Dừa), chợ Dịch Vọng (Ô Cầu Giấy), chợ Yên Thái (Bưởi), chợ Đình Ngang (gần Cửa Nam), chợ Bà Đà, chợ Văn Cử, chợ Bác Cử, chợ Gạo, chợ Hàng Cá, chợ Bạch Mã… Ngoài ra còn một loạt chợ Không Tên, bất cứ nơi nào đông người qua lại lập tức người ta nhóm họp lại để mua bán. Hiện tượng đó làm cho Thăng Long giống như một cái chợ khổng lồ và từ đó mà có tên Kẻ Chợ. Các sông ngòi tự nhiên của Thăng Long tạo nên cho thành thị này một hệ thống bến cảng rất thuận tiện. Sông Hồng lúc đó còn ăn sâu vào phía trong, ăn thông với hồ Tả Vọng, Hữu Vọng và nối liền với sông Tô Lịch, hồ Tây, sông Kim Ngưu. Các bến cảng ven sông, nhất là sông Hồng, không những mở rộng mối giao lưu trong thành phố, mà còn nối Thăng Long với các thị trường chung quanh và với thuyền buôn nước ngoài. Hồi đó, phía ngoài thành, phía sông Hồng (mạn phía nam cầu Long Biên) còn có thương điếm của Hà Lan (từ 1645 đến 1699), của Anh (từ 1683 đến 1697)
Người Thăng Long - Kẻ Chợ rất tự hào với lối sống thanh lịch của đất Kinh Kỳ, với những công trình nghệ thuật “Phật đá Cầu Đông” (Cầu qua sông Tô ở quãng Hàng Đường - Ngõ Gạch), “tượng đồng Trấn Vũ” (cao 3,76m, nặng 4 tấn, đúc năm 1677), với dòng tranh dân gian Hàng Trống, với tên tuổi các danh nhân Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn (người Nhân Mục, Đống Đa), Bùi Huy Bích (người Thịnh Liệt, Thanh Trì), Ngô Thì Sở (người làng Tô, tức Tả Thanh Đài), Lê Quí Đôn, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du v..v…..
Tuy nhiên, những yếu tố thuận lợi, kích thích sự tăng trưởng kinh tế nói trên (trong đó phải kể đến cả những tác động tích cực của việc hình thành lãnh thổ Đàng Trong của chúa Nguyễn, tạo điều kiện lan tỏa dân cư xuống phía nam (là mang tính ngẫu nhiên, tự phát). Trong khi đó, linh hồn của một nền kinh tế là sản xuất nông nghiệp lại hầu như dậm chân tại chỗ, thậm chí là suy thoái đi bởi cơ chế đè ép nặng nề của giai tầng thống trị, Thực trạng đó có thể nhất thời tạo nên cảnh phồn hoa đô hội nhưng có vẻ giả tạo và bất ổn. Nó sẽ không đương đầu nổi với những khó khăn chất chồng lên đất nước bởi nạn chiến tranh tranh quyền đoạt lợi giữa các thế lực vương triều, nạn cát cứ chia cắt đất nước, nạn xa hoa đàng điếm trong cung đình và quan lại tham nhũng của bộ máy chính quyền cồng kềnh, nạn thiên tai.
Chiến tranh Trịnh - Mạc (hay còn gọi là cuộc chiến Nam - Bắc triều) kết thúc bằng thắng lợi của vua Lê - chúa Trịnh (Nam Triều). Sau 47 năm chiến tranh với 38 trận đụng độ lớn nhỏ đã gây nên nhiều hậu quả ghê gớm cho nhân dân và xã hội Viêt Nam đương thời. Hàng vạn người thương vong, mùa màng bị tàn phá chưa kể do thiên tai.
Năm 1592, nhà Mạc tiêu vong, tình trạng phân chia Nam - Bắc triều chấm dứt. Nhưng trước đó đã nảy sinh mầm mống của nạn cát cứ mới. Sau khi Nguyễn Kim chết, trong nội bộ Nam triều xuất hiện mâu thuẫn gay gắt giữa hai dòng họ thế lực Trịnh và Nguyễn. Trịnh Kiểm, con rể Nguyễn Kim, tiếp nhận vai trò lãnh đạo quyền bính của họ Nguyễn. Trong hai người con của Nguyễn Kim thì một người là Nguyễn Uông đã bị Trịnh Kiểm ám hại, người thứ hai là Nguyễn Hoàng lâm vào tình trạng bị đe dọa tính mạng. Trước tình thế đó, Nguyễn Hoàng đã khôn khéo chủ động xin vào trấn thủ đất Thuận Hóa để tránh tai họa.
Tháng 11 năm 1558, Nguyễn Hoàng đem theo nhiều bà con, dòng tộc ở Tống Sơn (Thanh Hóa) vượt biển, đổ bộ lên Cửa Việt, lập bản doanh ở Ái Tử (Bình Trị Thiên), thu hết hào kiệt, xúc tiến việc tổ chức cai trị, tranh thủ lòng dân… Năm 1570, khi quân Mạc tấn công vùng Thanh Nghệ, chúa Trịnh phải triệu trấn thủ Quảng Nam, về bảo vệ Nghệ An và giao cho Nguyễn Hoàng cai quản đất Quảng Nam. Từ đó, bề ngoài Nguyễn Hoàng vẫn giữ tư cách một phiên thần của Nam triều, nhưng bên trong thì khẩn trương xây dựng lực lượng riêng. Dựa vào điều kiện thiên nhiên thuận lợi và nhân lúc họ Trịnh đang phải lo đối phó với nhà Mạc ở phía Bắc (Bắc Triều), họ Nguyễn ra sức cải tạo vùng Thuận - Quảng thành căn cứ địa vững chắc, tạo dựng một tiềm lực quân sự mạnh mẽ chống Trịnh lâu dài. Năm1613, trước khi chết, Nguyễn Hoàng dặn con là Nguyễn Phúc Nguyên: “Đất Thuận - Quảng phía bắc có Hoàng Sơn và Linh Giang, phía nam có núi Hải Vân và Thạch Bí, địa thế hiểm cố, thật là nơi để cho người anh hùng dụng võ. Nếu biết dạy bảo nhân dân, luyện tập binh sĩ kháng cự lại họ Trịnh thì gầy dựng được cơ nghiệp muôn đời”.
Năm 1614, Phúc Nguyên cải sổ chính quyền, xây dựng một nhà nước riêng, tách khỏi mọi quan hệ lệ thuộc với họ Trịnh (đình chỉ việc nộp phú thuế cho Trịnh, thải hồi những quan lại do họ Trịnh cử vào Thuận - Quảng). Hành động đó đã chính thức phân chia đất nước thành hai miền mà dân gian gọi là Đàng Trong, Đàng Ngoài. Tháng 4 năm 1627, lấy cớ họ Nguyễn chống lại vua Lê, quân Trịnh tiến đánh, mở đầu cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài từ năm 1627 đến 1672, với 7 cuộc đụng độ lớn và chiến trường khốc liệt nhất là vùng lưu vực sông Gianh và sông Nhật Lệ. Cuộc chiến tranh đó dai dẳng và bất phân thắng bại, sự chia cắt đất nước vẫn tồn tại kéo dài đã tiêu tốn vô ích biết bao nhân tài vật lực của đất nước, đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho đời sống nhân dân, nhất là nhân dân Đàng Ngoài lâm vào tình cảnh ngày càng cơ cực, đói khổ.
Một nguyên nhân cũng rất quan trọng dẫn đến sự suy thoái nghiêm trọng của đời sống kinh tế xã hội là nạn mất mùa. Nó đóng vai trò như chất xúc tác, kích thích tốc độ suy thoái xảy ra nhanh và mức độ suy thoái nặng nề hơn. Thực ra, thiên tai mất mùa đã xảy ra khá thường xuyên từ cuối thế kỷ XVII. Các năm 1678, 1681, 1684, 1687, 1695… là những năm hạn lụt, mất mùa lớn. Sang thế kỷ XVIII, thiên tai cơ vận càng xảy ra triền miên và trầm trọng hơn. Năm 1702, do từ lâu trước đó việc coi sóc tu tạo đê điều không được quan tâm đúng mức, nhiều nơi bỏ bê, dẫn đến sự kiện vỡ đê sông Mã, sông Chu ở Thanh Hóa, mùa màng mất sạch, nhân dân bị đói lớn. Năm 1703, nạn đói lan ra cả 4 nội trấn ở đồng bằng và khu vực kinh thành. Những năm 1712, 1713, một trận đói lớn nữa lan tràn khắp Đàng Ngoài, các đê sông lớn lại vỡ nhiều nơi, người ta “phải ăn vỏ cây, rau cỏ, thây chết đói đầy đường, thôn xóm tiêu điều…”. Năm 1726 và 1727, nhân dân Thanh Nghệ lại lâm vào nạn đói kéo dài, đến 1728 thì lan rộng ra cả 4 trấn đồng bằng. Đặc biệt nghiêm trọng là nạn đói năm 1741, bắt đầu ở trấn Hải Dương rồi bao trùm lên khắp Đàng Ngoài. Sử cũ chép: “Dân bỏ cả cày cấy, thóc lúa dành dụm trong xóm làng đều hết sạch, duy có Sơn Nam còn hơi khá. Dân lưu vong bồng bế dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường. Giá gạo cao vọt, 100 đồng tiền không đổi được một bữa ăn. Dân phần nhiều sống nhờ rau cỏ, đến nỗi ăn cả chuột, rắn. Người chết đói ngổn ngang, người sống sót không còn được 1 phần 10. Làng nào có tiếng là trù mật cũng chỉ còn độ 3,5 hộ mà thôi” (Cương mục). Riêng ở Sơn Nam, Nghệ An, được mùa một chút thì bị họ Trịnh trưng mua, vơ vét lúa gạo nên đời sống nhân dân cũng đói khổ. Thóc gạo khan hiếm đến nỗi có nơi một mẫu ruộng bán đi không mua nổi một cái bánh nướng, có người tiền của đầy nhà cũng chết đói. Ở vùng Hải Dương “ruộng đất đã hầu thành ra rừng rậm, những giống gấu chó, lợn lòi sinh tụ ngoài đồng, những người sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột đồng mà ăn” (Vũ trung tùy bút)…
Hàng vạn nông dân đã chết qua những nạn đói kéo dài và khủng khiếp ấy. Riêng ở khu vực kinh thành, số người chết đói bị chôn vùi ở bên đường nhiều quá, Trịnh Cương phải lấy đất công lập hai khu mộ địa, một khu rộng hơn 17 mẫu ở xã Dịch Vọng và một khu rộng hơn 14 mẫu ở xã Hoàng Mai để chôn cất những người chết đói, chết dịch ở Kinh Thành.
Các nạn đói, nạn dịch làm cho những người sống sót không còn điều kiện sinh sống, phải bỏ làng quê đi kiếm ăn khắp nơi, tạo ra một lực lượng nông dân lưu vong ngày một đông đảo. Vào khoảng nửa sau thế kỷ XVIII, theo bản điều trần của Ngô Thì Sĩ gửi lên chúa Trịnh thì ở Đàng Ngoài, vùng đồng bằng thuộc Bắc Bộ ngày nay, trong số 9668 xã thôn thì có 1076 xã đã phiêu tán…
Trong khi ở Đàng Ngoài, đời sống xã hội đã suy thoái như thế thì ở Đàng Trong, nhờ những điều kiện đất đai, khí hậu thuận lợi hơn ở phía Nam mà tình hình có đỡ hơn. Tuy nhiên, bản chất chính trị của chế độ quân chủ cũng dần gây ra những hậu quả làm mâu thuẫn giàu - nghèo trong xã hội trở nên hết sức căng thẳng. Chế độ thuế khóa rắm rối và không kém phần nặng nề đã không kích thích được sản xuất mà còn làm cho đời sống nhân dân lâm vào cơ cực. Từ năm 1769, trong khoảng 4,5 năm liền, đói kém diễn ra liên tiếp. Mùa đông năm 1774 vùng Thuận Hóa lâm vào nạn đói lớn, người chết đói đầy đường. Vùng Gia Định là vựa thóc của Đàng Trong mà từ năm 1768 trở đi, giá thóc cũng tăng vọt.
Trong khi đó, sau khi đã củng cố được địa vị thống trị, tầng lớp thống trị nhà Nguyễn cùng với đám quan lại đã bắt đầu “đổ đốn”, ra sức bóc lột, đục khoét nhân dân, đã tích lũy được rất nhiều của cải để bắt đầu cuộc sống xa hoa trụy lạc. Xu hướng sa đọa này thể hiện rõ ngay từ đầu thế kỷ XVIII và đến đời Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) thì sự xa hoa trụy lạc đã lên đến cực độ, không thua kém gì bè lũ họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Ở Phú Xuân, “cung điện cao nguy nga rực rỡ…”, dinh thự quí tộc “la liệt hai bên bờ thượng lưu sông Phú Xuân và con sông nhỏ ở Phủ Cam”. Trong những lâu đài, dinh thự cực kỳ tráng lệ đó là cảnh đua nhau phè phỡn, ăn chơi trác táng, yến tiệc, ca hát thâu đêm. Chúa Nguyễn cuối cùng ở Đàng Trong là Nguyễn Phúc Thuần, khi lên ngôi mới 12 tuổi, mọi quyền hành đều bị Trương Thúc Loan thâu tóm hết, bộ máy chính quyền càng trở nên thối nát, tham tàn, “từ quan to đến quan nhỏ, nhà cửa chạm trổ, trướng vóc màn the, đồ dùng toàn bằng đồng, bằng sứ, bàn ghế bằng gỗ đán gỗ trắc, yên ngựa dây cương đều nạm vàng ngọc, áo quần là lượt, nệm hoa chiếu mây, lấy sự phú quý phong lưu để khoa trương lẫn nhau. Họ coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, hoang phí vô cùng” (Lê Quí Đôn). Điển hình cho sự tham lam vô độ của quí tộc, quan lại Đàng Trong là quyền thần Trương Thúc Loan: hàng năm thu lợi 4,5 vạn quan tiền, nổi tiếng về tham ô, ăn của đút và mua quỵt hàng của thương nhân nước ngoài, “vàng bạc, châu báu, gấm vóc chứa đầy nhà, nô bộc, trâu ngựa không biết bao nhiêu mà kể”. Mỗi lần bị lụt, Loan đem vàng bạc bày lên chiếu mây để phơi nắng “sáng chói cả một góc sân”.
Đến đây, quyền lợi ích kỷ bất nhân bất nghĩa của cả hai tập đoàn thống trị Trịnh, Nguyễn đã hoàn toàn trở thành đối kháng với quyền lợi được sống của Đại Chúng ở Đàng Ngoài cũng như Đàng Trong. Như vậy chúng chỉ còn là những bè lũ phản dân, hại nước và dù có mang nhãn mác nào đi chăng nữa thì lúc này, về thực chất, chúng đã hành động không khác gì những bọn, nếu chưa phải là bán nước thì cũng là cướp nước.
Phong trào khởi nghĩa nông dân xuất hiện là điều tất yếu, không thể tránh khỏi.
***
Từ cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, nhiều cuộc nổi dậy và khởi nghĩa nông dân đã nổ ra rải rác khắp nơi. Đến những năm cuối của nửa đầu thế kỷ XVIII, khởi nghĩa nông dân bộc phát thành cao trào, cuồn cuộn dâng lên như nước vỡ bờ và kéo dài trên dưới 10 năm.
Ở Đàng Ngoài, ba cuộc khởi nghĩa có qui mô rộng lớn hơn cả và mang tính tiêu biểu là: khởi nghĩa Nguyễn Danh Phương, khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu, khởi nghĩa Hoàng Công Chất.
Nguyễn Danh Phương, người xã Tiêu Sơn, huyện Yên Lạc, trấn Sơn Tây (nay thuộc Vĩnh Phúc), là trí thức nghèo, ghét Trịnh, năm 1740 tham gia cuộc khởi nghĩa do thủ lĩnh tên Tế cầm đầu ở Sơn Tây. Khi Tế chết, Phương kéo nghĩa quân về núi Tam Đảo xây căn cứ mới. Ở đây, Phương cho đắp thành lũy, tích trữ lương thực, rèn khí giới, tuyển mộ thêm quân. Đầu năm 1744, lực lượng nghĩa quân lên đến một vạn người, nhiều lần đánh bại quân Trịnh. Cuối năm 1744, Phương xây dựng căn cứ trung tâm ở núi Ngọc Bội, gọi là “Đại Đồn”, tự xưng “Thuận Thiên Khải vận đại nhân”, đặt quan lại, xây điện như một triều đình riêng. Xung quanh căn cứ Ngọc Bội là hệ thống đồn lũy phòng thủ. Hầu hết các huyện thuộc Tam Đài, Lâm Thao, Đà Dương (trấn Sơn Tây) và một số huyện thuộc các trấn Thái Nguyên, Tuyên Quang đều nằm trong khu vực hoạt động của nghĩa quân Nguyễn Danh Phương. Nghĩa quân vừa hoạt động, vừa cày cấy tự túc, tích trữ lương thảo làm kế lâu dài. Khi đã có căn cứ địa vững chắc, Phương tỏa quân đi đánh phá các cơ sở chính quyền họ Trịnh thuộc vùng Tam Đài, Lâm Thao, Đà Dương, gây thanh thế ngày càng lớn. Khoảng cuối năm 1750, đầu năm 1751, Trịnh Doanh cử các tướng kéo 4 đạo quân lớn tiến đánh Nguyễn Danh Phương. Quân Trịnh đi vòng lên Thái Nguyên rồi bất ngờ đánh đồn Ức Kỳ, vây đồn Hương Canh. Nghĩa quân phải lui về căn cứ Ngọc Bội. Sau một thời gian chiến đấu ác liệt, đại đồn Ngọc Bội thất thủ, Phương rút về núi Độc Tôn (thuộc huyện Tam Dương), phá hết đồn trại, rồi chạy trốn đến Tinh Luyện (huyện Lập Trạch). Đến đây, Nguyễn Danh Phương bị bắt, cuộc khởi nghĩa do ông cầm đầu tan rã.
Nguyễn Hữu Cầu là thủ lĩnh kiệt xuất của phong trào nông dân Đàng Ngoài ở thế kỷ XVIII. Cầu quê ở xã Lôi Dương, huyện Thanh Hà (nay thuộc Hải Dương), thuở nhỏ là bạn học với Phan Đình Trọng (sau này là tướng nhà Trịnh). Năm 1740, Cầu tham gia cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Cừ. Năm 1741, Nguyễn Cừ bị bắt, Cầu tiếp tục duy trì và phát triển lực lượng ở Hải Dương. Năm 1742, Cầu chiếm Đồ Sơn lập căn cứ, làm chủ cả một vùng bờ biển và hải đảo tự xưng là “Đông đạo tổng quốc bảo dân đại tướng quân”. Cầu thường tổ chức cướp của nhà giàu, đón đánh thuyền buôn của phú thương, lấy lúa gạo chia cho dân nghèo. Hành động đó đã lôi cuốn hàng vạn nông dân nghèo đói, lưu vong, theo nghĩa quân nên chỉ trong thời gian ngắn lực lượng tăng nhanh, mở rộng hoạt động ra khắp vùng đông - bắc Hải Dương. Trong năm 1743, nghĩa quân phá được những cuộc tấn công lớn của quân Trịnh. Tháng 6-1744, tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc dồn lực lượng đánh Đồ Sơn nhưng Cầu nhanh chóng phá được vòng vây, tiến về mạn Kinh Bắc, chiếm vùng sông Thọ Xương (khúc sông Thương thuộc huyện Lạng Giang), đắp lũy hai bên bờ sông, phòng thủ. Trấn thủ Kinh Bắc là Trần Đình Cẩm đem quân tới phá, bị nghĩa quân đánh tan, phải rút về Thị Cầu. Nhân đã thắng lợi, Cầu cho quân tiến đánh, chiếm được trấn thành Kinh Bắc. Được tin cấp báo, lo sợ nghĩa quân kéo thẳng lên Thăng Long, chúa Trịnh Doanh vội huy động vệ binh chia nhau đóng ở các cửa ngõ kinh thành để phòng giữ, đồng thời cử tướng Trương Khương kết hợp với Hoàng Ngũ Phúc tiến đánh, mới chiếm lại được Kinh Bắc rồi huy động thêm lực lượng truy kích, bao vây nghĩa quân. Cuối năm 1744, nghĩa quân phá tan được thế bao vây của quân Trịnh, đánh thắng một trận lớn ở xã Ngọc Lâm (Hà Bắc) rồi trở lại vây thành Kinh Bắc lần thứ hai. Mấy cánh quân Trịnh do các tướng Hoàng Ngũ Phúc, Đàm Xuân Vực… chỉ huy phải hợp sức lại mới giải vây được. Mùa thu năm 1745, Nguyễn Hữu Cầu rời Kinh Bắc, trở lại hoạt động ở Hải Dương. Trong khoảng năm 1746-1748, nghĩa quân hoạt động mạnh ở vùng ven biển Hải Dương, có lần vượt biển đánh tập kích vào Sơn Nam. Tuy nhiên quân Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng chỉ huy vẫn bám sát nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu, chờ thời cơ tấn công tiêu diệt. Cuối năm 1748, nghĩa quân thua một trận lớn ở Cẩm Giàng (Hải Dương) nhưng ngay sau đó, lợi dụng sơ hở, Cầu kéo quân cấp tốc tiến về bến Bồ Đề nhằm tấn công thành Thăng Long. Tiếc rằng khi nghĩa quân vừa sang sông thì trời sáng, quân Trịnh kịp huy động lực lượng vây đánh. Bị tổn thất nặng, Cầu phải rút về Sơn Nam phối hợp với nghĩa quân của Hoàng Công Chất. Quân Trịnh lại tập trung về Sơn Nam, quyết tiêu diệt cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu. Nhiều cuộc giáp chiến ác liệt giữa hai bên đã diễn ra ở vùng Bình Lục (Hà Nam). Tháng 2-1751, sau mấy trận thua lớn, lực lượng hao tổn nhiều, núng thế, Cầu phải chạy vào Thanh Hóa rồi vào Nghệ An dựa vào lực lượng của Nguyễn Diên (một tướng chỉ huy trong khởi nghĩa Nguyễn Tuyển). Phạm Đình Trọng kéo quân vào vây đánh, Cầu cùng một số bộ tướng và nghĩa quân vượt biển định trở về Hải Dương, nhưng gặp bão, phải bỏ thuyền lên bộ, bị quân Trịnh đuổi kịp bắt được ở núi Hoàng Mai (Quỳnh Lưu, Nghệ An). Tháng 3-1751, Nguyễn Hữu Cầu bị xử tử cùng một lần với Nguyễn Danh Phương ở Thăng Long. Cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu chấm dứt.
Từ năm 1789, Hoàng Công Chất đã hoạt động mạnh mẽ ở vùng Sơn Nam. Nghĩa quân Hoàng Công Chất rất giỏi thủy chiến, sở trường về lối đánh du kích, chiến đấu linh hoạt, không có căn cứ cố định ở một nơi. Quân Trịnh nhiều lần tiến đánh nhưng không dẹp nổi. Đầu năm 1746, Hoàng Công Kỳ là trấn thủ Sơn Nam, dẫn quân đàn áp, bị nghĩa quân mai phục bắt sống. Cuối năm 1748, Hoàng Công Chất phối hợp với nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu chống cự quân Trịnh, sau mấy trận thua liên tiếp và nặng nề, Cầu chạy vào Nghệ An và Chất chạy vào Thanh Hóa. Sau đó, Chất theo đường núi tiến ra miền Hưng Hóa, liên kết với một thủ lĩnh nghĩa quân tên là Thành để phát triển lực lượng. Giữa năm 1751, thủ lĩnh Thành bị bắt trong một lần tấn công của quân Trịnh. Chất lại phải rút lên Châu Ninh Biên (Lai Châu) rồi dần mở rộng hoạt động ra nhiều nơi thuộc vùng Tây Bắc (như Điện Biên, Sơn La, Hưng Hóa, Hòa Bình), gây cho quân Trịnh nhiều thiệt hại. Một trung tâm khởi nghĩa hình thành ở vùng Hưng Hóa. Năm 1768, Chất chết, cuộc khởi nghĩa tàn lụi theo.
Trong khi ở Đàng Ngoài, phong trào khởi nghĩa nông dân nổi lên rầm rộ thì ở Đàng Trong, tình hình có vẻ “dịu” hơn. Năm 1747 có nổ ra cuộc khởi nghĩa ở Gia Định do một thương nhân cầm đầu. Nhân dân thiểu số dọc Trường Sơn và vùng Tây Nguyên, người Chàm, người Khmer cũng nhiều lần nổi dậy, chống họ Nguyễn. Ở vùng đồng bằng cũng xuất hiện những cuộc nổi dậy lẻ tẻ. Nói chung thì qui mô của các cuộc nổi dậy đó chưa lớn. Nổi trội chỉ có cuộc nổi dậy của Lía là đáng kể trước khi có cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Trong dân gian còn lưu truyền câu chuyện của Lía và câu thơ gây xúc cảm sau đây:
                              “Chiều chiều én liệng Truông Mây
                              Cảm thương chàng Lía bị vây trong thành”
Dù có lúc phát triển rất nhanh, bộc phát thành cao trào nhưng tất cả các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ trước khi có cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, trong phong trào khởi nghĩa nông dân suốt thế kỷ XVII và XVIII (nhất là ở thế kỷ XVIII, khi mà tình hình đất nước đã trở nên bất lợi đối với thế lực Trịnh ở Đàng Ngoài và Nguyễn ở Đàng Trong) đều lần lượt thất bại. Nguyên nhân thất bại có thể là rất nhiều, nhưng chung kết lại thì nguyên nhân sâu xa nhất là gì?
Chúng ta cho rằng ba yếu tố chắc chắn làm nên mọi thắng lợi là thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nhân hòa, hiểu rộng ra là sự đoàn kết nhất trí, sự tài giỏi, sự thấu tỏ chân lý… Không có nhân hòa thì không thấy được địa lợi và cũng không nắm bắt được thiên thời. Một cuộc khởi nghĩa tự phát, hành động mù quáng mà giành được thắng lợi thì chỉ có thể là hú họa. Đối đầu với một đối tượng đàn áp giàu kinh nghiệm, cáo già, còn đủ binh lực thì sự hú họa đó là gần như không tưởng. Nhân hòa, ở mức cao độ của nó chính là biểu hiện của Đức Huyền Diệu, đó là chính nghĩa. Thế nhưng không phải tự dưng mà có được nhân hòa nếu không có sự tạo dựng bởi con người (con người có thể tự tạo dựng mình thành người tài năng, như thế là đã tạo nhân hòa và nhờ thế mà biết tạo ra nhân hòa rộng lớn hơn và khi Đại Chúng đồng thuận thì đó là chính nghĩa, là hành động vì chính nghĩa).
Bất cứ ai dù tốt, xấu đều có thể dựng được ngọn cờ gắn nhãn mác chính nghĩa, nhưng hành động có làm cho ngọn cờ đó thực sự thắm màu chính nghĩa không và Đại Chúng có đồng ý để dần dần hướng về hay không lại là chuyện khác.
Điều đáng suy nghĩ là nhiều cuộc khởi nghĩa xảy ra gần như đồng thời, có quan hệ với nhau, đôi lúc còn hỗ trợ nhau nhưng lại không thể hòa hợp với nhau để cùng qui về một mối, cùng phụng sự cho một ngọn cờ chung. Hình như sự thiển cận về danh lợi ở các thủ lĩnh đã không cho phép họ thực hiện được điều đó.
Phải chăng các cuộc khởi nghĩa đó lần lượt thất bại là tại nguyên nhân phổ biến này: chưa đủ chính nghĩa vì còn thiếu nhân hòa? Nếu đúng thế thì chỉ có thể nói rằng phong trào khởi nghĩa nông dân của khoảng thời gian đó đã thiếu một lãnh tụ tư tưởng, biết nhìn xa trông rộng, vạch ra được đúng đắn đường lối chiến lược và sách lược, qui tụ được lòng dân, phân hóa được kẻ thù, từ đó mà tổ chức tiến hành khởi nghĩa vũ trang đúng nơi đã định và đúng thời điểm đã định, thực hiện những hành động quân sự một cách hợp lý, có phương pháp… (Chúng ta tin rằng trong một chừng mực nhất định thì con người có thể tác động cho thiên thời đến sớm hơn, thậm chí là có thể tạo dựng được!).
Tuy nhiên, cho dù các cuộc khởi nghĩa có thất bại, thì phong trào khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài ở thế kỷ XVII - XVIII đã làm rung chuyển, lung lay tận gốc rễ chế độ vua Lê - chúa Trịnh, tạo điều kiện cho cuộc tiến công giành thắng lợi nhanh chóng của nghĩa quân Tây Sơn sau này.
Tổ tiên anh em nhà Tây Sơn vốn người họ Hồ, ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An.
Khoảng những năm 1653-1657, quân Nguyễn vượt sông Gianh, đánh ra Đàng Ngoài, chiếm được 7 huyện của trấn Nghệ An. Khi rút về, họ dẫn theo nhiều dân chúng và tù binh cho vào những vùng đất mới để khẩn hoang. Ông tổ bốn đời của anh em Tây Sơn cũng bị bắt làm tù binh trong dịp này, vốn được đưa đến ấp Tây Sơn (nay là An Khê, Hoài Nhơn, Bình Định), đổi sang họ Nguyễn, định cư ở đó.
Đến đời Nguyễn Phi Phúc lại dời sang ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn (Tuy Phước, Bình Định). Nguyễn Phi Phúc lấy Nguyễn Thị Đồng sinh được ba người con trai là anh em Tây Sơn, anh cả tên là Nguyễn Nhạc, kế đến là Nguyễn Huệ, và út là Nguyễn Lữ. Gia đình Phúc làm nghề buôn trâu, cuộc sống cũng tạm cho là khá giả.
Tây Sơn xưa là vùng đất thuộc phủ Qui Nhơn, dinh Quảng Nam, hồi đó vốn là miền trù phú. Nhưng theo đà thoái hóa của chính quyền chúa Nguyễn cùng bộ máy quan lại của nó, xứ Quảng bị áp đặt thuế khóa ngày một nặng nề, nạn tham quan lại nhũng, cường hào xà xẻo, tranh đoạt đất đai khai khẩn của nông dân ngày một trắng trợn, đã làm cho dân chúng trong vùng vô cùng bất bình, nhiều người lâm vào đói khổ. Sự đè nén áp bức đó đã giải thích vì sao Quảng Nam, với vị trí là trung tâm kinh tế giàu có vào hàng bậc nhất Đàng Trong như nhận xét của nhiều thương nhân ngoại quốc đương thời lại có thể là nơi xảy ra cuộc khởi nghĩa của anh em Nguyễn Nhạc và cuộc khởi nghĩa ấy mau chóng được quần chúng ủng hộ.
Thuở nhỏ, ba anh em đều có theo học ông giáo tên Hiến. Giáo Hiến là một nho sĩ, môn khách của Trương Văn Hạnh, làm ngoại hữu dưới thời Nguyễn Phúc Thuần. Hạnh bị Loan giết, Hiến sợ lụy bỏ vào Qui Nhơn, mở lớp dạy học ở ấp Yên Thái. Lúc đó đang là thời kỳ quyền thần Trương Thúc Loan thỏa sức tác oai tác quái, lòng người ai cũng căm ghét. Được truyền thụ bởi một nho sĩ về vườn vì nhiễu nhương thời cuộc, chắc rằng ba anh em họ Nguyễn (nhất là Nguyễn Huệ) đã tiếp thu được những kiến thức quí báu, những tư tưởng trong sáng về đạo làm người từ nhà nho này. Hơn nữa, nhiều khả năng mưu đồ khởi nghĩa sau này của anh em họ Nguyễn đã nhận được sự khích lệ tích cực từ ông giáo này.
Nguyễn Nhạc có một thời gian đi buôn trâu từ vùng núi xuống vùng xuôi bán, sau đó làm biện lại (thu thuế tại trạm thuế ở một vùng). Năm Tân Mão (1771), sau một đợt thu thuế, Nguyễn Nhạc ôm hết tiền bạc, cùng hai em về quê nội, vào vùng núi Thượng Đạo, ấp Tây Sơn, lập đồn trại dựng cờ khởi nghĩa.
Thường thì khi nổi dậy, ai cũng cho là mình có “nghĩa”, và để thu phục nhân tâm thì đều tự nhận là “làm việc nghĩa”, nên khi dựng cờ lên đều muốn nêu cao nhãn mác “nhân nghĩa”. Thế nhưng, theo quan niệm của Đức Huyền Diệu thì không phải bất cứ cuộc nổi dậy nào cũng là “khởi nghĩa” dù có mang danh “khởi nghĩa” đi chăng nữa. Lịch sử đã chứng tỏ rằng sự bần cùng thường phát sinh ra nổi dậy, nhưng một sự nổi dậy không nhất thiết được phát sinh ra từ sự bần cùng. Sự thèm khát danh lợi một cách vị kỷ cũng làm xuất hiện sự nổi dậy, oán thù mù quáng cũng kích thích nổi dậy, áp bức bất công cũng sinh ra nổi dậy, bị chèn ép giáo phái cũng “thích” nổi dậy… Nói chung là có 1001 “kiểu” nổi dậy, từ “giận quá hóa điên”, “bần cùng sinh đạo tặc”, đến “sướng quá hóa rồ”, “được voi đòi tiên”, “thù nhà nợ nước”, v..v… Trong vô vàn “kiểu” nổi dậy ấy, có một “kiểu” gọi là “khởi nghĩa”. Khởi nghĩa là nổi dậy đấu tranh vũ trang chống lại chế độ đã trở nên phản động, nhằm đánh tan lực lượng thống trị (trong nước cũng như ngoại bang), dẹp bỏ áp bức bất công đang đè nặng xã hội, phù hợp với ý nguyện thiết tha của Đại Chúng, phụng sự Đức Huyền Diệu. Tùy thuộc vào nhận thức, cách hiểu (vô tình hay cố ý) mà ở mỗi người, ý nghĩa của khái niệm “áp bức” có thể là tương đối khác nhau. Tuy nhiên có thể nói áp bức, bất công là nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc nổi dậy, song chỉ có cuộc nổi dậy nhằm dẹp bỏ áp bức, bất công đối với Đại Chúng mới được gọi là khởi nghĩa. Áp bức bất công có qui mô xã hội, trước sau gì cũng làm bần cùng hóa Đại Chúng và đó chính là môi trường dung dưỡng, tạo điều kiện cho cuộc khởi nghĩa duy trì, phát triển nhanh chóng về chất và lượng để tiến tới giành thắng lợi…
Ngay sau khi dựng cờ nghĩa, ba anh em Tây Sơn, đứng đầu là Nguyễn Nhạc đã nêu một khẩu hiện hợp thời, làm phân hóa lực lượng thống trị: “Đánh đổ quyền thần Trương Thúc Loan, ủng hộ Hoàng Tôn Dương”. Nhờ khẩu hiện đó, cuộc khởi nghĩa đã tìm được sự ủng hộ nhất định của một bộ phận trong tầng lớp thượng lưu vốn bất bình với bè lũ Trương Thúc Loan. Một số thổ hào, nhà giàu như Nguyễn Thông, Huyền Khê… đã bỏ tiền của ra giúp nghĩa quân. Bên cạnh đó, nghĩa quân còn chủ trương và trong thực tế đã đem quân đi tịch thu tài sản do giàu bất chính mà có của bọn quan lại, cường hào, ác bá đem chia cho người nghèo. Chính sử nhà Nguyễn cũng chép: “Hào mục bản thổ đua nhau nổi dậy hưởng ứng với Nhạc, thế giặc ngày càng bùng lên”; hay “Nhạc nổi lên cướp của nhà giàu giúp đỡ cho người nghèo, giả làm ơn nhỏ để mua chuộc lòng người”.
Từ căn cứ Tây Sơn, các đạo nghĩa quân tỏa về các làng xã, trừng trị bọn xã trưởng, quan thu thuế, tịch thu thuế, tịch thu các giấy tờ sổ sách đem đốt hết, tuyên bố bãi bỏ mọi thứ thuế. Nghĩa quân còn tiến đánh các đồn, giải phóng tù nhân, đi đến đâu dân chúng hưởng ứng đến đấy, nhiều người, kể cả thuộc dân tộc miền thượng, dân tộc Chàm… tham gia nghĩa quân. Theo tài liệu ghi chép của các giáo sĩ ở Đàng Trong, chứng kiến lúc bấy giờ thì “cùng đi theo (Tây Sơn) có bọn giặc núi từ miền núi ở giữa hạt Quy Nhơn và Phú Yên”, hoặc “lính của họ (Tây Sơn) có bộ phận gồm những người thiểu số. Có một nữ chúa Chàm tên là Thị Hoa cũng ủng hộ tích cực. Ngoài ra, bấy giờ có hai thương nhân Hoa kiều là Tập Đình và Lý Tài chiêu tập dân nghèo người Việt và người Hoa ở Quảng Nam nổi dậy hưởng ứng khởi nghĩa Tây Sơn”.
Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng khởi nghĩa Tây Sơn là khởi nghĩa nông dân. Gọi như thế cũng được vì lực lượng nghĩa quân chủ yếu là nông dân. Nhưng đúng hơn, theo chúng ta, phải gọi là cuộc khởi nghĩa Đại Chúng.
Lực lượng nghĩa quân phát triển nhanh chóng. Mùa thu năm Quí Tỵ (1773), số lượng quân Tây Sơn đã lên đến vài vạn người, đánh chiếm phần lớn phủ Quy Nhơn, rồi tiến đến vây quanh thành Quy Nhơn, trong có một đêm đã lấy được thành. Tuần phủ cùng quân lính ở đó bỏ chạy. Phát huy chiến quả, nghĩa quân đánh tiếp ra Quảng Ngãi. Trương Thúc Loan vội cử bốn tướng đem đại quân chống cự. Sau khi chiếm được Quảng Ngãi, nghĩa quân rút về Bến Đà (Thạch Tân, phủ Thăng Bình, Quảng Nam) bố trí mai phục, đánh bại quân Nguyễn. Cuối năm 1773, nghĩa quân Tây Sơn lại phục ở núi Bình Khê (huyện Phú Mỹ) đánh thắng một trận nữa, làm quân Nguyễn tan tác. Ở phía nam, nghĩa quân cũng chiếm được các phủ Diên Khánh, Bình Khang. Chỉ trong vòng một năm, lực lượng khởi nghĩa đã chiếm cứ được một khu vực rộng lớn từ Quảng Ngãi vào đến Bình Thuận.
Mùa hè năm 1774, quân Nguyễn tập trung lực lượng từ Gia Định đánh ra chiếm lại các phủ Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang, Phú Yên. Đến đó thì dừng lại vì không đủ lực lượng để tiếp tục đánh chiếm.
Trước tình hình biến loạn lớn lao ở Đàng Trong, chúa Trịnh Sâm nhận định: “Họ Nguyễn vốn có thế thù với họ Trịnh. Sở dĩ bấy nay Trịnh phải làm thinh chẳng qua chỉ cốt đợi thời. Bây giờ cơ hội đã đến, Trịnh sao lại chịu bó tay ngồi nhìn để cho họ Nguyễn ngang nhiên tranh hùng mãi”, bèn sai lão tướng Hoàng Ngũ Phúc cùng những bộ tướng giỏi là Hoàng Đình Bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh, thống lĩnh 3 vạn quân tiến đánh Đàng Trong với danh nghĩa khôi hài là giúp chúa Nguyễn dẹp loạn thần Trương Phúc Loan và giặc Tây Sơn thôi chứ không có ý nào khác. Tháng 11-1774, quân Trịnh vượt sông Gianh, chiếm một số đồn lũy và đưa thư khuyên chúa Nguyễn Phúc Thuần đầu hàng. Ở thế “lưỡng đầu thọ địch”, không còn cách nào khác, chúa Nguyễn phải sai bắt trói Trương Phúc Loan đem nộp cho Hoàng Ngũ Phúc, xin lệnh bãi binh, đồng thời vẫn ngầm bố trí lực lượng kháng cự lại. Dù đã bắt được Loan, quân Trịnh vẫn tiến vào Phú Xuân. Chúa Nguyễn phải bỏ Phú Xuân, đem gia quyến xuống thuyền, theo đường biển chạy vào Quảng Nam, sau đó tiếp tục vượt biển chạy vào Gia Định. Trong đoàn người này có Nguyễn Ánh, sau này là vua Gia Long.
Trong khoảng thời gian đó, quân Tây Sơn đánh bại quân Nguyễn do Nguyễn Cửu Dật chỉ huy.
Tháng 3-1775, quân Trịnh đã vượt đèo Hải Vân, đụng độ với quân Tây Sơn ở Cẩm Sa. Quân Tây Sơn bại trận, phải lui về Bến Ván, tổ chức phòng ngự bảo vệ căn cứ Qui Nhơn. Đến đây, lực lượng nghĩa quân lại lâm vào thế “lưỡng đầu thọ địch”, phía bắc là quân Trịnh uy hiếp đánh xuống, phía nam quân Nguyễn rục rịch đánh lên. Trong hoàn cảnh đó, các lãnh tụ Tây Sơn, đứng đầu là Nguyễn Nhạc đã đề ra một sách lược hết sức hợp thời: chủ trương hòa hoãn với Trịnh để dồn lực lượng đánh Nguyễn. Tháng 7-1775, Nguyễn Nhạc sai người đem thư đến quân doanh của Hoàng Ngũ Phúc “xin hàng”, nộp ba phủ Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên và xin làm tướng tiên phong của chúa Trịnh đi đánh chúa Nguyễn. Phúc là một tướng giỏi, mẫn cán, trước đây đã từng đàn áp hiệu quả phong trào khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài, không thể không hiểu động thái ra hàng đó của Nguyễn Nhạc. Tuy nhiên, trước tình hình binh lực Trịnh đã có phần suy giảm sau một thời gian tác chiến, nhất là đang giữa mùa hè, binh lính mỏi mệt, chết dịch khá nhiều, cần phải có thời gian củng cố, đồng thời, quân Tây Sơn vẫn còn đang mạnh (Phúc có nói với bộ hạ: “Tây Sơn bây giờ đang như ngọn lửa bốc mạnh; tôi già mất rồi, e các tướng không phải là tay đối địch với họ được.”), thì việc hòa hoãn tạm thời cũng có lợi cho quân Trịnh. Do đó Phúc đã chấp nhận đề nghị của Nhạc, sai tướng Nguyễn Hữu Chỉnh đem ấn và cờ kiếm phong cho làm tướng tiên phong đi đánh chúa Nguyễn Phúc Thuần.
Tạm yên mặt bắc, quân Tây Sơn dồn sức xuống phía nam. Bắt đầu từ đây, trong hàng ngũ Tây Sơn nổi lên một vị tướng cầm quân bách chiến bách thắng, sau này là một thiên tài quân sự làm nên thiên anh hùng ca đặc sắc và bất hủ trong lịch sử đấu tranh chống thù trong giặc ngoài của dân tộc Việt Nam. Đó chính là Nguyễn Huệ với phép hành quân thần tốc, đánh chớp nhoáng, bất ngờ, hiểm, thường chỉ một trận là giải quyết chiến trường.
Năm 1775, Nguyễn Huệ dẫn quân vận động nhanh chóng đánh bại tướng Nguyễn là Tống Phúc Hiệp, giết cai đội Nguyễn Văn Hiển, bắt sống cai cơ Nguyễn Khoa Kim, làm chủ đất Phú Yên. Đây là trận thắng lớn đầu tiên trong chuỗi bách thắng ngày một rực rỡ của Nguyễn Huệ. Năm đó ông mới 23 tuổi.
Năm 1776, Nguyễn Lữ đem thủy binh tiến đánh Gia Định. Chúa Phúc Thuần phải chạy về Bà Rịa. Một địa chủ Mỹ Tho là Đỗ Thành Nhơn đứng ra tụ tập được một đội quân khá đông chống lại quân Tây Sơn trên danh nghĩa phù Nguyễn. Nguyễn Lữ nhắm địch không nổi, rút về Qui Nhơn. Quân chúa Nguyễn chiếm lại Gia Định.
Năm 1777, Nguyễn Huệ cùng với Nguyễn Lữ kéo quân thủy bộ vào Gia Định lần thứ hai. Trong một trận đánh ở Long Xuyên, quân Tây Sơn bắt và giết được chúa Nguyễn Phúc Thuần và Đông Cung Nguyễn Phúc Dương, chỉ còn Nguyễn Ánh (cháu Phúc Thuần) chạy thoát. Huệ, Lữ cử các tướng ở lại trấn giữ rồi rút về Qui Nhơn. Cuối năm ấy, Nguyễn Ánh được tầng lớp đại địa chủ ủng hộ, lại chiếm được Gia Định. Năm 1778, Nguyễn Ánh kéo quân ra chiếm Bình Thuận, uy hiếp phủ Diên Khánh. Thế lực Nguyễn Ánh tạm thời phục hồi. Năm sau, Ánh xưng vương, do Đỗ Thành Nhơn ỷ công, lộng quyền, bèn giết đi (1782), binh lực họ Nguyễn vì thế mà tự suy yếu.
Nhân đó, Nguyễn Huệ tiến vào Gia Định lần thứ ba (1782), đánh tan quân Nguyễn Ánh, buộc Ánh rút chạy về căn cứ Ba Giồng rồi chạy tiếp ra đảo Phú Quý (ngoài khỏi tỉnh Bình Thuận). Nguyễn Huệ cử các tướng ở lại giữ Gia Định rồi trở ra Qui Nhơn. Mấy tháng sau, tướng của họ Nguyễn là Chu Văn Tiếp tập hợp được lực lượng đánh bại quân đồn trú Tây Sơn, chiếm lại Gia Định. Năm 1783, Nguyễn Huệ đem quân đánh Gia Định lần thứ tư. Quân Chu Văn Tiếp tan vỡ. Nguyễn Hoàng Đức đi hộ vệ cho Nguyễn Ánh, bị quân Tây Sơn bắt sống. Nguyễn Ánh cưỡi thuyền chạy trốn ra đảo Côn Lôn, bị truy đuổi ráo riết, tiếp tục chạy về phía đảo Phú Quốc. Lúc này tướng Tây Sơn là Phò mã Trương Văn Ba đang dong thuyền đuổi theo, sắp bắt được Nguyễn Ánh thì biển bỗng nổi giông tố, trời tối sầm lại. Trương Văn Ba đành cho quay thuyền về, Nguyễn Ánh lên được đảo Phú Quốc thoát hiểm.
Trận giông tố nổi lên đúng thời điểm thật kỳ lạ! Là ngẫu nhiên hay định mệnh? Phải chăng đó là điềm báo về sự tồn tại ngắn ngủi của triều đại Tây Sơn, một triều đại có công thống nhất nước nhà nhưng chưa bao giờ được hưởng trọn vẹn cảnh nước nhà thực sự thống nhất, một triều đại đã dẹp bỏ được một ông vua bù nhìn, cõng rắn cắn gà nhà (Lê Chiêu Thống) nhưng lại bị một ông vua cõng rắn cắn gà nhà khác (Gia Long) dẹp bỏ? Dù là lạ lùng và có vẻ khó hiểu, nhưng ở đây chúng ta có thể rút ra một nhận định là: xu thế của quá trình vận động tự nhiên của xã hội con người là nằm trong Đạo lý, chỉ có một, tuy nhiên con đường đi theo xu thế ấy lại có rất nhiều. Đi theo con đường nào trong vô số những con đường còn ở dưới dạng khả năng ấy là phải lựa chọn. Sự lựa chọn ấy hoàn toàn tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh tiền đề về tự nhiên - xã hội và cũng phụ thuộc vào cá nhân con người (hay một số ít người) với trình độ nhận thức cụ thể, với quan niệm cụ thể về thế giới khách quan, hoặc đơn giản hơn, về danh lợi. Như vậy, vai trò của cá nhân trong việc lựa chọn con đường vận động xã hội là rất to lớn, thậm chí, theo một góc độ quan sát nào đó, là có tính quyết định. Về mối quan hệ biện chứng, giữa quần chúng và cá nhân, có thể nói nôm na: quần chúng là nền tảng, mang tính lặn, còn cá nhân (khi đã xưng tên) là sự biểu hiện, mang tính nổi trội (hiện hữu). Trong cái nền tảng quần chúng ấy, một con người (hay vài người) chỉ là số 0 (vô cực) trong một đại dương số 0. Khi con người đó được đặt tên, được “nổi lên”, được tôn vinh, thì sẽ là số 1 (thái cực), hoặc tùy thuộc vào mức độ tài năng mà cũng có thể được gọi là số 2, số 3… Nếu không có số 1 (hay số khác 0) thì một lực lượng dù là với bao nhiêu số 0 đi chăng nữa, sẽ không thể hiện được (Tồn Tại nhưng không tồn tại) và như vậy được coi là vô nghĩa. Trong khối vô nghĩa và hỗn độn khó mà thấy được số 1 (thậm chí là không có!). Một khi thấy lấp ló ở đâu đó số 1 thì cũng có nghĩa là ở đó sự hỗn độn bớt đi (xuất hiện sự hướng về một đích chung nào đó của một bộ phận lòng người?) và một lực lượng hình thành. Đã là một lực lượng thì số khác 0 phải đứng đầu và các số 0 được “sắp xếp thành đội ngũ” đứng phía sau. Số 1 (đại biểu cho các số khác 0) đứng một mình thì thật là “đơn côi”, yếu đuối, chẳng làm nên “trò trống gì” nên nó luôn tìm cách “hô hào” càng nhiều số 0 theo mình, đứng sắp hàng sau mình để tạo nên sức mạnh cho mình. Ngược lại, các số 0 muốn hợp lại thành một khối và tỏ rõ được cái sức mạnh lớn lao tiềm tàng trong khối ấy thì phải đi theo số 1, tề tựu thành hàng ngũ sau số 1, làm theo mệnh lệnh của số 1.
Xen vào đôi lời mộc mạc như thế cũng thấy được là xuất phát từ yêu cầu vận động của sự vật - hiện tượng tự nhiên cũng như xã hội mà tất yếu xuất hiện ra cái gọi là lực lượng, đã là một lực lượng thì bao giờ cũng có một bộ phận gọi là trung tâm duy trì tồn tại và điều hành vận động của bản thân nó và cho nó, biểu hiện ra như là sự phân định tương đối thành hai lực lượng tương phản nhau là lãnh đạo và quần chúng trong một thực thể lực lượng thống nhất. Bộ phận lãnh đạo, tùy từng trường hợp cụ thể, tùy vào loại sự vật - hiện tượng cụ thể mà có thể còn được gọi với nhiều cái tên khác nhau như: đầu não, đầu đàn, thủ lĩnh, lãnh tụ, triều đình, nhà nước… Sự phân định nội tại của một lực lượng, xét đến tận cùng sâu xa, là có nguồn gốc từ nguyên lý Tự Nhiên, hay có thể nói là từ chính Tự Nhiên Tồn Tại (đã qua nhận thức!)…
Sau khi cử Trương Văn Ba ở lại Gia Định, Nguyễn Huệ trở về Qui Nhơn.
Không còn lực lượng, Nguyễn Ánh từ Phú Quốc đã sang cầu cứu vua Xiêm. Năm 1784, vua Xiêm sai Chất-xi-đa đem thủy binh về Hà Tiên hộ tống Nguyễn Ánh đến Băng-cốc. Tháng 7 năm ấy, 50.000 quân Xiêm cùng 300 chiến thuyền do hai tướng Xiêm là Châu Tăng và Châu Xương chỉ huy, Nguyễn Ánh và Châu Văn Tiếp dẫn đường, tiến sang xâm lược nước ta. Chúng đánh chiếm được Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Sa Đéc rồi tiến đến Mân Thít (Vĩnh Long). Tại Mân Thít, quân Tây Sơn chống cự kịch liệt, giết chết Chu Văn Tiếp, nhưng trước lực lượng áp đảo của giặc, đành phải rút lui. Chúng đánh tiếp Trà Tân (Định Trường) và Ba Lai (Bến Tre). Quân Tây Sơn do tướng Trương Văn Ba chỉ huy, vừa đánh cầm cự vừa rút lui, giữ vững được thành Gia Định và Mỹ Tho.
Đi đến đâu quân Xiêm cũng thả sức đốt phá, cướp bóc và giết người hết sức tàn bạo đến đó. Chúng cho thuyền chở đầy vàng bạc, của cải cướp được đem về nước. Chiến thắng bước đầu cũng làm cho chúng trở nên kiêu ngạo và chủ quan khinh địch.
Trước tình hình đó, khoảng đầu tháng giêng năm 1785, Nguyễn Huệ dẫn quân vào Gia Định, rồi xuống Mỹ Tho lập đại bản doanh.
Chiêu Tăng, Chiêu Xương và Nguyễn Ánh lên kế hoạch mở trận tấn công toàn diện đánh tiêu diệt quân Tây Sơn vào đêm 9 tháng 12 năm Giáp Thìn (1785). Chúng cho rằng đó sẽ là một đòn bất ngờ và chí tử đối với Nguyễn Huệ.
Nhưng Nguyễn Huệ đã nắm chắc tình hình. Biết rằng quân Xiêm và quân Nguyễn Ánh sẽ xuôi dòng sông Tiền tiến đánh mình, ông đã chọn khúc sông từ Rạch Gầm đến Xoài Mút (dài khoảng 6 km, lòng sông rộng, ở giữa có cù lao Thới Sơn) làm nơi quyết chiến chiến lược.
Sau khi đã bố trí trận địa phục kích, đêm mồng 8 rạng ngày 9 tháng 12 năm Giáp Thìn (tức 19-1-1785), Nguyễn Huệ cho lực lượng thuyền nhẹ đến trước căn cứ Trà Tân đánh khiêu chiến nhử địch. Chủ quan, cậy ưu thế về quân số, các tướng Xiêm và Nguyễn Ánh huy động toàn lực lượng thủy bộ của mình đánh đuổi và lọt vào trận địa phục kích. Nguyễn Huệ ra lệnh tổng phản công, quân Tây Sơn từ các phía cả trên bộ, dưới thủy cùng dồn đánh mãnh liệt, đại phá tan tành đám quân cướp nước và bán nước. Chỉ trong khoảng vài giờ sáng ngày hôm ấy, chừng hơn 40 ngàn quân Xiêm - Nguyễn Ánh và hơn 300 thuyền chiến bị tiêu diệt hoàn toàn. Chỉ còn độ vài ngàn quân Xiêm chạy thục mạng theo đường bộ qua Chân Lạp về nước. Nguyễn Ánh cùng một nhóm quân sót lại, cũng theo gót quân xâm lược, chạy trốn sang sống lưu vong bên đất Xiêm. Sử cũ chép: “Người Xiêm La sau trận thua năm Giáp Thìn, ngoài miệng tuy nói khoác nhưng trong bụng thì sợ quân Tây Sơn như sợ cọp”.
Trận Rạch Gầm - Xoài Mút là một trong những trận thủy chiến lớn nhất và lừng lẫy nhất trong lịch sử chống xâm lược của dân tộc Việt. Theo các nhà nghiên cứu lịch sử quân sự thì xét các diễn biến của trận đánh này, người ta thấy trong tất cả các hoạt động nhằm tiêu diệt địch, Nguyễn Huệ luôn tỏ ra thận trọng và khôn khéo: thu lượm tin tình báo để nắm chắc địch tình, nắm rất vững địa hình địa vật và qui luật nước triều lên xuống trong hai ngày 19 và 20-1-1785 ở khúc sông Rạch Gầm - Xoài Mút để chọn đúng thời điểm nước rút mạnh cho địch mắc bẫy, huy động được lực lượng quần chúng địa phương tham gia phục vụ chiến dịch… Trận thắng này cũng đã bộc lộ nét đặc sắc hiếm có trong thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, đó là: hành quân thần tốc, đánh rất nhanh và thắng rất nhanh, giải quyết chiến trường chỉ bằng một trận đánh quyết liệt, vũ bão trong khi lực lượng có trong tay ít hơn nhiều so với lực lượng địch (trong trận này quân Tây Sơn chỉ có 2 vạn trong khi quân Xiêm có đến 5 vạn).
Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút đã giải quyết cơ bản tình hình Đàng Trong, mở ra điều kiện thuận lợi cho quân khởi nghĩa Tây Sơn tiến đánh Đàng Ngoài lật đổ chế độ Lê - Trịnh, thu giang sơn về một mối, tiến tới thống nhất nước nhà.
***
Sau khi đánh tan quân Xiêm, đuổi Nguyễn Ánh chạy mất dạng ra khỏi bờ cõi, Nguyễn Huệ nhanh chóng hành quân ra phía bắc nhằm đánh thành Phú Xuân.
Lúc này Hoàng Ngũ Phúc đã chết (1775), Bùi Thế Đạt và kế tiếp là Phạm Ngô Cầu, Hoàng Đình Thể thay thế trấn giữ Phú Xuân.
Chỉ vài ngày trong tháng 6-1786, quân Tây Sơn đã đánh chiếm được Phú Xuân, giết chết ba cha con Hoàng Đình Thể (Phạm Ngô Cầu giương cờ trắng đầu hàng), giải phóng một dải đất từ Thuận Hóa đến nam sông Gianh.
Chiến thắng Phú Xuân là một trong những chiến dịch qui mô lớn, có ý nghĩa chiến lược của quân Tây Sơn. Về mặt nghệ thuật quân sự thì dù đã hơn 200 năm trôi qua, nó vẫn được lòng người ngưỡng mộ, vẫn là bài học tác chiến có giá trị về nhiều mặt.
Ở chiến dịch Phú Xuân, xét về tương quan lực lượng thì số quân Trịnh nhiều hơn số quân Tây Sơn từ 2 đến 3 lần. Trên cơ sở phân tích, phán đoán xuất sắc tình thế, Nguyễn Huệ đã chọn hướng tiến công chủ yếu là hướng Hải Vân - Phú Xuân. Hơn 3 vạn quân Trịnh bố trí phòng ngự trên tuyến địa hình rất có lợi. Muốn hạ được thành Phú Xuân, quân Tây Sơn trước hết phải giải quyết được hệ thống phòng ngự có thành lũy kiên cố của quân Trịnh trên đèo Hải Vân. Để kết hợp với hướng chủ yếu (bất ngờ tập kích, đánh nhanh, diệt gọn để phát triển chiến dịch, tập trung binh lực vào mục tiêu then chốt là thành Phú Xuân), tướng Nguyễn Lữ được giao trọng trách chỉ huy đội thủy binh đánh vu hồi sâu vào dải phòng ngự - phòng tuyến sông Gianh. Hiểm hơn nữa, Nguyễn Huệ còn cho một cánh án ngữ sông Gianh, một cánh đánh các đồn quân Trịnh ở Bố Chính, Leo Heo, lũy Đồng Hới để rồi hợp với bộ binh từ Phú Xuân tiến ra đánh Dinh Cát, tạo thế cô lập hoàn toàn 2 vạn quân Trịnh ở Phú Xuân phải bị động chống đỡ, không thể rút chạy ra bắc và cũng không được chi viện từ phía bắc. Mũi vu hồi sông Gianh không những có ý nghĩa về mặt quân sự mà còn là đòn tâm lý giáng vào đạo quân Trịnh trấn thủ trong thành Phú Xuân.
Khi đánh thành Phú Xuân, mặc dù lúc đầu một vài chiến thuyền của quân Tây Sơn bị thiệt hại vì hỏa lực pháo binh Trịnh áp chế từ trên thành lũy kiên cố, nhưng khéo lợi dụng thủy triều lên, mực nước sông lên cao, quân Tây Sơn đã tập kích bất ngờ vào ban đêm, giáp chiến với quân Trịnh, đồng thời phát huy tối đa hỏa lực pháo binh của mình, kiềm chế pháo binh địch ở hướng chính diện, pháo kích mãnh liệt, áp đảo ở những hướng khác. Toàn bộ đội hình phòng ngự của quân Trịnh bị bất ngờ giáng đòn mãnh liệt, phải căng lực lượng ra đối phó, bộc lộ sơ hở ở một hướng nhất định, tạo điều kiện cho quân Tây Sơn chớp thời cơ tổ chức mũi đột kích mạnh, chọc thủng dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền của cả tuyến phòng ngự. Trận đánh nhanh chóng kết thúc bằng sự đầu hàng của quân Trịnh.
Chiến thắng Phú Xuân đã tạo điều kiện cho quân Tây Sơn, dưới sự chỉ huy tài tình của vị anh hùng áo vải cờ đào Nguyễn Huệ, tiếp tục mở những trận đánh gối đầu và thắng liên tiếp trên đường ra Bắc. Quân thủy của Nguyễn Huệ, với mấy trăm thuyền chiến lướt sóng như bay. Cảnh tượng đó khi xuất hiện ở vùng biển Nghệ An, được các phụ lão Nghệ An, Thanh Hóa quan chiêm và tấm tắc với nhau: “Đây là một hành động ít có ở đời!”
Ra đất Bắc Hà, chỉ một trận đánh, quân Tây Sơn đã chiếm được căn cứ Vị Hoàng (Nam Định), làm chấn động Thăng Long, rồi cũng sau một trận đánh, ngày 21-7-1786, Nguyễn Huệ kéo đại quân vào Thăng Long, lật đổ chính quyền từng tồn tại gần 2,5 thế kỷ của họ Trịnh (1545-1786).
Giữ đúng sách lược “Phù Lê diệt Trịnh”, Nguyễn Huệ quyết định trao trả quyền hành Đàng Ngoài cho vua Lê. Vua Lê Cảnh Hưng phong cho Nguyễn Huệ tước Quốc Công, gả công chúa là Ngọc Hân, và cắt đất Nghệ An cho Tây Sơn làm lễ khao quân. Ngày 4-8-1786, Thăng Long được chứng kiến đám cưới tưng bừng gây nhiều hiếu kỳ của một anh hùng áo vải lấy một cô công chúa cành vàng lá ngọc trẻ măng.
Có một sự kiện kỳ quặc, phơi bày cái tâm địa thiển cận, hèn mọn của Nguyễn Nhạc mà lịch sử đã không quên. Sau nhiều chiến thắng lẫy lừng, uy danh của Nguyễn Huệ ngày càng vang dội. Tất cả các tên tuổi khác làm nên cuộc khởi nghĩa Tây Sơn lu mờ hẳn. Nghe tin Nguyễn Huệ đã chinh phục được Bắc Hà, lấy được thành Thăng Long, Nguyễn Nhạc vội vội vàng vàng dẫn 500 thân binh ra Phú Xuân chọn thêm quân tinh nhuệ đi gấp ra Thăng Long với cương vị một Hoàng đế. Nguyễn Nhạc ra với mục đích thực chất là gì? Chắc chắn là không phải vì quyền lợi của vua Lê rồi! Mà chắc chắn cũng không phải vì quyền lợi của dân tộc Việt, vì sự thống nhất của đất nước Đại Việt. Có lẽ, Nguyễn Nhạc ra chỉ vì mục đích ôm lấy phần công lao diệt Trịnh của em mình trước vua Lê, sợ Nguyễn Huệ không tuân theo mình nữa, sợ Nguyễn Huệ hùng cứ một phương, xưng đế, ngang hàng với mình, thậm chí là hơn mình trong thiên hạ. Một mái đầu thấp tè, chứa một bộ não mù quáng trước danh lợi thường vẫn nghi kỵ như thế! Nghi kỵ như thế rõ ràng là người tầm thường. Nguyễn Nhạc có tầm thường không? Hoàn toàn tầm thường!
Nguyễn Nhạc, khi cùng hai em nổi dậy ở Tây Sơn, chắc rằng chỉ có cái mộng không ra ngoài việc được làm đế vương. Chính vì thế mà trong khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn vẫn đang ở thời kỳ “gian lao” của nó, trong khi Nguyễn Huệ (và Nguyễn Lữ) lặn lội để duy trì cuộc kháng chiến, chinh nam, chinh bắc vì sự tồn vong của cuộc kháng chiến thì Nguyễn Nhạc chỉ lo “chí thú” xây dựng triều chính cho cá nhân mình. Ngay từ tháng 3-1776, Nguyễn Nhạc đã tự xưng là Tây Sơn Vương, xây lại thành Đồ Bàn, làm nơi đóng đô, đúc ấn vàng, phong cho Nguyễn Huệ làm phụ chính, Nguyễn Lữ làm thiếu phó, tổ chức ban thưởng cho người có công… Năm 1777, Nhạc lại sai người ra Bắc xin Trịnh Sâm cho mình cai trị đất Quảng Nam. Bấy giờ họ Trịnh đã suy yếu lắm rồi, đành phong cho Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ tuyên úy Đại sứ cung Quốc công. Năm 1778, sau khi Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ vào Gia Định lần thứ hai, đánh tan quân Nguyễn và giết chết chúa Nguyễn Phúc Thuần và Đông cung Phúc Dương, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng Đế, thành lập vương triều mới, đặt niên hiệu là Thái Đức, đổi tên thành Đồ Bàn là Hoàng Đế thành, phong cho Nguyễn Huệ làm Long Nhượng tướng quân, Nguyễn Lữ làm tiết chế. Đến đây, đối với Nhạc, mộng ước đế vương đã thành, danh lợi tột bậc đã đạt được. Và cũng từ đây Nhạc bắt đầu tự thấy mình được quyền ung dung hưởng lạc trên giàu sang phú quí, không thèm bận lòng với thời cuộc, không dại gì xông pha trước mũi tên hòn đạn nữa, vì mọi việc “ngoài biên ải” đã có người em tài năng lỗi lạc, đầy nhiệt huyết, rong ruổi gánh vác.
Việc tiến ra đánh chiếm Thăng Long, giải phóng Bắc Hà khỏi chế độ chúa Trịnh là bước đi sáng suốt, là kết quả tất yếu trong quá trình phát huy thành quả của chiến dịch Phú Xuân, tranh thủ và tận dụng triệt để thời cơ của Nguyễn Huệ, vượt ra ngoài sức tưởng tượng của Nguyễn Nhạc. Chính vì vậy mà khi nghe tin Nguyễn Huệ đã giải phóng Bắc Hà, Nguyễn Nhạc, với tầm nhìn thiển cận, đầy vụ lợi cá nhân đã vội vã đem tấm thân “thiên tử” ra Thăng Long với mục tiêu danh lợi của riêng mình như đã nói. Lúc đó, Nguyễn Huệ đã đem giao hết binh phù cho Nhạc và như vậy, Nhạc đã nắm lại trọn binh quyền, tướng sĩ chỉ tuân theo mệnh lệnh của nhà vua.
Ngày 26-8-1786, Nguyễn Nhạc ra Thăng Long thì 10 ngày sau, quân Tây Sơn lặng lẽ rút về Nam (bỏ lại Nguyễn Hữu Chỉnh, kẻ “lá mặt là trái”, tự biết mình không thể ở lại Bắc Hà, Chỉnh vội đáp thuyền đuổi theo, bắt kịp quân Tây Sơn ở Nghệ An. Nguyễn Huệ đành lòng cho Chỉnh ở lại Nghệ An giúp trấn thủ Nguyễn Văn Duệ.
Hành động buộc Nguyễn Huệ rút quân quá sớm về Nam của Nguyễn Nhạc, giữa lúc tình hình Bắc Hà đang diễn biến phức tạp: vua Lê Hiển Tông vừa mất, vua Lê Chiêu Thống mới lên, thế lực chống đối họ Trịnh còn mạnh, lòng người đang nghiêng ngả, đã là một hành động vô trách nhiệm, có lỗi lớn với nhân dân Đàng Ngoài.
Sau khi từ Thăng Long trở về, tháng 4 năm Đinh Mùi (1787)  Nguyễn Nhạc phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản phần đất từ Hải Vân trở ra; Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương cai quản đất Gia Định, còn bản thân Nguyễn Nhạc đóng ở Qui Nhơn, tự xưng là Trung ương Hoàng Đế. Hành động này cùng với việc hạn chế binh quyền đối với Nguyễn Huệ đã gây ra mâu thuẫn sâu sắc giữa hai anh em nhà Tây Sơn. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn với danh nghĩa lãnh tụ là Nguyễn Nhạc đến đây coi như kết thúc vì nó đã mất đi tính chính nghĩa và có nguy cơ trở thành phản động, đi ngược lại ý nguyện thống nhất nước nhà của toàn dân tộc. Tham vọng vị kỷ đến mù quáng của Nguyễn Nhạc đã cản trở nghiêm trọng tới việc phát huy những thành quả quân sự của Nguyễn Huệ nhằm đưa đất nước mau chóng đến ổn định, thái bình, hơn nữa còn tạo ra khả năng dẫn đến tình trạng chia cắt, cát cứ mới. Nếu nói Nguyễn Nhạc có lỗi với nhân dân Đàng Ngoài khi lệnh cho Nguyễn Huệ rút về Nam quá sớm, thì với việc phân ba đất nước, và tự xưng là Trung ương Hoàng Đế, ông ta đã mang tội đối với nhân dân cả nước. Nguyễn Nhạc tưởng rằng việc tự xưng là Trung ương Hoàng Đế với hai vương ruột rà ở bên cạnh sẽ làm cho triều đại của ông vững chãi hơn bao giờ hết, nhưng thực ra làm như thế cũng chính là đào mồ chôn cuộc khởi nghĩa Tây Sơn cũng như chính triều đại Tây Sơn. Trận giông tố điềm báo ở vùng biển Phú Quốc năm nào đã bắt đầu ứng nghiệm!
Tuy nhiên cái triều đình tồn tại không còn một mục đích cao thượng nào ấy đã không dung nạp được tâm hồn lồng lộng của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, một tâm hồn biết đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết, lấy việc qui giang sơn về một mối và phát triển đến phồn thịnh làm mục đích cuộc đời và đang đau đáu trước vận nước.
Ngay từ lúc trao binh phù cho Nguyễn Nhạc và theo Nguyễn Nhạc rút về Nam, chắc chắn rằng trong Nguyễn Huệ đã có sự dằn vặt lớn lao trước một câu hỏi lớn, trước sự lựa chọn giữa sự ràng buộc trung nghĩa theo lệ thường Nho giáo và khát vọng đấu tranh vì nước vì dân đang cháy bỏng. Có một sự kiện thể hiện điều này rất rõ. Trên đường về Phú Xuân, khi dừng chân ở đất Nghệ An, nghe tiếng La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp ở núi Thiên Nhẫn là bậc hiền tài, am hiểu việc đời, Nguyễn Huệ đã cho vời đến và hỏi:
- Nay thiên hạ bị chia cắt, đến bao giờ thì bình định được?
Nguyễn Thiếp trả lời:
- Trong nước có loạn lớn vì thiếu một bậc anh hùng. Người có thể bình định được thiên hạ, phi tướng quân thì còn ai nữa?
Nguyễn Huệ nghe xong, im lặng không hỏi gì thêm và sai người tiễn La Sơn Phu Tử trở về núi. Có thể câu nói ấy của Nguyễn Thiếp đã nhắm trúng câu hỏi lớn trong tâm can Nguyễn Huệ.
Sau này, khi lên ngôi Hoàng Đế (cuối năm 1788), trước khi lên đường đánh quân xâm lược nhà Thanh, trong chiếu tức vị của Nguyễn Huệ có đoạn nói về Nguyễn Nhạc: “Anh (tức Nhạc) thì lãng nghĩa, chỉ mong giữ lấy một phủ Qui Nhơn, tự giáng mình làm Tây chúa”. Hoặc trước khi lâm chung, Nguyễn Huệ trăn trối, dặn trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu và các quần thần, có đoạn: “… Ngoài thì có quốc thù là quân Gia Định (chỉ Nguyễn Ánh), mà Thái Đức (chỉ Nhạc) thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau…”
Những điều nói trên chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự nổi loạn của Bắc Bình Vương chống lại Trung ương Hoàng Đế.
Hai anh em Huệ, Nhạc đem binh đánh lẫn nhau. Nhạc kém cỏi hơn, phải rút vào thành Qui Nhơn cố thủ, Huệ kéo quân bao vây chặt hàng tháng trời. Nhạc cầu cứu Đặng Văn Trấn từ Gia Định về giải vây, đến Phú Yên thì Trấn bị quân của Huệ bắt được. Núng thế quá, Nhạc xin được gặp Huệ. Nhạc bảo:
- Nồi da nấu thịt, sao em lại nỡ hại anh?
Hai anh em đứng trên mặt thành nhìn nhau khóc, giảng hòa, lấy Bến Ván làm giới hạn: từ Quảng Ngãi trở vào Nam do Nguyễn Nhạc làm chủ, từ phủ Thăng, phủ Điện trở ra Bắc do Nguyễn Huệ làm chủ. Nguyễn Huệ đã thoát được sự kiềm chế của Nguyễn Nhạc và trên thực tế đã hầu như có đủ quyền năng để thực hiện sứ mạng lớn lao đối với cả nước mà mục tiêu hướng tới đầu tiên của ông là dẹp yên Bắc Hà. Tiếc rằng cùng thời gian ấy phần đất nước dưới sự quản lý của một Nguyễn Nhạc vô trách nhiệm và một Nguyễn Lữ bất tài vô dụng đã không được quan tâm, đã không có những chuyển biến, phát triển nào đáng kể gọi là tích cực, để cho Nguyễn Ánh có đủ thời gian và điều kiện phát triển lực lượng chiếm giữ lại Gia Định và cả vùng đất đầy tiềm năng, đe dọa ngày một nghiêm trọng đến tiền đồ tốt đẹp của đất nước mà Nguyễn Huệ hằng mong ước và đang cố công theo đuổi, tạo dựng.
Cuộc nổi dậy của Bắc Bình Vương, xét ra là phù hợp với yêu cầu của đất nước lúc bấy giờ, vì vậy nó mang tính chính nghĩa và có thể nói rằng đó là một cuộc khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa ấy chưa có tên gọi nên chúng ta tạm gọi nó là cuộc khởi nghĩa Cờ Đào và lãnh tụ của nó là anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Khởi nghĩa Cờ Đào đã không giành được thắng lợi triệt để vì chưa triệt tiêu được triều đình Nguyễn Nhạc. Đó cũng là một điều đáng tiếc; nhưng có thể cảm thông được đối với con người nghĩa nhân của Nguyễn Huệ khi không nỡ ra tay trước người anh ruột thịt hoàn toàn suy sụp và cầu xin tha mạng. Âu đó cũng là sự đời thường thấy trong lịch sử và ở đây còn mang tính định mệnh nữa. Phải chăng lịch sử bao giờ cũng bi tráng vì nó cũng chính là kho tàng chứa đầy những chuyện trớ trêu?!
Lại kể, Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An ra sức xây dựng thế lực riêng, mưu phản, chờ thời. Trong khi đó ở Thăng Long, Lê Chiêu Thống nhu nhược, hoàn toàn bất lực không kham nổi việc nước. Tình hình Bắc Hà ngày càng hỗn loạn do phần lớn quan lại thuộc phe cánh họ Trịnh nổi lên chống đối và sự tự đấu đá lẫn nhau. Đám Trịnh Bồng dần thắng thế, kéo về uy hiếp vua Lê, đòi lập lại phủ chúa. Lê Chiêu Thống cầu cứu Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh kéo quân ra dẹp yên nhưng chớp cơ hội ấy đóng luôn ở phủ chúa cũ, không những thế Chỉnh còn định tranh thủ tình hình anh em Tây Sơn đang xung đột nhau, chiếm lấy Nghệ An; cử Trần Công Sán là thầy dạy cũ vào Phú Xuân, mượn lời Lê Chiêu Thống đòi lại đất Nghệ An. Được Võ Văn Nhậm báo về, Nguyễn Huệ cử luôn Võ Văn Nhậm ra Bắc trị tội Chỉnh. Chỉnh chống cự quyết liệt, rồi cũng bị quân Tây Sơn bắt, giải về Thăng Long xé xác.
Khi Võ Văn Nhậm ra chiếm Thăng Long, Lê Chiêu Thống cùng ít trung thần trốn sang Kinh Bắc, sau đó chạy vào Sơn Nam, Thanh Hóa, rồi lại trở ra Kinh Bắc. Bước cùng, Chiêu Thống sai người sang cầu cứu nhà Thanh hòng giành lại quyền lợi của một vương triều suốt mấy trăm năm tồn tại vật vờ, phi nghĩa và đang mục ruỗng đến tột độ.
Giết Chỉnh xong, Võ Văn Nhậm lại dở trò phản nghịch, tự ý lập Lê Duy Cẩn (người mà trước đây suýt nối ngôi Cảnh Hưng theo ý của công chúa Ngọc Hân nhưng bị các triều thần nhà Lê phản đối gay gắt) làm Giám quốc (bù nhìn), mưu đồ gầy dựng một giang sơn riêng. Nhận được tin báo của Ngô Văn Sở, Nguyễn Huệ vội đem quân đi gấp ngày đêm ra Thăng Long (tháng 5-1788), giữa canh tư vào thẳng dinh của Nhậm, sai vũ sĩ giết chết ngay tại chỗ. Trong khoảng một tháng lưu lại ở Thăng Long, Nguyễn Huệ tổ chức lại bộ máy chính quyền, vẫn để Sùng Nhượng Công Lê Duy Cẩn làm Giám quốc, trọng dụng các sĩ phu Bắc Hà tên tuổi như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch, Võ Huy Tấn… Trước khi trở về Nam, Nguyễn Huệ đã căn dặn cẩn thận rằng:
- Đại Tư mã Ngô Văn Sở, Nội hầu Phan Văn Lân là nanh vuốt của ta; Chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng, Hộ bộ thị lang Trần Thuận Ngôn là tâm phúc của ta. Lại bộ thị lang Ngô Thì Nhậm tuy là người mới, nhưng là bậc tân thần, ta coi như khách. Nay ta giao cho các khanh hết thảy mọi việc quân quốc, coi quản 11 trấn trong toàn hạt. Hễ có điều chi, ta cho cứ được tiện nghi làm việc. Song các khanh cần phải họp bàn với nhau, chứ đừng phân bì kẻ mới người cũ, miễn sao làm cho được việc, ta mới yên lòng…
Tình hình Bắc Hà nói chung và Thăng Long nói riêng trở lại trật tự.
Nhưng chỉ được khoảng 6 tháng thì quân xâm lược nhà Thanh xâm lăng.
***
Khi Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh, Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị mừng rỡ nói với thuộc hạ.
- Nước Nam xưa vốn thuộc Hán, Đường, mãi đến đời Tống họ Đinh mới dấy lên giữ lấy nước, từ đời nọ đến đời kia gây thành một nước độc lập, nay cuộc thế đổi thay, họ không giữ nổi, có lẽ trời muốn ban cho ta làm quận, huyện chăng?
Rồi sau khi nắm rõ tình hình Đại Việt qua lời kể của bọn bán nước Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị dâng biểu lên vua Càn Long: “An Nam là đất cũ của Trung Hoa, nếu phục hưng cho nhà Lê rồi, ta sẽ đặt trú binh mà giữ lấy nước, thế là vừa phục tồn nhà Lê lại vừa được đất An Nam, thật là được cả hai việc”. Càn Long tán thành ý ấy bèn hạ lệnh điều động binh mã bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và Quí Châu, tất cả gồm 29 vạn quân lính và dân phu, chia làm bốn đạo do Tôn Sĩ Nghị thống lĩnh, xâm lược Đại Việt.
Tháng 11-1788, quân Thanh ồ ạt tràn qua biên giới nước ta, đạo binh thứ nhất do Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh chỉ huy tiến theo đường Lạng Sơn đến Thăng Long, đạo thứ hai do tri phủ Sầm Nghi Đống chỉ huy tiến theo đường Cao Bằng đến Thăng Long, đạo binh thứ ba do đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy tiến theo đường Tuyên Quang xuống Sơn Tây, đạo binh thứ tư tiến qua đường Quảng Ninh xuống Hải Dương.
Các tướng Tây Sơn đồn trú ở Lạng Sơn trước một lực lượng quân Thanh áp đảo vội lui về Kinh Bắc tổ chức phòng ngự, đồng thời cáo cấp về Thăng Long. Trong khi đó, quân Thanh đã tiến tới Bắc Giang ào ạt như nước vỡ bờ…
Chính quyền phụ trách Bắc Hà khẩn trương bàn cách đối phó. Lúc bấy giờ tổng số quân Tây Sơn đồn trú ở Thăng Long và các trấn Bắc Hà, dưới quyền chỉ huy của tướng Ngô Văn Sở, chỉ có vào khoảng một vạn người. Với một đội quân ít ỏi như thế mà nghênh chiến với quân Thanh đang hùng hổ, có ưu thế gấp bội thì thật là một điều quá nan giải. Hơn nữa, một số cận thần còn trung thành với nhà Lê (theo kiểu “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” - một quan niệm “quái ác” có xuất xứ từ Nho giáo!) ngầm chiêu mộ quân “cần vương”, xúi giục nổi dậy ở một số nơi; một bộ phận nhân dân chưa hiểu được Tây Sơn do còn bị mê hoặc bởi các cận thần ấy và cũng bởi sự tuyên truyền mị dân của quân Thanh, vẫn chưa hướng về chính quyền Tây Sơn. Điều đó làm cho việc chống cự lại quân Thanh ngay từ buổi đầu càng thêm nan giải và trở nên không thể. Đánh không được, giữ cũng chưa chắc đã xong, vậy thì làm thế nào? Ngô Thì Nhậm chủ trương: chưa đánh, cũng không giữ mà tạm thời rút đi để bảo toàn lực lượng. Ông nói:
“- Tướng giỏi xưa, lường thế giặc mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động, tùy theo tình thế thay đổi mà bày ra chước lạ. Giống như đánh cờ, trước thì chịu thua người một nước, sau mới được người ta một nước, đừng có đem nước sau làm nước trước, đó mới là tay cao cờ. Nay ta hãy bảo toàn lấy quân lực mà rút lui, không bỏ mất một mũi tên. Cho chúng ngủ trọ một đêm, rồi lại đuổi chúng đi, cũng như ngọc bích của nước Tần đời xưa, vẫn nguyên lành chứ có mất gì”
Thật là sáng suốt!!! Sau này chính Nguyễn Huệ khen là “kế rất hay”, “chịu nhịn để tránh sức mạnh ban đầu của chúng, đành hãy chỉnh đốn quân ngũ, rút về giữ chỗ hiểm yếu, trong thì khiến lòng quân kích thích, ngoài thì khiến lòng giặc kiêu căng…”. Ngô Văn Sở và mọi người nhất trí chủ trương ấy, lập tức thu quân các nơi về Thăng Long, tổ chức một cuộc duyệt binh lớn ở bãi sông Hồng (có lẽ ở Diễu vũ trường), thực hiện một số biện pháp ngăn chặn, nghi binh rồi bí mật rút lui an toàn về vùng Tam Điệp - Biện Sơn, đồng thời phi báo về Phú Xuân cho Nguyễn Huệ. Quân Tây Sơn do Ngô Văn Sở chỉ huy hành quân tới nơi ngày 17-12-1788, liền chiếm lĩnh những địa hình hiểm yếu, chia quân thủy bộ đóng giữ, nhanh chóng tạo thành một tuyến phòng ngự kiên cố, vững chắc.
Tối ngày 19 tháng 11 năm Mậu Thân (16-12-1788), quân Thanh vượt sông Hồng. Ngày 17-12-1788, Tôn Sĩ Nghị kéo vào chiếm đóng thành Thăng Long.
Dưới ách chiếm đóng của giặc, Thăng Long đã phải chịu biết bao nhiêu đau thương uất hận. Được bọn người Hoa đã trở nên phản động ở phường Hà Khẩu chỉ dẫn, quân Thanh hàng ngày kéo đi cướp phá, hãm hiếp, giết chóc, gây nhiều tội ác tày trời đối với nhân dân Kinh thành. Trong khi đó Lê Chiêu Thống lộ nguyên hình là vua bán nước, đã cùng bè lũ lo việc trả thù, báo oán tàn nhẫn và ti tiện; hàng ngày phải đến chầu chực tại dinh cuả Tôn Sĩ Nghị, vô cùng ươn hèn nhục nhã, đến độ nhân dân Thăng Long đương thời đã nói với nhau: “Nước Nam từ khi có đế, có vương đến nay, chưa bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế”.
Chính những hành động bạo ngược của quân, tướng nhà Thanh, cũng như những hành động phản bội dân chúng, theo đóm ăn tàn của bè lũ Chiêu Thống đã làm cho lòng người tỉnh ngộ và dân chúng một lòng hướng về ngọn Cờ Đào.
Ngày 24 tháng 11 năm Mậu Thân, (21-12-1788), đô đốc Tuyết mang thư cáo cấp của Đại tư mã Ngô Văn Sở đến Phú Xuân, trình lên Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. Xem thư xong, Bắc Bình Vương ra lệnh khởi binh. Quần thần khuyên ông nên chính vị hiệu để ràng buộc lòng người trong nước rồi hãy xuất quân. Ông nghe theo, sai đắp đàn tế trời đất, rồi lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung năm thứ nhất. Ngay ngày hôm sau, tức ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân, Hoàng đế Quang Trung kéo quân ra Bắc, đi đánh quân xâm lược và bè lũ bán nước.
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân, vua Quang Trung đến Nghệ An, dừng lại khoảng 10 ngày để tuyển thêm quân. Trong thời gian này nhà vua có vời La Sơn Phu Tử từ núi Thiên Nhẫn xuống và hỏi:
- Quân Thanh lại đây, ta đem quân đánh. Mẹo đánh hay giữ, được hay thua, tiên sinh nghĩ thế nào?
La Sơn Phu Tử đáp:
- Nay trong nước trống không, nhân dân ly tán, quân Thanh từ xa đến không biết tình hình quân ta mạnh yếu thế nào, không biết nên chiến thủ thế nào, và nó có bụng khinh địch, tiến đánh gấp đi, thì không quá 10 ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng thắng chúng.
Vua Quang Trung rất mừng, nói:
- Ý của tiên sinh chính hợp với ý ta.
Sau khi tuyển thêm tân binh, lực lượng của vua Quang Trung tổng cộng khoảng trên 10 vạn người. Vào ngày 11 (hoặc 12) tháng 12 năm Mậu Thân, Quang Trung tổ chức duyệt binh ở Nghệ An. Ngồi trên mình voi, nhà vua kêu gọi tướng sĩ:
“- Quân Thanh kéo sang xâm lược, hiện nay đang chiếm Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong vòng trời đất chia theo phận sao Đậu, sao Chẩn, Nam Bắc vẫn riêng một non sông. Người nước Bắc không phải nòi giống ta thì tất khác bụng khác dạ. Từ nhà Hán về sau, họ cướp đất ta, áp bức nhân dân ta, vơ vét của cải của ta. Nông nỗi ấy thật là khó chịu. Người trong nước ai cũng phải nghĩ đánh đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Vương, đời Tống có Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ. Các ngài không chịu bó tay ngồi nhìn quân ngoài tàn bạo, nên phải thuận lòng người, dấy quân nghĩa, đánh đuổi chúng đi. Trong những khi ấy, Nam Bắc đâu lại phận đó, bờ cõi yên ổn, vận nước lâu dài. Từ nhà Đinh đến nay, chúng ta không phải chịu cái khổ Bắc thuộc. Lợi hại được mất, chuyện cũ rành rành ra thế. Nay người Thanh không noi gương Tống, Nguyên, Minh, lại sang mưu chiếm nước ta, đặt làm quận huyện. Vậy ta phải vùng lên mà trừ đi…”
Từ Nghệ An, đại binh Quang Trung tiếp tục gấp rút hành quân, đến ngày 20 tháng 12 năm Mậu Thân (15-1-1789) thì đến phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn, hội binh với Ngô Văn Sở. Tại đây, sau khi nghiên cứu, nắm vững tình hình địch, Quang Trung hạ quyết tâm mở trận quyết chiến chiến lược. Một mặt, ông đề ra phương án, lập thế trận, gấp rút tổ chức, phân phối lực lượng tham gia chiến đấu, mặt khác truyền hịch kể tội quân Thanh, động viên nhân dân Bắc Hà đoàn kết, đồng lòng đánh giặc cứu nước. Đồng thời, nhằm kích thích thêm sự kiêu ngạo, chủ quan của các tướng nhà Thanh, Quang Trung sai người đến Thăng Long dâng bẩm văn, xin Tôn Sĩ Nghị hãy đóng quân ở trấn Nam Quan để tra xét nội tình nhà Lê và Tây Sơn, lại đem nộp cho Tôn Sĩ Nghị 40 tuần lương binh do Ngô Hồng Phấn bắt được. Xem xong các bẩm văn, Tôn Sĩ Nghị xé phăng ngay, tuyên bố sẽ đánh thẳng vào Quảng Nam bắt sống Quang Trung.
Trong thời gian chuẩn bị này, lịch sử đã để lại nhiều câu nói của vua Quang Trung, chứng tỏ cái tài tiên đoán, nhìn xa trông rộng của ông. Trước ba quân hay những dịp diện kiến các tướng lĩnh, nhà vua đã từng nói:
“Nay ta tới đây tự đốc việc quân, chiến thủ ra sao đã có phương lược định sẵn, chỉ trong vòng 10 ngày nữa thế nào ta cũng quét sạch giặc Thanh. Song, ta nghĩ: nước Thanh lớn hơn nước ta gấp 10 lần, Thanh bị thua tất lấy làm hổ thẹn, chắc phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ để binh lửa kéo dài mãi, thật không phải là phúc cho trăm họ, lòng ta không nỡ! Nên chi, sau khi thắng, ta nên khéo đường từ lệnh thì mới dập tắt được ngọn lửa binh tranh, việc từ lệnh đó, ta sẽ giao cho Ngô Thì Nhậm”
“Các người ai muốn đánh giặc, hãy vì ta mà giết cho hết quân giặc. Ai không muốn đánh giặc, hãy xem ta đánh một trận giết dăm vạn giặc. Đó không phải là chuyện hiếm lạ lắm đâu”
“Nay hãy tạm ăn Tết Nguyên Đán trước, đợi đến sang xuân, ngày mồng 7, vào Thăng Long lại mở tiệc ăn mừng. Các người ghi nhớ lấy lời ta xem có thực hay không”
Trước giờ xuất quân, đã vang lên lời hịch sau đây của Hoàng đế Quang Trung mà cái sang sảng, hào hùng của nó còn vọng đến ngày nay và chắc rằng đến mãi ngàn sau:
“Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng, đánh cho nó chích luân bất phản, đánh cho nó phiến giáp bất hoàn, đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”
Không phải đến bây giờ, các nhà nghiên cứu quân sự mới trầm trồ và chưa hết ngạc nhiên về tài hành quân thần tốc, đánh thần tốc và thắng cũng thần tốc của thiên tài nhiều mặt Quang Trung - Nguyễn Huệ, mà ngay cả những người sống cùng thời bấy giờ, kể cả những người bình thường nhất, ở những góc độ quan sát khác nhau cũng đã thấy điều đó. Chỉ có tướng lĩnh quân Thanh là mù tịt. Sự phởn chí nhiều khi gây ra những hiện tượng thật quái lạ, nực cười!
Lúc này, Tết Nguyên Đán sắp đến, quân Thanh chỉ chăm chăm lo ăn chơi, phè phỡn. Tôn Sĩ Nghị hết sức ngông nghênh, tự đắc, coi việc bắt sống Quang Trung chỉ là vấn đề thời gian. Khi nghe các cựu thần nhà Lê lo lắng, xin Nghị cho sớm xuất quân, Nghị xua tay nói:
- Hết năm đến nơi rồi, việc gì phải vội thế. Không cần phải đánh vội, giặc đang gầy, ta hãy cứ nuôi cho chúng béo để chúng tự đến dâng thịt.
Quân tướng xâm lược nhà Thanh, được dung túng, càng tỏ ra coi trời bằng vung, thả sức cướp phá, bắt dân nộp bò, lợn, gà, vịt, gạo… để chúng ăn tết, sa đà rượu thịt. Thấy cảnh ấy, một cung nhân của Lê Chiêu Thống đã nói với bà Thái hậu, mẹ Chiêu Thống như sau:
- Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, giỏi việc dùng binh. Lúc ra Bắc khi vào Nam, hắn thần xuất quỉ nhập, không ai có thể lường được. Hắn bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt đứa trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn. Không ai dám nhìn thẳng vào mặt hắn bao giờ. Hắn trỏ tay lườm mắt là làm cho người ta sợ quá sấm sét. Tôi trộm e rằng không bao lâu nữa, hắn lại đến đây. Tôn Tổng đốc đem đạo quân như thế, địch sao nổi?
Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa Tôn Sĩ Nghị, một tướng lĩnh quân sự, lại ngu ngơ tới mức sao nhãng việc tổ chức bố phòng. Đội hình bố phòng của quân Thanh lấy Thăng Long làm trung tâm, có chiều sâu theo trục từ phía nam đến Thăng Long, có thể chi viện, ứng cứu nhau giữa các căn cứ đồn trú khi có biến, cụ thể: đạo quân chủ lực của Tôn Sĩ Nghị đóng ở bãi cát hai bên bờ sông Hồng, qua lại nhau bằng cầu phao; đạo quân Sầm Nghi Đống đóng tại Khương Thượng (Đống Đa, Hà Nội), đạo quân của Ô Đại Kinh (đến sau) đóng tại Sơn Tây. Trên trục đường phía nam Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị sai lập nhiều đồn lũy kiên cố ở Thanh Quyết, Hà Nội, Ngọc Hồi, Văn Điển… Một bộ phận quân “cần vương” của Chiêu Thống trấn giữ ở đồn Giám Khẩu, làm vị trí tiền tiêu án ngữ đường tiến ra Thăng Long.
Tin chắc vào lực lượng đông, hệ thống đồn lũy kiên cố, sự bố phòng kín kẽ, vững chắc, Tôn Sĩ Nghị chủ quan, thả lỏng cho quân lính nghỉ ngơi ăn Tết và quyết định đợi sang xuân, mồng 6 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789), mới xuất quân.
Nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc tổ chức xâm lược cũng là sự thèm khát danh lợi, biểu hiện ra là hành động khuất phục cho được dân chúng bản xứ, chiếm đoạt cho được của cải, đất đai… bằng công cụ bạo lực. Do đó mà bản chất của mọi cuộc chiến tranh xâm lược đều là tàn bạo. Có mục đích và bản chất phi nhân phi nghĩa như thế nên khi phải đối đầu với một cuộc khởi nghĩa chống xâm lược, bất cứ đội quân xâm lược nào cũng bị áp lực của nhiều yếu tố về chính trị và quân sự hối thúc chọn phương án tiến hành ưu tiên số 1 là đánh nhanh thắng nhanh bằng mọi giá. Tôn Sĩ Nghị đã không thấy được điều đó nên đã phạm sai lầm, tự làm mất đi cả ba yếu tố tạm thời có được là thiên thời, địa lợi, nhân hòa, và đứng trước một thiên tài quân sự Quang Trung, thì sự đại bại là không tránh khỏi.
Kế hoạch tác chiến của vua Quang Trung như sau:
- Đạo quân thứ nhất (chủ lực), do chính nhà vua chỉ huy, có nhiệm vụ tiến công vào hệ thống phòng ngự chính của địch trên đường từ phía nam đến Thăng Long.
- Đạo quân thứ hai do Đô đốc Bảo chỉ huy, có nhiệm vụ theo đường Sơn Minh (huyện Ứng Hòa) ra làng Đại Áng, đánh vào sườn tây - nam đồn Ngọc Hồi, vị trí quan trọng nhất của địch, phối hợp với quân chủ lực.
- Đạo quân thứ ba do Đô đốc Long chỉ huy, theo đường huyện Chương Đức (Chương Mỹ ngày nay), nhanh chóng đánh vu hồi sườn địch, tiến công vào quân Sầm Nghi Đống, sau đó phát triển vào Thăng Long.
- Đạo quân thứ tư đi đường thủy, do Đô đốc Tuyết chỉ huy tiến vào sông Lục Đầu, tiêu diệt quân “cần vương” của Chiêu Thống ở Hải Dương, làm tiếp ứng cho các đạo quân khác tiến công địch ở khu vực Thăng Long.
- Đạo quân thứ năm do Đô đốc Lộc chỉ huy cũng tiến theo đường trên nhưng khi tới sông Lục Đầu thì sẽ đi gấp lên phía Phượng Nhãn, Lạng Giang, Yên Thế chặn đường rút chạy của địch
Đêm 30 tháng 12 năm Mậu Thân (25-1-1789), chiến dịch mở màn. Quân chủ lực do Quang Trung chỉ huy vượt sông Gián Thủy (cách Thăng Long 76km), hạ đồn Gián Khẩu rồi tiến lên hạ tiếp một số vị trí khác. Quân ta đánh nhanh, tiêu diệt gọn đến nỗi quân Thanh ở các đồn phía ngoài vẫn không hay biết gì.
Đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu (28-1-1789), quân ta bí mật vây chặt đồn Hạ Hồi, rồi hò reo ầm ĩ, hư trương thanh thế, bắc loa gọi hàng. Quân Thanh đang ăn Tết trong đồn hoàn toàn bị bất ngờ, tưởng đâu như “tướng ở trên trời xuống, quân từ đất chui lên”, hoang mang hoảng loạn, mất hết tinh thần chiến đấu, xin hàng. Quân ta hạ đồn Hạ Hồi không tốn một viên đạn!
Mờ sáng mồng 5 Tết Kỷ Dậu, quân Quang Trung tiến công đồn Ngọc Hồi. Đồn Ngọc Hồi nằm trên quốc lộ huyết mạch (quốc lộ 1), cách Thăng Long 14 km, là vị trí đồn lũy then chốt bảo vệ mặt nam thành Thăng Long. Để mất Ngọc Hồi thì phòng tuyến phía nam bị chọc thủng, hoàn toàn đổ vỡ. Ở đây có khoảng 3 vạn quân Thanh đóng giữ, đặt dưới quyền chỉ huy của Đề đốc Hứa Thế Hanh (phó tướng của Tôn Sĩ Nghị), ngoài đồn về phía nam, có bãi chướng ngại vật gồm chông sắt, cạm bẫy, địa lôi và chiến lũy phòng vệ kiên cố, trên thành đặt nhiều đại bác. Hơn nữa việc đánh Ngọc Hồi đã không còn yếu tố bất ngờ.
Biết rõ tầm quan trọng của đồn Ngọc Hồi, Quang Trung hạ quyết tâm tiêu diệt. Ngay từ đầu, trận đánh đã tỏ ra rất ác liệt. Quân ta vừa tiến đến trước đồn thì quân Thanh ở bên trong đã bắn đại bác ra dữ dội, lại nhân có gió bấc, khói súng mù mịt bay tạt phủ lên đội ngũ làm quân ta tiến lên rất khó khăn. Càng đến gần, tên đạn của địch càng dày đặc khiến cuộc tiến công của quân ta có nguy cơ chững lại. Ngay tại thời điểm quan trọng đó, Quang Trung ra lệnh cho quân sĩ quàng khăn vàng vào cổ để tỏ ra quyết tâm chiến đấu hy sinh, đồng thời thay đổi cách đánh: sai lấy 60 tấm ván, cứ 3 tấm ghép làm một tạo thành 20 tấm chắn, mỗi tấm chắn được 10 người lính khỏe mạnh dùng một tay khiêng, một tay cầm đoản đao tiến lên phía trước, che đỡ cho 20 quân sĩ khác cầm vũ khí nặng tiến theo phía sau, tạo thế cho toàn quân xông lên. Quân Thanh bắn ra càng rát nhưng không hiệu quả, hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn. Chúng giày xéo cả lên nhau, nhảy cả vào những chỗ chính chúng chôn địa lôi, bị thương vong rất nhiều. Đồn lũy Ngọc Hồi hoàn toàn bị triệt hạ. Bộ phận quân Thanh còn lại rút chạy trên đê Yên Ninh, bỗng gặp một toán quân ta làm kế nghi binh, mở cờ gióng trống tiến ngược lại. Giặc mắc mưu, quay chạy về phía làng Đại Ánh (Thanh Trì) thì bị cánh quân của Đô đốc Bảo bất thần từ trong làng kéo ra, dồn chúng về Đầm Mực (làng Quỳnh Đô, Thanh Trì) rồi thúc voi dày xéo, tiêu diệt hàng vạn tên.
Đồng thời với thời gian đánh đồn Ngọc Hồi, cánh quân của Đô đốc Long thực hiện bao vây, đánh mãnh liệt vào Khương Thượng (đồn Đống Đa). Quân Thanh không chống cự nổi và cũng không có đường thoát, chết vô số kể. Tướng Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử tại chiến trường
Quân ta thừa thắng, tiêu diệt nốt các đồn Văn Điển, Yên Quyết, thọc sâu vào Thăng Long, các mũi đột kích đều nhằm vào đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở Tây Long.
Chỉ khi đồn Hạ Hồi thất thủ, Tôn Sĩ Nghị mới biết quân Quang Trung tiến đánh. Nghị hốt hoảng, cuống cuồng tìm cách đối phó, nhưng chưa kịp trở tay, động thủ gì thì Ngọc Hồi, Khương Thượng đều đã bị hạ, các tướng nhà Thanh là Hứa Thế Hanh, Trương Sĩ Long, Thượng Duy Thăng, Sầm Nghi Đống đều đã tử trận, quân sĩ tan tác. Lại nghe tin quân Quang Trung đang đằng đằng xông tới Tây Long, lúc này (sáng mồng 5 Tết Kỷ Dậu), sự hoảng sợ của Tôn Tổng đốc đầy tham vọng và kiêu ngạo đã lên đến tột độ. Mất hết hồn vía, Nghị vội vàng không kịp mặc áo giáp, không kịp thắng yên ngựa, cùng một số kỵ binh ra bờ sông Hồng, qua cầu phao, “bỏ của chạy lấy người”. Quân Thanh biết tin chủ soái đã tìm đường “thăng” cũng cuống cuồng nhốn nháo chạy theo, “tranh nhau qua cầu mà chạy, cầu đứt, lăn ngả cả xuống sông chết vài vạn người”.
Cánh quân từ Vân Nam, Quý Châu vừa kéo tới Sơn Tây, nghe tin Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, sợ quá, vội rút chạy luôn. Bè lũ Lê Chiêu Thống càng kinh khiếp hơn, chèo thuyền qua sông, bám theo Tôn Sĩ Nghị.
Nghị cùng tàn binh chạy đến Phượng Nhãn (Hà Bắc) thì bị cánh quân Đô đốc Lộc đón đường đánh. Nghị vội vứt cả sắc thư, ấn tín, cờ hiệu… cùng bộ hạ luồn rừng mà chạy. Viên thư ký của Nghị là Trần Nguyên Nhiếp ghi lại: “Tôi và Chế Hiến (chức quan của Nghị) đói cơm, khát nước, không kiếm đâu ra được ăn uống, cứ phải đi suốt 7 ngày 7 đêm mới đến được trấn Nam Quan”.
Chiều mồng 5 Tết Kỷ Dậu, vua Quang Trung ngồi trên mình voi chiến, khoác chiếc áo bào sạm đen khói súng, dẫn đầu 80 thớt voi cùng đoàn đại binh rầm rộ tiến vào Thăng Long. Nhân dân 36 phố phường đổ ra chật đường, nghênh đón người anh hùng áo vải cờ đào vĩ đại của dân tộc Việt.
Cảnh tượng ấy là bất tử!
Ngày mổng 7 Tết Kỷ Dậu (1-2-1789), Quang Trung làm lễ mừng chiến thắng giữa Kinh thành Thăng Long, mở tiệc khao quân thực hiện lời hứa đã từng tuyên bố trước đây với ba quân tướng sĩ.
Có thể cho rằng chiến dịch đại phá ngót 29 vạn quân Thanh chỉ như một trận đánh lớn bởi tính tập trung về không gian và thời gian của nó. Và chỉ với một trận đánh mà đánh tan được đội quân xâm lược đông gấp bội phần, lại đang ở tư thế bố phòng liên hoàn, chặt chẽ, có đồn lũy kiên cố bảo vệ, thì đó chính là chiến công bất tuyệt của Quang Trung. Trong cùng một hoàn cảnh, điều kiện như thế, không phải vị tướng tài nào, dù cho có thuộc làu binh pháp cũng có thể làm được như thế. Không hiểu tại sao, “nhìn” Quang Trung đánh trận, chúng ta có cảm giác như ông đã “đọc” được diễn tiến của trận đánh trước khi nó xảy ra. Phải chăng vì thế mà ông luôn là tướng bách thắng? Lối đánh của ông vừa chắc nịch, vừa uyển chuyển, giản dị mạch lạc nhưng cũng biến hóa khó lường. Trong trận đánh, các cánh quân của ông hoạt động có hiệu quả, hợp đồng tác chiến rất ăn ý, nhịp nhàng, nhanh chóng tạo ra thế trận kết hợp nhuần nhuyễn giữa bao vây vu hồi và đột phá chia cắt cũng như sự chuyển hóa phù hợp giữa hai hình thức ấy theo diễn tiến trận đánh. Có thể vì thế mà nếu xét về tổng quan, số lượng quân của Quang Trung thường ít hơn rất nhiều so với đối phương nhưng trong thời gian đã định và tại vị trí trọng yếu đã định lại trở nên mạnh hơn so với đối phương, tạo bước ngoặt giải quyết chiến trường, giành thắng lợi, và thường là những thắng lợi vang dội, rất hiển hách.
Quang Trung từng nói: “Người khéo thắng là thắng ở chỗ rất mềm dẻo, chứ không phải lấy mạnh đè yếu, lấy nhiều hiếp ít”. Đây là một câu nói mang “khẩu khí” quân sự, nó rất cô đọng nhưng rất hay, rất đúng. “Mềm dẻo” cũng đồng nghĩa với “tùy cơ ứng biến” và có thể còn mang ý nghĩa bao hàm hơn. Trần Hưng Đạo cũng nói: “Phải xem xét tình thế biến chuyển như người đánh cờ, tùy theo thời cơ mà ứng biến cho đúng”. Ngô Thời Nhiệm, đại thần của vua Quang Trung, cho rằng: là một tướng giỏi thì phải biết “lường thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới ra tay hành động, tùy theo tình thế thay đổi mà bày ra chước lạ”.
Nhưng muốn thực hành được sự “rất mềm dẻo” như Quang Trung nói, thật không dễ dàng chút nào, thậm chí là rất khó khăn. Muốn thế, một tướng cầm quân phải biết nhìn xa trông rộng, nhận thức được qui luật vận động của chiến tranh, nắm vững nghệ thuật quân sự cũng như am tường binh pháp. Đó là những tiền đề cần có (nhưng có thể là chưa đủ) để một người tướng được gọi là có tài điều binh khiển tướng, mới có thể lấy yếu, ít mà thắng được mạnh, nhiều. “Quân cốt tinh nhuệ không cốt đông”, “Lấy yếu địch mạnh, lấy ít thắng nhiều” chỉ là những cách nói, có tính đúc kết, cô đọng của ông cha ta về cách đánh đã thành truyền thống của một dân tộc không đông nhưng anh dũng, của một đất nước không rộng nhưng linh và hiểm. Ai hiểu nó hời hợt, tuyệt đối theo nghĩa đen, máy móc siêu hình sẽ phải chuốc lấy: … nếu có thắng thì chỉ thắng nhỏ bé cục bộ còn phần thua thì nhiều và thua chung cuộc.
Mọi sự vật - hiện tượng đều phải hiện hữu, vận động trong môi trường và chịu tác động qua lại với môi trường. Suy ra, bất cứ cuộc đấu tranh vũ trang nào cũng đều vận động trong môi trường thiên nhiên - xã hội và chịu sự ảnh hưởng tương hỗ của môi trường ấy, một môi trường đa dạng, nhiều hình nhiều vẻ và luôn biến đổi giữa hai lực lượng đối kháng nhau trong cuộc xung đột ấy, lực lượng nào biết hành động phù hợp hơn với môi trường (lúc này lực lượng đối phương cũng là bộ phận của môi trường!), biết tạo dựng tình thế có lợi hơn (như thu phục được lòng người (quần chúng theo về, phân hóa nội bộ đối phương…), lợi dụng địa hình, địa vật, thời tiết khí hậu, sử dụng có hiệu quả binh khí…), sẽ giành được thắng lợi cuối cùng. Cụ thể là một lực lượng dù tương đối ít hơn, yếu hơn, nhưng biết vận động uyển chuyển thích ứng với môi trường, biết tận dụng những yếu tố có lợi của môi trường và hơn nữa là biết tác động vào môi trường, tạo ra tình thế có lợi cho mình, đề tùy lúc tùy nơi trở thành mạnh hơn đối phương, đánh tan lần lượt từng bộ phận, tiến đến toàn thắng. Quang Trung nói “rất mềm dẻo” phải chăng là như thế? Nếu thế thì “người khéo thắng” chính là người năng động sáng tạo, đánh có phương pháp nhưng không nô lệ vào sách vở binh pháp.
Nói tóm lại, mục đích của đấu tranh vũ trang là giành thắng lợi, bên nào muốn giành thắng lợi thì phải tiêu diệt lực lượng bên kia, muốn tiêu diệt thì phải có sức mạnh áp chế sức mạnh đối phương. Do vậy yêu cầu cốt lõi, cơ bản nhất đối với mọi tướng cầm quân (nhất là cầm quân ít và yếu) nếu muốn chiến đấu thắng lợi, là phải biết cách vận động tạo thế mạnh hơn quân địch, trước và trong quá trình, xảy ra xung đột.
Câu nói của Quang Trung mà chúng ta dẫn ra ở trên chính là tinh hoa quý báu nhất của sự nghiệp đấu tranh chống xâm lược của dân tộc ta trước đó mà ông đã tiếp thụ được và đã chiêm nghiệm trong cuộc đời bách chiến bách thắng của mình.
Sau này, tinh hoa quý báu đó đã được các thế hệ người Việt Nam của thời đại Hồ Chí Minh kế thừa, phát huy đến cao độ trong cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ, “toàn dân, toàn diện” đánh thắng Thực Dân Pháp, và đến tột độ trong cuộc kháng chiến 20 năm bền bỉ với “ba mũi giáp công”, “cả nước lên đường” chống Đế Quốc Mỹ, giành thắng lợi, thống nhất giang sơn.
Về mặt lý luận thì nghệ thuật quân sự Việt Nam có tính độc đáo, đặc thù, tính riêng nhưng vì là bộ phận của nghệ thuật quân sự thế giới nên nó cũng phải tuân thủ những quy luật chung nhất về đấu tranh vũ trang. Chúng ta cho rằng câu nói đó của vua Quang Trung là cái cốt lõi của nghệ thuật quân sự Việt Nam và đồng thời cũng hàm chứa cái cốt lõi của nghệ thuật quân sự thế giới.
Nhắc đến nghệ thuật quân sự thế giới, chúng ta lại nhớ đến câu chuyện về “Napôlêông - Bônapác” (NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội 1982) mà xưa kia Ê. Táclê đã “kể đi kể lại” cho chúng ta “nghe” biết bao nhiêu lần, và mỗi lần nghe kể vẫn lấy làm thích thú. Bây giờ, chúng ta còn thuộc nhiều đoạn, có thể đọc vanh vách được!
Napôlêông là thiên tài quân sự của thế giới, ông người Pháp (đảo Cooc), cùng thời nhưng sinh sau Quang Trung một thời gian. Theo F.Angghen, Napôlêông đã vượt xa vô cùng các vị tiền bối của ông và các tướng lĩnh cận đại đã học cách dùng binh của ông, đã cố gắng bắt chước ông trong một nghệ thuật khó như vậy: “… công lao bất diệt của Napôlêông chủ yếu là ở chỗ đã tìm ra được cách sử dụng - duy nhất đúng đắn về chiến thuật và về chiến lược - những khối quần chúng vũ trang. Chiến lược và chiến thuật ấy đã được Napôlêông làm cho hoàn thiện đến mức mà các tướng lĩnh đương thời không một ai có thể vượt nổi ông và họ chỉ có thể cố gắng bắt chước ông trong các cuộc hành binh rực rỡ nhất và may mắn nhất của họ mà thôi”
Ăngghen nhìn thấy ở Napôlêông một người chỉ huy vĩ đại, ngay cả trong những chiến dịch mà ông bị thất bại. “Trong số những cuộc hành binh phòng ngự và những trận tiến công trực tiếp tiến hành trong những chiến dịch hoàn toàn nhằm mục đích phòng ngự, phải kể đến hai bài học đặc sắc nhất trong hai chiến dịch kỳ lạ nhất của Napôlêông: chiến dịch năm 1814, kết thúc bằng việc Napôlêông bị đày ra đảo Enbơ; chiến dịch năm 1815, chấm dứt bằng trận thất bại Oatéclô và Pari đầu hàng. Trong quá trình hai chiến dịch đó, với những hành động nhằm mục đích hoàn toàn phòng ngự, viên tướng tổng chỉ huy ấy đã tiến công kẻ địch trên khắp các vị trí mỗi khi gặp thời cơ thuận lợi; tuy lực lượng luôn luôn ít hơn kẻ địch một cách rõ rệt nhưng mỗi lần xuất hiện, Napôlêông đã biết cách làm cho mình mạnh hơn kẻ địch và thường thường hễ ông đã tiến công là thắng lợi”. Cũng theo Ăngghen thì sự thất bại của Napôlêông ở hai chiến dịch đó là do những nguyên nhân “hoàn toàn độc lập” với kế hoạch tác chiến, với phương pháp thực hiện các kế hoạch đó, nhất là vì quân số các lực lượng vũ trang của Châu Âu liên minh quá vượt trội hơn và vì “sự không thể chống lại được cuộc tiến công của cả thế giới vũ trang đánh vào một quốc gia đã bị kiệt quệ bởi những cuộc chiến tranh liên miên trong suốt một phần tư thế kỷ”
Cũng lời Ăngghen: “Trận Auxteclit được coi là một trong những chiến thắng lớn nhất của Napôlêông và là bằng chứng không thể bác bỏ được về thiên tài quân sự có một không hai của Napôlêông”; bởi vì nếu như những sai lầm của quân Liên minh đã rõ ràng là nguyên nhân chủ yếu làm họ thất bại thì “con mắt phát hiện ra được lầm lẫn đó, lòng kiên nhẫn chờ đợi cho lầm lẫn đó chín muồi để quyết tâm giáng đòn quyết định, sự mau lẹ cực kỳ chớp nhoáng để đánh tan kẻ địch, tất cả những cái đó của Napôlêông đáng cho ta phải hoàn toàn khâm phục và không đủ lời khen ngợi. Trận Auxtéclit là một sự kỳ diệu về chiến lược mà người ta sẽ không bao giờ quên được chừng nào còn chiến tranh”
Để giải quyết chiến trường thì mục tiêu cao nhất, cuối cùng là tiêu diệt lực lượng đối phương. Chính vì vậy mà Napôlêông từng nói: “Ở Châu Âu có nhiều tướng giỏi, nhưng họ nhìn một lúc nhiều cái quá. Còn tôi, tôi chỉ nhìn một cái, đó là những khối người, tôi cố tiêu diệt chúng …”. Cũng không ai có thể bắt chước được Napôlêông trong việc khuếch trương chiến quả, trong nghệ thuật dùng truy kích đề đánh tan đối phương. Nhà sử học quân sự Phổ, bá tước Yócphôn Máctenbua, nói rằng mệnh lệnh của Napôlêông gửi cho nguyên soái Sun ngày 3-12-1805 (hôm sau trận Auxtéclit) chứa đựng toàn bộ “thuật truy kích do bộ chỉ huy trình bày trong một số ít chữ”. Trong thời đó, không ai vượt được Napôlêông về nghệ thuật nắm và điều động những khối quân lớn trong giai đoạn chuẩn bị cũng như khi ở chiến trường và tài chỉ huy thay đổi đội hình tác chiến một cách đột ngột nhất. Dưới sự chỉ huy của Napôlêông, những đội quân đông đặc của ông đã tỏ ra, theo lời ông, mạnh hơn đối phương “vào lúc đã định và ở nơi đã định”
Napôlêông có tài làm cho những câu nói trở thành độc đáo, để xác định toàn bộ những đức tính cần thiết của một người tướng tài, Napôlêông nói rằng: “Bề cao và bề nằm phải bằng nhau” : ông hiểu “bề nằm” là phẩm chất con người, là lòng dũng cảm, tính quả quyết… và “bề cao” là tài trí, là tính sáng tạo… (như vậy, cũng tương tự với cách nói Á Đông: trí dũng song toàn); nếu cốt cách mạnh hơn tài trí, người tướng sẽ bị lôi cuốn ra ngoài mức cần thiết; nhưng nếu tài trí lớn hơn cốt cách thì người tướng sẽ thiếu can đảm để quyết đoán thực hiện kế hoạch. Napôlêông coi sự thống nhất chỉ huy là tuyệt đối cần thiết (điều này theo chúng ta là rất đúng, đúng cả ở trong thời bình vì nó phù hợp với lẽ tự nhiên!), ông nói đại ý rằng: một viên tổng tư lệnh tồi còn tốt hơn hai viên tổng tư lệnh giỏi và nếu trừ trận vây thành Tulông năm 1793 ra (buổi đầu tìm, dựng sự nghiệp) thì chưa trận nào ông chịu chia sẻ quyền chỉ huy cho bất cứ ai.
Nhiều người cho rằng Napôlêông đã không coi trọng các công sự của đối phương. Điều đó không đúng. Napôlêông chỉ yêu cầu các thống chế và tướng lĩnh của mình phải hiểu rằng vấn đề quyết định chiến tranh không phải là việc đánh chiếm các công sự của kẻ địch mà là việc tiêu diệt sinh lực địch ở trên chiến trường. Nhưng ngay cả trong vấn đề ấy, Napôlêông cũng tỏ ra linh hoạt và thông minh kỳ diệu khi ông nhận định rằng những tình huống không bao giờ lặp lại hoàn toàn đúng với nhau. Vào năm 1805, khi thấy rằng chỉ có chiếm được thành Unmơ thì mới tiêu diệt được chủ lực của quân Áo, ông đã tập trung cố gắng chủ yếu vào việc đánh chiếm nó. Sở dĩ Napôlêông đặt việc đánh hạ thành quách, chiếm giữ công sự đối phương xuống hàng quan trọng thứ yếu là vì ông quan niệm năng động, sáng tạo để giành quyền chủ động trên chiến trường mới là điều quan trọng chủ yếu bởi có như thế mới tạo ra điều kiện thuận lợi tiêu diệt sinh lực địch. Ông nói rằng: chỉ nên tiến hành một chiến dịch sau khi đã chuẩn bị kỹ lưỡng, nhưng một khi đã bắt đầu thì phải chiến đấu đến cùng để giữ lấy thế chủ động sáng tạo.
Quyền chủ động trong sự chỉ đạo chung trong chiến tranh, trong việc lựa chọn địa hình và thời cơ giao chiến, trong những hành động chiến thuật đầu tiên trước khi giao chiến và khi bắt đầu giao chiến phải thuộc về người tổng chỉ huy. Trước trận đánh, khi hạ mệnh lệnh cho các thống chế một cách cụ thể, ông không bao giờ chi tiết đến vụn vặt. Khi chỉ huy cho tướng lĩnh của mình thừa hành một nhiệm vụ nào đó ở một địa điểm nào đó, ông chỉ rõ mục tiêu chiến lược cuối cùng phải đạt được nhưng đạt được cụ thể bằng cách nào là do các tướng lĩnh quyết định. Trong chiến đấu, Napôlêông là trung tâm và đầu não của quân đội. Trong khi làm nhiệm vụ được giao, các thống chế liên lạc thường xuyên với hoàng đế, báo cáo lên hoàng đế tình hình của các cuộc hành binh, xin viện binh và báo cáo cho hoàng đế biết rõ những sự thay đổi luôn luôn diễn ra các tình huống. Đến tận ngày nay, cách thức điều binh khiển tướng của Napôlêông vẫn còn làm cho các nhà nghiên cứu quân sự phải khâm phục. Điều khó khăn nhất cho những người sống vào thời ấy và cũng như đời sau là tìm hiểu xem Napôlêông đã giữ vai trò chỉ huy đó như thế nào để đảm bảo được tính tập trung cao độ mà không làm mất đi tính chủ động sáng tạo (dù là cục bộ) của cấp dưới. Cách thức chỉ huy đó, theo quan niệm của chúng ta là tối ưu, nhưng dù sao cũng có khiếm khuyết. Các tướng lĩnh của hoàng đế có thói quen không tự (hoặc dám) quyết định được khi gặp tình thế nguy hiểm quá lớn, họ chủ yếu chỉ là những người thực hiện xuất sắc, ưu tú trong phạm vi thừa hành. Số tướng lĩnh có năng lực độc lập xử lý được trong những tình huống như thế có rất ít, như Đavu, Mátxênan, Ôgiơrô, nhưng cũng chỉ ở mức độ nhất định. Napôlêông từng chua chát kêu lên rằng ông không thể có mặt ở khắp mọi nơi trong cùng một lúc được. Tuy nhiên ông sẽ hết “chua chát” nếu nhận thức ra điều này: ngay cả Tự Nhiên Tồn Tại cũng không hoàn hảo, hay nói theo nguyên lý Tự Nhiên là mọi sự hoàn hảo đều có mặt trái không hoàn hảo!
Theo quan niệm của Napôlêông thì nghệ thuật của người tổng tư lệnh trước hết là biết tập trung, trang bị và huấn luyện nhanh chóng những tiểu đoàn lớn mạnh để thành lập những khối quân lớn; kế đến là làm thế nào để khi đánh đòn quyết định thì tất cả những đơn vị ấy đều đã ở vị trí đã định, thứ ba là khi đã khai chiến thì nếu cần thiết để chiến thắng, phải biết hy sinh những tiểu đoàn lớn mạnh ấy, thứ tư là khi đã tập trung được khối lớn ấy rồi thì không bao giờ được lẩn tránh hoặc trì hoãn giao chiến mà phải tìm cách giao chiến sớm nhất, miễn là có cơ thắng lợi, thứ năm, đây là điểm khó nhất, tìm thấy được trong trận thế của quân địch cái điểm để giáng đòn quyết định. Napôlêông cho rằng: trong chiến tranh, những sự ngẫu nhiên và may rủi giữ một vai trò đáng kể, nhưng dẫu sao thì những kế hoạch to tát  bao giờ cũng tùy thuộc vào những đức tính cá nhân của người chỉ huy: tài trí, kiến thức, phẩm cách trong hành động tác chiến, tính linh hoạt và đầu óc phán đoán. “Không phải có một vị thần thánh nào mách riêng cho tôi biết điều tôi phải nói hoặc phải làm trong một tình huống bất ngờ đối với những người khác, mà đó chỉ là sự suy nghĩ của tôi, sự nghiên cứu, nghiền ngẫm”, có lần Napôlêông đã nói như vậy. Vào những năm cuối cùng của đời mình ông còn nói rằng: Alếchxan Maxêđoan, Xêda, Aniban… trở thành vĩ đại không phải chỉ vì thời vận giúp họ, mà thời vận giúp họ vì họ là những bậc vĩ nhân biết làm chủ thời vận.
Napôlêông đã quả quyết rằng, mọi cuộc chiến tranh đều phải tiến hành “có phương pháp”, nghĩa là phải được nghiên cứu sâu sắc, và chỉ như vậy mới có cơ thắng lợi. Ông kiên quyết bác bỏ các thành kiến cho rằng các cuộc xâm lược của Thành Cát Tư Hãn và của Taméclan chỉ là những hoạt động tự phát, rối loạn. Ông nói với Môngtôlông: “Những cuộc chiến tranh của Thành Cát Tư Hãn, của Taméclan là có tính phương pháp, vì họ đã tiến hành đúng qui tắc và có lý luận, vì chiến dịch họ tiến hành đã tương xứng với lực lượng quân đội của họ”. Về vấn đề này, các nhà sử học cận đại nghiên cứu về Á Đông hoàn toàn xác nhận quan điểm trên đối với các cuộc chinh phục của quân Mông Cổ.
Cần nhấn mạnh là Napôlêông đã nói rất nhiều lần và trong nhiều trường hợp khác nhau rằng nghệ thuật chiến tranh, chung qui lại chỉ là biết tập trung vào nơi và lúc cần thiết một lực lượng lớn hơn lực lượng của quân đội địch ở đó và lúc ấy. Khi nói về cuộc chiến tranh năm 1796 - 1797, viên đốc chính Gôhiê khen ngợi Napôlêông là thường thường đã đánh bại kẻ địch mạnh hơn mình bằng những lực lượng ít hơn, thì Napôlêông nói rằng thật ra không phải thế, mà chỉ là do ông đã cố gắng tiến công chớp nhoáng vào những lực lượng phân tán của kẻ địch và lần lượt tiêu diệt những lực lượng ấy của địch, cho nên sở dĩ ông thu được thắng lợi thì đúng chỉ vì trong mỗi trận tiến công cục bộ ấy, ông đều tạm thời mạnh hơn kẻ địch, mặc dầu tổng số lực lượng quân đội bên địch đông hơn quân đội của ông.
Tất cả các nhà bình luận quân sự đều thừa nhận Napôlêông không những là một nhà chiến thuật đại tài - nghĩa là trong nghệ thuật tác chiến, một nhà chiến lược đại tài - nghĩa là trong nghệ thuật chiến thắng, mà còn là một nhà ngoại giao đại tài - nghĩa là trong nghệ thuật  buộc kẻ bại trận phải hoàn toàn phục tùng ý muốn của người thắng trận (hoặc đang trên đà thắng trận). Cả ba tài năng đó hòa hợp làm một trong con người Napôlêông. Mỗi khi bắt đầu một cuộc chiến tranh, Napôlêông luôn cố gắng đánh quị kẻ địch một cách khẩn trương nhất bằng một hai đòn khủng khiếp và nhanh như chớp, rồi bức kẻ địch phải cầu hòa, phải chấp nhận bồi thường chiến phí (thường là nặng nề), chịu mất đất đai và những điều khoản thỏa ước hoàn toàn bất lợi khác.
Theo nguyên lý Tự Nhiên thì mục đích của Tồn Tại chính là Tồn Tại (nhưng nếu nói Tồn Tại là không có mục đích, cũng đúng!). Không thể nằm ngoài cái nguyên lý chung ấy nên dù có tính riêng, tính đặc thù thì mục đích của cuộc sống chính là sống còn. Ở loài người hay con người có lý trí cũng vậy và sự thể hiện còn rõ ràng hơn nữa (một người mà than rằng chán sống thì hoặc người đó rất buồn bã nhưng vẫn muốn sống hoặc tuyệt nhiên là chán sống thực sự, và… tự tử!). Nhưng muốn sống còn thì phải có danh lợi (miếng ăn, địa vị để kiếm ăn, niềm vui thú…). Vậy thì có thể nói tất cả mọi hoạt động sống bị thúc đẩy bởi tâm - sinh lý cơ thể đến quan hệ về kinh tế - xã hội đều có mục đích là danh lợi. Chiến tranh là hoạt động cực đoan nhất vì danh lợi, là sự tranh quyền đoạt lợi của nhau giữa các bên tham chiến bằng cách tiêu diệt nhằm khuất phục nhau, biểu hiện ra thành sự chết chóc, tước đoạt mạng sống, quyền được sống của con người, của hàng loạt, hàng khối người, thậm chí ở mức điên rồ nhất là toàn thể loài người.
Mục đích của Tồn Tại là Tồn Tại nên Tồn Tại cũng là động lực của Tồn Tại, và nếu không đúng là như thế thì xin phép được nói lại: Tồn Tại… không là gì hết! Cầu mong cho câu nói này không bị nguyền rủa đời đời! Ngay bản thân chúng ta, những kẻ vừa thốt ra lời, cũng cho rằng đó là câu nói mù mịt nhất, dở hơi nhất từ cổ chí kim, rất dễ chọc cho các “người lớn” nổi điên. Nhưng biết làm sao được khi bộ não hoang tưởng của chúng ta “nhìn đời” ra như thế và bóp bẻ miệng chúng ta bắt phải nói như thế, không cưỡng được! Hỡi Hoàng Tử Bé, người bạn vong niên tri kỷ của chúng ta, người mà chúng ta tin yêu, có ý kiến gì?!. Nhưng câu nói sau đây hay hơn vì có vẻ đúng hơn: chiến tranh là vì danh lợi nên danh lợi cũng là động lực của chiến tranh. Do đó một chiến thắng trên chiến trường mà không có “hơi hám” danh lợi là gì, không đạt được danh lợi nào thì chiến thắng đó là vô nghĩa, phi lý và không được phép tồn tại thực, nghĩa là cuộc chiến tranh mà trong đó xuất hiện chiến thắng ấy là không xảy ra! (Nhưng vì Tự Nhiên Tồn Tại là đầy đủ nên sự kiện ấy vẫn có khả năng xảy ra, tuy nhiên chỉ là trong ảo mộng!).
Cũng có trường hợp chiến thắng trên chiến trường đang ở dạng ẩn (khả năng), chưa thành hiện thực mà đã đạt được danh lợi (tạm thời hoặc cuối cùng) rồi thì chiến tranh cũng kết thúc (tạm thời hoặc dứt hẳn). Nhưng nếu chỉ “tạm” thôi thì đó là hòa ước (các bên đều cảm thấy có lợi!), trá hàng (thực hiện quyền mưu để bảo toàn lực lượng, chờ cơ hội đánh nữa). Nếu là “chấm dứt thật” thì đó là chiến thắng ngoại giao (đỡ tốn thêm xương máu mà cũng có vẻ văn hóa, “lịch sự” hơn!).
Có thể là chưa nhận thức hết bản chất sâu xa của chiến tranh nên khi bàn về chiến tranh và nói về cuộc chiến tranh của Napôlêông, nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Claudơvit đã làm cho Angghen thấy “tuy rằng có đôi điểm đặc sắc, nhưng cái thiên tài tự nhiên ấy của Claudơvit vẫn không làm tôi thỏa mãn chút nào”. Theo Claudơvit thì quan niệm chỉ đạo chiến tranh của Napôlêông là một hiện tượng hoàn toàn mới mẻ trong lịch sử và đã đưa chiến tranh đến gần “mức hoàn chỉnh của nó”. Ông viết: “… kể từ thời Bônapác thì chiến tranh, trước hết hãy đứng về một phía mà xét - phía người Pháp trong quá trình chống ngoại xâm - rồi đứng về phía khác - phía các dân tộc chống Napôlêông - đã trở thành công việc của toàn dân. Nó đã mang một tính chất khác hẳn, hoặc nói một cách chính xác hơn, chiến tranh đã tiến lại rất gần thực chất của nó, sự hoàn chỉnh tuyệt đối của nó. Do sự phát triển của các phương tiện chiến tranh, của những viễn cảnh rộng lớn mở ra một khi chiến thắng và của sự thức tỉnh tinh thần mạnh mẽ của con người, nên trí lực dành vào việc chỉ đạo chiến tranh đã tiến triển đến cao độ. Tiêu diệt kẻ địch đã trở thành mục đích của các cuộc hành binh; ngừng lại và đi vào đàm phán chỉ có thể tiến hành được khi kẻ địch đã bị đánh bại và không còn đủ sức chiến đấu”.
Khi nhận xét cuốn sách của tướng Rônha, xuất bản năm 1816, Napôlêông đã viết: “Mọi cuộc chiến tranh tiến công đều là chiến tranh xâm lược… Mọi cuộc chiến tranh tiến hành theo đúng qui tắc của nghệ thuật đều là những cuộc chiến tranh đúng phương pháp. Chiến tranh phòng ngự không loại trừ tấn công, cũng như chiến tranh tiến công không loại trừ phòng ngự, dẫu rằng mục đích của nó là nhằm chọc thủng biên giới để xâm lược đất nước của kẻ địch”. Có thể là do dịch thuật mà câu nói có phần tối nghĩa. Chúng ta quan niệm “xâm lược” khác với “xâm lấn”, “lấn chiếm”, và nếu hiểu khái niệm “xâm lược” trong câu nói trên theo nghĩa “xâm lấn”, trong phạm vi thuần túy quân sự thôi thì theo ý riêng của chúng ta, quan niệm như vậy của Napôlêông về hình thức chiến tranh là hợp lý.
Đánh nhau giành ăn có nguồn gốc từ tự nhiên.. Chiến tranh cũng thế, nhưng vì là “đặc sản” của loài người nên nó có cả gốc từ xã hội nữa (thực ra, xã hội cũng là tự nhiên!). Tiến trình vận động của xã hội loài người cho đến nay chỉ ra rằng chiến tranh là tất yếu (ít ra là trên Trái Đất này!); và dù có khoác cho nó bộ cánh nào chăng nữa, dù có gọi là chiến tranh tôn giáo, sắc tộc, đế quốc, thần thánh, cách mạng hay gì đi chăng nữa thì cốt lõi của chúng là một: giết chóc vì danh lợi. Tuy nhiên vì các cuộc chiến tranh đều phải xảy ra trong xã hội con người có lý trí, đại diện cho những quyền lợi khác nhau trong xã hội, do đó chúng phải chịu sự “đánh giá”, qui ước dưới những góc độ khác nhau của thị phi để mà được gọi là chính nghĩa hay phi nghĩa. Thế thì những cuộc chiến tranh ở châu Âu khoảng thời gian cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX với nhân vật Napôlêông đóng vai trò trung tâm, được gọi là chính nghĩa hay phi nghĩa? Câu hỏi này y hệt như một đề toán đưa ra mà không có dữ kiện, giả thiết cho trước nào cả, cho nên khó mà giải được!
Napôlêông quả là con người kỳ lạ: tướng vóc ông nhỏ thó nhưng sức làm việc phi phàm, dung mạo ông chẳng có gì ghê gớm nhưng người đương thời giáp mặt ông đều nể, sợ. Sau đây là một đoạn trong bài tường thuật của Đêni Đaviđốp, vị chỉ huy du kích nổi tiếng người Nga, chống lại quân đội Pháp trong cuộc xâm lược nước Nga của Napôlêông năm 1812, viết trong ngày ký hòa ươc Tindít (1807):
“Chúng ta sắp được mắt thấy vị tướng vĩ đại, nhà chính trị vĩ đại, nhà làm luật, nhà cai trị và người đi chinh phục, người mà sau khi đã đè bẹp chúng ta, hiện giờ đang có mặt ở biên thùy nước Nga. Chúng ta sắp được thấy con người có tài khuất phục tuyệt đối được tất cả những ai mà người ấy cần gặp, và có trí thông minh kỳ lạ…
… Tới bờ đông, chúng ta thấy Napôlêông cưỡi ngựa, tay cương thả lỏng, đi giữa hai hàng rào cựu vệ binh của ông ta. Tiếng hoan hô, tiếng reo như sấm quanh ông ta và inh ỏi vang vang cả bờ bên kia, quân hộ tống và tùy tùng Napôlêông ít nhất cũng tới 400 kỵ binh… Trong giờ phút này, cảnh tượng vĩ đại đã trùm lên mọi tình cảm khác… Mọi con mắt đều quay nhìn và đổ dồn sang bờ bên kia, sang chiếc thuyền chở con người phi thường đó, người tưởng mà chưa bao giờ người ta được trông thấy hoặc được nghe nói kể từ thời Alếchxăng đại đế và Giuyn Xêda đến nay, con người đã trội hơn Alếchxăng đại đế và Giuyn Xêda biết bao nhiêu về thiên tài nhiều mặt và về vinh quang do tự mình tạo nên bằng cách khuất phục nhiều dân tộc có trình độ văn minh và văn hóa cao nhất”
Trước khi kết thúc câu chuyện kể về Napôlêông Bônapác của mình, Ê.Táclê nói rằng hình ảnh Napôlêông mãi mãi in sâu trong tâm trí loài người, nó gợi cho người này hình bóng của Áttila, Taméclan, Thành Cát Tư Hãn, người khác thì lại là hình bóng của Alếchxăng Maxêđoan, Giuyn Xêda; nhưng chung qui lại đó là hình ảnh mang nét độc đáo có một không hai trong tính phức tạp kỳ lạ của cá nhân con người ấy.
Chúng ta cũng có một chút “ý kiến ý cò” góp cho vui thế này: các cuộc chiến tranh ở châu Âu thời Napôlêông cũng mang những ý nghĩa nào đó và ở một góc độ quan điểm hạn hẹp nào đó thì chúng cũng có tính phi nghĩa và chính nghĩa. Có thể cuộc chiến đấu của Napôlêông ở thời kỳ đầu bảo vệ nước Pháp (chiến dịch nước Ý, năm 1796 - 1797) và thời kỳ chống quân liên minh châu Âu xâm phạm nước Pháp (chiến dịch nước Pháp, năm 1814) là mang tính chính nghĩa, có thể do Napôlêông quá lộng hành, ngang ngược mà cả châu Âu nổi dậy liên minh và cuộc tấn công của quân liên minh nhằm lật đổ Hoàng đế Napôlêông là có tính chính nghĩa, nhưng tính chính nghĩa ấy… không nhiều hơn tính phi nghĩa của chúng. Nếu đứng về phía quan niệm của Đức Huyền Diệu mà quan sát thì các cuộc chiến tranh ấy là hoàn toàn phi nghĩa. Khối liên minh châu Âu chiến đấu chẳng vì quyền lợi của nhân dân họ mà Napôlêông chiến đấu cũng chẳng vì nhân dân Pháp. Napôlêông đã huy động cao độ nhân tài vật lực của nhân dân Pháp vào chiến tranh và chiến tranh mà ông tiến hành đã mang được gì về cho họ? Nhân dân Pháp đâu cần ông phải đi đánh nước Nga xa xôi mà ông cứ cố đánh để rồi chuốc lấy đại bại, tạo nguyên nhân cho nước Pháp bị xâm lăng? Tại sao ông lại dứt khoát từ bỏ nước Pháp vì cho mình đã hết thời vận sau trận thua ở Oatéclô để rồi chết buồn trên đảo Thánh bà Hêlen, trong khi nhân dân Pháp yêu cầu ông ở lại tiếp tục chiến đấu chống xâm lược? Hay Napôlêông chiến đấu vì tư tưởng cách mạng tư sản Pháp, một tư tưởng tiến bộ bấy giờ? Càng không phải nốt. Một tuần lễ sau trận Oatéclô, Napôlêông đã phát biểu: “Không phải các cường quốc đã chiến đấu chống lại tôi mà là chống lại cách mạng. Lúc nào họ cũng coi tôi là đại biểu của cách mạng, là người của cách mạng”
Phát biểu như thế có nghĩa là ông trở về “100 ngày” để đòi ngôi báu từ dòng họ Buốcbông chứ không phải vì nước Pháp cách mạng, và quân liên minh Châu Âu lại tiến đánh ông là vì không hiểu ông? Có lẽ sự mù quáng về nhãn quan chính trị đã làm cho ông nghĩ lầm, và ai mà không biết ông chả coi cách mạng ra cái quái gì dù cách mạng đã mang đến cho ông cả một binh nghiệp; ai mà không biết ông bóp chết không thương tiếc “Hội nghị quốc ước” dù ông phải hàm ơn nó. Trước con mắt của quân Liên minh, ông là con người quá nguy hiểm cho an ninh Châu Âu quân chủ, nên phải cố mà loại trừ đi, chỉ thế thôi! Nhận xét của Hécxen rất đáng để suy ngẫm: “Napôlêông đã xô đẩy các dân tộc đến bước đường cùng, làm cho họ sôi sục căm thù, ăn miếng trả miếng, và họ đã chiến đấu với một sự quyết liệt liều mạng cho kiếp nô lệ và cho bọn chủ của họ. Nền chuyên chế quân phiệt lần này đã bị nền chuyên chế phong kiến đánh bại… Tôi không thể dửng dưng trước bức tranh vẽ cuộc gặp gỡ giữa Bluykhe (chỉ huy quân đội Phổ) với Oenlintơn (chỉ huy quân đội Anh) khi chiến thắng ở Oatéclô. Tôi ngắm bức tranh đó rất lâu, và lần nào tôi cũng có cảm giác rờn rợn. Oenlintơn và Bluykhe đã vui vẻ chào mừng nhau. Và làm sao mà những kẻ ấy không hài lòng được? Họ vừa mới hất bánh xe lịch sử trật khỏi con đường của nó và dìm lịch sử vào vũng lầy mà đến nửa thế kỷ nữa, người ta cũng chưa thể lôi lên được… Trời đã hửng sáng rồi… Song Châu Âu vẫn đang ngủ mê mệt, không biết rằng số phận của nó đã đổi thay”.
Vậy thì Napôlêông chiến đấu vì cái gì, khi ông không phải là kẻ thèm khát vàng bạc, châu báu, khi mà ông làm việc “quần quật” không mệt mỏi và rong ruổi khắp nơi, xông pha khắp các chiến trường trong vai trò một người tướng quả cảm chứ không phải là một hoàng đế thích an hưởng? Tất cả những biểu hiện phức tạp đến kỳ lạ từ con người của Napôlêông có thể là vì điều này: Napôlêông đã quá đam mê “trò chơi” chiến tranh, thích thú đánh trận và tìm thỏa mãn trong vinh quang có được từ chiến thắng. Phải chăng trận Oatéclô với những biểu hiện “xui xẻo” của nó, và sự thiếu vắng những thống chế ưu tú mà ông yêu mến, đã từng cùng ông gặt hái vinh quang khắp chiến trường Châu Âu khi xưa, cũng như lực lượng đông đảo của quân liên minh đang dồn đến biên giới nước Pháp, đã làm ông cụt hứng và đột nhiên cảm thấy chán nản tất cả, quyết định rời bỏ “canh bạc” vĩnh viễn?... Tổ quốc, cách mạng, quần chúng, hoàng đế… chỉ là những phương tiện ông cần để chơi “game” bạo lực và khi đã chán ngấy trò chơi rồi thì ông giũ bỏ tất cả một cách vô tình?
Napôlêông đã đi vào lịch sử với biết bao nhiêu điều kỳ lạ mà người ta đã gán cho ông, trong đó có không ít những truyền thuyết, huyền thoại. Tuy nhiên có điều kỳ lạ nhất trong mọi điều kỳ lạ về hiện tượng Napôlêông mà chưa thấy ai nêu ra, đó là: những sự kiện như đặt bày một cách ăn khớp để viên trung úy pháo binh 23 tuổi nghèo nàn, ăn mặc xoàng xĩnh, người đảo Coóc tên là Bônapác và nước Pháp cách mạng gặp nhau vào đúng những thời điểm có lợi nhất cho cả hai, và rằng nhiều lần liều mạng dẫn đầu quân xung phong dưới làn mưa đạn, nhiều lần đứng ở vị trí mà đạn đại bác nổ văng tung tóe khắp nơi; người chết ngổn ngang, viên thống chế đứng cạnh cũng chết vì mảnh đạn, rồi có khi ngồi trơ ra như chờ đạn bắn trúng, thậm chí là uống thuốc độc, thần chết vẫn không hề để ý đến Napôlêông. Hình như Tạo Hóa đã nuông chiều quá mức một đứa trẻ ham chơi trò chiến tranh!
Nhìn rộng vào lịch sử, chúng ta còn thấy điều lạ lùng hơn nữa: tất cả những biến động xã hội lớn lao từ cổ chí kim đều như xoay quanh một nhân vật trung tâm, thường gắn liền với tên tuổi cá nhân của nhân vật ấy. Chẳng hạn người ta vẫn thường gọi những giai đoạn lịch sử như: thời Napôlêông, thời Hitle, thời Lênin… Có vẻ như những sự kiện, những biến cố, những hiện tượng, những vận động xã hội ở đâu đó, và cả bản thân tiến trình của xã hội loài người như là đã có ai đó định sẵn, sắp đặt từ trước, như là một định mệnh vậy. Nhưng ai đó là ai và tại sao lại phải sắp bày trước như thế?
Dù là ai đi chăng nữa thì chúng ta cũng biết chắc điều này: tiến trình vận động của xã hội loài người nói chung và những quá trình, biến cố xảy ra trong lòng nó nói riêng phải là do tạo dựng mới có được. Sự tạo dựng ấy là kết quả có nguyên nhân từ sự phụ thuộc lẫn nhau của toàn thể: giữa các cá nhân với nhau, giữa cá nhân với bộ phận xã hội, giữa các sự vật - hiện tượng thiên nhiên, giữa thiên nhiên và xã hội…, theo những cách thức mà trình độ khoa học ngày nay có thể nhận thức được hoặc vẫn chưa nhận thức được. (Chúng ta cho rằng trong hiện tại, có nhiều sự vật - hiện tượng về con người vẫn đang tồn tại mà do chúng ta không quan sát được, đã liệt vào số đã khuất, đã thuộc về quá khứ, và cũng có những sự vật - hiện tượng đã thực sự lùi sâu trong quá khứ vẫn “dội” về tác động lên trí não người này, người kia. Chúng ta gọi đó là những hiện tượng thuộc về tâm linh. Như vậy, hiện tại không những là kết quả của quá khứ vừa trôi qua mà còn là kết quả của quá khứ đã trôi xa, thậm chí dù có thể chỉ cá biệt, hiếm, là rất xa).
Câu hỏi cuối cùng tự nhiên bật ra: vậy thì thời thế tạo anh hùng hay anh hùng tạo ra thời thế? Chúng ta trả lời: thời thế tạo anh hùng mà anh hùng cũng tạo thời thế, là cả hai và cũng không phải cả hai!
Câu chuyện về Napôlêông mà chúng ta muốn kể là như thế. Dù biết là lạc đề nhưng chúng ta vẫn cứ kể ra để thấy rõ hơn thiên tài quân sự cũng như tài năng xuất chúng về nhiều mặt của người đại anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ - Quang Trung, vị tướng áo vải cờ đào bách thắng và vị vua có lòng với dân với nước. Chúng ta rất đỗi tự hào và tự hào một cách hoàn toàn chính đáng về tài và đức của ông trước thế giới. Điều chắc chắn: Nguyễn Huệ chiến đấu vì dân tộc mình còn Napôlêông chiến đấu vì thèm khát thắng lợi. Đó là hai mục đích khác nhau xa lắc!
***
Với trận đại thắng ngót 29 vạn quân Thanh của Nguyễn Huệ - Quang Trung, đất Thăng Long có quyền ghi thêm một chiến công chói lọi vào trang sử của mình. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thăng Long cũng đã góp công sức, đã kề vai sát cánh với quân đội Quang Trung trong cuộc chiến đấu long trời lở đất đó. Có sự kiện là dân 9 làng xã quanh đồn Đống Đa đã bí mật dùng rơm bện thành những con rồng rồi tẩm dầu đốt, tạo thành tường lửa bao quanh đồn giặc. Chính vì sự kiện này mà xuân Kỷ Dậu năm 1789 còn được gọi là Xuân Lửa Đống Đa.
Cho đến nay, trên đất Hà Nội còn lưu lại một số dấu tích của Xuân Lửa Đống Đa. Đó là những tên đất: “Cánh đồng Đồn”, “Nền Đồn”, “Cây đa Đồn”, “Vườn đẫm máu”… của cánh đồng Ngọc Hồi, “Đầm Mực” tại Quỳnh Đô, những “gò Đống Đa” trên cánh đồng Khương Thượng - Thịnh Quang, bia niên hiệu Quang Trung và bức tượng tương truyền là “tượng Quang Trung tại chùa Bộc”, Gò Đống Đa, đền Thái Thú… Sau ngày chiến thắng, Quang Trung cho thu nhặt xác quân Thanh, chôn thành gò đống (nên có tên gọi là Gò Đống Đa; người ta cho rằng có 12 gò như vậy) và sai lập đàn cúng tế. Bài văn Tế do Vũ Huy Tấn soạn, biểu hiện lòng nhân đạo, mã thượng của người chiến thắng.
Đền Thái Thú cũng là do vua Quang Trung, vì sách lược giao hảo với nhà Thanh, cho lập nên để thờ Sầm Nghi Đống. Trước khi xâm lược nước ta, Sầm Nghi Đống làm thái thú Điền Châu ở Trung Quốc. Về sau nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương, một lần đi qua Gò Đống Đa đã cảm tác bài thơ có tựa đề “Qua đền thái thú”.
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái thú đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu!
Nghe bài thơ trên, nên buồn hay nên vui đây?!
Quang Trung đóng đô ở Phú Xuân (Huế) nên thời đó Thăng Long chỉ còn đóng vai trò Bắc Thành - Thủ phủ của Bắc bộ ngày nay. Dù vị trí chính trị có hạ thấp nhưng Thăng Long vẫn là một thành thị đô hội lớn của đất nước. Vua Quang Trung cho đắp lại đoạn Hoàng Thành bị sụt đổ từ cửa Đông Hoa đến cửa Đại Hưng; cho tu bổ tôn tạo lại các di tích văn hóa. Chùa Kim Liên (Nghi Tàm) và chùa Tây Phương (Thanh Thất) với tượng Tuyết Sơn và 18 vị La Hán nổi tiếng cũng được trùng tu thời Quang Trung…
Bằng những chính sách xây dựng kinh tế tích cực, thoáng ở trong nước và những hoạt động ngoại giao sáng suốt và khôn khéo đối với nhà Thanh, vua Quang Trung đã mở ra một tiền đồ sáng lạn cho đất nước.
Tuy nhiên, như đã nói, trong khi Quang Trung tập trung vào cuộc đấu tranh quyết liệt chống thù trong giặc ngoài ở Bắc Hà thì với một Nguyễn Lữ bất tài và một Nguyễn Nhạc thờ ơ, tình hình vùng Gia Định trở xuống đã không bình ổn được mà ngày một xấu đi. Nguyễn Ánh đã có đủ thời gian vận động, tuyên truyền, tập hợp lực lượng ngày một mạnh, để rồi đến năm 1787 thì tái chiếm lại Gia Định (Nguyễn Lữ bỏ chạy về Qui Nhơn rồi chết ở đó). Nguy cơ đã lộ diện ngày một rõ ràng ở chân trời phía Nam.
Ngày 27-8-1792, Quang Trung gửi cho quân dân Quảng Ngãi, Qui Nhơn một bài hịch nói rõ sẽ tiêu diệt Nguyễn Ánh “dễ như bẻ gãy cành khô củi mục” và dặn “không được quá nhẹ dạ tin vào những lời đồn đại về bọn người châu Âu…”, rồi kêu gọi quân dân hai phủ hãy ủng hộ đại quân khi tiến đánh Gia Định. Quang Trung đã dự định chia quân làm hai đạo: bộ binh theo đường núi tiến xuống đánh tập hậu thành Gia Định, thủy binh vượt biển tới đảo Côn Lôn, đổ bộ lên đất Hà Tiên rồi theo đường Long Xuyên, Kiên Giang đánh lên, vào mặt trước Gia Định, đồng thời sẽ phối hợp với quân của Nguyễn Nhạc đánh thẳng xuống Biên Hòa - Gia Định. Với một lực lượng ước chừng 30 vạn người, ý định của Quang Trung là tấn công mãnh liệt bao vây tiêu diệt triệt để toàn bộ lực lượng Nguyễn Ánh ngay tại chỗ.
Tiếc rằng kế hoạch lớn lao ấy chưa kịp thực hiện thì khoảng 11 giờ khuya ngày 16-9-1792, vua Quang Trung mất. Sự đột ngột ra đi của ông trong khi sự nghiệp vì dân vì nước còn dang dở đã để lại biết bao nhiêu buồn thương cho đương thời và bi phẫn cho hậu thế. Cuộc đời của ông tuy ngắn ngủi nhưng thật vẻ vang, bởi đúng như câu thơ viếng ông của Thái hậu Ngọc Hân, người vợ tài hoa mà ông hằng yêu quí:
                              “Mà nay áo vải cờ đào
                              Giúp dân, dựng nước, xiết bao công trình…”
                                                      (Trong bài thơ “Ai Từ Vân” của Ngọc Hân)
Quang Trung mất, con trưởng là Quang Toản lên nối ngôi, mới 10 tuổi, đặt hiệu là Cảnh Thịnh. Cảnh Thịnh còn quá nhỏ, mọi quyết định triều chính đều do một tay Bùi Đắc Tuyên (cậu Quang Toản) định đoạt. Tuyên đã không thấy được nguy cơ lớn đang đe dọa đất nước, chỉ lo chuyên quyền, làm cho trong ngoài đều oán. Như một căn bệnh mãn tính đối với những vương triều thiếu mất vua hiền tôi giỏi, triều đình Cảnh Thịnh cũng dần vướng vào nạn nghi kỵ, lục đục, bè phái. Chính điều đó đã làm cho triều đình Cảnh Thịnh tự suy yếu, đánh mất dần vai trò tập trung lãnh đạo đất nước, làm cho đất nước ngày một suy yếu thêm, bị động không có biện pháp nào tích cực đối phó với Nguyễn Ánh.
Ngay từ tháng 5-1790, Nguyễn Ánh đã mở cuộc tấn công đầu tiên vào đất của Trung ương Hoàng Đế, chiếm được Phan Rí, Bình Thuận. Bị quân Nguyễn Nhạc đánh mạnh, quân Nguyễn Ánh buộc phải rút về Bà Rịa đắp thành lũy phòng thủ. Tháng 6-1792, Nguyễn Ánh đem 126 chiến thuyền đánh vào cửa bể Thị Nại (Quy Nhơn) rồi lại rút về. Bắt đầu kể từ sau khi vua Quang Trung mất, lực lượng Nguyễn Ánh càng đánh càng lớn mạnh và dần dần chiếm ưu thế.
Năm 1802, Nguyễn Ánh tiến quân ra Bắc, khí thế rất mạnh, lần lượt đánh tan các căn cứ của quân Cảnh Thịnh. Vua Cảnh Thịnh cùng quần thần từ Thăng Long, qua sông Hồng chạy về mạn Bắc Giang, sau đều bị bắt, đóng cũi giải về Thăng Long. Mùa đông năm 1802, Nguyễn Ánh về Phú Xuân cáo tế miếu, sau đó tiến hành trả thù nhà Tây Sơn cực kỳ tàn bạo và vô cùng hèn hạ. Cảnh Thịnh, những người thân, nhiều tướng lĩnh của nhà Tây Sơn đều bị hành hình hết sức dã man, rùng rợn. Sự trả thù có tính chất khủng bố mất nhân tính còn kéo dài đến mãi về sau. Mọi dấu tích gợi nhớ về Tây Sơn (nếu phát hiện được) đều bị xóa sạch.
Trong cuộc trả thù nhầy nhụa xương máu đó, đã nổi bật lên một hình ảnh vô cùng lẫm liệt, đã tạc rất sâu vào lịch sử như trước đây Hai Bà Trưng và Triệu Thị Trinh đã tạc, mà chúng ta, lũ đàn ông hậu sinh không có quyền được lãng quên, đó là Đô đốc Bùi Thị Xuân. Sự lẫm liệt của Bùi Thị Xuân trước cái chết đã làm cho con người Nguyễn Ánh vốn đê hèn càng thêm đê hèn. Dưới đây là câu chuyện về Bà mà chúng ta chủ yếu sưu tầm được từ tạp chí “Thế giới mới” số 797, 2008:
Ai ra Bình Định mà coi
Con gái cũng biết múa roi đi thuyền.
Câu ca dao ấy đã nói lên truyền thống thượng võ của một miền đất; mà xuất phát điểm của truyền thống ấy có lẽ là từ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Bùi Thị Xuân người làng Xuân Hòa, thuộc ấp Tây Sơn Hạ, huyện Thy Viễn (tức thôn Xuân Hòa, xã Bình Phú, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định). Thuở nhỏ, bà học rất giỏi, chữ viết rất đẹp và có chí khí như đấng nam nhi, thường thích mặc đồ con trai đi học. Thấy Bùi Thị Xuân có chí khí như vậy nên có bà lão rất giỏi võ nghệ, không biết từ phương nào tới, cứ ngày nào cũng vậy, khi hoàng hôn dần tắt nắng lại đến dạy võ cho bà đến tận canh một. Ròng rã ba năm như vậy và nhờ ham mê, chuyên cần học hỏi mà đến năm 15 tuổi võ nghệ của Bùi Thị Xuân đã khá cao cường. Lúc đó qua các bô lão trong làng, Xuân mới biết bà lão nọ là tổ sư một môn phái võ nổi tiếng ở An Vinh. (Ngày nay vẫn còn lưu truyền những câu như “roi Thuận Truyền, quyền An Thái”, “trai An Thái, gái An Vinh” để nói về những vùng có những nổi trội, độc đáo về võ thuật. Về sự kiện thầy dạy võ cho bà Bùi Thị Xuân là tổ sư một môn phái ở An Vinh, có lẽ chưa đúng, nhưng không ảnh hưởng gì đến truyền thuyết Bùi Thị Xuân. Về chuyện này, chúng ta cũng sẽ nói đến, nhưng ở phần tiếp sau!).
Trong truyện thơ “Cân quắc anh hùng truyện” kể về cuộc đời của Bùi Thị Xuân thì thuở nhỏ, Xuân từng được học võ của Đô thống Ngô Mãnh, một vị tướng giỏi dưới trướng của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Vì bị quyền thần Trương Thúc Loan ganh ghét, bày mưu hãm hại nên Ngô tướng quân đã cùng người cháu là Ngô Văn Sở bỏ trốn. Nghe đồn Bùi Công, cha của Bùi Thị Xuân, là một phú hào mến mộ anh tài nên hai người giả dạng hành khất tìm đến xin tá túc. Sự hào hiệp cưu mang của Bùi Công đã làm cho Ngô Mãnh cảm phục, chờ dịp báo ơn. Một lần, gia đình Ngô Mãnh bị cướp đến quấy nhiễu, ông cháu Ngô tướng quân đã ra tay cứu giúp. Lúc này, biết không giấu được tung tích trước Bùi Công nữa, hai ông cháu Ngô tướng quân đành nói thật và xin lên đường để tránh liên lụy cho gia đình. Bùi Công là người trọng nghĩa, giữ lại, không cho đi. Từ đó, Ngô tướng quân tận tâm chỉ dạy võ nghệ cho Bùi Thị Xuân. Ngô sư phụ dạy Xuân được ba năm thì từ giã cõi đời.
Lúc bấy giờ, ba anh em nhà Tây Sơn đã chiêu binh trên vùng Tây Sơn Thượng. Nguyễn Nhạc nghe tiếng cha con họ Bùi nên phái Trần Quang Diệu xuôi về Xuân Hòa để kết giao tình hữu hảo. Trên đường về xuôi, tráng sĩ họ Trần đã gặp hổ và được nữ kiệt họ Bùi ra tay tận tình phụ trợ, từ đó mà nên duyên kỳ ngộ để họ nên vợ nên chồng.
Trong một lần lên núi, Bùi Thị Xuân chợt nghe những tiếng rống vang vọng có phần thảm thiết, mặt đất như rung chuyển, gió nổi ào ào. Bà lại gần thì thấy ở dưới một khe núi có con voi trắng đang bị một con trăn khổng lồ quấn chặt. Động lòng trắc ẩn, bà múa thương xông vào đâm chết con trăn. Voi trắng vùng ra được, thoát chết, mắt ứa lệ, phủ phục dưới chân bà dập đầu tỏ vẻ cảm tạ người đã cứu mạng, sau đó đứng dậy ngước mặt lên rống liên hồi. Từ trong rừng già xuất hiện một bầy voi rầm rập đến bên con voi trắng nọ. Thì ra nữ kiệt họ Bùi đã cứu được một con voi chúa. Con voi trắng dẫn cả đàn voi rừng theo về nhà Bùi Thị Xuân, từ đó được nuôi dưỡng, huấn luyện thuần thục. Khi đến tựu nghĩa dưới cờ khởi nghĩa Tây Sơn, Bùi Thị Xuân mang theo cả đàn voi chiến và được giữ trọng trách là người chỉ huy đội tượng binh. Tượng binh là một lực lượng rất đáng gờm của phong trào Tây Sơn. Voi được sử dụng vừa như phương tiện vận tải chở vũ khí, khí tài, pháo, đạn, vừa như lực lượng tăng - thiết giáp ngày nay, trên lưng voi có thể đặt pháo dã chiến, vừa hành tiến vừa bắn và đối đầu hiệu quả với kỵ binh đối phương. Đội tượng binh của Quang Trung có lúc lên đến 500 thớt voi, đã bao phen làm bạt vía kinh hồn quân Nguyễn, quân Trịnh và nhất là quân Mãn Thanh. Tên tuổi đô đốc Bùi Thị Xuân đã gắn liền với những chiến công của đội tượng binh này. Trong dân gian xưa nay có lưu truyền một bài thơ ru nói về Bà Triệu rất hay. Nếu đem nó gán cho bà Bùi thì cũng chẳng sai tí nào:
“Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng”
Truyền thuyết chẳng qua là sự lặp lại hình ảnh của thời xưa cũ trong thời đại mới. Nhưng ở đây, sự lặp lại đến kỳ diệu!
Cuối năm 1809, Cảnh Thịnh thu thập lực lượng còn lại được 3,5 vạn, trong đó có 5000 quân của Bùi Thị Xuân, đánh bật quân Nguyễn Ánh lùi về Đồng Hới, nhưng đại quân Ánh ra tiếp ứng kịp. Cảnh Thịnh liệu thế địch không nổi, liền bỏ chạy ra Thăng Long lập thế phòng thủ. Còn Thiếu phó Trần Quang Diệu và Đô đốc Bùi Thị Xuân cùng con cái đều bị bắt.
Đã từng nghe danh tiếng của vị nữ tướng, Nguyễn Ánh truyền dẫn đến để xem mặt. Ánh vênh váo nói:
- Ngươi đã từng thờ Nguyễn Huệ và cũng từng nghe oai danh ta. Nguyễn Huệ từng sát hại cả dòng họ ta. May mắn cho ta, khi ấy mới 15 tuổi, nhờ trời phù hộ mà Nguyễn Huệ không giết nổi. Từ cô quân chống lại đại địch, ta đã dựng lại cơ đồ, giữ yên xã tắc, qui giang sơn về một mối, giữ ngôi chúa tổ. Vậy giữa ta và Nguyễn Huệ, ai hơn ai kém?
Nữ tướng đáp ngay:
- Nói về nhân cách thì tiên đế ta là bậc anh hùng, còn ngươi là kẻ tiểu nhân, ngoài mặt thì hung bạo mà trong lòng thì nhút nhát, thích mưu mẹo mà không quyết đoán, làm việc lớn thì chỉ lo đến bản thân, thấy lợi nhỏ thì quên mình mà không nghĩ đến ích nước. Nói về tài ba thì tiên đế ta bách chiến bách thắng, từ hai tay trắng dựng nên cơ đồ, đánh Nguyễn diệt Trịnh, chỉ một trận nước đổ non nghiêng mà Xiêm tan, chỉ một trận trời long đất lở mà Thanh nát, đến nỗi đám giặc thoát chết, về đến nước rồi mà còn hồn xiêu vách lạc. Còn ngươi bị tiên đế ta đuổi đánh, phải luồn lách trốn chui trốn nhủi như lũ chuột ngày, phải cầu lụy hết Xiêm đến Pháp. Chỗ hơn kém rõ ràng như ao trời nước vũng! Còn nói về đức độ thì tiên đế ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với kẻ trung thần thất thế như đã đối xử với Nguyễn Huỳnh Đức là tôi nhà ngươi. Còn ngươi lại dùng tâm địa của kẻ tiểu nhân mà đối xử với trung thần nghĩa liệt hết lòng vì chúa, chẳng nghĩ được rằng ai có chúa nấy, ái tích kẻ tôi trung của người tức là khuyến khích tôi mình trung với mình vậy. Chỗ hơn kém đã rõ ràng như ban ngày và đêm tối. Nếu tiên đế ta không thừa long sớm thì ngươi dễ gì mà trở lại nước này, nói gì đến việc nhà ngươi đắc chí hôm nay.
Ánh giận tím ruột, cười gằn:
- Ta có thể trong giây lát bóp chết nhà ngươi, kéo lưỡi ngươi ra khỏi mồm vì cái tội xúc phạm đến đấng thiên tử. Hãy đợi đấy! Thật tiếc cho ngươi đã uổng công vào sinh ra tử bao năm mà đi thờ Nguyễn Huệ. Cũng được gọi là kẻ có tài cầm quân, nhà ngươi sao không giữ ngai vàng cho Cảnh Thịnh?
Bùi Thị Xuân nhếch cười:
- Người xưa nói chịu nghe thì sáng, cậy một mình thì tối. Ta tiếc rằng hoàng đế Cảnh Thịnh không biết nghe lời khuyên của đấng trung thần, thì thế khác nào cầu người hiền mà không biết đạo, muốn người ta vào nhà mình mà đi đóng cửa lại. Ta nói vua ta nối ngôi cha mà không nối được chí cha là thế. Vì chỗ yếu đó của vua ta nên nhà ngươi mới còn sống được đến hôm nay. Chứng cớ là ở trận Trấn Ninh, nếu vua ta nghe lời ta đánh dấn, ta đã bắt được ngươi bỏ rọ đem về rồi. Đó là nói về thế cuộc. Còn giữa ta và ngươi, chẳng phải chỉ chạm trán trận Trấn Ninh ấy. Ở Quảng Nam, chắc ngươi còn nhớ, nếu ngươi không hèn nhát đi đoạn hậu, mạng ngươi đã chẳng còn. Chỗ hơn kém giữa ta và ngươi đã rõ. Nếu triều đình Cảnh Thịnh có một nữ nhi như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh, nhà ngươi không thể đặt chân được lên đất Bắc Hà…
Ý đồ lăng nhục vị nữ tướng không thành mà còn bị bẽ bàng, Ánh giở trò hành hạ người phụ nữ Bùi Thị Xuân một cách độc ác, đê hèn và man rợ nhất. Trước khi giết Xuân, Ánh đã cho dẫn bà đến gần, ép bà phải tận mắt chứng kiến cảnh chồng, con bị hành hình.
Đầu tiên là quan thiếu phó Trần Quang Diệu bị dẫn ra. Dù có bị tiều tụy do giam cầm đày đọa nhưng ông vẫn bước đi hiên ngang đến cây cột chôn sẵn. Đao phủ định trói ông, nhưng ông tỏ ý không cần và vươn cổ ra chờ chém. Đầu Trần Quang Diệu rơi xuống thì cũng là lúc chí khí của người tôi trung vút lên đến trời xanh. Tiếp đến, bọn đao phủ lôi cô con gái nhỏ của Bùi Thị Xuân ra, buộc treo lơ lửng vào sợi dây thòng xuống từ đỉnh cao cây cột trồng cạnh một bức tường đá hộc. Hiệu lệnh vang lên, một tên đao phủ cầm sợi dây buộc ngang người bé gái kéo ra xa rồi lẳng mạnh vào bức tường đá hộc. Hành động đó được lặp đi lặp lại. Trước mắt Bùi Thị Xuân là đứa con đã xương tan thịt nát, đẫm máu đỏ lòm. Đến lượt người con gái thứ hai của bà bị dẫn ra cho voi giày chết. Cô bé thấy mẹ, hét lên: “Mẹ ơi, cứu con với!”. Lúc này, chắc rằng sự đau đớn trong lòng người phụ nữ Bùi Thị Xuân đã đến mức tột cùng, nhưng Bùi Thị Xuân còn là một vị tướng, một Đô đốc, bà quát lớn: “Con nhà tướng không được khiếp nhược!”. Và người con gái đáng thương đó đã vâng lời bà, im lặng chịu đựng đến chết. Cuối cùng, đến lượt Bùi Thị Xuân bị lôi ra cho voi giày. Đó là con voi cực lớn và có vẻ hung hãn. Nó chạy xồng xộc đến, tung vòi lên. Nhưng thật lạ lùng, con voi chạy đến trước Bùi Thị Xuân thì đột nhiên chững lại, ngẩng lên rống một tiếng dài vang động cả pháp trường, rồi quì xuống phủ phục trước vị nữ tướng. Viên quản tượng thúc mấy con voi vẫn không nhúc nhích, đâm hoảng, bỏ chạy. Con voi to lớn và độc ngà đã nhận ra chủ cũ! Thấy không thể dùng voi giày được, Ánh đã phải lệnh dùng kiểu hành hình “Điểm thiên đăng”, lấy vải nhúng sáp nóng quấn quanh người Bùi Thị Xuân rồi châm lửa đốt. Từ ngọn đuốc sống cháy dữ dội đó, linh hồn người nữ liệt đã thanh thản bay lên, đoàn tụ với chồng con và trở thành bất tử trong sử xanh non sông nước Việt.
Hàng năm, cứ đến ngày 6-11, họ Bùi ở khối Phú Xuân, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn (trước là xã Tây Xuân) lại tổ chức ngày kị cho bà. Hiện nay, Bùi Thị Xuân được thờ tại từ đường chính phái họ Bùi ở xóm Bắc, thôn Phú Xuân.
Nói riêng, tổ quán của chúng ta ở huyện An Nhơn (Bình Định). Ông cố nội chúng ta tên là Nguyễn Văn Vinh, bà cố nội tên là Bùi Thị Định, từng cư ngụ tại xóm Bàu Đá, xã Nhơn Lộc cách quê Nguyễn Huệ không xa, hiện mồ mả vẫn còn ở đó. Bà cố nội của chúng ta là cháu ruột, gọi bà Bùi Thị Xuân bằng cô.
Câu chuyện về nữ kiệt Bùi Thị Xuân đồng thời đã phô bày một Nguyễn Ánh vô sỉ như thế đấy! Sau này khi đã lên ngôi, Ánh còn tái diễn câu chuyện Việt Vương - Phạm Lãi: sát hại hàng loạt tướng lĩnh đã theo mình từ thời trứng nước, có công lao to lớn trong việc dựng nên cơ nghiệp cho mình, trong đó có Trần Văn Thành, Đặng Trần Thường… Cuộc đời Ánh cũng trở nên bất tử! Vâng, con cháu đời sau, khi học bài lịch sử nước Việt sẽ thấy một Nguyễn Ánh thấp hèn và tội ác, là tựu trung của tất cả những gì dơ dáy nhất, xấu xa nhất, bội bạc nhất, tàn bạo nhất mà mặt trái chế độ quân chủ chuyên chế, mặt trái của Đức Huyền Diệu có thể nhào nặn ra được…

Mời xem:

LỜI PHÂN TRẦN

PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

PHẦN II: NỀN TẢNG

PHẦN III: NGUỒN CỘI