THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 26/a




PHẦN III:     Nguồn cội

“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
.


CHƯƠNG IV: ĐỊA LINH NHÂN KIỆT

“Thủ đô là cái đại tập thành của cả đất nước từ khí non sông tụ lại. Không bàn tán về những thành phố khác, mà nói về Hà Nội thì không ai không nhớ đến bài ca chính khí của nó…
Hà Nội không phải là một đất thánh, theo cái nghĩa tín đồ hành hương, nhưng Hà Nội là một đất thiêng, kẻ ngoài nào mà xúc phạm vào nó là phải đền tội”
(Nguyễn Tuân)
“Khi một giống nòi bị dồn đến chỗ chỉ có thể lựa chọn cái chết và nô lệ thì xông vào cái chết là dũng cảm hơn. Nơi nào mà nó không phải là thiết yếu thì bạo lực mới bị lên án. Có những trường hợp phải công nhận bạo lực bởi vì không còn cách nào khác”
(Nguyễn An Ninh)

Trong thời đại triều Lý, ở thế kỷ XI, quân dân Đại Việt lại một lần nữa đánh bại quân xâm lược nhà Tống.
Sau thất bại thảm hại lần xâm lược trước (thời Lê Hoàn), triều đình nhà Tống vẫn chưa từ bỏ âm mưu đánh chiếm nước ta, nhưng vì nội tình Trung Hoa chưa dứt rối ren nên ý đồ đó chưa thực hiện được. Do phải đối phó với các cuộc khởi nghĩa nông dân lớn (như khởi nghĩa Vương Tắc năm 1047) cũng như phải đối phó với sự quấy nhiễu của các nước Liêu, Hạ ở phía Bắc và Tây Bắc, nhà Tống buộc phải tạm thời dùng sách lược hòa hoãn với Đại Việt, nhưng tham vọng vẫn rất lớn.

Tống Thần Tông lên cầm quyền vào lúc nhà Tống đang lâm vào những khó khăn lớn về kinh tế - chính trị: ngân khố trống rỗng, mâu thuẫn xã hội căng thẳng… Được vua Tống chấp thuận, tể tướng Vương An Thạch đã đề ra một chính sách cải cách gọi là “Tân pháp” và tiến hành thực hiện mong giải quyết tình thế. “Tân pháp” có cái hay nhưng cũng có cái dở, mà dở nhất là bị sự phản đối kịch liệt của quan lại trong triều vì động chạm trực tiếp đến quyền lợi cố hữu của họ. Việc thực hiện cải cách theo “Tân pháp” do đó không mấy hiệu quả và coi như thất bại (bãi bỏ vào năm 1085). Khó khăn càng thêm chồng chất và nhà Tống đã quyết định mở lối thoát bằng cách xâm lược nước ta, nơi đang thịnh vượng và giàu có của cải.
Trước hết, nhà Tống cố tình lôi kéo Chiêm Thành gây chiến ở phía Nam để phân tán, làm yếu lực lượng quân sự Đại Việt, sau đó là mua chuộc các tù trưởng thiểu số ở biên giới phía Bắc, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc quân Tống tiến công từ phía Bắc xuống. Xuất phát từ ý đồ đó, vua Tống khẩn trương xây dựng hàng loạt căn cứ bàn đạp sát biên giới nước ta và tập trung lực lượng ở những căn cứ đó.
Cuộc bình Chiêm phá Tống lần này nổi lên hai nhân vật kiệt xuất là Lý Thường Kiệt và Ỷ Lan.
Nói đến triều Lý không thể không nói về Ỷ Lan. Tên thật của Ỷ Lan là Lê Thị Yến, quê ở làng Thổ Lỗi sau đổi thành Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh), nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội. Vì mẹ mất từ lúc 12 tuổi, cha lấy vợ kế, nên thân phận Ỷ Lan khổ như cô Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” (đền thờ Ỷ Lan ở Dương Xá (Gia Lâm, Hà Nội) còn được gọi là đền thờ Bà Tấm là vì thế).
Năm ấy, vua Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai nối dõi nên về chùa Dâu cầu tự. Chợt thấy trong ngày hội vui mà trên nương vẫn có một cô gái hái dâu, vua cho vời xuống hỏi sự tình. Thấy Lê Thị Yến bội phần xinh đẹp, lại đối đáp lưu loát, vua cảm mến đưa về triều, rồi phong làm Nguyên phi, cho xây một cung riêng, đặt tên là cung Ỷ Lan để nhớ lại kỷ niệm cô gái tựa gốc cây lan ở buổi đầu gặp gỡ.
Khác với các hậu phi, Ỷ Lan không lấy việc trau chuốt nhan sắc để được lòng vua mà lại quan tâm đến hết thảy công việc triều chính, khổ công học hỏi, miệt mài đọc sách, nghiền ngẫm ngữ nghĩa nên chỉ trong một thời gian ngắn mọi người đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết sâu sắc về nhiều mặt của Ỷ Lan. Triều thần đều khâm phục Ỷ Lan là người phụ nữ có tài. Một lần, vua Lý Thánh Tông hỏi Ỷ Lan về kế trị nước, Ỷ Lan tâu:
- Muốn dân giàu nước mạnh, điều hệ trọng là biết nghe lời can gián của đấng trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm. Thuốc đắng uống khó chịu nhưng chữa được bệnh. Điều hệ trọng thứ hai là phải xem quyền hành là một thứ đáng sợ. Quyền lợi và danh vọng thường làm thay đổi con người. Tự mình tu đức để giáo hóa dân thì sâu hơn mệnh lệnh, dân bắt chước người trên thì nhanh hơn pháp luật. Nước muốn mạnh, Hoàng Đế còn phải nhân từ với muôn dân. Phàm xoay cái thế thiên hạ ở nhân chứ không phải ở bạo. Hội đủ những điều ấy, nước Đại Việt sẽ vô địch.
Nghe Ỷ Lan tâu, vua phục lắm. Bởi thế, năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân cầm quân đi đánh giặc, đã giao quyền nhiếp chính cho Ỷ Lan. Cũng ngay năm ấy, nước Đại Việt không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi sinh loạn. Nhưng nhờ có kế sách trị nước đúng đắn, quyết đoán, táo bạo của Ỷ Lan, loạn lạc được dẹp yên, dân đói được cứu sống. Cảm cái ơn ấy, cũng là cách suy tôn một tài năng, nhân dân đã tôn gọi Ỷ Lan là Quan Âm Nữ, lập bàn thờ Ỷ Lan. Vua đánh giặc lâu không thắng, trao quyền bính cho Lý Thường Kiệt, đem một cánh quân nhỏ trở về. Đến chân Cư Liên (Tiên Lữ, Hải Dương) hay tin Ỷ Lan đã vững vàng đưa đất nước vượt qua khó khăn khốn đốn, giữ yên thái bình, vua bèn quay ra trận, quyết đánh cho kỳ thắng mới thôi.
Năm Nhâm Tý (1072), Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, triều Lý không tránh khỏi rối ren. Nhưng khi Ỷ Lan trở thành Hoàng Thái Hậu nhiếp chính và Lý Thường Kiệt nắm quyền Tể Tướng thì nước Đại Việt lại yên bề thịnh trị. Ỷ Lan còn thi hành những biện pháp làm cho sức dân thế nước đều mạnh lên.
Trong cuộc chiến tranh chống Tống, để Lý Thường Kiệt tập trung lo việc trận mạc, Thái Hậu Ỷ Lan đã chủ động bỏ qua hiềm khích cũ, điều Lý Đạo Thành từ Nghệ An về, trao lại chức Thái sư để cùng mình điều khiển triều đình, huy động sức người sức của vào trận.
Làm nên chiến thắng chống xâm lược của nhà Tống, công của Thái hậu Ỷ Lan không phải nhỏ.
Ấy vậy mà sử sách phong kiến đã xóa sạch công lao với dân với nước của Ỷ Lan, chỉ vì cái nguyên do thế này: khi vua Lê Thánh Tông vừa qua đời, Hoàng hậu Thượng Dương dựa vào thế lực của Thái sư Lý Đạo Thành, đã gạt Ỷ Lan ra khỏi triều đình. Đến mãi 4 tháng sau, nhờ có Lý Thường Kiệt giúp sức, Ỷ Lan mới trở lại nắm tiếp quyền nhiếp chính và vì tức giận, bà đã bắt giam Hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ vào lãnh cung, bỏ đói đến chết. Phải cho rằng đó là một hành động sai lầm quá đáng của Ỷ Lan. Có thể trị tội, thậm chí là cần phải xử tử, nhưng trị tội kiểu như thế thì rõ ràng là quá tàn độc, quá nhẫn tâm và khó tha thứ (cô Tấm trong chuyện “Tấm Cám” cũng hành xử tàn khốc để thỏa hận thù kiểu như thế. Về mặt tâm linh, có thể hỏi rằng Tấm đã vận vao Ỷ Lan hay Ỷ Lan đã vận vào Tấm, và sao Tấm vẫn được dân gian yêu mến?).
Dù sao đi nữa, cái lỗi lầm ấy của Ỷ Lan là thường thấy trong các triều đình phong kiến ngày xưa, ở ngay cả những nhân vật khai quốc công thần, nổi tiếng về tài năng đức độ chứ riêng gì… Và nó không thể che lấp được công lao to lớn của Ỷ Lan đối với triều Lý nói riêng và đất nước Đại Việt nói chung. Vì thế mà dân gian vẫn tôn vinh Ỷ Lan như đã từng tôn vinh Dương Vân Nga. Đại Chúng bao giờ cũng sáng suốt!
Lý Thưởng Kiệt (1019 - 1105) vốn tên là Ngô Tuấn, người làng Thái Hà huyện Thọ Xương (thuộc Hà Nội ngày nay, gần Bách Thảo). Thuở nhỏ, Ngô Tuấn theo học thầy Lý Công Uẩn ở Bái Ân, rất chăm chỉ. Lớn lên, là người gồm cả tài văn lẫn võ. Khởi thân làm thái giám. Từ một chức quan thị vệ theo hầu Lý Thái Tông (1028 - 1054), ông trở thành một võ tướng, giữ chức Thái Bảo rồi thăng Thái Phó dưới triều Lý Thánh Tông (1054 - 1072). Ông được vua yêu, nhận làm con nuôi (thiên tử nghĩa nam), được ban họ vua nên từ đó mang tên Lý Thường Kiệt. Trong cuộc bình Chiêm, Lý Thường Kiệt đã lập công lớn trong việc đánh đuổi quân xâm lấn quấy nhiễu xứ Nghệ An, lấy luôn ba châu: chiêu mộ dân nghèo đến đó khai khẩn. Năm 1069, vua phong cho ông chức Nguyên soái, lĩnh ấn tiên phong đánh phá Chiêm Thành. Năm 1072, Lý Nhân Tông lên nối ngôi lúc mới 7 tuổi. Với cương vị Phụ Quốc Thái Úy, Lý Thường Kiệt là người nắm trọn binh quyền và là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Tống (1075 - 1077)
Sau khi đã thực hiện được bước đầu của chiến lược “Trước Nam sau Bắc”” là bình Chiêm, nhà Lý tích cực chuyển sang thực hiện bước thứ hai. Sang năm 1075, việc chuẩn bị cho cuộc chiến tranh tự vệ đã xong, dân tộc đã ở tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Trước sự chuẩn bị, ráo riết tập trung binh lực, lương thảo, khí tài của nhà Tống tại các cơ sở bàn đạp dọc ven biên giới nước ta, cuộc xâm lăng không thể tránh khỏi của giặc ngày càng rõ rệt và nghiêm trọng. Nhận thấy cơ hội có thể đánh tiêu diệt một bộ phận địch, ngay từ trong trứng nước, nhằm tiêu hao, làm yếu sức mạnh ban đầu của chúng, với tư tưởng chủ động, sáng tạo, Lý Thường Kiệt chủ trương: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước chặn thế mạnh của giặc”. Đó cũng là tư tưởng chớp thời cơ, bất ngờ ra đòn phủ đầu của võ công: “Tiên hạ thủ vi cường”. Được triều đình tán thành, Lý Thường Kiệt huy động một lực lượng khoảng 10 vạn người vượt qua biên giới.
Ngày 26-10-1075, 4 vạn quân ta (gồm phần lớn là thổ binh) bất ngờ tấn công các căn cứ, đồn trại dọc biên giới từ Quảng Uyên (Cao Bằng) tới Vĩnh An (Móng Cái), tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Cánh quân này còn có tác dụng thu hút lực lượng quân Tống. Ngày 30-12-1075, đại quân ta gồm 6 vạn người, do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, di chuyển dọc theo bờ biển đánh vào Khâm Châu. Địch hoàn toàn bất ngờ nên bị tiêu diệt toàn bộ. Bốn ngày sau, ta đánh vào Liêm Châu, hạ luôn thành này. Đến đây, 10 vạn quân Đại Việt tiến sâu vào đất Tống, nhằm hướng thành Ung Châu. Ngày 18-1-1076, quân ta vây chặt thành Ung Châu.
Lúc đầu, trước sự tấn công mạnh mẽ và bất ngờ của quân ta, nhà Tống rất bị động và lúng túng chống đỡ, nhưng sau đó, với nhận định cho rằng đại quân ta đang bị giam chân ở nơi xa xôi, trong nước tất trống rỗng, nhân cơ hội đó có thể đánh úp, rồi sau sẽ tập trung lực lượng tiêu diệt đại quân Lý Thường Kiệt, nên nhà Tống đã ráo riết lên kế hoạch: một mặt lo đối phó với quân ta ở trước mặt (di chuyển kho tàng, cố thủ các thành quan trọng, tăng viện ứng cứu…), một mặt tập hợp đại binh, chọn tướng lĩnh tiến thẳng sang nước ta. Việc giữ được thành Ung Châu là điểm then chốt của kế hoạch trên.
Nắm bắt được âm mưu của giặc, nhận thức được tầm quan trọng của thành Ung Châu, Lý Thường Kiệt hạ quyết tâm đánh chiếm bằng được trong thời hạn sớm nhất. Với quyết tâm của cả hai bên, trận chiến ở đó xảy ra hết sức ác liệt. Vừa tích cực vây chặt và công thành vừa chủ động chặn đánh tiêu diệt có hiệu quả các đội quân tiếp viện ứng cứu của giặc, sau 42 ngày, quân ta hạ được thành Ung Châu, diệt và bắt sống nhiều địch, tướng giữ thành Tô Giám tự tử (1-3-1076). Tiếp đó, đốt phá các kho lương thực của giặc ở cả vùng Tả Giang.
Nhận thấy mục tiêu chiến lược của cuộc tiến công tự vệ đã đạt được, Lý Thường Kiệt khẩn trương cho toàn quân rút ngay về nước, chuẩn bị cho cuộc đọ sức một mất một còn với quân xâm lược nhà Tống. Cuộc rút lui kịp thời của đại quân Lý Thường Kiệt đã làm tiêu tan luôn âm mưu thâm hiểm của nhà Tống. Sau này, Vương Anh Thạch (đã từ chức Tể tướng nhà Tống vào tháng 10 năm 1076) còn có vẻ tiếc nuối: “Tôi khi trước thấy Giao Chỉ đánh Ung Châu chưa hạ được, trong nước chúng bỏ không, nên tính có thể hành động chóng mà đánh úp hậu phương của nó. Làm như thế thì ta không cần đánh quân nó đang cướp nước ta mà chúng cũng bị tan. Sau khi Ung Châu mất, việc đánh úp chúng không thể bàn đến nữa”.
Lực lượng xâm lược của nhà Tống lần này gồm 10 vạn quân chiến đấu, 20 vạn quân tải lương, Quách Quỳ làm thống soái. Kế hoạch của chúng là: đại quân sẽ tiến theo hướng Lạng Sơn - Thăng Long; thủy quân sẽ dọc theo ven biển vào sông Bạch Đằng; sau khi đánh tan các đạo quân thủy bộ của ta, sẽ hội quân, dùng thuyền vượt sông, đánh chiếm Thăng Long.
Kế hoạch của ta là: chủ yếu sử dụng các lực lượng thổ binh, lương binh, bố trí một số nơi ở khu vực biên giới như Quảng Uyên (Cao Bằng), Hạ Liêu và Cổ Lộng (vùng tiếp giáp giữa Bắc Cạn và Thái Nguyên), tăng cường một bộ phận quân triều đình tại các vị trí quan trọng là Quyết Lý, Giáp Khẩu (tức Châu Ôn và Chi Lăng). Mục đích của việc này là ngăn chặn tạm thời, tiêu hao, sau đó là quấy rối, đánh úp các toán quân nhỏ làm phân tán lực lượng địch. Tại khu vực ven biển có thủy quân đóng căn cứ tại Vân Đồng (thuộc Quảng Yên) phối hợp với quân bộ đóng ở Ngọc Sơn (thuộc Móng Cái), thực hiện nhiệm vụ đánh chặn địch trên vùng biển Đông Kính (ven biển Quảng Ninh ngày nay), không cho chúng tiến vào sâu trong nội địa. Xác định mặt trận chính sẽ là vùng trung du, Lý Thường Kiệt cho lập phòng tuyến ở bờ nam sông Như Nguyệt (sông Cầu), lấy đó làm nơi quyết chiến chiến lược. Phòng tuyến được đắp cao, có rào dậu chắc chắn, chạy dài từ sườn đông bắc dãy Tam Đảo đến sườn tây nam dãy Nham Điển (Yên Dũng, Hà Bắc) khoảng trên 200 dặm (chừng 100 km), dưới sông có thủy quân, trên thành có quân đóng và tuần tiễu. Đại quân gồm 2 bộ phận: quân bộ đóng ở vùng Thiên Đức (giữa Bắc Ninh và Thăng Long), quân thủy với trên 400 chiến thuyền đóng ở Vạn Xuân (Phả Lai ngày nay)
Từ tháng 7 năm 1076, vài cánh quân nhỏ của giặc đã xâm nhập vào nước ta, chiếm trại Ngọc Sơn, tháng 10 đánh vào châu Quảng Uyên (Cao Bằng). Ngày 8-1-1077, Quách Quỳ kéo đại quân qua cửa ải nam Quan đánh vào Quyết Lý, chiếm Quang Lang, Tô Mậu (thuộc Lạng Sơn)… rồi vòng sang phía tây, theo đường tắt vượt qua dãy Bắc Sơn, tiến đến sông Phú Lương (đoạn sông Cầu thuộc phần đất Thái Nguyên ngày nay). Đồng thời cho một bộ phận hành quân đánh vào sau lưng đội quân Thân Cảnh Phúc. Thân Cảnh Phúc phân tán lực lượng để bảo toàn cho bộ phận chủ yếu về hướng Vạn Xuân, giữ liên hệ với thủy quân, bộ phận còn lại tản vào rừng núi hiểm trở đánh du kích, chủ yếu nhằm vào các đoàn cải lương của địch.
Sau thời gian ngắn tác chiến trên khu vực biên giới, ngày 18-1-1077, đại quân Tống đã tập kết được đến bờ bắc sông Cầu, cánh phải do Miêu Lý chỉ huy tập trung trên đoạn bến Như Nguyệt, cánh trái do Quách Quỳ chỉ huy đóng ở Thị Cầu.
Trên biển, thủy quân địch đã bị quân ta, do tướng Lý Kế Nguyên chỉ huy đánh thua liểng xiểng, phải rút về cố thủ ở Đông Kinh (có thể là Tiên Yên ngày nay) cho tới hết chiến tranh.
Chờ mãi không thấy thủy quân tới, Miêu Lý cho bắc cầu nổi, vượt sông đoạn bến Như Nguyệt. Quân ta đánh chặn quyết liệt. Nhưng có bộ phận địch cũng đã chọc thủng phòng tuyến, ồ ạt tiến sâu. Kỵ binh đi trước của chúng có lúc đã đến cách thành Thăng Long khoảng 15 dặm. Tuy nhiên đã bị quân ta từ phía Thiên Đức cơ động tới bao vây tiêu diệt. Quách Quỳ cũng đóng bè chở quân đánh sang. Cuộc tiến công lớn này bị thất bại hết sức ê chề, đến nỗi Quách Quỳ phải quay về cố thủ bờ bắc và lệnh: “Ai bàn đánh sẽ bị chém”.
Chính trong khoảng thời gian này, trên chiến tuyến sông Như Nguyệt, từ bờ nam, vang lên bài thơ hào hùng, đi vào bất tử của Lý Thường Kiệt:
                              “Nam quốc sơn hà Nam đế cư
                              Tuyệt nhiên định phận tại Thiên thư
                              Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
                              Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
                              (Sông núi nước Nam vua Nam ở
                              Rành rành định phận ở sách trời
                              Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
                              Chúng bay sẽ chuốc lấy bại vong)
Đại quân Quách Quỳ từ đó ngày càng lún sâu vào thế bị động phòng ngự. Bị quân ta tăng cường đánh phá tiêu hao cả phía trước lẫn phía sau, uy hiếp phục kích quân lương, tình trạng giặc càng thêm khốn đốn, thiếu thốn lương thực càng trầm trọng, tinh thần chiến đấu của binh lính ngày một giảm sút.
Chớp thời cơ đó, dù lực lượng địch còn đông (8 vạn) nhưng ý chí tiến công không còn, Lý Thường Kiệt đã tổ chức những đòn phản công lớn. Cuối xuân năm 1077, hai hoàng tử Hoàng Chân, Chiêu Văn được lệnh, chỉ huy 2 vạn quân cùng 400 chiến thuyền từ Phả Lại, ngược sông Như Nguyệt, đổ bộ lên bờ bắc đánh thẳng vào trận địa địch, gây cho chúng nhiều tổn thất, đặc biệt là đội kỵ binh cơ động Quách Quỳ. Quân Tống cố sức chống đỡ, tung kỵ binh ra phản kích đẩy quân ta lùi về phía bờ nam. Hai hoàng tử Hoàng Chân và Châu Văn hy sinh. Trong khi địch đang tập trung đối phó ở phía cánh phải, Lý Thường Kiệt, nhân ban đêm, chỉ huy đại quân vượt sông Phú Lương, tiến công giặc ở cánh trái “đại phá quân Tống, mười phần chết đến năm sáu” (Việt sử lược).
Những thắng lợi to lớn của quân ta đã đẩy địch vào tình trạng khốn quẫn hơn bao giờ hết: binh lực thiệt hại nặng, lương thảo gần cạn, sức cùng chí nản. Vua quan nhà Tống hoang mang, mâu thuẫn giữa phe chủ chiến và phe chủ hòa ngày càng gay gắt.
Nắm được tình thế bế tắc, cùng quẫn của địch và dựa trên sức mạnh, thanh thế đang lên của quân dân ta, Lý Thường Kiệt lại một lần nữa tỏ rõ cái văn võ gồm tài của mình, đã chớp thời cơ, chủ động kết thúc sớm chiến tranh bằng một đòn đánh ngoại giao: bàn hòa với Quách Quỳ. Theo ông: “Dùng biện sĩ để bàn hòa, không nhọc tướng tá, khỏi tốn máu xương mà bảo an được tôn miếu”. Thật là một vị tướng kiệt xuất đã gồm đủ chữ “nhân”!
Để tránh bị tiêu diệt, không còn con đường nào khác, Quách Quỳ chấp nhận hòa ước, và không chờ lệnh triều đình, lập tức rút quân. Tháng 2 - 1077, 23400 quân chiến đấu và 3174 ngựa chiến của Quách Quỳ đã về đến đất Tống. Tính ra, trong hơn 3 tháng chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt trên 19 vạn quân chiến đấu và tải lương. Nếu tính cả chiến dịch hồi đầu đánh sang đất Tống, thì gần 30 vạn quân địch đã bị tiêu diệt. Ta thu hồi toàn bộ đất đai, trừ Quảng Uyên (nhưng về sau bằng con đường đấu tranh ngoại giao, ta cũng thu hồi nốt)…
Lý Thường Kiệt là một đại anh hùng của dân tộc Việt, đồng thời là người con ưu tú của Thăng Long. Công lao và sự nghiệp của ông đã làm rạng rỡ đất “ngàn năm văn vật” và mãi mãi tỏa sáng trong lịch sử Việt Nam.
***

Trong hơn 2 thế kỷ dưới triều Lý, giặc ngoại xâm không xâm phạm được đến Thăng Long, nhưng đất kinh kỳ cũng phải chịu đựng những cơn binh lửa của xung đột triều đình và chiến tranh phe phái. Đó là “Loạn ba vương” năm 1028 khi Lý Thái Tổ vừa từ trần và nhất là cuộc tranh chấp cuối đời Lý, mở đầu là “Loạn Quách Bốc” năm 1209. Kinh thành trở thành bãi chiến trường, cung thất và phố phường nhiều chỗ bị tàn phá. Từ năm 1216 đến 1220, trong vòng 4 năm, vua Lý Huệ Tông phải rời kinh thành về điện tranh dựng tạm tại Tây Phù Liệt (Thanh Trì) và thành Thăng Long bị gọi là Kinh Cũ (Cựu Kinh).
Lý Huệ Tông là ông vua bạc nhược, bỏ bê triều chính và vô trách nhiệm. Tháng 10 năm Giáp Thân (1224), Lý Huệ Tông truyền ngôi cho Chiêu Thánh công chúa mới 8 tuổi, rồi bỏ vào chùa Chân Giáo đi tu. Chiêu Thánh công chúa lên ngôi, gọi là Lý Chiêu Hoàng, vì còn nhỏ nên quyền bính ở cả Trần Thủ Độ, lúc đó là Điện tiền chỉ huy sứ.
Triều Lý đời Huệ Tông đã suy yếu cực độ, sang đời Chiêu Hoàng chỉ còn là danh nghĩa, mọi công việc triều chính thực chất là do họ Trần điều hành. Cuối triều Lý, vua quan ăn chơi sa đọa, kinh tế đất nước suy thoái, mất mùa đói kém liên miên, các thế lực quý tộc phong kiến đánh giết lẫn nhau, cướp bóc bừa bãi. Trong khi đó, tai họa xâm lược đã lồ lộ ngoài biên thùy: đế quốc Nguyên Mông đang là lực lượng vô địch, tung hoành khắp nơi từ Á đến Âu, đánh Kim, diệt Hạ, chiếm Triều Tiên, sửa soạn chinh phục Đường và Đại Việt.
Đất nước cuối triều Lý đang trên đà suy yếu như thế chắc chắn không thể chống nổi một đế quốc mạnh nhất thế giới thời bấy giờ.
May thay, có lẽ là nhờ vào khí thiêng sông núi chưa dứt, địa vẫn còn linh và nhân vẫn còn kiệt, mà đất nước đã chuyển mình, rời bỏ con đường ngày một u tối, tai họa chực chờ, để tiến về hướng tươi sáng. Trần Thủ Độ đã thu xếp êm đẹp cho Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, khởi dựng cơ nghiệp nhà Trần.
Trần Cảnh lên ngôi, lấy niên hiệu là Thái Tông, mở đầu thời đại nhà Trần (1226 - 1400). Trần Thủ Độ làm Thái sư.
Triều Trần thành lập đã chấm dứt tình trạng loạn ly cuối triều Lý, khôi phục lại quyền lực của chính quyền trung ương. Trên cơ sở kế thừa thành quả đã đạt được của triều Lý, triều Trần đã áp dụng nhiều chính sách và biện pháp tích cực nhằm thúc đẩy đất nước phát triển về mọi mặt. Nền văn minh Đại Việt tiếp tục phồn thịnh.
Dưới triều Trần, Thăng Long vẫn là kinh đô của nước Đại Việt. Thăng Long đời Trần hầu như không khác Thăng Long đời Lý. Trong 175 năm đóng đô ở đây, nhà Trần tận dụng tất cả những cơ sở đã được xây dựng từ trước, tu bổ mở mang thêm, kiến tạo một số công trình được cho là cần thiết…
Thăng Long đời Trần không có cái sôi nổi dựng xây như đời Lý, nhưng vẫn đầy ắp những sáng tạo văn hóa và nét đặc biệt nổi trội của nó là trực tiếp tham gia đánh giặc ngoại xâm, đánh rất giỏi.
Ba lần đại thắng quân Mông - Nguyên là một trong những võ công chói lọi nhất của dân tộc ta trong sự nghiệp chống ngoại xâm mà hiếm dân tộc nào trên thế giới có được. Cả ba lần ấy đều “động chạm” đến địa danh Thăng Long nên không thể không kể về nó khi muốn kể câu chuyện về lịch sử Hà Nội. Một trong những nguyên nhân quan trọng làm nên cái vinh quang bất diệt đó chính là sự xuất hiện đúng lúc những con người vừa tài năng vừa lạ lẫm trong dòng họ nhà Trần, như là sự linh ứng, để lại biết bao nhiêu giai thoại làm rung động lòng người.
Năm 1209, hoàng tử Sảm chạy loạn về Hải Ấp, thấy Trần Thị Dung đẹp quá bèn lấy làm vợ. Tháng 11 năm Canh Ngọ (1210), hoàng tử Sảm lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Huệ Tông; sai quân rước Trần Thị Dung về lập làm Nguyên phi. Anh ruột của Trần Thị Dung là Trần Tự Khánh được phong là Chương Tín Hầu. Đến giữa năm Bính Tý (1216), Trần Thị Dung được sắc phong làm Hoàng Hậu, đồng thời Trần Tự Khánh làm Phụ Chính và anh ruột của Tự Khánh là Trần Thừa được giữ chức Nội thị Phán Thủ. Khi Trần Tự Khánh mất, vua Huệ Tông cho Trần Thừa làm Phụ quốc thái úy, và năm sau giao cho em họ Hoàng hậu là Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ.
Hoàng hậu chỉ sinh hạ được hai công chúa. Người chị là Thuận Thiên công chúa, sau này được gả cho Phụng Kiều Vương Trần Liễu, con cả của Trần Thừa. Người em là Chiêu Thánh công chúa, sau này là vua Lý Chiêu Hoàng. Con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh (Trần Thái Tông), đồng tuổi với Chiên Thánh công chúa. Trần Liễu có người con trai tên là Trần Quốc Tuấn, sau này trở thành đại anh hùng dân tộc. Trần Cảnh có 4 người con trai là Thái tử Hoảng, Trần Quang Khải, Trần Ích Tắc, Trần Nhật Duật và 2 con gái. Hoảng sau này là vua Trần Thánh Tông, Tắc phản quốc, Khải và Duật đều là những người có tài xuất chúng.
Trần Thừa, Trần Tự Khánh, Trần Thị Dung đều là con của Trần Lý. Trần Lý là hậu duệ của Trần Hấp. Trần Hấp là con của Trần Kính. Kính vốn gốc ở Đông Triều, nối đời làm nghề đánh cá, trên đường đi tìm đất làm ăn sinh sống đã cắm sào, dừng chân ở Thức Mạc (Nam Định), lấy vợ ở đó sinh ra Hấp. Lớn lên, Hấp tìm sang Hải Ấp (Thái Bình), nơi giáp ranh các sông Nhị Hà và sông Hải Triều, là vùng đất cổ trù phú, định cư luôn ở đó.
Sau khi đã thu xếp cho Trần Cảnh lên ngôi, tháng 8 năm Bính Tuất (1226), Thái sư Trần Thủ Độ lấy Trần Thị Dung, Hoàng hậu triều Lý và là chị họ mình, làm vợ. Trần Thị Dung sau đó được phong làm Linh Từ Quốc Mẫu. Bà đã có công chỉ huy giới hoàng tộc chủ động rút khỏi kinh thành trong lần giặc Nguyên Mông xâm lược Đại Việt lần thứ nhất (1257); đảm nhiệm việc lo liệu thu nhặt sắt thép, động viên thợ ngày đêm rèn binh khí cho quân Trần; trong trận Đông Bộ Đầu cũng có một phần công trạng.
Khi Lý Chiêu Hoàng làm vua, Trần Thủ Độ đã nghĩ ngay đến việc giành ngôi cho Trần Cảnh, bèn thưa với Trần Thừa. Trần Thừa ngần ngại:
- Chúng ta với Thái hậu và Chiêu Hoàng là chỗ họ ngoại chí thân, nay làm cái việc tranh đoạt ấy tôi e chẳng khỏi mang tiếng với hậu thế.
Trần Thủ Độ phân trần:
- Tôi xem diện mạo Trần Cảnh mũi cao, hai gò má trội đúng là long chuẩn dung nhan. Tính lại rộng rãi, biết thương người, có khí độ của vị thái bình thiên tử. Vả chăng, thời thế lúc này chỉ có họ Trần thay ngôi nhà Lý mới cứu được vận nước suy vi. Trời cho mà không lấy sẽ phải chịu tai ương. Xin đại huynh nên suy nghĩ kỹ.
Trần Thừa bảo Thủ Độ:
- Mọi việc tùy chú định liệu, làm sao cho thành sự thì làm. Hóa nhà làm nước hay đến phải diệt tộc cũng ở một chuyện này đó.
Khi Trần Cảnh đã ở ngôi vua , nhiều đảng loạn mượn cớ phù Lý chống Trần nổi lên. Thủ Độ mời Trần Thừa làm Thượng hoàng lo giúp vua để ông rảnh tay dẹp loạn. Không đầy một năm, Thủ Độ đánh dẹp và thu phục được các đảng giặc để trở lại nắm triều chính.
Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194) tại làng Lưu Xá (Hưng Hà, Thái Bình). Ông ít được học nhưng có tài thiên phú, có bản lĩnh, thẳng thắn và quyết đoán.
Có lần duyệt hộ khẩu, Linh Từ quốc mẫu xin riêng cho một người làm chức Câu đương (một chức dịch trong xã). Ông ghi tên họ quê quán. Duyệt đến xã ấy, hỏi tên đương sự, đương sự mừng rỡ chạy đến. Trần Thủ Độ nói:
- Người vì có công chúa xin cho được làm Câu đương, không thể ví như những Câu đương khác, phải chặt một ngón chân để phân biệt.
Đương sự kêu van xin thôi, hồi lâu Thủ Độ mới tha cho. Từ đấy, không ai dám nhờ cậy việc riêng nữa.
Sử ghi, có lần Linh Từ quốc mẫu ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm, bị người quân hiệu chặn lại. Về nhà, Linh Từ quốc mẫu than:
- Mụ này làm vợ ông mà bọn quân hiệu ấy khinh nhờn như thế.
Thủ Độ sai quân đi bắt về. Nghe người quân hiệu kể lại ngọn nguồn câu chuyện, Thủ Độ khen:
- Người ở chức thấp mà biết giữ phép nước, như thế ta còn trách gì nữa - Nói rồi lấy vàng, lụa thưởng cho người ấy.
Có viên quan nhân lúc vào chầu vua Thái Tông, ứa nước mắt tâu:
- Bệ hạ tuổi còn trẻ mà thái sư Trần Thủ Độ quyền nghiêng chân chúa, không biết rồi tiền đồ xã tắc sẽ ra sao? Hạ thần lấy làm lo lắng lắm!
Vua bảo Thủ Độ:
- Trẫm biết Thượng phụ chỉ có tấm lòng son vì nước chứ không có bụng riêng nào. Vậy mà kẻ kia thấy ông nắm giữ mọi quyền bính, dám ngờ vực xằng đã tâu với trẫm là đáng lo ngại về việc Thượng phụ chuyên quyền có thể không hay cho xã tắc. Đó là lời nói hại đến nghĩa vua tôi và tình cảm chú cháu giữa Thượng phụ và trẫm.
Trần Thủ Độ trầm ngâm suy nghĩ rồi tâu:
 - Kẻ kia nói vậy mà đúng. Quả có chuyện chuyên quyền thật. Thế mới biết một trăm người vâng dạ không bằng một người nói thẳng. Trong đám quan lại chỉ duy nhất có người này ngay thẳng, bạo dạn, dám nói những điều người khác chỉ dám nghĩ. Vậy, một triều thịnh phải khuyến khích người nói thật.
Nói xong, Thủ Độ xin phép vua lấy mấy tấm lụa và mấy quan tiền thưởng cho viên quan nọ.
Lại có chuyện, một lần, nhà vua tỏ ý cho An Quốc, anh ruột của Trần Thủ Độ, làm tể tướng. Với tư cách là quan đầu triều, Trần Thủ Độ nói: “Nếu bệ hạ thấy anh tôi là người hiền tài, thì tôi xin từ chức để nhường cho, nếu bệ hạ nhận thấy không phải là hiền tài thì không nên dùng, chứ nếu cả hai anh em đều làm tướng thì đối với thiên hạ còn ra thế nào?”. Đó là câu nói khẳng khái của một tâm hồn bộc trực, và nếu một ông quan đầy quyền uy, không lo đến trăm họ, không biết đặt quyền lợi của quốc gia, xã tắc là trên hết, thì không thể nói được một câu như thế.
Trần Thủ Độ thực sự là linh hồn của cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống sự xâm lược của quân Nguyên Mông. Công lao của ông đối với đất nước, dân tộc là không thể phủ nhận.
Tuy nhiên, sử sách phong kiến thường coi Trần Thủ Độ như một quyền thần vô học, có tài mà không có đức, có công với triều Trần nhưng có tội với triều Lý. Lý do đưa ra là việc Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý. Chuyện kể rằng: năm Nhâm Thìn (1231), nhân làm lễ Tiên Hậu nhà Lý ở thôn Thái Đường (Đông Ngàn, Bắc Ninh), Thủ Độ sai làm nhà lá ở trên các hố để đến khi các tôn thất nhà Lý vào tế thì bị sụt cả xuống, rồi lấy đất đổ lên chôn sống hết. Nhưng trong “Đại Việt sử ký toàn thư”, Ngô Sĩ Liên chú giải rằng “việc này chưa chắc đã có thực”.
Trần Thủ Độ mất tháng Giêng năm Giáp Tý (1264), thọ 71 tuổi.
Lý Chiêu Hoàng sau khi đã nhường ngôi cho Trần Cảnh thì làm vợ Trần Cảnh, được phong là Chiêu Thánh Hoàng Hậu. Ở với Trần Cảnh - Thần Thái Tông suốt 12 năm (đến 19 tuổi) mà vẫn chưa có con, triều đình chưa có hoàng tử. Trần Thủ Độ thấy vậy, bắt vua Thái Tông bỏ Chiêu Thánh, giáng xuống làm công chúa, rồi đem Thuận Thiên công chúa, vợ của Trần Liễu, đang có thai, vào lập làm Hoàng hậu. Trần Liễu tức giận đem quân làm loạn. Vua Thái Tông cũng đang đêm bỏ trốn lên chùa Phù Vân, núi Yên Tử (Quảng Ninh) tỏ ý phản đối. Trần Thủ Độ đem quần thần tới đón về. Thái Tông từ chối, nói rằng:
- Trẫm còn nhỏ dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xã tắc.
Khuyên mãi không chuyển, Thủ Độ ngoảnh lại nói với các quan:
- Hoàng thượng ở đâu là triều đình ở đó.
Nói đoạn, truyền lệnh xây cung điện ở chùa Phù Vân. Vị quốc sư của chùa vào van lạy Thái Tông về triều. Thái Tông bất đắc dĩ theo xa giá về kinh.
Được ít lâu, Trần Liễu biết không địch nổi, đang đêm giả làm người đánh cá lẻn lên thuyền ngự xin hàng. Hai anh em ôm nhau khóc. Thủ Độ hay tin, tuốt gươm xông đến toan giết Trần Liễu. Thái Tông lấy thân che cho anh, xin Thủ Độ tha chết cho Trần Liễu, Trần Thủ Độ quẳng gươm xuống, nói:
- Ta là con chó săn thôi. Chưa biết anh em bay, ai thuận ai nghịch.
Trần Liễu được vua cấp cho đất An Sinh làm thái ấp và phong cho làm An Sinh Vương.
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Thái Tông đã biết dựa vào Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn để lãnh đạo nhân dân Đại Việt chống giặc. Bản thân ông cũng tự làm tướng đi đốc chiến, xông pha lửa đạn.
Trần Thái Tông còn là nhà thiền học có tư tưởng sâu sắc, có cốt cách độc đáo, là tác giả của “Khóa hư lục”, một cuốn sách xưa nhất hiện còn giữ được trong kho thư tịch cổ nước ta. Trong cuốn sách đó có bài “Tự thiền tông chỉ nam”. Trong đó, ông kể lại sự kiện đang đêm bỏ cung điện vào núi. Khi nghe thái sư Trần Thủ Độ thống thiết: “Bệ hạ ở tu cho riêng mình thì được. Nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao? Vì để lời nói suông mà báo đời sau thì sao bằng lấy chính thân mình làm người dẫn đạo cho thiên hạ?”, ông đã “do đấy, trẫm cùng các vị quốc lão về kinh gắng lại lên ngôi”.
Chán nản, bỏ mặc thiên hạ rối ren, quay lưng giũ bỏ trách nhiệm trước “con dân” khốn đốn, thản nhiên đi tu, là Lý Huệ Tông. Không màng quyền lực địa vị, bỏ đi tu, nhưng khi nghe ra lời nói chí lý, lại quay về xả thân vì quốc gia xã tắc, là Trần Thái Tông. Một con người có tâm hồn thật là nhẹ như thế, nếu thật sự có Niết Bàn thì bây giờ đang ở cõi ấy. Hình như ở Trần Thái Tông, trong cái khoảng khắc phải lựa chọn dứt khoát giữa Đạo và Đời, đến với Phật hay về lại với quốc gia xã tắc, ông đã ngộ ra được con đường duy nhất cần phải đi để đến với cả hai, trước lý lẽ không “chê vào đâu được” của Trần Thủ Độ, vì xét cho cùng nó phù hợp hoàn toàn với cái mục đích tối thượng của đời ông: cầu cho quốc thái dân an. Bộ não đó được đốn ngộ đến lạ lùng và tâm hồn đó đẹp đẽ đến khác thường, trở thành tấm gương sáng cho hậu duệ sau này.
Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258), Trần Thái Tông truyền ngôi cho con là thái tử Trần Hoảng, rồi được triều đình tôn lên làm Thái Thượng Hoàng. Ông trị vì được 33 năm, làm Thái Thượng Hoàng 19 năm, thọ 60 tuổi.
Thái tử Hoảng lên ngôi, lấy niên hiệu là Thánh Tông. Trần Thánh Tông là ông vua nhân từ, trung hậu. Vua hay nói với tả hữu: “Thiên hạ là của cha ông để lại nên để cho anh em cùng hưởng phú quí”. Trừ các buổi thiết triều mới phân biệt trên dưới, còn thường ngày vua cho các hoàng thân vào điện ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu, hòa hợp thân ái.
Lại nói về Chiêu Thánh: khi Chiêu Thánh bị giáng xuống làm công chúa, nàng 20 tuổi. Phải rời bỏ người mà mình đem lòng yêu thương, Chiêu Thánh rất đau khổ, ẩn vào cung sâu, toan dứt nợ trần tục. Nhưng rồi dù có muộn mằn thì trời cũng ban cho nàng một hạnh phúc thực sự. Năm Chiêu Hoàng 40 tuổi (tức 20 năm sau), vào mùng một tết năm Mậu Ngọ (1258), vua Thánh Tông đặt đại lễ ở chính điện, có lệnh gả Chiêu Thánh cho Lê Phụ Trần (một đại tướng có công lớn trong cuộc chống Nguyên Mông lần thứ nhất). Chiêu Thánh sinh được hai con: Lê Tông, sau được phong tước Thượng Vị hầu và Ngọc Khuê, sau được phong là Ứng Thụy công chúa. Chiêu Thánh mất năm 60 tuổi. Tương truyền lúc mất, tóc bà vẫn đen nhánh, môi vẫn đỏ như tô son, hai má vẫn một màu hồng đào.
Thánh Tông cũng là vua dốc lòng xây dựng đất nước thịnh trị. Dưới triều ông, dân nghèo được quan tâm, mọi người được khuyến khích học hành, những khoa thi chọn nhân tài được mở và người tài được trọng dụng. Nhờ thế không chỉ có các ông hoàng là hay chữ mà còn có những trạng nguyên xuất chúng như Mạc Đĩnh Chi, uyên bác như Lê Văn Hưu và suốt thời trị vì của Thánh Tông không có giặc giã loạn lạc, nơi nơi dân chúng yên ổn làm ăn, đất nước thái bình thịnh trị.
Trong đối ngoại, vừa mềm dẻo vừa cương quyết, Trần Thánh Tông đã cố gắng giữ gìn danh dự Tổ Quốc Đại Việt, ngăn chặn từ xa mọi sự nhòm ngó, tạo cớ xâm lược của nhà Nguyên.
Năm 1278, sau 21 năm trị vì, ông nhường ngôi cho con là thái tử Khâm rồi về phủ Thiên Trường (Tức Mạc), làm Thái Thượng Hoàng.
Thái tử Khâm lên ngôi, lấy niên hiệu là Nhân Tông.
Ngay sau khi Nhân Tông lên ngôi, nhà Nguyên liền sai Lễ bộ thượng thư Sái Thung sang sứ Đại Việt. Ỷ nước lớn, tên này đặc biệt kiêu ngạo, đến Kinh thành, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh (cửa Nam của Phượng Thánh (Cấm Thành đời Lý), dẫn đến nơi vua ở) rồi cho người đưa thư trách vua Nhân Tông tự lập ngôi vua và đòi phải sang chầu Thiên Triều (Triều đình nhà Nguyên). Vua sai đại thần ra tiếp, Thung không thèm đáp lễ, vua mời yến, hắn không thèm đến.
Năm Nhâm Ngọ (1282), vua Nguyên lại cho sứ sang dụ:
- Nếu vua nước Nam không sang chầu được thì phải đưa vàng ngọc sang thay và phải nộp hiền sĩ, thầy âm dương bói toán, thợ khéo tay, mỗi hạng 2 người.
Để cố giữ hòa hiếu, Trần Nhân Tông đành cho chú họ là Trần Di Ái và bọn Lê Tuân, Lê Mục sang thay mình. Vua Nguyên bèn lập Trần Di Ái làm An Nam quốc vương, Lê Mục làm Hàn lâm học sĩ, Lê Tuân làm Thượng thư lệnh và Sài Thung dẫn 1000 quân đưa bọn ấy về nước. Hay tin, Nhân Tông sai tướng đem quân đón đánh lũ nghịch thần. Sài Thung bị tên bắn mù một mắt, trốn chạy về nước, còn lũ Trần Duy Ái bị bắt, phải tội đồ làm hình…
Biết không thể thần phục được vua Trần, nhà Nguyên phát động chiến tranh xâm lược hòng khuất phục bằng quân sự và thực hiện dã tâm cướp nước ta. Đại Việt dưới triều Trần đã phải chịu ba lần thử thách lớn lao và cả ba lần đều anh dũng vượt qua, với những chiến công chói lọi. Vị quân vương cùng quân dân ta vượt qua hai thử thách sau một cách bất khuất và oai hùng, không ai khác, chính là Trần Nhân Tông.
Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, nhân đức, được sử sách đánh giá là anh hùng cứu nước. Không những thế, đời sau còn thấy ở ông một nhà Phật học, một thiền sư lớn của nền Phật Giáo nước nhà và đồng thời là một thi sĩ có tài. Sau 14 năm làm vua, ông nhường ngôi cho con và đi tu, trở thành thủy tổ phái thiền Trúc Lâm Yên Tử. Tử tưởng triết học của ông mang tính thực tiễn và tích cực. Theo sách “Tam tổ thực lục”, có chuyện rằng một học trò hỏi Nhân Tông:
- Như thế nào là Phật?
Ông trả lời:
- Như cám ở đáy cối.
Lần khác, một học trò hỏi:
- Lúc giết người không để mất thì như thế nào?
- Khắp toàn thân là can đảm - Nhân Tông đáp.
Thật là “siêu”, thật là đặc sắc! Chỉ có những tâm hồn thản nhiên, khoáng đạt, tự do đến hết cung bậc mới “thiền” ra như thế được và mới có được những vần thơ đầy cảm khái như:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
(Xã tắc hai lần mệt ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.)
Trần Nhân Tông qua đời năm Mậu Thân (1308), tại am Ngọa Vân, núi Yên Tử (Đông Triều, Quảng Ninh).
Nhà Trần còn có một điều đặc biệt lạ là có nhiều tướng tá đồng thời là nhân văn thuộc hoàng thân quốc thích, mang họ Trần và hầu hết đều được lưu vào sử sách. Trong số đó, nổi lên lừng lẫy một cái tên: Trần Quốc Tuấn.
Trần Quốc Tuấn sinh năm 1228. Ngay từ nhỏ, Trần Quốc Tuấn đã được cha (Trần Liễu) kén những thầy giỏi về dạy mong con hội đủ được tài văn võ để ủy thác cho con mối thù năm xưa mà mình chưa trả được. Có lần Trần Liễu dặn Quốc Tuấn: “Sau này nếu con không vì ta mà lấy lại thiên hạ thì ta sẽ không sao nhắm mắt được khi đã nằm xuống đất”.
Quốc Tuấn tỏ ra thông minh thiên phú, lớn lên thành người học rộng biết nhiều, văn tài võ kiệt. Hơn thế nữa, ông là một hiền nhân, tận trung với nhà Trần, tận lòng với dân với nước. Chính vì thế mà ông luôn đặt quyền lợi đất nước lên trên hết, chủ động xóa đi mối thù nhà, ra sức xây dựng khối đoàn kết giữa dòng tộc họ Trần và trên thực tế đã làm cho vương triều nhà Trần luôn gắn bó keo sơn, thống nhất ý chí, nêu tấm gương sáng và đồng thời nuôi dưỡng được niềm tin trong toàn quân, toàn dân Đại Việt. Đó cũng chính là một trong những yếu tố quyết định đến ba lần đại thắng quân Nguyên.
Trong lần chống Nguyên Mông lần thứ nhất, lúc vua Trần còn lúng túng chọn hướng đi chặn giặc, Trần Quốc Tuấn đã tình nguyện xung phong và được lĩnh ấn Tiết chế (tổng chỉ huy quân đội), đem quân lên mạn Hưng Hóa bày trận. Nhờ thế trận và cách dụng binh tài tình của ông mà nhà Trần đủ thời gian rút khỏi Thăng Long, bảo toàn lực lượng và dẫn đến thắng lợi quyết định Đông Bộ Đầu. Trong việc bình công ban thưởng, Trần Thái Tông đã đánh giá chưa công bằng đối với ông. Tuy nhiên ông đã không vì thế mà bận tâm.
Một lần, Trần Quốc Tuấn đem lời cha mình lúc trước hỏi thử hai gia nô (và sau này cũng là những tướng giỏi của ông) là Yết Kiêu, Dã Tượng. Cả hai đều nói:
- Làm việc ấy có thể giàu sang một thời nhưng tiếng xấu để mãi ngàn thu. Bây giờ đại vương chẳng giàu rồi ư? Chúng tôi thà chết già làm gia nô còn hơn làm hạng quan vô trung vô hiếu.
Một lần khác, Trần Quốc Tuấn đi dò ý các con mình. Ông hỏi người con lớn là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Hiến:
- Người xưa làm nên giàu có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, vậy con nghĩ sao?
Quốc Hiến thưa:
- Giả sử đối với họ khác còn không nên làm, huống chi là chỗ họ nhà ta.
Quốc Hiến được cha khen ngợi.
Ông lại hỏi người con thứ ba là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng như thế. Quốc Tảng thưa:
- Xưa Tống Thái Tổ chỉ là một ông lão làm ruộng mà thừa thời dấy vận lấy được thiên hạ.
Nghe vậy, Trần Quốc Tuấn nổi giận, rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. May nhờ các con và những người tâm phúc van xin, ông mới bớt giận, tha mạng, nhưng bảo:
- Xưa nay, kẻ loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra. Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thần này nữa.
Trước tin nhà Nguyên đang sửa soạn đại binh sang đánh Đại Việt lần nữa, vua Trần Thánh Tông gửi tờ chiếu cho Trần Quốc Tuấn, dặn ông lên kế hoạch đánh giữ để ba ngày sau sẽ trình bày tại hội nghị các vương hầu ở bến Bình Than (Chí Linh, Hải Dương).
Trong khoảng thời gian chờ bước vào hội nghị, Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải đã gặp nhau. Trên thuyền tướng của Trần Quốc Tuấn, hai người đã đàm đạo và chơi cờ suốt buổi chiều. Khi đó Trần Quang Khải có nói:
- Việc điều binh khiển tướng, tôi chẳng thể bằng Quốc công. Có chiến tranh, mọi việc phải thu xếp lại. Tôi đã tâu Quan gia (vua) trao ấn Tiết chế cho Quốc công. Chúng ta phải hợp sức lại đánh quân thù.
Và Trần Quốc Tuấn đáp:
- Lúc nào tôi cũng sẵn lòng vì Quan gia và giúp Thượng tướng điều binh khiển mã, xin Thượng tướng chớ lo.
Trần Quang Khải cảm động, nói:
- Không phải không có người e ngại Quốc công mà bận lòng đến chuyện cũ. Lòng Quốc công thật sáng như sao Khuê…
Đến khi Trần Quốc Khải vui vẻ cáo lui, Trần Quốc Tuấn ngăn lại, hóm hỉnh:
- Biết Thượng tướng bận việc nước, ít có dịp tắm gội, tôi đã sai gia nhân đun nước thơm để sẵn. Nay xin được tắm cho Thượng tướng.
Và Trần Quốc Tuấn đã tự tay tắm rửa cho người em thúc bá của mình. Trần Quang Khải cảm được cái nghĩa cử cao đẹp ấy:
- Đến cả cõi lòng tôi, Quốc công cũng đã gột rửa, huống chi là thân thể. Được Quốc công tắm cho, thật là may mắn!
Đời Nhân Tông, vào buổi đầu của chiến tranh, thấy quân Trần bị đánh lui trên hầu hết các mặt trận, vua cho vời Trần Quốc Tuấn đến hỏi:
- Nay thế giặc to lắm, chống lại không nổi, hay là trẫm hàng đi để cứu mạng cho muôn dân?
Trần Quốc Tuấn đáp:
- Ra trận được thua là chuyện thường, chỉ cần bảo tồn được lực lượng và giành được trận thắng cuối cùng. Vả lại, chỉ sợ giặc tiến binh như tằm ăn lá chứ không sợ giặc hùng hổ. Nay Thoát Hoan tiến binh như gió lốc, nghênh ngang không coi ai ra gì, chính là điềm thua đã báo vậy.
Vua đăm chiêu:
- Chuyện sau thì chưa rõ nhưng trước mắt quân ta đang thua, giặc mặc sức tàn sát dân lành. Chẳng thà hàng đi cứu dân đã, đợi dịp khác sẽ lấy lại nước.
- Tâu Quan gia! Quân ta lui không phải là giặc đã thắng. Thế đánh chưa có lợi thì ta lui cho kiêu lòng giặc. Chứng cớ là tướng lĩnh ta vẫn còn, chưa ai phải bỏ thân ở chiến trường.
Trần Quốc Tuấn nói mạnh thêm:
- Vẫn biết bụng Bệ hạ muốn hàng là vì lòng nhân đức. Nhưng còn tôn miếu, xã tắc? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu lão thần này đã. Đầu lão thần còn thì xã tắc còn, xin Bệ hạ chớ lo.
Vị vua trẻ tươi tỉnh:
- Gần Quốc công, nghe Quốc công phân giải, trẫm đây thấy yên lòng?
Binh pháp của Trần Quốc Tuấn là sự sáng tạo trên nền tảng kế thừa được cách đánh giặc luôn chủ động tiến công, trong sự tiến, lui uyển chuyển phù hợp với từng thế trận, từng thời đoạn chiến tranh của dân tộc ta, có tiếp thu lý luận quân sự đúng đắn và rất quý báu của Tôn Tử, Tôn Tẫn… Thiên tài quân sự của ông đã thể hiện rõ ràng trong thực tiễn chiến tranh ba lần đại thắng quân Nguyên Mông, trong hai bộ binh thư mà ông trước tác là “Binh thư yếu lược” và “Vạn kiếp tổng bí truyền thư”. (Năm 1984, tại London, thủ đô nước Anh, ông đã được bầu chọn là một trong mười danh tướng lừng lẫy cổ kim của thế giới).
Không những thế, ông còn là một danh nhân văn hóa của dân tộc. “Hịch tướng sĩ”, một chấp bút của ông, một áng văn kêu gọi tha thiết và hùng hồn, mãi mãi là tinh hoa trong kho tàng văn học Việt Nam.
Hai tháng trước khi Trần Quốc Tuấn mất, vua Anh Tông đến thăm và có hỏi:
- Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao?
Ông đã trăng trối:
- Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước!
Làm theo Đạo Lý và Đức Huyền Diệu cũng là như thế và câu nói đó là một chân lý sáng ngời của mọi thời đại.
Để ghi nhận công lao và tỏ lòng kính trọng Trần Quốc Tuấn, vua Trần tiến phong ông là Thái sư Thượng phụ Hưng Đạo Đại Vương, đối xử theo đạo cha.
Mùa thu tháng 8, ngày 20 năm Canh Tý (1300), Trần Quốc Tuấn qua đời. Theo lời ông dặn, thi hài ông được hỏa táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, gần cánh rừng An Sinh, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ.
Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh. Hàng năm, đến ngày ông mất, thiện nam tín nữ đền đến đó lễ bái, thành ngày hội lớn.
Người tướng kề vai sát cánh với Trần Quốc Tuấn, là trụ cột thứ hai của nhà Trần trong cuộc chống xâm lược Mông Nguyên, giữ nước là Trần Quang Khải (1241 - 1294). Dưới triều vua Trần Thánh Tông, Trần Quang Khải được phong tước Chiêu Minh Đại Vương. Năm 1274, dưới triều vua Trần Nhân Tông, ông được cử làm Thượng tướng thái sư, nắm toàn quyền nội chính trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và ba, ông là vị tướng chủ chốt thứ hai, sau Trần Quốc Tuấn và có nhiều công lớn. Chính Trần Quang Khải đã chỉ huy quân đánh tan giặc ở Chương Dương và Thăng Long, những trận then chốt nhằm khôi phục kinh thành vào cuối tháng 5 năm Ất Dậu (1285).
Bên cạnh năng lực quân sự, Trần Quang Khải còn là một nhà thơ có tên trong văn học sử Việt Nam. Theo lời Phan Huy Chú, thơ ông “thanh thoát, tao nhã và lý thú”
Trần Quang Khải cũng là một cuộc đời lớn!
***

Vào thời trung đại, trong điều kiện đặc thù về khí hậu, đất đai của vùng thảo nguyên mênh mông thuộc Trung Á và với trình độ lao động, sản xuất bấy giờ, đại bộ phận người Mông Cổ sống du mục, lấy nghề chăn nuôi súc vật, dùng súc vật (những sản phẩm từ súc vật phần lớn là cừu, bò, ngựa) đổi lấy lương thực và hàng tiêu dùng thiết yếu, làm phương thức sinh sống chủ yếu. Trừ một số ít ở vùng rừng núi phía bắc còn sống bằng nghề săn bắn và đánh cá.
Người Mông Cổ có lẽ là hậu duệ hoặc chi nhánh của người Hung Nô. Thế kỷ VIII, người Mông Cổ lần lượt bị phụ thuộc người Đột Quyến và người Hồi Đột. Đến nửa sau thế kỷ IX, họ lập thành một liên minh bộ lạc do bộ lạc TácTa cầm đầu. Vì vậy, trong một thời gian dài ở Mông Cổ cũng như ở nước ngoài, cái tên TácTa được dùng để chỉ người Mông Cổ.
Thế kỷ XI, liên minh bộ lạc TácTa tan rã vì sự tấn công của nước Liêu. Sang thế kỷ XII, các bộ lạc Mông Cổ lại thường xuyên bị nước Kim tấn công. Đến thời kỳ này, trên thảo nguyên mênh mông (gồm nước Mông Cổ, Nội Mông, thuộc Trung Quốc và một dải ở phía nam Xibêri ngày nay) có nhiều bộ lạc sinh sống, trong đó lớn mạnh nhất là các bộ lạc TácTa, Kêraít, Nainan, Merơkít.
Đến cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII, các cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc xảy ra liên miên (một tất yếu của quá trình phát triển tự phát: mất cân đối và phân tầng giàu nghèo trong xã hội!). Phản ánh tình hình ấy, “Lịch sử bí mật Mông Cổ” chép:
“Bầu trời đầy sao đang quay cuồng
Các bộ lạc đánh nhau không dứt
Không còn có thời giờ để ngủ
Đâu đâu cũng chỉ có giành giật cướp bóc
Cả mặt đất đang rung chuyển
Không còn có thời gian để nằm yên
Mà chỉ có đánh nhau, chém giết…”
Quá trình thôn tính lẫn nhau ấy làm một số bộ lạc bị diệt vong, số khác trở nên lớn mạnh và số khác nữa sống còn trong những liên minh bộ lạc (ulus). Thủ lĩnh đứng đầu liên minh bộ lạc là Khan (hãn) có thế lực và uy quyền khá lớn.
Têmusin (1155 - 1227) xuất thân trong một gia đình quí tộc thị tộc, cha là Yêxugây Batua, vốn là thủ lĩnh bộ lạc Taisiút. Năm 1164, Taisiút tan rã, gia tộc Yêxugây gặp nhiều hoạn nạn, phải sống phiêu bạt trong cảnh nghèo khổ. Về sau, được sự giúp đỡ của thủ lĩnh bộ lạc Kêraít và người anh em kết nghĩa từ thưở niên thiếu là Jamuga, Têmusin đã tập hợp lại được lực lượng trước kia của mình. Sau khi đánh bại và thẳng tay tàn sát bộ lạc Merơkit, Têmusin cắt đứt quan hệ với Jamuga, lôi kéo nhiều thị tộc thuộc Jamuga theo mình. Thế lực Têmusin ngày một lớn mạnh. Do đó năm 1189, Têmusin được giới quí tộc bầu làm Khan.
Tiếp đó, Têmusin lần lượt đánh bại các bộ lạc khác và đến năm 1205 thì tất cả các bộ lạc ở Mông cổ đều thần phục Têmusin. Năm 1206, các thủ lĩnh bộ lạc họp đại hội bên bờ sông Ômôn, quê hương Têmusin, nhất loạt bầu Têmusin làm Khan lớn nhất (Đại Hãn) và gọi là Singhít Khan (Singhít có nghĩa là biển), tức Thành Cát Tư Hãn. Sự kiện đó đánh dấu sự thành lập nhà nước Mông Cổ thống nhất.
Mông Cổ lúc bấy giờ vốn chưa có chữ viết (có thể là do cách sống du mục phân tán trong thảo nguyên mênh mông và chiến tranh loạn lạc triền miên giữa các bộ lạc ở những thời gian trước đó). Khi hàng phục được bộ lạc Naiman, Thành Cát Tư Hãn bắt được một người Duy Ngô Nhĩ, sai người này dùng chữ Duy Ngô Nhĩ phiên âm tiếng Mông Cổ để dạy cho con em quí tộc. Tuy vậy bản thân Thành Cát Tư Hãn vẫn mù chữ.
Danh từ “Mông Cổ” chính thức xuất hiện trong sách vở sau khi Thành Cát Tư Hãn thống nhất đất nước, sử sách Trung Hoa gọi là “Thát”.
Ngay từ năm 1205, Thành Cát Tư Hãn đã từng tấn công Tây Hạ. Sau khi thành lập nước, với thế và lực càng mạnh, Thành cát Tư Hãn đã lấy chiến tranh xâm lược, cướp bóc các dân tộc khác làm phương thức kiếm ăn chủ yếu. Ông ta đã động viên toàn bộ nhân tài vật lực vào cuộc bành trướng lãnh thổ, mở rộng phạm vi thống trị của mình, làm nên một cuộc chinh phục vĩ đại, vô tiền khoáng hậu, hết sức tàn bạo và khốc liệt, làm kinh thiên động địa thế giới bấy giờ. Trong vòng nửa thế kỷ, vó ngựa của đội quân thiện chiến và cường bạo tung hoành, dày xéo khắp Á, Âu, lập nên một Đế quốc Mông Cổ rộng bao la từ Thái Bình Dương đến tận Hắc Hải.
Mục tiêu đầu tiên của cuộc chinh phục ấy là hai nước láng giềng: Tây Hạ (nước đã từng đánh nhưng chưa hạ được) và Kim. Năm 1209, Mông đánh Tây Hạ. Không chống cự nổi, Tây Hạ phải nộp con gái xin hòa (thực chất là đầu hàng). Năm 1211, quân Mông ồ ạt tấn công Kim, chiếm rất nhiều đất đai, rồi bao vây Trung Đô (Bắc Kinh). Chịu không nổi, Kim cũng dâng công chúa xin hòa. Quân Mông rút nhưng vua Kim vẫn sợ nên dời đô xuống Biện Lương. Nghĩ vua Kim làm vậy là có mưu đồ, mùa thu năm ấy, Thành Cát Tư Hãn lại tấn công, toàn bộ phần lãnh thổ bắc Hoàng Hà của Kim bị nhập vào Mông Cổ. Năm 1216, sau khi cử một viên tướng của mình ở lại cai quản đất đai đã chiếm được, Thành Cát Tư Hãn đem quân về nước để hoạch định bước kế tiếp của cuộc chinh phục.
Bắt đầu từ đó những đoàn kỵ binh đông như kiến cỏ ào ạt tiến sang cả phương đông lẫn phương tây. Trừ các đại dương, còn hầu như không có chướng ngại nào ngăn chặn được những đoàn quân hung hãn, thần tốc, đánh phá một cách hủy diệt ấy.
Năm 1218, 2 vạn quân Mông tấn công và chiếm được Tây Liêu (vùng bắc Trung Quốc), đưa cương giới Mông Cổ tới sát liền với nước Khôrezmơ. Mùa Thu năm 1219, nhân cớ nước này bắt giết hết một đội buôn Mông Cổ gồm 450 người (có một người chạy thoát về báo tin), 500 lạc đà vận chuyển đầy vàng bạc, da thú và hàng hóa quí sang Trung Á buôn bán, Thành Cát Tư Hãn huy động 20 vạn quân đánh tràn sang Khôrezmơ. Không đầy một năm nước Khôrezmơ bị diệt vong. Thuận đà, quân Mông tràn vào Adécbaidan, rồi đóng tại đó chờ cho qua mùa đông. Năm 1222, quân Mông (do Giêbê và Xinbutai chỉ huy) xâm nhập Grudia rồi vượt núi Cápcadơ, tiến lên phía bắc. Năm 1223, tại chiến dịch bên bờ sông Camca, quân Mông đánh bại 80.000 liên quân Nga. Tướng lĩnh Mông Cổ đã bắt trói các vương công Nga, bắc ván lên đầu họ rồi ngồi lên đó để ăn mừng chiến thắng! Sau đó quân Mông quay về phía đông.
Năm 1226, Thành Cát Tư Hãn lại tấn công Tây Hạ, hủy diệt nhiều thành trì rồi tiến quân vây kinh đô. Vua Hạ chịu thua, đầu hàng. Nước Tây Hạ không còn nữa.
Ngày 25-8-1227, Thành Cát Tư Hãn bệnh, mất. Con út  của ông là Tôlui tạm thời nắm quyền đất nước. Năm 1229, Hội nghị quí tộc công nhận Ôgôxây (con thứ ba của Thành Cát Tư Hãn) kế ngôi Đại Hãn theo di chúc, đồng thời bàn kế hoạch tấn công nước Kim, Nam Tống, Triều Tiên, Ba Tư và Tây Âu.
Năm 1230, Ôgôdây và Tôlui cùng con mình là Mông Ca đem quân đánh nước Kim, mở màn giai đoạn chinh phục mới. Lôi kéo được Nam Tống cùng đánh Kim, đến năm 1233, quân Mông liên tiếp chiếm được nhiều châu của Kim rồi bao vây Biện Kinh. Vua Kim tháo chạy đến Thái Châu (Cát Lâm). Đến lúc ấy, Nam Tống mới đưa hai vạn quân đến phối hợp. Năm 1234, liên quân Mông - Tống vây đánh Thái Châu, vua Kim tự tử, nước Kim chấm dứt tồn tại. Sau này, vào đầu thế kỷ XVII, xuất hiện một nước Kim khác do người Nữ Chân, Kiến Châu thành lập, vào năm 1636 được đổi tên là Thanh.
Cùng khoảng thời gian đó, năm 1231, quân Mông cũng tấn công Cao Li, đánh đến kinh đô Khai Thành thì vua Cao Li đành xin giảng hòa với những điều kiện ngặt ngèo do quân thắng trận áp đặt. Năm 1232, vì Cao Li giết bọn Đaruhasi (quan trấn thủ, gồm 72 người của quân Mông được bố trí ở những nơi trọng yếu trên lãnh thổ Cao Li theo điều kiện áp đặt trong Hòa ước), và tỏ thái độ chống lại, quân Mông lại tấn công Cao Li và trước tinh thần kháng chiến ngoan cường của nhân dân nước này, mãi đến năm 1253, mời thần phục được.
Năm 1236, dưới sự chỉ huy của Batu (cháu Thành Cát Tư Hãn), 15 vạn quân Mông lại ồ ạt tiến sang phía tây. Mùa đông năm 1237, quân Mông tấn công nước Nga, chiếm được nhiều công quốc ở Nga, trong đó có Maxcơva, vào cuối năm 1238. Cuối năm 1240, quân Mông chiếm và tàn phá Kiép cổ kính. Năm 1241, quân Mông chia làm hai đạo, tấn công Hungari và Ba Lan. Vua Hungari bỏ chạy và đầu năm 1272, bị truy kích đến tận bờ biển Nam Tư, gần Vênêxia. Châu Âu rúng động!
Đất Ba Tư sau nhiều phen bị xâm lược, cuối cùng cũng bị sát nhập vào Đế quốc Mông Cổ rộng lớn. Đất đai Xiri và vùng Lưỡng Hà cũng quằn quại bởi sự dày xéo của vó ngựa quân Mông.
Tuy giành được thắng lợi liên tiếp, nhưng khả năng binh lực của quân Mông không phải là vô hạn, và cũng do bị hao tổn, không cho phép tiến sâu hơn nữa vào Châu Âu và Trung Cận Đông, cho nên năm 1242, Batu đành quay về phía đông, đóng quân tại vùng sông Vônga, chờ thời.
Năm 1241, Ôgôđây chết. Sau 5 năm tranh giành ngôi vua, năm 1246, Hội nghị quí tộc cử Guyúc (con Ôgôđây) lên ngôi Đại Hãn. Hai năm sau (năm 1248), Guyúc chết, việc tranh ngôi lại xảy ra cho đến năm 1251 thì Mông Ca trở thành Đại Hãn. Sau khi lên ngôi, Mông Ca tiếp tục tổ chức những cuộc viễn chinh xâm lược mà mục tiêu chính là Nam Tống và Tây Á.
Ở hướng tây, năm 1253, Mông Ca cử người em thứ ba của mình là Hulagu đem quân tấn công vùng Tây Á. Năm 1258, quân Mông chiếm được Bát Đa. Vương triều A Bát của Arập bị diệt vong. Vua Arập là An Muxtaxin bị bỏ vào một cái túi rồi cho ngựa xéo chết. Tiếp đó, quân Mông đánh sang Xiri, Ai Cập, nhưng bị quân Ai Cập đánh chặn được nên phải dừng lại. Trên lãnh thổ chinh phục được ở Tây Á, Hulagu lập nên một vương quốc của người Mông Cổ gọi là Hãn quốc Ilơ.
Ở hướng đông, năm 1252, để tạo nên thế bao vây đối với Nam Tống, Mông Ca sai em thứ hai của mình là Hubilai (Hốt Tất Liệt) dẫn một cánh quân tiến xuống phía tây nam, tiêu diệt nước Đại Lý, đặt ách đô hộ lên toàn bộ vùng Vân Nam Trung Quốc (1253). Ngay năm ấy, Hubilai sai Uriangkhađa (Ngột Lương Hợp Thái) tấn công Thổ Phồn. Thổ Phồn thần phục vào năm 1254. Đầu năm 1258, Ngột Lương Hợp Thai đem quân tấn công Đại Việt để làm bàn đạp lấn tiếp xuống phía nam, nhưng trước hết là để chọc vào lưng Nam Tống.
Nước Đại Việt bước vào cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông lần thứ nhất.
Trước khi xâm nhập biên giới nước ta, tướng Mông nhiều lần cho sứ sang dụ hàng, nhưng sứ đi mà không thấy trở lại. Đại Việt đã chọn con đường kiên quyết kháng chiến, do đó, vua Trần lệnh bắt nhốt sứ giả của quân Mông. Trần Quốc Tuấn lĩnh ấn Tiết chế, dẫn quân lên phòng giữ biên giới.
Dụ không được, dọa cũng không xong, đầu tháng chạp âm lịch (1257) quân Mông (gồm 3 vạn kỵ binh Mông và khoảng 2 vạn quân địa phương ở Vân Nam), vượt biên giới, chia làm hai đạo tiến xuống dọc theo sông Thao. Quân ta tổ chức vài trận đánh chặn ở khoảng đông nam Lào Cai ngày nay, tạo điều kiện cho tiền quân ta lui từng bước về Phú Thọ, trước một quân địch đang sung sức.
Hai cánh quân Mông hội sư ở Việt Trì. Trong lúc đó, đại quân của ta cũng đang kéo lên, Trần Thái Tông tự thân chỉ huy chiến đấu. Một cuộc giao chiến giữa tiền quân hai bên đã xảy ra ở vùng Bạch Hạc. Nhận thấy quyết chiến ngay là không có lợi, đại quân ta chủ động, tích cực rút lui. Tướng Mông đoán được, định chặn đường phía sau quân ta, cướp thuyền chiến rồi bao vây tiêu diệt, nhưng đã muộn.
Vồ hụt, quân Mông tràn xuống đuổi theo, ngày 17-1-1258 tới Bình Lệ Nguyên (gần Hương Canh, Vĩnh Phú), thì gặp đại quân ta. Nhận thấy tình thế vẫn còn rất bất lợi, một lần nữa, nhà Trần lại vừa tổ chức đánh chặn địch, vừa khẩn trương cho đại quân rút về Phù Lỗ, Hưng Yên. Tướng tiên phong của giặc là Triệt Triệt Đô, không thực hiện được kế hoạch bắt sống vua tôi nhà Trần, sợ bị trừng phạt, đã uống thuốc độc tự tử.
Vua Trần sai phá cầu Phù Lỗ, dàn quân phòng ngự bên này sông, đồng thời chủ trương cùng nhân dân kinh đô Thăng Long thực hiện kế “thanh giã” làm vườn không nhà trống, di tản triệt để.
Quân Mông dò tìm khúc nông, thúc ngựa vượt sông, đánh thẳng vào quân ta. Tuyến phòng ngự bị vỡ, quân ta tiếp tục rút lui theo hướng Thăng Long, về đóng giữ ở khúc sông Thiên Mạc (Khóm Châu, Hưng Yên).
Quân Mông truy kích đến Đông Bộ Đầu (phía đông Thăng Long) rồi xông vào kinh thành đã bỏ trống, chỉ tìm được mấy sứ giả của chúng trước kia, đang bị trói gô trong ngục (“quê” thật!). Giận mà không làm gì được, quân Mông tàn phá Thăng Long.
Trước thế mạnh ban đầu của giặc và việc rút lui, bỏ ngỏ thành Thăng Long không phải không làm cho vài tướng quân Đại Việt nao núng. Trần Nhật Hiệu, em ruột vua, giữ chức Thái úy khiếp nhược, khuyên vua nên hàng. Nhưng ý chí quyết chiến và niềm tin thắng lợi vẫn còn đó, biểu hiện trong câu nói cảm khái mà quyết liệt đến ngàn sau còn ngưỡng mộ của Trần Thủ Độ: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!”.
Quen thói đánh nhanh thắng nhanh, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh nên quân Mông không dự phòng đủ mức cần thiết về lương thảo. Lúc này, trước cảnh vườn không nhà trống, không cướp bóc được gì làm quân lực bắt đầu mỏi mệt, sĩ khí sa sút, quân Mông lâm vào tình thế tiến thoái hết sức khó khăn.
Sau khi củng cố lực lượng, thấy được sự khốn đốn của giặc và nhận định rằng thời cơ đã đến (chúng ta cho rằng thấy rõ được thời cuộc đã là tài!), quân ta quyết định phản công. Đêm 29-1-1258, quân ta bí mật tiến ngược sông, đánh úp mãnh liệt quân giặc ở Đông Bộ Đầu. Bị đánh bất ngờ, thua đau và để tránh bị tiêu diệt, quân Mông phải bỏ chạy khỏi Thăng Long, một mạch về Vân Nam. Tuy nhiên, khi qua núi Quí Hóa (vùng Phú Thọ và Yên Bái trên hữu ngạn sông Hồng), lại bị Hà Bổng, thuộc dân tộc Mường, chỉ huy dân binh mai phục đánh cho một trận nữa mất hết hồn vía. Cuối tháng chạp năm ấy, quân xâm lược hoàn toàn rút khỏi nước ta. Kinh đô Thăng Long, sau 11 ngày bị tạm chiếm, được giải phóng và khoảng mấy ngày sau (5-2-1258) ăn mừng chiến thắng tưng bừng bằng Tết Nguyên Đán năm Mậu Ngọ.
Bị thua đau bởi một nước “nhỏ xíu”, Hốt Tất Liệt nuôi ý phục thù. Ỷ vào cái sức mạnh vượt trội về người và của của một nước có lãnh thổ bao la, hoặc cũng do cái não trạng hống hách đã quen với sự bành trướng dễ dàng và dễ dàng được thần phục, và cũng có thể là đóng kịch, che dấu không để cho thiên hạ thấy cảnh bị “mất mặt” mà Hốt Tất Liệt, trong thời gian chưa đủ điều kiện quay lại “làm gỏi” Đại Việt để thỏa uất ức, đã có những hành động ngoại giao kiểu bề trên, hết sức lố bịch: mới thua xong, Ngột Lương Hợp Thai đã lại sang sứ đòi vua Trần sang chầu (sứ giả lập tức bị trói lại, đuổi về); năm 1261, Hốt Tất Liệt phong cho vua Trần là An Nam quốc vương (!); tháng 10-1262, đòi nộp cống nho sĩ, thầy bói, thầy thuốc…, lại cử một viên quan người Mông sang giám trị Đại Việt…
Tuy vậy, nhà Trần vẫn kiên trì thực hiện đường lối ứng xử ngoại giao mềm dẻo trước kẻ mạnh (mạnh thật chứ chẳng chơi!), vừa đảm bảo những nguyên tắc về chủ quyền và danh dự của quốc gia, vừa thỏa mãn có mức độ những yêu sách có tính kẻ cả, xấc xược của chúng. Trong khi đó, biết rằng trước sau gì quân Mông cũng lại tiến đánh Đại Việt để thực hiện cái dã tâm chưa đạt được của chúng, nhà Trần đã tích cực chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng bước vào cuộc thử lửa mới.
***

Tuy cánh quân Mông xâm lược Đại Việt bị thất bại, nhưng nhận thấy điều kiện tấn công Nam Tống đã chín muồi, ngay năm đó (1258), Mông Ca và Hốt Tất Liệt chia quân thành 2 mũi, tiến xuống miền Tứ Xuyên, Hồ Bắc của Trung Quốc. Cuộc chiến đấu của nhân dân Trung Hoa phía đông nam đã đánh thắng quân Mông trong trận Điếu Ngư (Tứ Xuyên), Mông Ca trúng tên, chết. Em của Hốt Tất Liệt là Bu Kê đòi chiếm ngôi Đại Hãn, buộc Hốt Tất Liệt tạm ngưng cuộc chinh phục Nam Tống, kéo quân về quốc đô Mông Cổ tranh ngôi báu.
Sau 4 năm huynh đệ tương tàn, Hốt Tất Liệt giành phần thắng. Năm 1271, Hốt Tất Liệt đổi xưng là Hoàng đế, đặt tên nước là Đại Nguyên, dời đô đến Yên Kinh, gọi là Đại Độ. Sau khi ổn định tình hình, năm 1274, Hốt Tất Liệt lại đem quân chinh phục Nam Tống. Năm 1276, triều đình Nam Tống đầu hàng, nhưng lực lượng còn lại vẫn tiếp tục kháng chiến đến tháng 2-1279 mới hoàn toàn thất bại. Tháng 8 năm đó, Hốt Tất Liệt ra lệnh đóng chiến thuyền chuẩn bị đánh Nhật Bản và Đại Việt.
Chiếm xong Trung Quốc, Cao Ly, Đế quốc Mông Cổ đang vào thời kỳ cực thịnh. Vẫn giữ tham vọng thống trị thế giới, vua Nguyên thực hiện mưu đồ: phía đông, đánh Nhật Bản, phía nam thì trước tiên chiếm các nước Đông Nam Á, rồi tiến sang đánh Ấn Độ, phối hợp với cánh quân từ Ba Tư đánh qua. Trong bước chiếm đóng Đông Nam Á thì đánh Đại Việt là khâu chủ yếu, quyết định. Vì thế, Hốt Tất Liệt đã chuẩn bị một đạo quân rất lớn gồm 60 vạn quân giao cho con trai là Thoát Hoan chỉ huy. Để chiếm Đại Việt, trước tiên sẽ dùng 10 vạn quân chiếm Chiêm Thành, sau đó cả 60 vạn quân sẽ từ hai mặt bắc, nam giáp công đánh tới, tạo một đòn quyết định tiêu diệt quân nhà Trần.
Năm 1282, Toa Đô chỉ huy 10 vạn quân vượt biển tiến đánh Chiêm Thành. Quân Chiêm mở cửa thành thúc quân ra nghênh chiến. Cuộc chiến ác liệt xảy ra, cuối cùng thành vỡ, quân Chiêm rút vào núi. Quân Nguyên tiến vào kinh đô Chà Bàn bỏ trống. Ngày 19-3-1283, quân Chiêm đánh bại cuộc tấn công mới của quân Nguyên. Bị thất bại nặng, Toa Đô phải rút quân ra vùng bờ biển, lập thế phòng thủ ở Ô Lý và Việt Lý, giáp biên giới Đại Việt, chờ viện binh. Hốt Tất Liệt đòi vua Trần phải giúp quân và lương thực, phải cho quân Nguyên mượn đường sang đánh Chiêm Thành, nhưng bị vua Trần cự tuyệt: “Từ nước tôi đến Chiêm Thành, đường thủy đường bộ đều không tiện”. Mãi đến tháng 4 năm 1284, hai vạn quân tiếp viện của Hốt Tất Liệt mới đến được vùng biển Qui Nhơn, nhưng chưa gặp quân Toa Đô thì bị bão lớn, binh thuyền tan tác hết.
Cuối năm 1284, Thoát Hoan động binh, tháng 1-1285, vượt qua biên giới nước Đại Việt, với gần 59 vạn quân, chia làm hai cánh, đánh vào Tuyên Quang và Lạng Sơn.
Cuộc kháng chiến cứu nước lần thứ hai của quân dân nhà Trần bắt đầu trước một kẻ thù vượt trội về sức mạnh binh lực.
Trước đó, tháng 8-1282, Trần Quốc Tuấn biết chắc chiến tranh sẽ nổ ra, đã tập trung du quân (quân tập trung cơ động của triều đình), quân các lộ và của các vương hầu về Đông Bộ Đầu, tổng cộng 20 vạn quân, duyệt binh, động viên tướng sĩ rồi phân phối lực lượng để đóng giữ các nơi hiểm yếu. Vua Trần, thuận lời của Trần Quốc Tuấn, triệu tập các bô lão về kinh thành, mở hội nghị Diên Hồng để thỉnh cầu ý kiến trước lựa chọn: nên hòa hay nên đánh. Câu trả lời: “Quyết chiến!” lừng vang non sông và hai chữ “Sát Thát” thích trên cánh tay của từng quân sĩ đã nói lên tinh thần yêu nước vô song, ý chí bất khuất trước kẻ thù cực mạnh của toàn dân tộc.
Tháng 10-1282, vua Trần triệu tập Hội nghị Bình Than, cùng triều đình và các vương hầu bàn kế chống giặc. Trần Quốc Tuấn được cử làm Quốc Công Tiết Chế thống lĩnh ba quân. Theo hoạch định, quân ta bố trí đánh địch theo các hướng: mặt bộ ở Lạng Sơn, mặt biển ở Quảng Yên, còn đại quân tập trung chủ yếu ở khu vực Lạng Giang, Vạn Kiếp, Bình Than; phía nam sát biên giới với Chiêm Thành cũng có 3 vạn quân do Trần Quang Khải chỉ huy ngăn chặn địch.
Tại quân doanh Vạn Kiếp, khi nghe tin quân tế tác (trinh sát) báo về là quân Nguyên đã bắt đầu hành binh tiến vào nước ta, Quốc Công Tiết Chế Trần Quốc Tuấn, một mặt sai người phi báo về kinh đô Thăng Long, một mặt điều thêm các tướng gấp đem binh tăng cường cho lực lượng trấn giữ biên thùy, như Lê Phụ Trần, Nguyễn Khoái. Và đặc biệt là có cả tướng thiếu niên Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng: “Phá cường địch, báo Hoàng Ân” (Phá giặc mạnh, báo ơn vua).
Thoạt đầu, quân Nguyên đánh chiếm ải Chi Lăng và tấn công ải Nội Bàng. Như lần kháng chiến trước, quân ta vẫn áp dụng chiến thuật vừa đánh vừa rút, tiêu hao và làm chậm bước tiến của địch, đồng thời bảo toàn lực lượng trước sức mạnh ban đầu của chúng. Mất Lạng Sơn, sau khi đánh chặn từng bước, ta lui dần về Lạng Giang.
Thấy chủ lực Đại Việt tập trung ở vùng Lạng Giang - Vạn Kiếp; Thoát Hoan chia quân làm ba mũi đánh vỗ mặt và hai bên sườn, định hợp vây tiêu diệt.
Đoán biết được ý đồ đó và trước tình thế vẫn còn nhiều bất lợi, Trần Quốc Tuấn chủ trương: “Nguyên binh khí nhuệ đang hưng, kíp đánh chẳng bằng kiên thủ chờ suy”. Hiểu được ý nghĩa “kiên thủ chờ suy” theo quan niệm của Trần Quốc Tuấn, mới may ra thấy được thiên tài quân sự của ông. Công - Thủ là hai mặt tương phản lưỡng nghi của một cuộc vận động trong chiến tranh, chúng chuyển hóa qua lại nhau, do đó mà trong công có thủ và trong thủ có công. Tùy theo sự biến chuyển của tình thế chiến tranh (tùy vào sự thay đổi về địa hình địa vật, tùy vào sự biến chuyển trong tương quan lực lượng do tác động của môi trường (của điều kiện địa lý, thời tiết khí hậu thiên nhiên, của quyền mưu, bày binh bố trận của chính con người, của hai bên tham chiến…), tùy vào sở đoản sở trường lúc ấy của mỗi bên), tùy từng giai đoạn, từng lúc, từng nơi mà chọn được phương thức đấu tranh chủ yếu là công hay thủ cho phù hợp và trong những điều kiện nhất định, có thể lấy công làm thủ và lấy thủ làm công. Tuy nhiên mục đích cuối cùng của chiến tranh là giành phần thắng, cho nên xét về toàn cục thì tiến công tiêu diệt vẫn là phương thức nổi trội, có tính nền tảng trong mối quan hệ công - thủ, và luôn được ưu tiên lựa chọn. Cũng vì thế mà một vị tướng tài là người biết chủ động tiến công ngay cả khi phòng thủ, chủ động phòng thủ là tích cực tấn công từng nơi từng lúc khi có cơ hội, là tích cực vận động để tạo dựng tình thế có lợi, chờ đợi thời cơ chín muồi để chuyển sang phản công đánh thắng lợi. “Kiên thủ chờ suy” theo cách hiểu của Trần Quốc Tuấn có lẽ là như thế chăng?
“Kiên thủ chờ suy” là cách đánh tất yếu của một lực lượng yếu hơn về thế và lực trước đối phương, nếu muốn giành thắng lợi cuối cùng. Đối với nước ta, đất không rộng, người không đông, nên “kiên thủ chờ suy” là cách đánh luôn được dân tộc ta lựa chọn trước những đội quân xâm lược hung hãn, có sức mạnh ban đầu áp đảo, và luôn chế ngự được ý chí đánh nhanh thắng nhanh của chúng. “Kiên thủ chờ suy” cùng với “toàn dân vi binh” đã là những phương châm quân sự có tính truyền thống, được nâng lên thành một nghệ thuật đầy sáng tạo và hết sức độc đáo của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng: chỉ những cuộc kháng chiến chính nghĩa, với những thủ lĩnh xuất chúng mới có thể áp dụng vào thực tiễn một cách trọn vẹn hai phương châm ấy. Đối với dân tộc ta, cách đánh “kiên thủ chờ suy” không phải tự dưng mà có, không phải đột nhiên mà Trần Quốc Tuấn nghĩ ngay ra được. Cách đánh đó được đúc kết từ máu xương của các cuộc kháng chiến trước, được rút ra từ những bài học đau thương trong những lần chống xâm lăng thất bại. Hơn thế nữa, chìm đắm trong suy tưởng của mình, chúng ta còn cho rằng: cách đánh ấy có nguồn cội từ kinh nghiệm đấu tranh trường kỳ với thiên nhiên đặc thù sông nước, quanh năm lũ lụt bão dông của tổ tiên ông cha ta, từ công cuộc trị thủy khởi đầu sâu xa trong tiền sử: đối phó với cơn thác lũ, phải đắp đập, be bờ, lập đê phòng chống; khi thác lũ quá cuồng nộ thì chọn chỗ đóng giữ, chọn nơi mở thoát, cuồng nộ hơn nữa thì tạm thời rút tản, nhưng rút lui không phải là chạy dài, phân tán không phải là tan rã, mà rút tản ra xung quanh, lên những nơi có thế đất cao, chủ động lên thượng nguồn để ngăn phá gốc lũ; khi cái cuồng nộ ban đầu do bị dàn trải, do bị tiêu hao… làm cho yếu đi, thì sau tiếng hô hào, lại đồng lòng xông xuống bao vây, chia cắt, tiêu thủy, điều thủy, tiếp tục đời sống trước kia. Câu chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh đã gợi cho chúng ta ý niệm đó. Ngày nay trong ca dao tục ngữ cũng còn thấy man mác những hàm ý về “Kiên thủ chờ suy”:
Phượng hoàng đậu chốn cheo leo
Sa chân lỡ bước phải theo đàn gà
Bao giờ gió thuận mưa hòa
Thay lông đổi cánh lại ra phượng hoàng
¯
Con ơi nhớ lấy lời cha
Mồng năm tháng chín thật là bão rươi
Bao giờ cho đến tháng mười
Thì con vào lộng ra khơi mặc lòng
¯
Những người đi biển làm nghề
Thấy dòng nước nóng thì về đừng đi
Sóng lừng bụng biển ầm ì
Bão mưa ta tránh vội gì ra khơi.
¯
Chớ thấy sóng cả mà lo
Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng

Thả trí não “lơ đãng” một chút cho bớt căng thẳng, chúng ta lại trở về chiêm ngưỡng Quốc Công Tiết Chế Trần Quốc Tuấn đánh trận.
Ngày 11 tháng 2 năm 1285, Thoát Hoan ra lệnh cho tướng Ô Mã Nhi, thống lĩnh thủy quân, tấn công Vạn Kiếp. Dù Trần Quốc Tuấn đã dày công bố trí trận địa phòng ngự đánh chặn, nhưng chẳng mấy chốc bị quân Nguyên phá vỡ. Quân ta lại tổ chức chặn địch ở Bình Than vào ngày 14 tháng 2, sau đó rút lui, dựa vào bờ nam sông Hồng bố trí lực lượng cản địch, yểm hộ cho đại quân tiếp tục rút. Quân Nguyên tốc chiến, đánh Vũ Ninh, Đông Ngàn (Bắc Ninh) rồi vượt sông Đuống, đến Gia Lâm. Ngày 18 tháng 2, ta và địch giao chiến trên bờ bắc sông Hồng. Ngày 19 tháng 2, quân Nguyên đánh lui được đạo binh tinh nhuệ bậc nhất của triều Trần do Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng chỉ huy, vượt sông, tràn vào Thăng Long bỏ trống. Lúc này toàn bộ quân dân ta đã rút khỏi kinh đô, chỉ để lại những đội quân nhỏ, tổ chức chiến đấu đến cuối tháng giêng. Trước khi rời kinh đô, vua Trần đã ra bố cáo: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc đến đều phải liều chết mà đánh, nếu sức không chống nổi thì cho phép lảng tránh vào rừng núi, không được đầu hàng”.
Thoát Hoan cho quân truy đuổi. Để đảm bảo cho đại quân và vua Trần kịp rút lui an toàn ra các lộ ven biển; tướng Trần Bình Trọng được lệnh chặn địch. Ngày 21 tháng giêng năm Ất Dậu (1285), trong trận giao chiến ác liệt với cánh quân của Quan Triệt, Lý Hằng ở Thiên Mạc (bên bờ sông Cái thuộc địa phận Hưng Yên ngày nay). Bảo Định Vương Trần Bình Trọng không may rơi vào tay giặc. Chúng dụ dỗ ông phản bội, ông quát thẳng: “Ta thà là quỉ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc!”. Giặc tức giận , trói ông vào cọc chôn giữa sông cho nước thủy triều lên dìm chết. Ông đã để lại tấm gương bất khuất cho ba quân tướng sĩ và cho muôn đời sau.
Khi mũi nhọn của quân Nguyên đến được Trường An  (Ninh Bình) thì một bộ phận của đại quân ta đã vượt dãy Tam Điệp về tập trung ở Thanh Hóa.
Trong những ngày này hàng loạt tin dữ từ các mặt trận gửi về:
Bảo Định Vương Trần Bình Trọng tử trận.
Ngày 1 tháng 2, Chương hiến hầu Trần Kiện và Lê Tắc trấn giữ Thanh Hóa đã đem tất cả gia quyến sang hàng giặc (về sau Trần Kiện bị gia nô của Trần Quốc Tuấn là Nguyễn Địa Lô giết chết). Thanh Hóa - Nghệ An đóng vai trò là hậu cứ hết sức quan trọng của cuộc kháng chiến. Đây là nơi tích trữ binh lương để đánh lâu dài với giặc, là nơi trú chân của 10 vạn quân dự bị của ta. Sự kiện đầu hàng của bọn Trần Kiện, Lê Tắc đã gây không ít tổn thất cho quân nhà Trần, làm tình thế của ta càng lâm vào bất lợi.
Ngày 2 tháng 2, các tướng Trần là Nguyễn Tất Dũng, Đinh Xá tử trận ở Thanh Hóa.
Ngày 3 tháng 3, đạo quân ở Đại Hoàng Giang (khúc sông Cái thuộc Lý Nhân, Hà Nam) bị giặc phục đánh. Văn Nghĩa hầu Trần Tú Viên và Văn Chiêu hầu Trần Văn Lộng đầu hàng.
Đặc biệt là hai tin: đạo quân của thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải bị quân Toa Đô có bọn Trần Kiện giúp sức, đánh thua ở Nghệ An, và Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, kẻ từng thèm khát ngôi vua, thèm khát cả chức Tiết chế, đã đem cả gia quyến sang hàng giặc.
Có sách kể: Quá nao lòng, mặc cho Trần Quốc Tuấn can gián, vua Trần đã sai Trung Hiếu hầu Trần Dương đi thương thuyết với Thoát Hoan, dâng công chúa An Tư (em út của Thượng hoàng Thánh Tông) cho Thoát Hoan để xin được thư nạn nước. Thực lòng, chúng ta không tin tính chân thực của sự kiện lịch sử này vì nó bộc lộ ra những phi lý. Phải chăng trong quá trình đánh lạc hướng địch để vua Trần vượt thoát ra biển, công chúa An Tư đã bị bắt? Là em út của Thánh Tông và là cô của Nhân Tông, thì năm đó nàng bao nhiêu tuổi? An Tư là Thụy Bảo hay là ai khác? Có thể là trước nguy cơ bị quân Nguyên hợp vây (quân Thoát Hoan tràn xuống, quân Toa Đô từ Thanh Hóa tiến ra) tiêu diệt, hai vua Trần (Thượng Hoàng và Nhân Tông) đã thực hiện kế giả hòa để tạo điều kiện cùng quân ta (bộ phận còn lại) rút lui ra biển an toàn và kịp thời về phía Vạn Kiếp hội với đại quân của Trần Quốc Tuấn. Còn có một sự kiện nữa để giải thích trường hợp của công chúa An Tư: tại Giao Hải, đám Văn Nghĩa hầu Trần Tú Hoãn cùng bố, em trai, con trai, con rể… đã không theo vua Trần mà ra hàng giặc. Phải chăng do một nguyên nhân đặc biệt nào đó mà trong đó có cả công chúa An Tư, như một vô tình?
Đến tháng 3 năm 1285, sau ba tháng tác chiến, quân Nguyên đã chiếm được kinh thành và một bộ phận lớn đất nước Đại việt. Trước tình hình đó và dù đang vấp phải hàng loạt khó khăn to lớn cũng như những tổn thất không nhỏ nhưng Trần Quốc Tuấn vẫn không hề nao núng. Ông theo sát diễn biến ở các chiến trường, đề ra kịp thời những nhiệm vụ cần kíp thực hiện cho các bộ phận để phối hợp hành động, tăng cường và mở rộng đánh tập kích, quấy phá, gây rối, đánh kìm chân địch, tiêu hao địch, bắt chúng phải giãn quân ra chống đỡ, đồng thời vẫn bảo toàn được lực lượng chủ lực, chờ thời cơ.
Tương tự lần xâm lược trước, lần này cũng vậy, ỷ vào lực lượng quá mạnh, chủ quan tưởng đánh thắng nhanh được, quân Nguyên không tải theo nhiều lương thảo. Bị cầm chân và phân tán nhiều nơi trong cảnh vườn không nhà trống, cướp bóc khó khăn, quân Nguyên bắt đầu thiếu lương thực, vừa bị ảnh hưởng xấu vì không quen thung thổ khí hậu, vừa luôn bị đánh quấy phá tiêu hao, quân Nguyên giảm dần sức chiến đấu, lâm dần vào thế sa lầy ngày càng nghiêm trọng. Để nhằm giải quyết thế bí, Thoát Hoan lệnh cho Toa Đô hành binh gấp rút ra Bắc, đồng thời xin thêm viện binh.
Trước đó, để tránh thế gọng kìm của giặc, Trần Quốc Tuấn đã phái danh tướng Phạm Ngũ Lão đem quân vào Nghệ An, hợp sức với Trần Quang Khải phá giặc. Tuy đã bị đánh chặn ở vùng giáp ranh Nghệ An - Thanh Hóa nhưng sau khi đã hợp quân với Ô Mã Nhi, quân Nguyên vẫn mở được đường tiến ra.
Quân Nguyên dù còn đông nhưng hành động của chúng đã trở nên lúng túng, bị động và bộc lộ điểm yếu. Tình thế đã chuyển biến rất có lợi cho thế và lực của quân ta. Trần Quốc Tuấn đã xuất sắc thấy được điều đó và chớp thời cơ chuyển sang phản công chiến lược. Hai vua Trần lại dẫn quân vượt biển vào Thanh Hóa thực hiện kế hoạch lập thế trận.
Mục tiêu công phá đầu tiên của quân ta là đạo quân Toa Đô. Đạo quân này đã mệt mỏi, xuống tinh thần vì chiến tranh với Chiêm Thành, vì bị Trần Quang Khải tổ chức chống cự, đánh chặn liên tiếp, vì mới hành quân từ xa đến còn chân ướt chân ráo, lại đang thiếu thốn lương thực. Trận đánh mở màn do đích thân Trần Quốc Tuấn chỉ huy, đánh vào đại đồn A Lỗ (thuộc Nam Định). Quân Trần xung phong với tinh thần quyết thắng đã nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa, đánh tan tác quân của Vạn hộ Lưu Thế Anh, buộc viên tướng mẫn cán này phải tháo chạy. Quân ta tiếp tục tiến đánh bến Tây Kết (Hưng Yên). Đồng thời, với 5 vạn quân do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chỉ huy, mai phục đón đánh địch ở cửa Hàm Tử (thuộc Khoái Châu, Hưng Yên). Trong trận đụng độ lớn và ác liệt này, đội quân tiền vệ của Toa Đô bị tiêu diệt, Toa Đô phải lui lại cửa biển Thiên Trường, hoàn toàn mất liên lạc với Thoát Hoan. Đến đây, đại quân của giặc đã bị chia cắt ra làm hai.
Khí thế quân dân nhà Trần lên cao ngút trời!
Sau chiến dịch, Trần Quốc Tuấn nhận định: “Quân ta mới thắng, khí lực đương tăng, mà quân Nguyên mới thua tất cũng chột dạ. Vậy nên nhân dịp này tiến quân đánh Thoát Hoan để khôi phục kinh thành”.
Để thực hiện ý đồ đó, Trần Quốc Tuấn hạ quyết tâm mở chiến dịch Chương Dương - Thăng Long. Đây là một trận đánh rất lớn, mang ý nghĩa quyết chiến chiến lược, mà cũng rất tài tình.
Đầu tiên, Trần Quang Khải, cùng sự trợ giúp của các tướng Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Toản, tiến công mãnh liệt Chương Dương, đánh mạnh vào đạo binh thuyền khổng lồ bảo vệ mạn nam Thăng Long. Nếu mất Chương Dương, quân Thoát Hoan ở Thăng Long sẽ lâm nguy, do đó Thoát Hoan phải tổ chức nhiều cánh quân đi cứu viện. một bộ phận kỵ binh, lực lượng tinh nhuệ, nòng cốt của địch, bị nhử ra ngoài kinh thành. Kết hợp với quân địa phương, dân binh quanh Thăng Long, quân triều đình tổ chức mai phục diệt viện hiệu quả, đánh quân địch đi ứng cứu thua tơi bời.
Chương Dương mất, Thoát Hoan phải vội đốc đại binh ra ứng chiến. Phát huy chiến quả và trước một Thăng Long đang bộc lộ sơ hở, quân ta do Phạm Ngũ Lão chỉ huy, xuất kỳ bất ý theo hướng khác đánh thọc sâu vào phường Giang Khẩu (Hàng Buồm) của Kinh Thành. Để tránh bị vòng vây đang ngày càng siết chặt của quân ta tiêu diệt, Thoát Hoan phải rút chạy, vượt qua sông Hồng lên Kinh Bắc (thuộc Bắc Giang). Tại đây, Thoát Hoan củng cố quân còn lại, thu nhặt tàn binh, rút lực lượng ở các đồn binh lẻ về, ước lượng còn khoảng 10 vạn tên, tổ chức phòng thủ.
Thế là sau hơn 3 tháng (từ 19-2 đến khoảng cuối tháng 5-1285) bị chiếm đóng, kinh thành Thăng Long đã được giải phóng.
Không để cho quân địch kịp hoàn hồn, liên kết được với nhau, một mặt, Trần Quốc Tuấn khẩn trương cho các cánh quân truy sát lực lượng của Thoát Hoan, hành binh đến những vị trí đã định nhằm chuẩn bị thế trận đánh tiêu diệt đạo quân ấy, truyền lệnh đi các lộ kêu gọi dân binh nổi lên quét giặc trừ gian, một mặt huy động đại quân từ Thanh Hóa ra, gấp rút tiến về phía Tây Kết, ngăn chặn ý đồ hội sư của đạo quân Toa Đô với Thoát Hoan. Bắt đầu từ đây, hàng loạt trận đánh liên hoàn tạo nên một đại thắng bộc lộ rực rỡ thiên tài quân sự của vị Quốc Công Tiết Chế.
Bắt đầu từ ngày 7-6-1285, quân ta tập kích mạnh mẽ vào đạo quân Toa Đô đóng quân thành ba trại lớn trong đoạn từ Thiên Trường tới Tây Kết, lần lượt đánh tan địch ở Trường Yên rồi tập trung đánh thẳng vào Tây Kết. Để chặn đường rút của giặc, Trần Quốc Tuấn sai Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng đem quân phục vùng sau núi Tây Kết. Quân Nguyên quyết liệt chống cự nhưng rồi cũng mau chóng bị đánh tơi tả. Tàn quân địch tháo chạy ra biển đúng như phán đoán của Trần Quốc Tuấn, lọt vào trận địa phục kích, bị một đòn nữa, tan tành. Toa Đô bỏ mạng trong đám loạn quân, Ô Mã Nhi may mắn cướp được thuyền con vượt thoát ra biển. Trong chiến dịch này, quân nhà Trần tiêu diệt và bắt sống không dưới 8 vạn quân địch.
Cuối tháng 6-1285, Trần Quốc Tuấn tiến quân, đánh tăng cường đạo quân Thoát Hoan ở Bắc Giang. Trước đó, cũng như trận Tây Kết, phán đoán chính xác diễn tiến tiếp theo của tình hình, ông đã cho triển khai lực lượng đánh chặn một cách tài tình: cử Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Khoái đem 3 vạn quân lẻn đường núi phục sẵn tại khúc sông ở Vạn Kiếp; cử các con mình là Hưng Vũ Vương Quốc Hiến, Hưng Hiến Vương Quốc Uy đem 3 vạn quân đi đường Hải Dương ra Quảng Yên chặn đường về Châu Tư Minh (Trung Quốc).
Thoát Hoan, kẻ trong những ngày đầu dẫn binh hùng tướng mạnh rầm rộ xâm lược nước ta; đã từng ngạo mạn tuyên bố bắt vua Trần và Tiết Chế Trần Quốc Tuấn bỏ rọ đem về nước, biến dân Đại Việt thành tôi mọi, đã vừa phải chịu những thất bại ê chề và giờ đây vẫn chưa tỉnh ngộ, đã thực hiện những hành động ngu xuẩn nhất. Không thấy được cục diện chiến tranh đã biến đổi rất sâu sắc và thất bại là không thể cứu vãn được, ỷ vẫn còn hơn 10 vạn quân trong tay và cũng có thể là do lòng tự ái không thể kìm nén được, của một tâm thần đã lỡ quá ư tự phụ, Thoát Hoan quyết định nghênh chiến với Quốc Công Tiết Chế của nhà Trần, bỏ lỡ cơ hội rút lui an toàn về nước. Và điều thuận lẽ tự nhiên đã xảy ra: không địch nổi với lực lượng càng đánh càng mạnh, hừng hực quyết thắng, quân Nguyên cả bộ binh lẫn kỵ binh tinh nhuệ, bị vỡ từng mảng, rút cục là tháo chạy. Quân Nguyên rút chạy đến sông Như Nguyệt (sông Cầu) thì gặp quân truy kích của Trần Quốc Toản, chạy đến sông Thương thì sa vào trận phục kích của Phạm Ngũ Lão. Tại đây, bị chặn đầu chặn đuôi đánh tới tấp, quân Nguyên căn bản tan rã. Lý Hằng, tướng nhà Tống bỏ theo quân Nguyên, phục vụ mẫn cán trong đội quân xâm lược nước ta, bị bắn chết tại trận. Cánh quân Đường Ngột Đãi bắc cầu phao qua sông ứng cứu, bị quân mai phục từ rừng đổ ra đánh, làm đứt cầu phao nên bị chết vô số kể. Thoát Hoan cùng số ít tàn quân cắm đầu chạy thục mạng về phía biên giới, gặp quân ta phục sẵn đánh cho một trận nữa. Bản thân Thoát Hoan phải chui vào ống đồng đặt trên xe mới thoát chết chạy về được đến Tư Minh. Một đám tàn quân khác định rút chạy về Vân Nam, khi qua Phù Ninh (Bắc Ninh), bị quân dân miền núi do Hà Đặc, Hà Chương chỉ huy tập kích, cũng tan tác nốt.
Đầu tháng 7-1285, trên đất nước Đại Việt đã không còn một bóng quân xâm lược. Ngót 60 vạn quân Nguyên hầu hết bị tiêu diệt và bắt làm tù binh (khoảng 5 vạn; sau này được nhà Trần tha cho về), chỉ còn một số ít không đáng kể chạy thoát.
Cuộc kháng chiến lần thứ hai chống quân xâm lược của quân dân nhà Trần đã thắng lợi vẻ vang. Chiến thắng vĩ đại ấy của một đất nước nhỏ nhoi, với dân số khoảng 6 triệu người, trước 60 vạn quân thiện chiến, khét tiếng khắp đất Á trời Âu, phải chăng là một kỳ quan?!
Nghe tin Thoát Hoan đại bại, Hốt Tất Liệt phải đình chỉ xâm lược Nhật Bản, chuyển quân và thuyền chiến xuống phương nam vì không khuất phục được Đại Việt thì không thể nói đến việc thực hiện ý đồ thâu tóm toàn bộ các nước phía Đông Nam Châu Á vào lãnh thổ đế quốc Nguyên. Mặt khác cũng vì bị thất bại cay cú và vì thể diện của một nước lớn mà phải đánh cho được Đại Việt. Vậy đánh Đại Việt một lần nữa trở thành sự lựa chọn ưu tiên hàng đầu.
Ngày 17-3-1286, Hốt Tất Liệt điều động 6 vạn quân thiện chiến, lại điều động quân ở Vân Nam và ra lệnh đóng gấp thêm 300 thuyền chiến. Bên cạnh đó, Hốt Tất Liệt còn phong cho Trần Ích Tắc là An Nam Quốc Vương, dựng nên một triều đình bù nhìn để chờ ngày đưa về nước ta làm tay sai cho chúng.
Tuy nhiên tiến độ thực hiện khâu chuẩn bị của Hốt Tất Liệt gặp phải nhiều khó khăn lớn, trong đó chủ yếu là do sự phản kháng của nhân dân miền Nam Trung Quốc, thể hiện bằng hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, gây trở ngại cho việc thu lương thực và tập trung quân. Mãi đến đầu năm 1287, nhà Nguyên mới tập kết được đầy đủ binh lực, gồm 50 vạn quân và các tướng Áo Xích Lỗ, A Bát Xích, Trịnh Bằng Phi, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp; cùng 50 thuyền chiến, 17 vạn thạch lương của tướng Trương Văn Hổ, tất cả đặt dưới quyền tổng chỉ huy của Thoát Hoan (lại Thoát Hoan?!). Lần chuẩn bị này, rút kinh nghiệm hai lần trước, quân Nguyên đặc biệt chú ý tới việc tải lương và chủ trương đánh lấn kiểu “tằm ăn dần dà”. Đâu vào đấy, Hốt Tất Liệt hạ lệnh xuất quân đánh Đại Việt lần thứ ba với lời dặn: “Không được cho Giao Chỉ là nước nhỏ mà khinh thường”.
Quân dân Đại Việt lại đứng trước một thử thách mới. Lần này, khi vua Trần hỏi: “Năm nay thế giặc ra sao?”, Trần Quốc Tuấn trả lời dứt khoát: “Năm nay thế giặc dễ đánh!”
Ngày 25-12-1287, quân Nguyên vượt biên giới xâm phạm nước ta. Chúng chia làm ba mũi: một mũi tiến từ Vân Nam do tướng Áo Lỗ Xích chỉ huy, đại quân do Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy tiến vào vùng biên giới phía Bắc, thủy quân của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp cùng đoàn thuyền tải lương của Trương Văn Hổ xuất phát từ Khâm Châu, dong buồm tiến vào vùng biển Đại Việt.
Ở các hướng tiến quân của giặc, quân ta đều tổ chức đánh ngăn chặn, bám đánh tiêu hao liên tục. Đại quân ta tập trung ở vùng Hải Dương, Thái Bình.
Cánh quân giặc do Áo Lỗ Xích chỉ huy đánh nhau với quân Trần Nhật Duật ở Bạch Hạc rồi tiến xuống Phú Lương. Quân ta lui về chặn đứng giặc tại Tam Đại Giang (Việt Trì). Hướng khác, khi thủy binh giặc tiến tới Vạn Ninh, quân ta phục kích đánh chúng ở Lạng Sơn (khoảng gần Vạn Ninh, dưới Ngọc Sơn), sau đó lui về khu vực Bắc Giang, Vạn Kiếp, để lại một bộ phận phân tán cùng quân địa phương, dân binh tổ chức đánh nhỏ sau lưng địch. Ở hướng biển quân ta cũng bám đánh Ô Mã Nhi và lui dần từng bước. Đoàn binh thuyền của Ô Mã Nhi rồi cũng tiến được vào cửa An Bang (Quảng Ninh), tiếp tục theo sông Bạch Đằng tiến về phía Vạn Kiếp.
Khoảng thời gian nửa đầu tháng 1-1288, đại quân Thoát Hoan, quân của Trịnh Bằng Phi và thủy binh của Ô Mã Nhi đã hội sư được ở khu vực Phả Lại - Chí Linh. Lợi dụng địa hình và mạng đường thủy bộ ở đây, chúng bố trí lực lượng, xây dựng Vạn Kiếp thành căn cứ vững chắc cho mục đích chiếm đóng lâu dài, làm chỗ dựa và là bàn đạp để từ đó xuất phát tiến đánh các nơi.
Bị nghi binh thu hút, lầm tưởng chủ lực quân Trần tập trung ở khu vực Thăng Long, địch tiến công về hướng đó. Cuối tháng 1-1288, đại quân Thoát Hoan vượt sông Hồng, đánh vào kinh đô. Sau khi đánh bật được quân ta ở Đại Than, ngày 2-2-1288, Thoát Hoan tiến vào Thăng Long đã bỏ trống từ lâu. Nhân dân Thăng Long đã cất dấu hết lương thực, triệt để “thanh dã” và tích cực chặn đánh địch đi sục sạo cướp phá.
Thoát Hoan tiếp tục tiến công, đánh các căn cứ quân ta đóng giữ dọc sông Hồng. Ô Mã Nhi xuôi theo sông Hồng đuổi theo quân ta và vua Trần về phía Hưng Yên. Cay cú lần thất trận và suýt bỏ mạng ở Tây Kết trước đây, Ô Mã Nhi rất căm tức; phao tin: “Ngươi (tức vua Trần) chạy lên trời ta theo lên trời, chạy xuống đất ta theo xuống đất, trốn lên núi ta theo lên núi, lặn xuống nước ta theo xuống nước”. Nhưng vua Trần đã kịp vào đến Thanh Hóa. Không làm gì được, hắn tung quân cướp phá, giết chóc nhân dân tàn khốc, quật cả mộ của Trần Thái Tông ở phủ Long Hưng (Thái Bình).
Do tình thế và mục đích đòi hỏi mà bất cứ cuộc xâm lược nào đều tất yếu ưu tiên lựa chọn đánh nhanh thắng nhanh. Muốn đạt được điều đó thì phải tìm và tiêu diệt được lực lượng chủ lực của quân kháng chiến. Hội quân đến Vạn Kiếp không thấy đại quân nhà Trần, Thoát Hoan khẩn trương đánh tràn xuống Thăng Long cũng không thấy đâu, rồi hối hả đánh dọc sông Hồng, ồ ạt đến tận Thiên Trường cũng uổng công vô ích, không những mất tung tích vua Trần mà đại quân cùng với bộ phận tướng lĩnh tối cao của nhà Trần vẫn biệt tăm, không biết ở đâu và đang hành động gì. Chính vì thế mà quân Nguyên đã không gặt hái được chiến quả tạo tình thế có lợi nào mà còn lâm vào bị động, lúng túng và nguy hiểm. Thoát Hoan chẳng còn cách nào hay hơn, đành thu quân vội vàng lui về Thăng long.
Giữa lúc ấy, quân ta lại hoạt động mạnh quấy nhiễu, đánh phá ở phía sau, nhất là tìm cách triệt tiêu các đoàn quân hậu cần, tải lương thực và tiếp tế khí cụ chiến tranh của giặc. Ở trên bộ, ngày 1-2-1288, quân ta chặn đánh đám hậu quân của địch, trong đó có lực lượng tải lương, xe cộ quân nhu do Hà Chỉ chỉ huy, có cả lũ việt gian Lê Tắc tại cửa ải Nội Bàng, vùng gần sông Bình Giang (tức sông Thương). Trận đánh xảy ra kịch liệt suốt một ngày một đêm. Cuối cùng quân giặc bị đánh tan, 5 ngàn tên bị tiêu diệt, còn vài mống chạy thoát về biên giới. Đặc biệt, ở ven biển, thủy quân ta đánh tan tác, triệt tiêu toàn bộ đoàn thuyền tải lương thực, cỏ cho ngựa, vũ khí do Trương Đình Hổ chỉ huy (là khối lượng hậu cần chủ yếu, tối cần thiết của quân Nguyên)
Do biết được lần xâm lược này, quân Nguyên rất chú trọng đến thủy quân, đã tổ chức được một đội thủy binh mạnh, nên ngay từ đầu, trong thời gian chuẩn bị kháng chiến, Trần Quốc Tuấn đã cho đắp kè đá ở Kênh Thục, chuẩn bị sẵn cọc gỗ, bố trí nhiều quân tướng chặn đánh giặc ở miền ven biển và giao trọng trách này cho vị tướng lão luyện Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư.
Nhiều nhà sử học xưa nay cho rằng có thể là do sơ suất trong việc bố trí trận địa, điều binh, mà Trần Khánh Dư đã đánh chặn đạo thủy binh của Ô Mã Nhi không hiệu quả, để cho chúng dễ dàng đi qua bến Vân Đồn để kịp hội quân với Thoát Hoan ở Vạn Kiếp mà không chịu thiệt hại quan trọng nào và như thế Trần Khánh Dư đã không hoàn thành nhiệm vụ. Vì lẽ đó mà vua Trần đã buộc tội Trần Khánh Dư. Theo chúng ta thì có thể vua Trần vì nhận định tình hình chưa hết, đã có phần vội vã trong việc kết tội đó. Cần thấy rằng binh lực của Ô Mã Nhi lúc đó, so với của Trần Khánh Dư là rất mạnh. Nếu cố gắng đánh ngăn chặn quyết liệt ở Vân Đồn để có được những tổn thất đáng kể về phía địch, thì chắc chắn về phía ta cũng phải chịu những thiệt hại không nhỏ. Quyết đánh trong tình huống đang bất lợi như thế, vừa không đem lại những chiến quả tạo lợi thế nổi bật nào, vừa vô ích làm cho quân lực ta suy yếu đi, hơn nữa, đoàn quân lương, nhu cầu cốt tử của giặc sẽ đến được với Thoát Hoan. Mặt khác, nếu hành động như thế sẽ trái hoàn toàn với chủ trương “Kiên thủ chờ suy” của Trần Quốc Tuấn. Trong thâm tâm Trần Khánh Dư, vị tướng tài năng đã kinh qua trận mạc của cuộc kháng chiến lần thứ 2, phải chăng đã nhận thức như thế và cho Ô Mã Nhi dù bị đánh chặn vẫn qua dễ dàng Vân Đồn là chủ ý của ông? Có một sự kiện lạ lùng đã xảy ra mà đời sau rất khó giải thích. Đó là khi có trung sứ (đặc phái viên triều đình) đem lệnh Thượng hoàng Thánh Tông tới Vân Đồn, bắt Trần Khánh Dư về trị tội thì ông chỉ xin với trung sứ thế này: “Lấy quân luật mà xử, tôi xin chịu tội, nhưng xin hoãn cho vài ba ngày, để tôi lập công chuộc tội, rồi sẽ chịu búa rìu cũng chưa muộn”, và vị trung sứ kia nghe theo, vẫn để cho ông tiếp tục cầm quân chiến đấu. Quân luật nhà Trần thời đó rất nghiêm: “quân pháp vô thân” (phép quân không kiêng nể riêng ai). Vì sao trung sứ giám không tuân lệnh Thượng hoàng? Ngẫm kỹ, câu nói trên của Trần Khánh Dư hình như đã hàm chứa những ý sâu xa. Tại sao ông quả quyết được chỉ “vài ba ngày” là chuộc được tội? Từ đâu mà ông dám chắc như thế? Trước vị trung sứ, ông đã nói những gì hay chỉ một câu này? Với chỉ một câu nói thực hư ra sao chưa biết mà vị trung sứ đồng ý “ngồi chờ” thì kể cũng “kỳ kỳ”. Chắc rằng diễn biến quân sự đang ở giai đoạn cần kíp và vị trung sứ đã hiểu ra điều gì đó…
Trần Khánh Dư bố trí quân và thuyền chiến suốt một dải từ Vân Đồn (gần Cẩm Phả) tới Cửa Lục (phía Hòn Gai), theo trình tự càng gần tới Cửa Lục thì lực lượng của ta càng mạnh. Khi đoàn thuyền lương cửa Trương Văn Hổ cùng lực lượng quân bảo vệ tới Vân Đồn, chỉ có 30 chiến thuyền của quân ta đón đánh. Khi giặc tới Cửa Lục thì đụng phải binh thuyền rất đông của ta ở đó. Giặc không chống cự nổi, bị tiêu diệt hết, Trương Văn Hổ cùng vài tùy tùng tháo chạy trên một chiếc thuyền. Sử ta ghi: “Bắt được quân lương, khí giới của giặc nhiều không kể xiết, bắt sống quân giặc rất nhiều” (Đại Việt sử ký toàn thư). Trận đánh này có ý nghĩa hết sức quan trọng, cùng với trận Nội Bàng đã triệt phá hoàn toàn quân lương cũng như lương thực và trang thiết bị chiến tranh hậu thuẫn của quân Nguyên, trở thành một trong những nguyên nhân chính yếu dẫn đến sự thất bại chóng vánh của chúng. Sau này, có thời gian các cuộc hành binh của chúng không phải là tìm đánh quân ta mà thực chất là đi lùng sục, tìm kiếm, cướp bóc lương thực.
Đứng trước tình hình thiếu thốn lương ăn ngày một nghiêm trọng mà đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, chờ mãi vẫn không thấy đâu đồng thời lại bị quân ta tăng cường hoạt đông quân sự vùng sau lưng như đã nói, còn tuyến giao thông từ Tư Minh sang, từ biển vào cửa Nội Bàng đều bị quân ta uy hiếp, cắt đứt; Phả Lại - hậu cứ được cho là an toàn của địch - bị tập kích; và ngay tại Thăng Long cũng đã xuất hiện mối đe dọa bị bao vây, cô lập, Thoát Hoan vội vã quyết định rút khỏi Thăng Long, trở lại Vạn Kiếp. Nằm trong kế hoạch đó, Ô Mã Nhi được lệnh đưa binh thuyền ra gấp cửa Nội Bàng (cửa Văn Úc ngày nay), theo ven biển ngược lên cửa An Bang, tìm đón đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ rồi theo sông Bạch Đằng về hội quân tại Vạn Kiếp. Ô Mã Nhi mới đến Tháp Sơn (có thể là Đồ Sơn, tại đó xưa có tháp lớn) thì bị thủy quân nhà Trần chặn đánh. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” thì: “Ngày mồng 8 (tức ngày 10-2-1288), quan quân hội chiến ở ngoài cửa biển, bắt được 300 thuyền và chém 10 đầu giặc. Quân Nguyên chết đuối rất nhiều”. Dù chịu tổn thất, binh thuyền mạnh của giặc vẫn vượt qua được.
Ngày 5-3-1288, Thoát Hoan cùng Áo Lỗ Xích và đại quân của chúng rời khỏi Thăng Long. Khi xuống Thăng Long từ Vạn Kiếp, giặc chỉ giao tranh hai lần với quân ta thì cũng quãng đường ấy khi trở về, giặc phải hành quân rất vất vả vì phải vượt qua 32 chốt chặn của quân ta đánh tiêu hao quyết liệt.
Thế là sau 32 ngày bị chiếm đóng, kinh thành Thăng Long lại sạch bóng quân Nguyên. Lần này, chính khí thiêng sông núi đã như một luồng gió mạnh quét chúng đi.
Quay về Vạn Kiếp là hành động tự phơi bày rõ ràng yếu huyệt của quân Nguyên: mọi nỗ lực hành binh hao người tốn của để mau chóng bao vây tiêu diệt chủ lực đối phương đã trở nên vô ích và vô vọng; không thể dàn binh đánh lâu dài được. Co cụm về Phả Lại - Chí Linh có nghĩa rằng quân Nguyên đã không những phải từ bỏ kế hoạch đánh thắng nhanh để lúng túng bị động quay về phòng thủ mà còn làm cho mục đích của cuộc xâm lược trở nên xa vời, nếu không muốn nói là đã hoàn toàn tiêu tan.
Ngay tại Vạn Kiếp, quân Nguyên cũng không thể yên ổn. Tình hình thiếu thốn lương thực buộc chúng phải tổ chức những cuộc càn quét ra xung quanh để vơ vét miếng ăn và luôn bị chặn đánh, chưa kể hàng đêm luôn bị quân cảm tử của ta tập kích đánh phá vào quân doanh. Hy vọng cuối cùng để giải quyết tình trạng quẫn bách là Ô Mã Nhi cùng đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đến được Vạn Kiếp. Rút hay tiếp tục cuộc chiến tranh đều phải dựa cả vào đấy. Thoát Hoan sốt ruột đã cho A Bát Xích đem quân xuống Trúc Đông (thuộc Thủy Nguyên, Hải Phòng), ra cửa An Bang đến tận Tháp Sơn để tìm lực lượng của Ô Mã Nhi mà chẳng thấy đâu, lại còn luôn bị chặn đánh, đành phải bỏ về.
Nửa tháng sau khi Thoát Hoan rút từ Thăng Long về Vạn Kiếp, Ô Mã Nhi loay hoay trên biển chờ đón đoàn thuyền lương mà vẫn biệt tăm (vì còn đâu nữa!), đành quay vào đất liền, bị chặn đánh ở Trúc Động nhưng rồi cũng đến được Vạn Kiếp.
Thấy Ô Mã Nhi mà chẳng thấy đoàn quân lương, toàn bộ quân tướng ở Vạn Kiếp đều kinh hoàng: không giải quyết được nạn đói, thì nguy cơ bị tiêu diệt là ở ngay trước mặt. Bí cùng rồi thì còn nghĩ gì được nữa ngoài: “Tam thập lục kế, dĩ đào thượng sách” (Có 36 kế thì rút chạy là kế hay nhất). Thoát Hoan quyết định cấp tốc rút quân về nước.
Nhưng rút về lúc này cũng không phải chuyện dễ. Rút cách nào để tránh bị chặn đánh tiêu diệt vì Vạn Kiếp lúc này đã như cái rọ, trong thiên la địa võng giăng trận của quân nhà Trần? Có tướng thủy quân, vì đã trải nhiều thất bại “đau thương” trên biển nên hiến kế: “Thuyền lương hai lần vào đều bị hãm, chi bằng hủy thuyền đi đường bộ là thượng sách” (An Nam chí lược).
Rút lui kiểu “một cục” như thế thật nguy hiểm vì ngay lập tức sẽ bị quân ta phát hiện, tổng động viên binh lực đánh ngăn chặn, nhanh chóng tập trung bao vây tiêu diệt. Do đó Thoát Hoan quyết định rút lui theo hai đường thủy, bộ.
Nắm chắc tình hình quân Nguyên sớm muộn gì, không cần đánh cũng phải rút khỏi nước ta nên nhà Trần đã cho bố trí quân lực và gài đặt chướng ngại vật dày đặc khắp các nẻo đường bộ, đường thủy, những nơi hiểm yếu mà giặc có thể đi qua.
Vừa nhằm đảm bảo bí mật đến phút chót cuộc rút chạy, vừa nghi binh đánh lạc hướng, Ô Mã Nhi cùng Phàn Tiếp thống lĩnh toàn bộ lực lượng thủy quân đi trước, theo đường sông ra biển, hành động như một cuộc hành binh tiếp tục tiến công đánh phá nước ta. Thoát Hoan thống lĩnh bộ binh và kỵ binh vẫn nằm yên ở Vạn Kiếp, mười ngày sau mới đột ngột bí mật rút đi. Quyền mưu như thế kể ra cũng thuộc hạng cao cường đấy chứ? Nhưng “cao nhân tắc hữu cao nhân trị” (giỏi thì tất có người giỏi hơn trị được) và ở giữa cái bát quái trận đồ “toàn dân vi binh”, thì cái đạo quân đang đói và mất hết nhuệ khí ấy thoát đi đâu được?
Sông Bạch Đằng đã từng là chiến địa làm nên hai đại thắng rực rỡ chống quân xâm lược của tổ tiên chúng ta vào thế kỷ X: Ngô Quyền đánh tan tành quân Nam Hán vào đầu thế kỷ và Lê Hoàn phá nát bấy quân Tống vào cuối thế kỷ đó. Địa hình thiên nhiên vùng Bạch Đằng, bản thân nó, chẳng có gì gọi là hiểm yếu. Nhưng dưới cặp mắt quân sự sắc sảo và nhất là sự sáng tạo một cách hết sức tài tình, độc đáo đến bất ngờ trong việc chọn và tạo dựng chướng ngại vật mới làm cho cái địa hình ấy với qui luật lên xuống của con nước, trở thành cái bẫy khủng khiếp mà những viên tướng xâm lược tài ba nhất cũng bị mắc lừa. Thấy được cái hiểm yếu chết người tiềm ẩn trong thế núi hình sông vùng Bạch Đằng, công đầu thuộc về Ngô Quyền.
Đường thủy từ Vạn Kiếp ra biển là đi theo sông Lục Đầu, vào sông Kinh Thầy, xuôi sông Đá Bạc, xuống sông Bạch Đằng, qua phía trước dãy núi Tràng Kênh, rồi ra cửa biển Nam Triệu, hoặc cũng có thể từ sông Đá Bạc, qua Trúc Động, rẽ vào sông Giá, qua phía sau dãy núi ra cửa biển Nghiêu Phong (thời Trần gọi là cửa An Bang). Ô Mã Nhi hai lần từ biển đều vào cửa An Bang để lên Vạn Kiếp. Thượng lưu sông Bạch Đằng còn được dân địa phương gọi là sông Rừng. Khi triều lên, mặt sông rộng tới trên 1 km. Núi U Bò là ngọn cao nhất của dãy núi đá vôi Tràng Kênh, nằm ở bờ phải sông Rừng có thể làm nơi quan sát từ xa rất tốt. Bờ bên kia là rừng rậm bạt ngàn thuộc Yên Hưng. Có câu ca dao nói đến vùng này như sau:
                              “Con ơi nhớ lấy lời cha
                              Mưa nguồn, chớp giật chớ qua sông Rừng”
Đoàn thủy binh của Ô Mã Nhi với hơn 600 thuyền chiến rời Vạn Kiếp đâu có thể ngờ rằng đích đến cuối cùng của chúng gần đến thế: tại đoạn sông Bạch Đằng này. Và Bạch Đằng đang đứng trước một đại thắng lẫy lừng nữa của dân tộc Việt.
Các khúc sông từ thượng nguồn Bạch Đằng trở lên không rộng và với một lực lượng thuyền chiến nhiều như thế làm đội hình hành quân của giặc có thể kéo dài đến 5 - 7 km, khó mà đánh dồn bao vây tiêu diệt tạo hiệu quả cao được. Do đó Trần Quốc Tuấn quyết định đánh tiêu hao giặc suốt chặng sông Kinh Thầy và sông Đá Bạc, đánh chặn quyết liệt không cho chúng vào sông Giá mà buộc chúng phải theo sông Đá Bạc vào sông Rừng - thượng lưu sông Bạch Đằng - nơi quân dân ta chọn làm trận địa quyết chiến với chúng.
Trong việc tổ chức thế trận cũng như trong chiến đấu ở trận Bạch Đằng, nhân dân địa phương đã kề vai sát cánh với quân triều đình, đã góp công sức rất nhiều như xác định chính xác thời gian triều cường, mức nước thủy triều lên xuống, chuẩn bị cọc, đóng cọc, làm bè hỏa công, huy động lương thực, tổ chức dân binh phối hợp chiến đấu…
Làm sao kìm chế, buộc địch, nhử địch đến được vị trí và thời điểm đã hoạch định từ trước, đó là yếu tố quyết định làm nên cái lẫy lừng tột bậc của trận đại thắng, và các tướng lĩnh nhà Trần, dưới sự chỉ huy của vị Quốc Công tiết chế Trần Quốc Tuấn đã thực hiện được việc đó một cách tài tình.
Từ Vạn Kiếp ra đi vào ngày 30-3-1288, mãi đến 8-4-1288, đoàn thuyền chiến đi đầu của giặc do tướng vạn hộ Lưu Khuê chỉ huy mới đến được đầu sông Giá vì đã phải “nghênh chiến, đại chiến liên tục ngày này sang ngày khác” (An Nam chí lược). Theo đường đã quen thuộc, Lưu Khuê rẽ vào sông Giá. Quân ta, nhằm thực hiện kế hoạch, đã đánh chặn chúng rất quyết liệt tại Trúc Động. Giặc chững lại, không tiến lên được, làm cho toàn bộ lực lượng binh thuyền Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đi sau, nối đuôi nhau dồn tới. Trong khi đó phía sông Bạch Đằng, quân ta tiến đến khiêu chiến. Để ùn tắc lâu sẽ rất nguy hiểm và nhận thấy rằng theo hướng Bạch Đằng cũng có thể thoát nhanh ra biển nhờ thủy triều đang xuống, nước chảy xiết, nên Ô Mã nhi đã chuyển hướng hành quân xuôi theo sông Bạch Đằng rồi rẽ qua sông Chanh.
Khi toàn bộ binh thuyền địch đã lọt vào sông Rừng, quân khiêu chiến giả thua chạy của ta tức tốc quay lại kịch chiến mà sử cũ nói là “quân ta lực chiến”, tức đem hết sức ra đánh, quân thủy, quân bộ, dưới sông, trên bờ, đằng trước, đằng sau, đều hợp sức đánh.
Trận đánh mở màn vào tảng sáng ngày 9-4-1288 và càng lúc càng dữ dội. Tại khúc sông có dãy núi Tràng Kênh, bộ binh ta bên bờ phải, phối hợp với dân binh địa phương tiến ra đánh kịch liệt vào đội hình giặc, phóng bè hỏa công đốt phá chiến thuyền giặc. Tướng giặc Phàn Tiếp phải chỉ huy một lực lượng binh thuyền, cố áp sát bờ, đổ bộ lên nhằm đánh lùi bộ binh ta, chiếm lấy điểm cao bắn phá yểm trợ cho đại quân của chúng ở dưới sông vượt thoát. Tuy nhiên đoàn binh thuyền của giặc vẫn vừa đánh vừa tiến rất khó khăn, trong khi đó lực lượng của Phàn Tiếp bị mắc kẹt trên bờ và dần lọt vào thế bị bao vây. Đến buổi trưa hôm đó, đoàn thuyền đi đầu của giặc mới tới được cửa sông Chanh, đúng thời điểm mà ta đã hoạch định cho chúng. Thật tài giỏi!
Lúc này, một lực lượng thủy quân lớn của hai vua Trần từ phía sông Đá Bạc ào ào tiến xuống tăng cường, đánh mạnh hơn nữa vào hậu quân của giặc, “tên bắn như mưa” (Đại Việt sử ký toàn thư). Đồng thời, đoàn thuyền chiến của quân thánh dực nghĩa dũng triều đình (quân đặc biệt tinh nhuệ) do tướng Nguyễn Khoái chỉ huy, là lực lượng chịu trách nhiệm đánh cản địch ở phía trước, bỏ ngỏ cửa sông Chanh, vừa đánh nghi binh, vừa lui xuống dàn quân ngang sông Bạch Đằng, chặn lối thoát ra cửa sông Nam Triệu.
Nếu lúc đó binh thuyền giặc vẫn tiến theo sông Bạch Đằng thì sẽ bị đánh sau chặn trước, có nghĩa là vẫn nằm trong tình thế bị bao vây. Tuy nhiên, trong tình thế đó, dù có thể bị thiệt hại nặng nhưng bộ phận còn lại vẫn có thể có cơ may chạy thoát được ra biển. Có lẽ một phần là do đã nhụt chí chiến đấu, một phần lầm tưởng quân ta đoán sai ý đồ rút theo đường sông Chanh của chúng, hoặc cũng có thể là khí thiêng sông núi Đại Việt đã làm chúng lú lẫn, mê lầm mà binh thuyền giặc lao đầu vào sông Chanh theo sức nước cuốn ra cửa thủy triều, vun vút đến bãi cọc cách cửa sông Chanh khoảng chưa đầy 500m. Đoàn thuyền đi đầu của giặc không cách nào dừng lại được, né tránh được, đã đâm thẳng vào bãi cọc, tan vỡ, xô đắm lẫn nhau nghẽn chặt sông làm đại bộ phận thuyền chiến phía sau của chúng dồn đến kẹt cứng từ đó đến cả vùng ngã ba sông Bạch Đằng - sông Chanh, phơi mình cho thủy binh Nguyễn Khoái đánh lên, của hai vua Trần đánh xuống, quân bộ ta trên bờ sông đánh từ các mặt ập vào, các bè hỏa công rực lửa phóng ra. Đại bộ phận giặc bị tiêu diệt tại chỗ (và có thể còn bị tiêu diệt tại vùng hạ lưu sông Bạch Đằng, nơi có dải đá ngầm chắn ngang như một chướng ngại vật thiên nhiên, khi nước triều xuống chỉ còn một khoảng hẹp là tàu thuyền có thể qua lại được).
                              Bạch Đằng nhất trận hỏa công
                              Tặc binh đại phá, huyết hồng mãn giang
                              (Bạch Đằng một trận hỏa công
                              Đánh tan quân giặc máu hồng tràn loang)

Quân ta thu được hơn 400 thuyền giặc, bắt sống Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ và nhiều tướng giặc khác. Một số quân tướng giặc còn lại, bỏ thuyền chạy lên bờ trái sông Bạch Đằng, liều chết đánh mở đường máu ra biển, bị quân ta chặn lại bao vây tiêu diệt hết ở vùng Hà Nam:
                              Bạch Đằng giang là sông cửa ải
                              Tổng Hà Nam là bãi chiến trường
Lại nói lực lượng Phàn Tiếp bị vây, cố đánh nống ra bờ sông, nhưng thất bại, bị đánh tan, riêng Phàn Tiếp trọng thương, bị quân ta bắt sống.
Như vậy, trong trận Bạch Đằng, khoảng 5 - 6 vạn quân giặc không một tên chạy thoát và cuộc chiến đấu xảy ra vỏn vẹn 20 tiếng đồng hồ kể từ trận Trúc Động ấy đã trở thành một trong những chiến công chói lọi nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt.
Vào thời điểm đạo thủy binh của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp bước vào tử địa (8-4-1288), Thoát Hoan và Áo Lỗ Xích mới cùng đạo quân bộ binh của chúng bắt đầu rời Vạn Kiếp. Thoát Hoan cho rằng đó là thời điểm rút chạy thích hợp nhất, khi mà đại binh nhà Trần đã bị cuốn hút về vùng ven biển Bạch Đằng theo đạo quân của Ô Mã Nhi và có thể Ô Mã Nhi đã thoát ra được biển cả.
Mở đầu cuộc rút chạy trên bộ, Tích Đô Nhi được lệnh chỉ huy bộ phận tiến quân đi về phía Tây, tức đường Chi Lăng - Khâu Ông để đánh lạc hướng truy kích của quân ta. Thoát Hoan cùng đại bộ phận quân còn lại, đi về phía đông mà đích là cửa quan Nội Bàng, Nữ Nhi.
Tích Đô Nhi dẫn quân mới tới cửa quan Hố Cát (sau này gọi là Phố Cát) đã bị ta chặn đánh. Trước hơn 4 vạn quân Đại Việt, Tích Đô Nhi không thể tiến qua được, chỉ còn cách duy nhất là cố đánh giãn vây, tìm đường sang phía đông hội nhập với Thoát Hoan.
Ngày 11-4-1288, quân ta mở trận tập kích lớn vào đội quân Thoát Hoan khi chúng mới chân ướt chân ráo đến Nội Bàng. Giặc tập trung quân cố đánh mở đường, qua được cửa Nội Bàng, thoát vây. Định tiến gấp về cửa quan Nữ Nhi thì nghe tin mật báo nhà Trần đã huy động hơn 30 vạn quân đóng mốt dọc đường từ Nữ Nhi tới núi Khâu Cấp dài hơn 100 dặm, mà khắp mặt đường từ Nội Bàng đến Nữ Nhi đều có đào hố bẫy ngựa, Thoát Hoan hoảng sợ tìm cách chạy theo đường khác, vòng xa sang phía đông lên Lộc Bình, theo đường tắt chạy bán sống bán chết ra khỏi biên giới nước ta. Tuy nhiên, cuộc rút chạy theo đường vòng đó cũng vẫn bị quân ta tập kích, truy kích ráo riết và không kém quyết liệt, bắn tên độc từ các sườn núi xuống như mưa. Giặc liều chết, vừa đánh đỡ, vừa chạy suốt dọc đường, chết rất nhiều. A Bát Xích trúng ba tên độc, bỏ mạng: Nhiều tướng giặc, trong đó có Đường Ngột Đãi, Mai Thế Anh, Tiết Văn Chính… bị bắt sống. Ngày 19-4-1288, lũ bại tướng, tàn binh tơi tả còn lại của đạo quân Thoát Hoan chạy về tới Tư Minh, lúc đó mới hoàn hồn. Cuộc kháng chiến lần thứ ba chống xâm lược nhà Nguyên kết thúc, nước ta lại sạch bóng quân thù.
Sau hai cuộc chiến tranh lớn liền kề, đất nước ta không khỏi bị tàn phá nặng nề. Sản xuất nông nghiệp, do hoàn cảnh chiến tranh cũng bị đình trệ, giảm sút nhiều, không những thế, vừa ra khỏi chiến tranh thì thiên tai lại ập tới. Hạn hán kéo dài suốt 5 tháng làm cho việc cày cấy mùa màng hỏng hết. Mùa thu năm 1290, đói to trong cả nước. Nhà vua phải xuống chiếu phát thóc công để chẩn cấp dân nghèo, đồng thời miễn thuế nhân đinh. Sang năm sau, 1291, nạn đói càng trầm trọng, nhiều người đã phải chết đói.
Xây dựng để phục hồi và phát triển kinh tế sau chiến tranh là đương nhiên đối với mọi quốc gia, ở mọi thời đại. Nhưng đối với Đại Việt lúc bấy giờ thì yêu cầu đó không những là đương nhiên mà còn vô cùng cấp bách. Nhà Trần phải có ngay một quyết sách phù hợp. Trước mắt là gấp rút chấm dứt nạn đói, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời mau chóng làm cho nước nhà vững mạnh hơn nữa vì sự đe dọa xâm lược của phong kiến phương Bắc vẫn luôn rình rập chờ cơ hội.
Bằng nhiều biện pháp tích cực để thực hiện một quyết sách đúng hướng, tựu trung là vì dân như thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, thực hành cần kiệm triệt để, giữ vững sự liêm chính, công tâm, nghiêm trị tham ô, sách nhiễu…
Có một câu chuyện nhỏ nhưng điển hình, từ đó có thể thấy được quốc sách của nhà Trần về phục hồi và phát triển đất nước lúc đó.
Thăng Long, nằm trong số phận của đất nước, cũng ba lần bị quân xâm lược chiếm đóng, cũng bị chiến tranh, giặc dã tàn phá, vì thế cũng cần phải sửa chữa, phục hồi, xây dựng lại. Trong quá trình bàn định những việc làm trước tiên của công cuộc xây dựng lại đất nước, có ý kiến trong triều cho rằng phải sửa chữa, tu bổ, phục hồi lại thành Thăng Long ngay vì dù sao cũng là kinh đô, bộ mặt của cả nước. Nhưng Trần Quốc Tuấn có ý khác, ông trình bày:
“Việc sửa lại thành trì không cần kíp lắm. Việc cần kíp của triều đình phải làm ngay không thể chậm trễ được là việc úy lạo nhân dân. Hơn 4 năm, quân giặc hai lần tràn sang quấy rối, từ nơi núi rừng đến nơi đồng ruộng bị tàn phá hầu hết. vậy mà nhân dân vẫn một lòng hướng về triều đình, xuất tài, xuất lực, đi lính, đóng thuế, làm nên một lực lượng mạnh cho triều đình chống giặc. Nay nhà vua đã được trở về yên ổn. Việc làm trước hết là chú ý ngay đến dân, những nơi nào bị tàn phá, tùy tình trạng nặng nhẹ mà cứu tế, nơi nào bị tàn phá quá nặng, có thể miễn tô thuế mấy năm. Có như thế, dân mới nức lòng càng qui hướng về triều đình hơn nữa. Người xưa đã nói: “Chúng chí thành thành” tức ý chí của dân chúng là một bức thành kiên cố. Đó mới là cái thành cần phải sửa chữa ngay…” (Tài liệu trong quyển sách chữ Hán “Long Thành dật sự”, được dùng trong sách “Việt Nam, ba lần đánh Nguyên toàn thắng”, tác giả: Nguyễn Lương Bích, NXB Quân đội nhân dân, năm 1981)
Cách nói người xưa thật khúc chiết, nhưng dễ hiểu làm sao! Câu nói này ẩn chứa nhiều điều sâu sắc về triết học, thế mà lại vô cùng sáng tỏ. Nó là một chân lý! Mà đã là chân lý thì không cần và cũng không thể khoác lên một cái áo nhãn mác chân lý nào khác, bởi cái vốn dĩ của chân lý là giản dị, chất phác. Chỉ cần “thuộc” được câu nói đó của ông cha thôi, đã là đủ để biết cách dựng nước và giữ nước, cần chi đến những học thuyết triết học ở đâu đó xa vời.
Cuối cùng, cần nhấn mạnh rằng: lời nói đó còn là sự biểu hiện cái “Đại nhân tâm” của một vị Đại anh hùng Dân tộc - Quốc Công Tiết chế Bình Bắc Đại nguyên soái Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thiên tài.
Thái sư Trần Quang Khải có hai câu thơ cảm khái mà qua đó chúng ta còn cảm nhận được cái khí thế bước vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng đất nước một cách hòa trên thuận dưới thưở ấy:
                              “Nguyện trương thần uy thôi Bắc lỗ
                              Đôn linh hoàn vũ yến nhiên thanh”
                              (Nguyện lấy uy thần trừ giặc Bắc
                              Quyết xây trời đất vững thanh bình)
Nhờ thế, đời sống nhân dân được cải thiện nhanh chóng, nền kinh tế đất nước phục hồi trong thời gian ngắn và tiến tới thịnh vượng.
Triều đại phong kiến nào, dù thịnh đến mấy rồi cũng đến lúc suy. Triều Trần cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, nhìn chung thì triều Trần, một cách nổi trội, vẫn là triều thịnh trị và nhất bà làm rạng danh non sông về chống xâm lược. Vì vậy Hồ Chí Minh trong “Lịch sử nước ta” (diễn ca viết năm 1942) đã có hai câu thơ hoàn toàn xác đáng:
                              “Đời Trần văn giỏi, võ nhiều
                              Ngoài dân thịnh vượng, trong triều hiền minh”
***

Như chúng ta đã nói, bất cứ sự phát triển nào cũng có mặt trái của nó, do đó trong sự thịnh vượng, nếu tinh ý, sẽ thấy được mầm mống của sự suy vi. Để đánh giá mức độ tốt đẹp của một nến kinh tế có thể có nhiều chỉ tiêu, nhưng chỉ tiêu hàng đầu, cơ bản vẫn là mức độ của sự sung túc (của cải dồi dào, có miếng ăn miếng để). Một đất nước được cho là giàu có chưa chắc đã sung túc. Để đại bộ phận nhân dân còn đói khổ, thiếu thốn thì một đất nước làm sao mà gọi là sung túc được? Do đó, lấy bình quân thu nhập đầu người chung chung để đo sự sung túc là không chính xác, mà phải lấy bình quân thu nhập tối thiểu thực tế, chắc chắn có được sau khi đã đóng các loại nghĩa vụ, đã nộp đủ thứ lệ phí (lên trời?!), chắc chắn sử dụng được trong đời sống sinh hoạt thường nhật (hay chính xác hơn nữa là lượng lương thực thực phẩm có thể và chắc chắn qui đổi được từ khoản thu nhập bình quân ấy!). Tuy nhiên, bằng mắt “thịt” cũng có thể phán đoán được sự lành mạnh của một nền kinh tế. Khi còn thấy cảnh làng mạc tiêu điều, dân cư xơ xác, đền chùa vắng ế thì sự sung túc chưa đến đó hoặc đã bỏ đi.
Mục đích và cũng là động lực ban đầu có tính cốt lõi, nền tảng của sự phát triển kinh tế là no ấm, tiếp theo là có dư dả để dành, tích lũy dự phòng, nghĩa là bắt đầu sung túc. Sự sung túc sẽ tất yếu dẫn đến nhu cầu về ăn ngon mặc đẹp rồi ăn sung mặc sướng (nghĩa là làm tăng trình độ tiêu dùng, cả về số lượng lẫn chất lượng). Việc đó tự thân nó cũng đã kích thích kinh tế phát triển theo hướng ưu tiên cho “cái mặc” (xây dựng nhà cửa, rình rang lễ hội, sắm sửa trang trí, tô điểm làm đẹp, “no lưng ấm cật dậm dật nơi nơi”, …). Sự sung túc cũng làm cho cuộc sống an toàn hơn, nhẹ nhàng hơn, vui tươi hơn và “thọ” hơn, trở thành một yếu tố làm tốc độ tăng dân số cao hơn. Những biểu hiện đáng phấn khởi đó, trong quá trình chuyển hóa của nó, sẽ dần dà làm xuất hiện những nảy sinh báo hiệu sự mất cân đối của nền kinh tế, sự không còn phù hợp giữa cung và cầu (đã quen với lối sống tiêu dùng mới, khó mà tiết giảm được!), giữa cách thức, qui mô sản xuất cũ với nhu cầu ngày một tăng (hoặc tăng nhanh hơn) của đời sống xã hội (trong đó phải kể đến sự lãng phí không nhỏ bởi sự kích thích tiêu dùng do cạnh tranh mà sự phát triển của khoa học - công nghệ, ở đây, cũng có một phần lớn trách nhiệm)… Những biểu hiện mất cân đối kinh tế sẽ ngày một bộc lộ rõ ràng và nếu không kịp thời phát hiện, chỉnh đốn, đề ra những chính sách thích hợp để đáp ứng được tình hình mới thì sự suy vi của một đất nước là không tránh khỏi và sự suy vi của một triều đại là tất yếu. Lúc đó chính là thời tao loạn và đại chúng chính là bộ phận phải chịu tổn thất trước tiên. Trong toàn cảnh ấy mà còn gặp phải thiên tai (thường thấy trong lịch sử) thì ôi thôi, sự tổn thất sẽ vô cùng bi đát, đau thương. Ngay bản thân chúng ta, chưa chắc đã thấm thía hết được câu ca dao sau đây của dân gian:
“Được mùa chớ phụ ngô khoai
Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng”
Các triều đại phong kiến, khi đã đưa đất nước đến cực thịnh thì các đời vua sau, thường thì vì đã sống quen với nhung lụa, bạc vàng châu báu thừa thãi, ngồn ngộn có sẵn, với của ngon vật lạ, sơn hào hải vị thừa mứa chứa chan tự nhiên mà ra, với quyền lực vô hạn trời ban xuống, đã không còn cái tâm huyết vì dân vì nước của ông cha họ thời lập nghiệp, thời đấu tranh chống ngoại xâm. Những ông vua này có thể đã học, nhưng như những con vẹt, không hiểu được mảy may những bài học có được từ máu xương mà ông cha họ để lại. Họ cứ tưởng đời sống xã hội là bất biến, cứ như thế mãi, nên ưu tiên chú ý của họ chỉ là đề phòng, triệt hạ những nhòm ngó, những âm mưu tranh quyền đoạt vị trong chốn cung đình, trong nội tộc. Trong huyết quản họ, những sắc tố cao đẹp, tích cực của ông cha họ không còn nữa mà chỉ còn những sắc tố bản năng ăn, uống, chơi bời và ngủ mê ngủ mệt. Ở họ, nhân tính tốt đẹp hầu như không còn nữa, thú tính trở nên nổi trội… (Phải chăng ở đây, dù mờ nhạt, hình như có phảng phất biểu hiện của quá trình không phải là tiến hóa mà là thoái hóa thích nghi theo con đường rất giống với di truyền sinh học, hay chính là di truyền sinh học dạng sơ khai?!)
Vì vậy, có thể nói hiện tượng thịnh - suy của một đất nước trong thời đại phong kiến là sự biểu hiện của một tiến trình theo qui luật vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hội. Mọi triều đại phong kiến nói chung và triều đại nhà Trần nói riêng đều không thoát được sự tác động khắc nghiệt của qui luật ấy.
Có thể phán đoán, sự suy thoái cả về kinh tế lẫn chính trị khó lòng cứu vãn của đất nước Đại Việt thời nhà Trần đã thể hiện rõ ràng từ những năm đầu tiên của nửa sau thế kỷ XIV. Tuy nhiên sự bắt đầu thực sự của nó sớm hơn thời điểm đó, vào khoảng giữa nửa đầu thế kỷ.
Ngay từ năm 1293, nền kinh tế nước ta đã phục hồi thấy rõ. Dưới mắt của sứ thần nhà Nguyên là Trần Phu (được ông này ghi lại trong “An Nam tức sự” tập “Giao Châu cảo”) thì năm ấy nước ta đồng ruộng tươi tốt, chợ họp đông vui, hàng hóa trăm thứ bày la liệt; ở những ruộng muối, hàng nghìn thuyền tới buôn bán; tại phủ “Tinh Hoa”(tức Châu Hoan), có thuyền bè các nước tới tụ hội, mở chợ ngay trên thuyền, buôn bán rất sầm uất. Qua đó và qua những sử liệu về hoạt động đối nội và đối ngoại của nhà Trần, chúng ta thấy rằng vào những năm đầu thế kỷ XIV, đất nước Đại Việt đã tương đối giàu mạnh và tình hình đó tồn tại cũng khoảng 2 thập kỷ đầu của thế kỷ đó.
Tuy nhiên, cũng trong khoảng thời gian đó, khi mà những bậc lão thành đầy tài năng và tâm huyết với đất nước đã về chầu tổ tiên thì tập đoàn thống trị nhà Trần, từ vua, đám hoàng thân quốc thích, cho đến đội ngũ quan lại trong triều cũng như ở địa phương bắt đầu thoái hóa, suy đồi. Chu Văn An, ông quan chính trực dâng sớ xin chém 7 tên quan nịnh thần, lũng đoạn triều đình (Thất trảm sớ), không được, đành từ quan về ở ẩn. Nạn ăn chơi sa đọa, tham quan lại nhũng, cường hào ác bá của tầng lớp thống trị đã như là chuyện thường tình, hiển nhiên trong xã hội.
Điển hình cho sự tham nhũng là Trần Khánh Dư. Mức độ tham nhũng của ông này, theo dư luận dân gian hồi đó được truyền khẩu đến nay thì chó, gà vùng Vân Đồn nghe thấy còn phải kinh sợ (Vân Đồn kê khuyển diệc giai kinh). Khi vua Anh Tông cho gọi về triều hỏi tội, Trần Khánh Dư thản nhiên đáp: “Tướng là chim ưng, quân dân là vịt, lấy vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ”. An phủ sứ Hồ Tòng Thốc khét tiếng ăn lễ lạc của dân, khi bị phát giác, vua triệu vào triều hỏi, Thốc trơ tráo nói: “Một người được ơn vua thì cả nhà hưởng lộc nước”.
Nhà Trần đã thoái hóa về nhận thức chính trị đến cỡ đó! Trần Khánh Dư, người có công lớn trong kháng chiến đối với đất nước, đã thành ra kẻ có tội nặng trong thời bình đối với nhân dân.
“Đệ nhất anh hào” của lối sống phung phí, xa hoa trụy lạc là vua Trần Dụ Tông (1341 - 1369). Sách “Cương mục” nhận xét: “Dụ Tông nghiện rượu, mê đàn hát, xa xỉ làm cung điện nguy nga và tường vách chạm trổ, lãng phí tiền của, hoang dâm chơi bời, món gì Dụ Tông cũng mắc. Cơ nghiệp nhà Trần sao khỏi suy được”.
Vừa chịu tác động ngày một tiêu cực bởi mặt trái của sự phát triển kinh tế, vừa phải chịu sự vơ vét, bóc lột đủ cách của tầng lớp thống trị, đời sống đại chúng ngày một khốn đốn. Đã thế, sản xuất nông nghiệp còn phải chịu những thiên tai gây mất mùa, đói kém lớn vào những năm 1321, 1344, 1357, 1392, làm cho đời sống nhân dân càng thêm cơ cực, đời sống xã hội vì thế mà cũng trở nên ngột ngạt. Điều tất yếu phải xảy ra, “bần cùng sinh đạo tặc” - trộm cướp như rươi, “có áp bức có đấu tranh” - Các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra; tiêu biểu là của Ngô Bệ, Trần Tề, Phạm Mã Ôn. Đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Phạm Mã Ôn (1289), đã tiến đánh, chiếm kinh đô Thăng Long 3 ngày, làm vua tôi nhà Trần phải bỏ kinh thành chạy sang Bắc Giang. Đây là cuộc khởi nghĩa nông dân đầu tiên trong thời quân chủ, chiếm được kinh thành của một triều đình.
“Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”, cái kế sách có tầm chân lý phổ quát trong lời trăn trối của Trần Quốc Tuấn ấy, đến đời Dụ Tông, từ vua đến quan đã không ai còn nhớ nữa (những cái đầu thấp và mê muội thú tính có hiểu gì đâu mà nhớ!). Chính vì vậy mà cũng từ đó, nhà Trần bạc nhược nhanh chóng, thế nước suy yếu thấy rõ.
Thượng hoàng Trần Minh Tông (làm vua từ năm 1374 đến năm 1329) có 7 người con trai gồm: Hiến Tông Vượng, Cung Tác Vương Dục, Cung Định Vương Trạch, Dụ Tông Hạo, Cung Tĩnh Vương Nguyên Trạc, Nghệ Tông Phủ, Duệ Tông Kính Hiến Tông lên ngôi năm 1329, đến năm 1341 thì chết (thọ 23 tuổi). Dụ Tông Hạo lên thế ngôi. Mấy năm đầu, mọi việc triều chính đều do Thượng hoàng Minh Tông điều khiển, nói chung chính sự còn tương đối nề nếp, dù đất nước có khó khăn, mất mùa đói kém. Năm 1359, Thượng hoàng mất, các cựu thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng không còn, triều đình từ đó rối loạn, bên ngoài loạn lạc can qua nổi lên, dân bắt đầu cực khổ trăm bề.
Năm 1369, Dụ Tông chết, triều đình càng rối như canh hẹ. Vì Dụ Tông không có con nên triều đình lập Cung Định Vương lên làm vua, nhưng bà Hoàng Thái hậu nhất định đòi đưa Dương Nhật Lễ lên ngôi. Mẹ Nhật Lễ là một đào hát, lấy kép hát tên là Dương Khương, có thai Nhật Lễ, sau bỏ Dương Khương lấy Cung Túc Vương. Lên ngôi, Nhật Lễ muốn cải họ Dương, dứt nhà Trần, giết bà Hoàng Thái hậu cùng Cung Định Vương. Cung  Tĩnh Vương nhu nhược, thấy thế, bỏ trốn lên mạn Đà Giang. Các tôn thất nhà Trần hội binh bắt giết Nhật Lễ rồi rước Cung Tĩnh Vương về làm vua, tức Trần Nghệ Tông (1370 - 1372)
Nhật Lễ bị giết, mẹ Nhật Lễ chạy vào Chiêm Thành cầu cứu. Vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga nổi binh vượt biển vào cửa Đại An, tiến đánh Thăng Long, Quân Trần không chống cự nổi, bỏ kinh thành. Vua Nghệ Tông chạy sang Đông Ngàn (Đình Bảng, Bắc Ninh) lánh nạn. Quân Chiêm vào Thăng Long, đốt sạch cung điện, bắt đàn bà con gái, lấy hết vàng bạc châu báu rồi rút về.
Theo sử sách, dưới Triều vua Nghệ Tông, nổi lên nhân vật Hồ Quí Ly. Quí Ly xuất thân từ quí tộc ngoại thích cuối thời Trần. Quí Ly dòng dõi người Triết Giang, Trung Quốc, là cháu 4 đời của Hồ Liêm. Hồ Liêm quê ở Nghệ An, vào thời Trần thì dời ra Thanh Hóa, làm con nuôi một viên quan to. Hai người cô của Quí Ly lấy vua Minh Tông; một người là Minh Từ Hoàng hậu đẻ ra Nghệ Tông, một người là Đôn Từ Hoàng hậu đẻ ra Duệ Tông. Bản thân Quí Ly lấy công chúa Huy Ninh - con gái của Nghệ Tông, trong khi em gái họ của Quí Ly lấy Duệ Tông. Vua Nghệ Tông rất tin dùng Hồ Quí Ly, giao nhiều trọng trách, quyền hành, với các chức tước Khu Mật Đại Sứ; Trung Tuyên Hầu…
Được tin dùng, uy thế Hồ Quí Ly ngày càng tăng. Từ đó, Quí Ly tăng cường vây cánh, mưu đồ đợi cơ hội, cướp ngôi nhà Trần.
Năm 1372, Nghệ Tông truyền ngôi cho em là Kính rồi về phủ Thiên Trường làm Thái Thượng hoàng. Trần Kính lên ngôi, lấy hiệu là Duệ Tông, lập em họ của Quí Ly làm Hoàng hậu. Năm 1276, thấy Chiêm Thành luôn xâm phạm bờ cõi, quấy phá. Duệ Tông thân chinh dẫn quân đi đánh. Trong trận Đồ Bàn (Kinh đô nước Chiêm Thành) năm 1377, bị mắc mưu, quân Chiêm mai phục xông ra đánh, quân Đại Việt thua to, Duệ Tông chết trong đám loạn quân.
Duệ Tông chết, Thượng hoàng Nghệ Tông lập con Duệ Tông là Hiền lên nối ngôi, lấy hiệu là Phế Đế (1377 – 1388).
Ngay khi giết được Duệ Tông, Chế Bồng Nga cho quân sang Đại Việt quấy nhiễu, cướp phá dữ dội. Năm 1378, quân Chiêm đánh Nghệ An, rồi theo sông Đại Hoàng, tiến đánh cướp bóc Thăng Long lần nữa. Năm 1380 và 1382, giặc Chiêm tiếp tục xâm phạm Đại Việt, nhưng 2 lần này chúng bị đánh lui.
Năm 1383, Chế Bồng Nga lại sang quấy phá Đại Việt, tiến đánh Thăng Long. Thượng hoàng cùng Phế Đế sợ hãi, phải chạy sang Đông Ngàn. Quân Chiêm lại tàn phá Thăng Long (Kinh đô cuối nhà Trần sao mà dễ chiếm quá, cứ như bị bỏ hoang vậy!)
Để cứu kho tàng trống rỗng vì chiến tranh, vua Trần tăng thêm sưu thuế và đặt ra thuế thân: mỗi xuất đinh, mỗi năm phải đóng 3 quan tiền thuế, khiến dân chúng càng thêm khổ cực.
Có chuyện Thượng hoàng đến gặp Trần Nguyên Đàm hỏi việc nước. Trước đó, Nguyên Đàm thấy tình thế gió bắt đầu đổi chiều, bèn kết làm thông gia với Hồ Quí Ly, mong cho con cháu toàn mạng, phú quí về sau. Trước Thượng hoàng, không biết thế nào mà Nguyên Đàm trả lời: “Xin bệ hạ thờ nhà Minh như cha, yêu nước Chiêm như con, thì quốc gia sẽ không việc gì mà lão thần chết cũng không hẩm”
Thế nước rệu rã, lòng người ly tán đến thế là cùng! (còn nữa)

Mời xem:

LỜI PHÂN TRẦN

PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

PHẦN II: NỀN TẢNG

PHẦN III: NGUỒN CỘI