THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 23/b


PHẦN III:     Nguồn cội

“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
.


CHƯƠNG I: TỔ TIÊN

“Ta có tai, mắt, ta nghe, ta trông; ta có tâm tư ta suy, ta nghĩ; đối với người xưa có lúc ta thờ như thầy, có lúc ta kính như bạn, cũng có lúc ta kình địch không chịu, ta theo cái lý nhất quyết không làm tôi tớ cổ nhân.”
Lương Khải Siêu

***

Lịch sử là sự tái hiện một cách không (bao giờ) đầy đủ (những) hiện thực đã qua hay còn có thể gọi là thực tại đã chìm vào quá khứ. Hiện thực đã qua, sau khi được tái hiện, trở thành một thực tại khách quan ảo, trước hết là của “cái tôi” quan sát, tìm hiểu, nhận thức và tạo dựng ra cái thực tại khách quan ảo ấy. Tùy thuộc vào trình độ nhận thức, tài năng cũng như quan niệm của (những) “cái tôi” viết sử mà hiện thực đã qua được tái hiện thành (những) thực tại khách quan ảo như thế này hoặc như thế kia, có thể nói bản thân lịch sử luôn mang hơi thở của thời đại tạo ra (hoặc tái tạo ra) nó.

Nguyên lý Tự Nhiên (tiêu đề Tự Nhiên), tùy thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh mà thể hiện ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong thực tại. Những hình thức ấy được tạm gọi là (hay chính là) những nguyên lý cơ bản của tồn tại và vận động. Một trong những nguyên lý cơ bản đó là mọi tồn tại, trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, luôn vận động theo xu thế cân bằng nội tại (để duy trì tồn tại) và vì thế mà cũng luôn mất cân bằng nội tại. Chính nguyên lý này đã tạo ra bức tranh sinh sinh diệt diệt, biến hóa đến bất tuyệt của thế giới các sự vật - hiện tượng. Nếu trong thế giới tổng thể các sự vật - hiện tượng, nguyên lý ấy được tạm gọi là nguyên lý cạnh tranh tồn tại thì trong thế giới sinh vật, nó được biết đến với cái tên là Nguyên lý đấu tranh sinh tồn. Một trong những biểu hiện cơ bản của đấu tranh sinh tồn là quá trình tiến hóa để thích nghi ở mọi giống loài. Chủ động thích nghi là kết quả tất yếu của quá trình phát triển tiến hóa thích nghi, mà một trong những cách thức của nó là chủ động thích nghi bằng suy nghĩ, nghĩa là quan sát, đánh giá, lựa chọn phương án tối ưu để thích nghi với điều kiện, hoàn cảnh luôn biến đổi của môi trường. Tư duy, nhận thức là kết quả tất yếu, nảy sinh một cách tự nhiên trên bước đường lâu dài và đầy gian truân của quá trình tiến hóa thích nghi.
Như vậy, có thể khẳng định rằng dù Tự Nhiên Tồn Tại không cần đến nhận thức nhưng tư duy nhận thức là nguyên tắc sống của con người. Để duy trì sự sống còn, con người không thể không quan sát, tìm hiểu để nhận biết Tự Nhiên mà biểu hiện cụ thể là Thế giới khách quan.
Không có nhận thức nếu không có sự quan sát. Nhận thức không thể duy trì và phát triển được nếu không có sự lưu nhớ (bằng hồi ức, bằng truyền khẩu, bằng ghi chép), sự rút ra bài học từ quá khứ (kinh nghiệm). Nói cách khác, nhận thức là quá trình quan sát thực tại để tìm hiểu tự nhiên trên cơ sở những bài học của quá khứ (nhận thức của quá khứ).
Do đòi hỏi của đời sống thực tiễn và cũng đồng thời là đòi hỏi phải phát triển nhận thức mà ngôn ngữ và chữ viết ra đời để ghi nhớ, lưu truyền những kết quả quan sát, những nhận định, những hiểu biết của trước đó, của đương thời, cho nhau và lẽ đương nhiên là cho cả hậu thế. Mầm mống của lịch sử đã có ngay từ buổi bình minh của loài người!
Tóm lại, lịch sử (về xã hội loài người) là sự tái hiện lại quá khứ, là sự mô tả lại các sự vật hiện tượng từng hiện hữu trong quá khứ cùng với sự vận động, biến đổi của chúng trong mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, một cách chính yếu, tiêu biểu, điển hình, nghĩa là mô tả toàn cục quá trình tồn tại của cái quá khứ ấy, vô tình hay cố ý theo nhãn quan, theo trình độ nhận thức của cái tôi làm công việc tái hiện. Xét cho đến cùng thì lịch sử là kết quả quan sát và nhận thức hiện thực đã qua của nhà viết sử.
Nói đến nhận thức thì có nghĩa là nhận thức tự nhiên hay còn gọi là nhận thức thế giới khách quan. Chỉ có thể nhận thức được thế giới khách quan trên cơ sở đã nhận thức những nhận thức (tri thức) về thế giới khách quan của quá khứ.
Vì những nhận định, giải thích, đánh giá,… trong lịch sử là biểu hiện trình độ nhận thức của thời đại tạo dựng ra lịch sử ấy cho nên chúng chưa hẳn đã xác đáng (nhất là lại còn tùy thuộc vào quan niệm thị phi của cái tôi chép sử), cho nên nhận thức quá khứ thông qua lịch sử là quá trình đầy cạm bẫy. Vì thế quá trình thẩm định lại lịch sử, nhận thức lại những nhận thức có sẵn trong lịch sử và thậm chí viết lại lịch sử là một đòi hỏi thực tế…
Nếu lịch sử là được biểu hiện như thế thì những hình thức như biên niên, biên khảo, ghi chép khảo cổ… đều chỉ là  bộ phận hợp thành của lịch sử, có tính lịch sử, làm tư liệu cho lịch sử. Sử liệu là sự phản ánh hiện thực lịch sử đã nhuốm màu thị phi.
Có câu chuyện thế này: tại một hội nghị của các nhà tâm lý học ở Ghết-tin-ghen, người ta đã thử dựng lên một màn kịch. Trong lúc hội nghị đang làm việc, có người mặc quần áo của anh hề chạy vào phòng, một người khác tay cầm súng lục đuổi theo, cuộc xung đột xảy ra và người cầm súng đã bắn. Sự việc diễn ra trong vòng hai mươi giây. Người ta đề nghị những người có mặt tường thuật lại. Kết quả là các bản tường thuật đầy rẫy những sai sót, có cả những điều xuyên tạc, bịa đặt. Cũng cần lưu ý rằng đại biểu của hội nghị đó là những nhà chuyên môn về quan sát và ghi chép. Vậy mà họ đã không miêu tả chính xác sự việc. Xem thế đủ biết việc tái hiện và trình bày lại các biến cố không phải là việc đơn giản, dễ dàng.
Phải chăng là không thể xây dựng được một lịch sử vừa khách quan, vừa lột tả được xác đáng cái tinh thần của các sự kiện, biến cố trong quá khứ, sát thực so với quá khứ?
Chúng ta biết rằng xã hội loài người nói chung hay xã hội của một khu vực dân cư nói riêng, thực chất cũng là bộ phận của tự nhiên, do đó sự vận động, chuyển hóa, biến đổi của nó cũng phải tuân theo những nguyên lý chung của tự nhiên. Nhưng sự tồn tại tư duy trong xã hội đã làm cho nó có những tính chất đặc thù, nên những nguyên lý ấy cũng biểu hiện ra như những nguyên lý đặc thù mà chỉ ở xã hội loài người mới có. Điều đó giải thích vì sao mà trước con người quan sát, thiên nhiên hiện ra hồn nhiên biết bao nhiêu, trong khi trước cái tôi chép sử, hiện thực xã hội hiện ra lại đẫm màu thị phi đến thế. Con mắt Lão Tử đã thấy xã hội có hai biểu hiện: Đạo Tự Nhiên và Đức Huyền Diệu.
Như chúng ta đã nói Đạo Tự Nhiên ấy chính là Nguyên lý Tự Nhiên và Đức Huyền Diệu chính là quan niệm đúng sai của Đại chúng (trăm họ). Chúng ta cho rằng ở bất cứ thời đại nào, để quan sát và đánh giá xác đáng, quá khứ, nghĩa là tái hiện được đến mức độ rất giống với cái “vốn dĩ thế”; cả về mặt hiện tượng lẫn bản chất của một hiện thực đã qua, thì “cái tôi chép sử” phải vừa tài năng, vừa đức độ, thấm nhuần được cái Đạo lý của Tự Nhiên và cái Đức tính của Huyền Diệu, lấy chúng làm cơ sở, nền tảng để phân biệt thị phi, từ đó mà lựa chọn, nhận diện ra chân lý, vạch ra được nguyên nhân sinh diệt của mọi sự vật - hiện tượng cũng như mọi sự thành bại của các mưu đồ đã từng hiện diện, “tung hoành” trong xã hội loài người. Hai yếu tố đó, Đạo và Đức, ở mỗi thời đại, do tính riêng của thời đại chi phối mà có thể có những sắc thái khác nhau nhưng cái tinh thần cốt lõi của chúng là bất biến. Chẳng hạn nói: đối với mọi chế độ đều phải lấy dân làm gốc, thì đó là một chân lý bất biến, dù một chế độ nào đó có thừa nhận nó hay “hiểu” được nó hay không. Muốn phán đoán được tương lai thì trước hết phải hiểu hiện tại, muốn hiểu được hiện tại thì trước hết phải thuộc những bài học đích đáng rút ra từ quá khứ. Nhưng muốn có được những bài học đích đáng rút ra từ quá khứ, thì chỉ có cách duy nhất là nghiên cứu lịch sử. Nghiên cứu lịch sử là quá trình nhận thức và nhận thức lại lịch sử. Quá trình đó thực chất là một bộ phận trong toàn bộ quá trình nhận thức Tự Nhiên Tồn Tại của loài người…
Tài năng và đức độ là hai mặt có thể phân biệt tương đối với nhau được. Hồ Chí Minh nói: “Có tài mà không có đức thì là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”, là nhờ ở tính phân biệt được ấy. Nhưng khi xét kỹ hơn, trên cơ sở của Đạo và Đức thì tài năng và đức độ là hai mặt đan xen nhau, có mối quan hệ khăng khít, keo sơn, không thể tách biệt được của một sự hoàn thiện: không thể là toàn tài nếu không có đức và trái lại không thể là toàn đức nếu không có tài; một khi chỉ có tài thôi thì chưa gọi là tài, một khi chỉ có đức thôi thì chưa gọi là đức. Người có thực tài là người biết tôn vinh đức, người có chân đức là người biết trọng dụng tài năng (để làm điều nhân đức). Thi hào Nguyễn Du đã viết rất hay về “tài”:
                              “Có tài mà cậy chi tài
                              Chữ tài đi với chữ tai một vần”…
Hay ông bà ta đã nói rất thâm thúy về “đức”: “Có đức mặc sức mà ăn”.
Ước mơ có từ ngàn xưa cho đến ngày nay của con người (và cũng có thể là mục đích phấn đấu của nhiều cuộc đời chân chính) là sự toàn thiện - toàn năng. Ước mơ ấy là cháy bỏng, thể hiện ra thành những câu chuyện thần thánh, bụt tiên và hiển hiện trong tất cả các truyền thuyết lịch sử.
Như vậy, một cái tôi chép sử lý tưởng phải là con người toàn thiện - toàn năng, phải là người hội đủ: Thiên lý nhãn, Thuận phong nhĩ và Vạn linh tâm, được tích hợp lại trước hết nhờ vào việc ôn cố tri tân.
Trong lịch sử loài người đã từng có nhiều nhà sử học (dù là nghiệp dư!) có tài năng và đức độ lỗi lạc. Nhờ có họ, nhiều sự kiện, biến cố, nhân vật của quá khứ được minh oan (hoặc bị vạch trần chân tướng), lịch sử ngày một đúng với sự thực hơn, sáng tỏ hơn. Họ đã để lại cho hậu thế nhiều thiên sử bất hủ, nhiều trang anh hùng ca sáng ngời tính nhân văn và biết bao nhiêu câu chuyện thấm thía về nhân tình thế thái, làm cho biết bao nhiêu thế hệ say mê với đầy đủ những bi hài, hỉ nộ ái ố. Qua đó, người đời sau đã nhận thức được nhiều điều về triết học, đã rút ra được nhiều bài học về luân thường đạo lý, về ý nghĩa của cuộc đời. Và cũng chính vì lẽ đó mà nhiều công trình lịch sử cũng đồng thời là tác phẩm văn học, những áng văn chương kiệt tác của nhân loại.
Một trong những người chép sử như vậy là Tư Mã Thiên, một trong những tác phẩm như vậy là “Sử Ký” của ông.
Chúng ta đã từng được nghe nhiều người kể về thân thế và sự nghiệp cũng như tác phẩm “Sử ký” của Tư Mã Thiên, nhưng có lẽ, cách kể của Nhữ Thành (trong lời giới thiệu về cuốn “Sử ký” do chính ông dịch, NXB Văn học, năm 1988) làm chúng ta “khoan khoái” nhất, và chúng ta cố nhớ lại, dù không trọn vẹn:
“Đối với văn hóa thế giới, quyển “Sử ký” của Tư Mã Thiên chiếm một địa vị đặc biệt. Nó là công trình sử học lớn nhất của Trung Quốc và là một trong những quyển sử có tiếng nhất của thế giới. Nhưng một điều còn làm chúng ta ngạc nhiên hơn là công trình khoa học lớn lao ấy đồng thời lại là một trong những tác phẩm văn học ưu tú của nhân loại (…).
“Sử ký” là cả một thế giới. Nó làm thỏa mãn tất cả mọi người. Người nghiên cứu sử tìm thấy ở đấy một kho tài liệu vô giá, chính xác, với một giá trị tổng hợp rất cao. Nhà nghiên cứu tư tưởng tìm thấy qua “Sử ký” “một trong những tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại” (đánh giá của “Bách khoa toàn thư Xô - Viết”, mục “Sử ký”). Người bình thường tìm thấy vô số những hình tượng điển hình, những câu chuyện hấp dẫn, những con người đầy sức sống mãnh liệt. Họ thấy quá khứ sống lại. Và không phải chỉ có thế. Người nghiên cứu văn học còn tìm thấy ở đây một tâm hồn, một tâm sự đau xót đầy sức mạnh của thơ trữ tình, “một tập “Ly tao” không vần” như lời đánh giá của Lỗ Tấn (đại văn hào người Trung Quốc).
Tư Mã Thiên, tên tự là Tử Trường, sinh năm 145 TCN, ở Long Môn, nay là huyện Hàn Thành, tỉnh Thiểm Tây. Tổ tiên của ông từ đời Chu đã làm thái sử. Đến đời cha của ông là Tư Mã Đàm làm thái sử lệnh của nhà Hán. Đàm là một người học rộng, rất thích học thuyết Lão Trang. Chức sử quan ngoài việc chép sử còn coi thiên văn, làm lịch, bói toán. “Nghề viết văn, viết sử, xem sao, xem lịch thì cũng gần với bọn thầy bói, thầy cúng. Chúa thượng vẫn đùa bỡn nuôi như bọn con hát, còn thế tục vẫn coi thường”. Tuy vậy, Tư Mã Đàm vẫn thấy cái nghề của mình là cao qúi vì ông biết nó có tác dụng to lớn đối với sự thịnh suy, hưng vong của một nước. Trong các sử quan thời trước, cũng có những người dám hy sinh đời mình để viết sự thật, dù sự thật ấy làm vua chúa tức giận. Chẳng hạn khi Thôi Trữ giết vua Tề thì quan thái sử nước Tề viết: “Thôi Trữ giết vua của mình là Trang Công”. Quan thái sử bị giết, người em lên thay vẫn viết như vậy nên bị giết luôn. Ngay lúc đó, người em thứ ba xin lên thay, cũng không thêm bớt một chữ. Thôi Trữ sợ không dám giết nữa (…).
Tư Mã Thiên sống thời thơ ấu ở Long Môn, cày ruộng, chăn trâu, làm bạn với những người nông dân bình thường và học các sách sử cổ. Lên mười tuổi, ông đã học “Tả Truyện”, “Quốc ngữ”, “Thế bản” và thuộc lòng hầu hết những bài văn nổi tiếng của thời trước.
Tư Mã Đàm hết sức chú ý đến việc giáo dục con. Năm Tư Mã Thiên hai mươi tuổi, ông bảo con lên đường đi du lịch để xem tận mắt những nơi sau này Tư Mã Thiên sẽ phải viết sử. Tư Mã Thiên trước tiên đi về nam đến Trường Giang, vượt sông Hoài, sông Tử, thăm mộ mẹ Hàn Tín, đoạn lên núi Cối Kê xem nơi vua Hạ Vũ triệu tập chư hầu, vào hang Vũ Đông tìm di tích vua Vũ. Ở Cối Kê ông đã nghe những câu chuyện kể về vua Việt Câu Tiễn. Ông lên Cô Tô tìm di tích Ngũ Tử Tư, đi thuyền đến Thái Hồ sưu tầm truyền thuyết về Tây Thi, Phạm Lãi. Sau đó, ông đi ngược lên Trường Sa, đến bến Mịch La khóc Khuất Nguyên, đến sông Tương trèo lên núi Cửu Nghi nhìn dấu vết mộ vua Thuấn và khảo sát những tục cũ từ thời Hoàng Đế. Ông lên miền Bắc, vượt sông Vần, sông Tứ đến nước Tề, nước Lỗ, bồi hồi nhìn lăng miếu của Khổng Tử, say sưa nghe nhân dân kể chuyện Trần Thiệp, đến đất Tiết thăm hỏi di tích của Mạnh Thường Quân, lên Bành Thành quê hương Lưu Bang để tìm hiểu rõ thời niên thiếu của những con người đã dựng nên nhà Hán. Ông sang nước Sở thăm đất phong của Xuân Thân Quân, đến nước Ngụy hỏi chuyện Tín Lăng Quân rồi trở về Tràng An. Sau chuyến đi kéo dài ba năm ấy, ông còn đi những chuyến khác cũng để tìm tài liệu. (…) Có thể nói trừ miền Quảng Đông, Quảng Tây, còn từ Vân Nam, Tứ Xuyên cho đến Vạn Lý Trường Thành, ở đâu cũng có vết chân của ông. Ông là một trong những nhà du lịch lớn nhất của thời cổ.
Những cuộc du lịch đã cung cấp cho ông vô số tài liệu, truyền thuyết, giúp ông thấy được thái độ của nhân dân đối với những nhân vật, những biến cố lịch sử và cho ông rất nhiều chi tiết điển hình, về đời sống từng người trong lúc còn hàn vi.
Chính những cuộc “đi chơi” như vậy đã làm cho Tư Mã Thiên thấy cái bao la hùng vĩ của đất nước, có được một ý thức sâu sắc về sự vĩ đại của tổ quốc về tất cả mọi mặt để thành nhà sử gia vĩ đại của cả một dân tộc. Mã Tồn, một văn sĩ đời sau, nói: “Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường”. Câu nói đó không phải là quá đáng.
(…)
Năm 110 TCN, Vũ Đế chuẩn bị làm lễ phong thiệu ở Thái Sơn. Tư Mã Đàm trên đường đi theo nhà vua, mắc bệnh nặng, cầm tay con khóc mà rằng:
- Tổ ta đời đời làm sử quan. Sau khi ta chết đi, thế nào con cũng nối nghiệp ta làm thái sử. Khi làm thái sử, chớ quên những điều ta muốn bàn, muốn viết… Hiện nay bốn biển một nhà, vua sáng tôi hiền, ta làm thái sử mà không chép được rất lấy làm xấu hổ. Con hãy nhớ lấy!
Ông khóc mà vâng lời!
Ba năm mãn tang, ông thay cha làm thái sử lệnh (năm 108 TCN) chuẩn bị viết bộ “Sử ký”, thực hiện cái hoài bão lớn nhất của người cha, đồng thời là điều mong ước duy nhất của mình. Từ năm 106 TCN, ông không giao tiếp với khách khứa, bỏ cả việc nhà, ngày đêm miệt mài biên chép. Như thế được bảy năm thì xảy ra cái vạ Lý Lăng.
Năm 99 TCN, Vũ Đế sai Lý Quảng Lợi cầm ba vạn quân đánh Hung Nô. Bấy giờ Lý Lăng, cháu của danh tướng Lý Quảng, cầm năm ngàn quân vào biên giới Hung Nô. Bị tám vạn quân Hung Nô bao vây. Lăng chỉ huy cuộc chiến đấu suốt 10 ngày liền, giết hơn vạn quân địch. Nhưng cuối cùng vì cách xa biên giới, bị chặn mất đường về, quân sĩ chết hầu hết, mệt mỏi không còn sức chiến đấu, Lăng phải đầu hàng. Vũ Đế nổi giận, muốn giết cả nhà Lăng, quần thần đều hùa theo ý nhà vua. Thiên biết Lăng từ hồi hai người còn làm lang trung, tuy không đi lại chơi bời, nhưng mến phục Lăng là người can đảm, có phong thái của người quốc sĩ, nên tâu:
- Lý Lăng mang năm ngàn quân, thâm nhập vào nước địch đánh nhau với quân địch mạnh luôn 10 ngày liền, giết và làm bị thương vô số. Vua tôi Thuyền Vu sợ hãi, đem tất cả kỵ binh toàn quốc bao vây, Lăng một mình hăng hái chiến đấu ở ngoài ngàn dặm, tên hết, đường về bị cắt, cứu binh không đến, người chết và bị thương chồng như núi, nhưng nghe Lý Lăng hô hào, binh lính đều phấn chấn vuốt máu, chảy nước mắt giơ nắm tay không xông vào mũi nhọn cùng Hung Nô quyết chiến. Thần cho rằng Lý Lăng có thể sánh với những danh tướng ngày xưa. Nay tuy thất bại nhưng xem ông ta còn muốn có cơ hội báo đáp nước nhà.
Ông hy vọng lời nói của mình có thể giảm nhẹ tội cho Lý Lăng, không ngờ Vũ Đế càng giận, cho ông cố ý đề cao Lăng để chê Lý Quảng Lợi nhút nhát không lập nên công lao gì mà Quảng Lợi lại là anh của Kỳ phu nhân rất được nhà vua yêu quí. Vũ Đế bèn sai bắt giam Tư Mã Thiên giao cho Đỗ Chu xét xử.
Nhân vật Đỗ Chu đã được Thiên nói đến trong “Khốc lại truyện”. Có người trách y: “Ông thay nhà vua coi pháp luật, tại sao không căn cứ vào pháp luật mà xét; trái lại chỉ lo chiều theo ý nhà vua?”. Đỗ Chu đáp: “Luật lệnh ở đâu mà ra? Chẳng phải là do nhà vua mà ra đó sao?”. Gặp phải bọn quan lại như vậy, cố nhiên ông không có cách nào khỏi tội. Bấy giờ có phép lấy tiền chuộc tội. Chỉ cần 50 vạn đồng tiền là chuộc được tội chết. Trong bức thư ông viết sau này cho Nhâm An, một người bạn cũ sắp bị chém, một người cùng chung cảnh ngộ, ông đã kể lại nỗi cay đắng của mình. Nhà ông nghèo, ông mải mê theo đuổi sự nghiệp của mình, quên cả gia sản; nên không sao chuộc được tội. Bạn bè, thân thích không ai nói hộ một lời, không ai giúp cho một đồng. Kết quả, con người ngang tàng, hai mươi ba tuổi đầu đi khắp Trung Quốc, nhà học giả lớn nhất của thời đại, con người ôm cái hoài bão của Chu Công, Khổng Tử, cuối cùng bị khép vào tội “coi thường nhà vua” và bị thiến!
Đã mấy lần uất ức quá, ông nghĩ đến việc tự vẫn. Nhưng ông thấy rằng nếu chết đi thì chẳng ai khen mình là tử tiết mà thế tục sẽ bảo đó là vì xấu hổ mà tự sát. Vả chăng, sự nghiệp chưa tròn, “Sử ký” còn dở dang, lời dặn của cha còn đó. Ông gạt nước mắt, nói: “Người ta ai cũng có một lần chết, có cái chết nặng như núi Thái Sơn, có cái chết nhẹ như lông hồng” và cố gắng gượng sống.
Cái ấn tượng sống nhục nhã, cô độc đeo đuổi ông cho đến khi chết. Mỗi khi nghĩ đến cái nhục bị hình phạt, mồ hôi vẫn cứ đầm lưng ướt áo! Nhưng ông không vì thế mà chán nản, trái lại, ông càng tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Ông thấy rõ hình phạt đó là thử thách đối với những “người trác việt phi thường”. Ông càng thấy cần phải viết “cho hả điều căm giận”. Và chính cái hình phạt nhục nhã ấy đã làm cho ông hiểu rõ cái mặt trái của xã hội phong kiến và dũng cảm đứng về phía nhân dân. Ông trở thành nhà sử gia vĩ đại của một nhân dân vĩ đại.
(…)
(…)
Hiện nay, người ta vẫn chưa biết ông mất vào năm nào. Người ta chỉ biết ông viết thư trả lời cho Nhâm An năm 53 tuổi (tức năm 93 TCN) và sau đó không có những tài liệu gì về ông, theo Vương Quốc Duy trong “Thái sử công hành niên khảo”, có lẽ ông mất năm 60 tuổi (tức năm 86 TCN), cùng một năm với Vũ Đế.
(…)
“Sử Ký” là một tác phẩm đồ sộ, tất cả 52 vạn chữ, 130 thiên, gồm 5 phần: Bản kỷ, Biểu, Thư, Thế gia, Liệt truyện.
(…)
(…)
(…). Mục đích của Bản kỷ là chép lại sự việc của những người, những nước có tác dụng chi phối cả thiên hạ. Ngay ở đây, trong cách sắp đặt của ông, cũng có những điều đời sau không dám nghĩ đến. Ông chép riêng lịch sử nước Tần trước Tần Thủy Hoàng thành một Bản kỷ vì trong thời Chiến Quốc, nước Tần là nước chi phối vận mệnh của tất cả các nước. Ông làm Bản kỷ Lữ Hậu mặc dù Lữ Hậu chỉ là thái hậu chứ không trị vì trên danh nghĩa, trái lại ông không làm Bản kỷ Huệ Đế mặc dù trên danh nghĩa, Huệ Đế vẫn là vua. Đó là vì Huệ Đế làm vua nhưng tất cả quyền hành đều nằm trong tay Lữ Hậu. Đặt một người đàn bà lên địa vị “kỷ cương môt nước” là điều không một sử gia nào đời sau dám làm, táo bạo hơn, ông dành cho Hạng Vũ những trang đẹp nhất mặc dù Hạng Vũ chưa hề làm đế, là kẻ thù của nhà Hán. Đó cũng là vì ông tôn trọng sự thực khách quan. Hạng Vũ tuy về danh nghĩa không phải là người làm chủ các chư hầu đánh lại nhà Tần (đó là địa vị của Nghĩa Đế) nhưng trong thực tế, người có công lớn nhất trong việc tiêu diệt nhà Tần, người phong đất cho chư hầu, cai trị thiên hạ trong 5 năm chính là Hạng Vũ (…).
Để có cái nhìn đối chiếu các sự kiện hoặc căn cứ vào niên đại, hoặc căn cứ vào sự tương quan đồng thời giữa các nước, Tư Mã Thiên lập ra 10 Biểu (…).
Những bản Biểu là những công trình khoa học rất quí, ghi chép năm, tháng, biến cố, giúp cho các nhà sử học hiểu được vị trí của từng sự kiện và sự tương quan của nó về thời gian cũng như về không gian với các sự kiện khác, đặc biệt ở trong một nước mênh mông, lại phân tán như Trung Quốc cổ.
Lịch sử một nước chủ yếu là lịch sử của những thiết chế của nó. Tư Mã Thiên nhận thấy điều đó nên viết 8 Thư dành cho 8 mặt. Điều này cũng biểu hiện rằng ông có một kiến thức bách khoa. Phần này rất quí về mặt nghiên cứu. Tác giả nêu rõ sự biến đổi, những cống hiến về lễ, nhạc, luật lệ, việc làm lịch, thiên văn… qua các thời đại. Điều làm chúng ta hết sức ngạc nhiên là ông có những biểu hiện chính xác về mọi mặt và ở đâu ông cũng có những nhận xét tổng quát rất thấu đáo. Thiên “Phong thiện thư” nói về những việc mê tín, cúng tế của vua chúa với một giọng châm biếm chua chát. Thiên “Hà cư thư” nói về các con sông ở Trung Quốc. Thiên “Bình chuẩn thư” nói về kinh tế. Những thiên này viết chính xác đến nỗi người đời sau thường dựa vào đó để đính chính những sai sót trong các sách cổ nói về những thiết chế xã hội. Chúng làm ta thấy tác giả có một cái nhìn duy vật vào lịch sử và thấy tầm quan trọng của những sự kiện kinh tế, khoa học, văn hóa đối với lịch sử một nước (…).
Phần Thế gia bao gồm 30 thiên, chủ yếu nói đến lịch sử các chư hầu, chẳng hạn các nước Tề, Lỗ, Triệu, Sở…; những người có địa vị lớn trong quí tộc như các thái hậu, những người được phong một nước như Chu Công, Thiện Công, và những người có công lớn như Trương Lương, Trần Bình…. Đáng chú ý nhất là tác giả xếp vào Thế gia hai người thường dân không hề có một tấc đất phong. Đó là Khổng Tử, một người có địa vị đặc biệt trong lịch sử tư tưởng của Trung Quốc, và Trần Thiệp, anh hùng cố nông đã cầm đầu cuộc nông dân khởi nghĩa đầu tiên của lịch sử dân tộc Hán. Cách nhìn như vậy chứng tỏ một tầm mắt khác thường.
Danh từ “Liệt truyện” là do chính tác giả đặt ra. Phần này gồm 70 thiên, bao gồm những nhân vật khác nhau và những sự việc rất khác nhau. Đáng để ý trước hết là phần liệt truyện dành cho những nước ở ngoài địa bàn Trung Quốc mà ông là người đầu tiên đưa vào lịch sử với tính cách những bản khái quát đứng đắn và khoa học (Nam Việt, Đông Việt, Triều Tiên, Tây Di, Đại Uyển, Hung Nô). Cố nhiên, một phần liệt truyện là dành cho những người tai mắt trong xã hội cũ như những danh tướng (Mông Điềm, Lý Quảng, Vệ Thanh), những người làm quan to (Trương Thích Chi, Công Tôn Hoằng…). Điều đáng chú ý ở đây là ông đã nhìn thấy vai trò to lớn của những con người bình thường, thường không có chức tước gì nhưng có ảnh hưởng vô cùng sâu rộng đối với cả dân tộc. Đó là những du hiệp, những thích khách, trọng nghĩa khinh tài mà ông đã ghi lại trong những trang sôi nổi (“Thích khách liệt truyện”, “Du hiệp liệt truyện”). Đó là những nhà tư tưởng mà tác phẩm của ông đã ghi lại cuộc đời, hành trang và đánh giá học thuyết (Lão Tử, Trang Tử, Tuân Khanh…). Đó là những nhà văn như Khuất Nguyên, Tư Mã Tương Như mà ông nêu lên giá trị và nhận xét về nghệ thuật. Đó là những thầy thuốc, thầy bói, thậm chí là những anh hề mà trong con mắt của ông, lời nói có thể xếp vào Lục Kinh. Và cố nhiên, một con người yêu nhân dân và sự thực như Tư Mã Thiên không thể nào quên những tên sâu mọt, đàn áp bóc lột dân chúng, những bọn “Khốc lại” chỉ lo a dua nhà vua, tàn sát dân lành, những bọn ngoại thích lộng quyền và vô số những nhân vật ti tiện mà ông mạt sát bằng những lời phẫn nộ.
Thế giới của Tư Mã Thiên bao la như vậy! Qui mô của tác phẩm làm ta ngợp, bút lực của tác giả làm ta sợ. Đối với những người yêu văn học Trung Quốc, tác phẩm đưa đến một cảm giác rất lạ. Ở đây có cái biến ảo của “Nam Hoa Kinh”, có cái rạch ròi của “Hàn Phi Tử”, có cái hoa lệ của “Tả truyện”, có cái nghiêm khắc của “Xuân Thu”. Nhưng còn một cái nữa mà văn học từ Hán trở về trước (trừ Kinh Thi) không thấy có, đó là ý thức bám chắc vào sự thực, không rời cuộc sống dù chỉ nửa bước (…).
Ấn tượng ấy đến với chúng ta không phải ngẫu nhiên. Đó là vì “Sử ký” chính là Tư Mã Thiên sống, và con người ấy sống với những tư tưởng lớn.
(…)
(…)
Có thể nói Tư Mã Thiên là sử gia đầu tiên trên thế giới viết về lịch sử của một nước. Trước đấy, ở Trung Quốc chỉ có những người viết lịch sử một công quốc hay kể lại một vài biến cố quan trọng như “Xuân Thu thượng thư”. Những bộ sử như “Lịch sử” của Hêrôđốt (490-425 TCN), “Lịch sử đấu tranh ở Pôlôpône” của Tuy-xi-đút, trong văn học Hi Lạp hay “Chiến tranh ở Gôlơ” của Xêda trong văn học La Mã, chẳng qua chỉ kể lại một trận đánh  hay một chiến dịch. Quyển “Lịch sử La Mã” của Titút Livut (69-17 TCN), viết sau “Sử ký”, chỉ là lịch sử một đô thị. “Sử ký” thì khác, nó là lịch sử của toàn bộ dân tộc Trung Hoa kéo dài trên 3000 năm từ Hoàng Đế đến Vũ Đế và bao gồm một địa bàn mênh mông (…).
Ông cũng là người đầu tiên viết một quyển thông sử bao gồm mọi mặt của xã hội. Ông chú ý đến tất cả, đọc tất cả, biết tất cả kiến thức của thời đại (…).
Phương pháp viết sử của ông cũng rất đáng chú ý. Tư Mã Thiên nói: “Tôi chỉ thuật lại chuyện xưa, sắp đặt lại các câu chuyện trong đời chứ có phải sáng tác đâu”. Câu nói này thể hiện đúng cái quan niệm của tác giả về sử. Ngày nay chúng ta không nắm được tất cả những tài liệu mà ông đã dùng, nhưng có một điều chắc chắn là ông không bao giờ sửa đổi tài liệu. Những nhân vật thời Ân, Chu chính là những nhân vật của “Thượng Thư”, những nhân vật thời Xuân Thu, Chiến Quốc là những nhân vật của “Xuân Thu”, “Quốc Ngữ”, “Tả truyện”, “Chiến Quốc sách”. Lời nói của họ là lời họ nói trong thực tế theo những tài liệu tin cậy nhất. Những bài văn bia nhà Tần là do chính tay tác giả chép lại. Và ông đã để lại cho chúng ta cả một kho tàng văn kiện vô giá, nào chế, biểu, nào văn bia, thư, phú, bài hát, lời ca, cả những bài nghị luận dài, tất cả chiếm một phần ba tác phẩm, trong số đó phần lớn còn sống đến ngày nay vì chúng gắn liền với số phận của “Sử ký”. Đành rằng, đây đó, có những chi tiết sai lầm vì tài liệu lúc bấy giờ số lớn là tài liệu truyền miệng. Nhưng nói chung, ông hết sức nghiêm túc. Quan niệm viết sử này khác xa quan niệm những nhà viết sử cổ Hi Lạp, La Mã. Các nhà viết sử cổ đại, trừ Tuy-xi-đit, thường xem sử là một công trình nghệ thuật. Những nhân vật của họ đọc những bài diễn văn rất hay, nhưng do họ sáng tác ra, những nhân vật ấy tồn tại với tính cách những giả thiết tiêu biểu cho chính kiến của họ. Chính vì vậy, sử học hiện đại không xem đó là những công trình khoa học, không ai lấy đó làm cơ sở chính cho sự nghiên cứu La Mã, Hi Lạp cổ. Trái lại “Sử ký” từ trước đến nay vẫn là uy tín lớn nhất của cổ sử Trung Hoa. Bất kỳ ai muốn nghiên cứu bất kỳ phương diện nào của Trung Quốc cổ cũng không thể coi thường nó. Trịnh Tiều nói: “Một trăm đời sau, các sử quan không thể thay đổi cái phép tắc của ông, kẻ học giả không thể bỏ quyển sách của ông” chính là vì vậy.
Tư Mã Thiên là người cha của sử học Trung Hoa, nhưng là một người cha khó bắt chước nhất. Đối với sử học Trung Quốc, ông là người duy nhất nói về đương thời. Các sử gia về sau chỉ viết về một triều đại khi triều đại ấy đã chấm dứt. Họ sợ hiện tại và lẩn tránh nó. Trái lại, Tư Mã Thiên đã dành một nửa tác phẩm cho giai đoạn từ Hạng Vũ đến Vũ Đế, và việc càng gần ông chép càng rõ. Ông để lại những trang vô cùng sinh động về Cấp Ám, con người dám nói thẳng sự thực, không kiêng nể gì Vũ Đế. Ông kết tội Lữ Hậu, nêu bản tính lưu manh của Cao Tổ, phơi bày một bức tranh đau thương về xã hội trước mắt. Ông đau xót trước cái cảnh vua chúa mê tín (Phong thiên thư), phung phí tài sản nhân dân (Bình chuẩn thư), ngoại thích lộng hành (Ngụy Kỳ Vũ An Hầu liệt truyện), quan lại tàn ác (Khốc lại liệt truyện), nhà nho cầu an, giả dối (Công Tôn Hoằng truyện, Thích Tôn Thông truyện). Ông run sợ cho tương lai. Và chính ở đây người ta mới hiểu hết cái tâm sự của ông, lòng yêu nước, yêu nhân dân cũng như sự trung thực của một nhà khoa học.
Nhưng quan trọng hơn hết, ông hiểu tác phẩm của ông là viết cho ai. Ông nói quyển “Sử ký” viết cho “những người của nó”. Người của nó đây không phải là một vị ân chủ, một mỹ nhân, mà là nhân dân vĩ đại và bất tử. Ông có ý thức rõ về việc đó cho nên hai ngàn năm sau, đọc “Sử ký” ta thấy nó sinh động, mãnh liệt vô cùng, đồng thời tràn ngập cái hào khí của chính nghĩa. Nhìn vào quyển sách của ông, ta thấy hiện nên rõ rệt sự bất bình đẳng trong xã hội, cảnh nghèo khổ của những nông dân mất hết đất đai, sự giàu có phè phỡn của bọn phong kiến, con buôn lớn. Ta thấy bức tranh hiện thực về xã hội mà bọn bồi bút phong kiến cố hết sức che đậy bằng những danh từ trống rỗng. Cố Viêm Võ nói rất đúng: “Người xưa làm sử không cần bàn luận, nhận xét mà cái ý của tác giả thấy ngay trong việc trình bày thì chỉ có một mình Thái Sử Công (tức Tư Mã Thiên) làm được mà thôi”. Cái khó ở đây không ở phương pháp mà ở con tim.
Cũng vì Tư Mã Thiên không viết tác phẩm theo những khuôn khổ có sẵn về đạo đức phong kiến nên những nhận xét của ông về lịch sử rất trác việt. Ông luôn luôn lấy quyền lợi của nhân dân, lấy sự sống của họ để đánh giá nhân vật lịch sử. Đặc biệt, khi viết lịch sử nhân vật nào, ông cũng nêu rõ sự gắn bó của nhân vật với số phận của dân chúng. Ông thấy rõ Trần Thiệp “tài năng ở dưới mức trung bình” nhưng đã làm được một việc oanh liệt chỉ vì được dân chúng ủng hộ. Sự phân tích của ông về sự thành công của Lưu Bang và sự thất bại của Hạng Vũ có một ý nghĩa to lớn. Dưới con mắt của ông, Hạng Vũ là một con người phi thường, “tài năng và chí khí hơn người”, “từ cận cổ đến nay chưa ai có được như thế”. Về tư cách cá nhân mà nói, thì Lưu Bang kém Hạng Vũ về tất cả mọi mặt. Hạng Vũ là viên tướng bách chiến bách thắng, quân chư hầu sợ Hạng Vũ đến nỗi “đi bằng đầu gối, không ai dám ngẩng đầu lên nhìn”. Hạng vũ thương người và trọng nghĩa. Trái lại Lưu Bang là một người “không lo làm ăn”, “tham tiền và ham gái”, ngạo mạn, thô lỗ: “Thấy khách đội mũ nhà nho, Bài Công liền giật lấy mũ đái vào trong”. Thế nhưng cuối cùng Lưu Bang lại lấy được thiên hạ. Đó là vì Lưu Bang biết tự kiềm chế mình, lắng nghe theo lòng dân, luôn luôn chú ý đến dân chúng cho nên dân chúng tin. Đúng như Hàn Tín nói, Hạng Vũ chỉ có cái nhân của người đàn bà, cái dũng của kẻ thất phu, tiếc tiền, tiếc đất, chỉ tin vào tài năng của cá nhân mình, nghi ngờ tất cả; đã thế lại hiếu sát làm nhân dân thất vọng. Lưu Bang đã thắng vì biết dựa vào dân, tận dụng tài năng của các tướng. Cách nhìn nhận như vậy rất đúng và khoa học. Nó làm cho người ta nhớ đến tác phẩm của Makiaven, ở đây, Tư Mã Thiên có thể sánh với những nhà sử gia lớn nhất của thời cổ đại.
Tư Mã Thiên đã để lại hàng ngàn nhân vật điển hình sống mãi trong văn học. Riêng về mặt này, ông có thể sánh với những nhà văn lớn nhất của nhân loại. Cả một nhân loại mênh mông hiện ra trước mắt chúng ta, đủ các thành phần, đủ các nghề nghiệp, đủ các tầng lớp. Hình ảnh những chàng nông dân như Trần Thiệp, Ngô Quảng, những người du thuyết như Tô Tần, Trương Nghi, Phạm Thư, những hiệp khách như Kinh kha, Nhiếp Chính, những anh hàng thịt như Chu Hợi, Cao Tiệm, Hàn Tín, Lý Quảng, những công tử như Tín Lăng Quân, Mạnh Thường Quân, những bạo chúa như Tần Thủy Hoàng, Nhị Thế v..v…và vô số những hình ảnh khác là những hình ảnh bất tử. Những hình ảnh ấy đã du nhập vào kho tàng văn học, làm thành nhân vật của những truyền kỳ, thoại bản, hý khúc, kịch, thơ, lời nói và hành động của họ nhờ Tư Mã Thiên nêu lên đã thành tài sản của dân tộc. Đó là môt điều lạ. Nhưng điều lạ hơn là đời sau có thể tô điểm thêm bớt nhưng dường như khó lòng dùng năng lực hư cấu của mình để tạo nên một Kinh Kha, một Hàn Tín, hay một Hạng Vũ khác hẳn hình tượng Tư Mã Thiên đã tạo ra đã được nhân dân tiếp nhận toàn vẹn. Điều đó không phải là một hiện tượng thường thấy trong lịch sử văn học.
(…)
Khi miêu tả một nhân vật lịch sử, các sử gia thường chỉ xét họ trong những giờ phút họ đóng một vai trò lịch sử, họ chỉ xét nhân vật trong “tư thế lịch sử” của nó. Nhưng làm như thế tức là cắt xén nhân vật, biểu hiện nó một cách phiến diện và thậm chí có khi xuyên tạc vì trong những lúc cá nhân có ý thức về vai trò lịch sử của mình, họ thường đóng kịch. Tư Mã Thiên không làm như vậy. Ông không chỉ nắm Hàn Tín khi làm thượng tướng quân của Lưu Bang mà còn nắm Hàn Tín ngay từ khi ăn nhờ, chui qua háng người ta ở ngoài chợ. Nhờ sống trong nhân dân và đến tận nơi điều tra, nên ông thấy Trần Bình từ khi chia thịt, thấy Phàn Khoái từ khi bán thịt chó. Ông chú ý đến Trương Nghi từ khi anh chàng bị đánh gần chết, gãy hết cả răng, chú ý đến Lưu Bang ngay từ khi ăn quỵt tiền rượu. Tư Mã Thiên theo dõi một nhân vật và cốt tìm cho được cái bản chất của nó. Chính vì thế ông không bao giờ bỏ qua những cảnh thiếu thốn, nhục nhã mà nhân vật đã trải qua, vì ông biết bản chất con người thường lộ ra ở những lúc ấy. Đối với ông, nhân vật lịch sử vĩ đại đến đâu trước hết cũng là một người bình thường. Khổng Khâu trước khi được tôn sùng như một vị thánh cũng chỉ là một người mong muốn được làm quan, phiêu bạt đi tìm công danh, mấy lần suýt theo những kẻ mà ông gọi là loạn thần, tặc tử. Trong khi theo dõi nhân vật, ông không chạy theo sự kiện mà cốt tìm được cái quyết định tính cách của con người. Ông thấy tính cách con người do nhiều yếu tố quyết định. Có khi nó là một thiên hướng từ nhỏ. Nhân vật Trương Thang điển hình cho bọn quan lại tàn ác, lúc nhỏ giữ nhà để chuột ăn mất thịt bị cha đánh đòn. Thang bắt được chuột làm một bản án kết tội chuột. “Người cha xem thấy lời văn quả là một tay quan lại coi ngục sành sỏi, cả kinh”. Có khi nó là kết quả của nghề nghiệp, giáo dục. Lữ Bất Vi, một thương nhân giàu, thấy Tử Trương con vua Tần làm con tin ở Triệu thì nói: “Món hàng này có thể bán được đây”. Y xuất tiền bạc quảng cáo cho hàng và cuối cùng được lãi to: làm tể tướng nước Tần. Ông thấy cái điều làm một vĩ nhân khác con người tầm thường là ở chỗ họ có một hoài bão lớn ngay trong những cảnh ngộ cùng khốn nhất. Ông lắng nghe chàng cố nông Trần Thiệp đang cày bỗng dừng lại nói với các bạn cày: “Sau này phú quý chớ quên nhau”; ông chú ý đến cậu bé Hạng Vũ học kiếm chẳng thành nhưng đòi “học cách đánh lại vạn người”. Một khi tìm được tính cách của nhân vật, ông cố gắng tìm những câu nói điển hình và những hành động điển hình để làm cho hình tượng càng nổi bật (…). Chẳng hạn những nhân vật như Cáp Nhiếp, Phàn Ư Kỳ trong “Thích khách liệt truyện” nói không quá hai câu, nhưng đủ làm người ta thấy rõ cái phong thái trọng nghĩa khinh tài và lòng căm thù chồng chất của họ đối với nhà Tần (…).Để miêu tả thái độ ngạo mạn của Vũ Đế, chỉ cần một chi tiết: “Nhà vua có khi ngồi xổm ở bên giường để tiếp đại tướng quân Vệ Thanh”. Để miêu tả sự suồng sã của Lưu Bang, chỉ cần một chi tiết nhỏ: “Chu Xương có lần vào tâu, thấy Cao Tổ đang ngồi ôm gái, Xương chạy ra, Cao Tổ đuổi theo cưỡi lên cổ hỏi: Ta là vị vua như thế nào? Xương ngẩng đầu lên đáp: Bệ hạ là ông vua Kiệt, Trụ. Nhà vua liền cười ha hả”. Một chi tiết như vậy cũng đủ làm cho ngàn năm sau không ai có thể bênh vực cho Vũ Đế và Cao Tổ về việc quí trọng kẻ sĩ.
Một khi đã nêu lên tính cách chủ đạo của nhân vật, tác giả không bao giờ dừng lại để bàn bạc, trái lại ông trình bày dồn dập những sự việc điển hình tự bản thân nó đủ sức thuyết phục hùng hồn hơn mọi lý luận. Đó là then chốt của phương pháp tự sự của ông mà đời sau không ai bắt chước được. “Bản kỷ Hạng Vũ” chẳng hạn, viết với lối văn khô khan của biên niên sử. Ở đây chỉ có sự kiện và năm tháng. Nhưng vì biết rút từ sự kiện ra cái làm thành cá tính của Hạng Vũ và thời đại Hạng Vũ cho nên chính cái lối trình bày đơn giản khách quan này lại lôi cuốn người đọc hơn mọi thứ từ chương.
(…)
(…)
Chính cái phương pháp tự sự bậc thầy, công phu và chu đáo vô cùng đã làm cho nhân vật sống một cách trọn vẹn, hoàn toàn khách quan, không có sự can thiệp của tác giả, và cũng do đó, đời sau không thể nào thay đổi được. Sự thực vốn hùng hồn hơn lời nói và khi các sự thực đã xếp thành hệ thống nguy nga thì tự nó sẽ nói lên tiếng nói của chân lý.
Phải chăng vì thế mà tác giả vắng mặt? Không, tác giả luôn luôn có mặt. Hình ảnh của Tư Mã Thiên rất rõ ở từng trang, tâm sự của ông hiện lên như một tiếng đàn tuy rất khẽ nhưng rất rền trong bản hợp tấu vĩ đại. (…)
“Sử ký” là một tác phẩm khó nhưng rất hay. Nó làm cho người đọc say mê và giáo dục họ rất nhiều. Nhưng vì nội dung phong phú, cách diễn đạt kín đáo nên phải đọc đi đọc lại nhiều lần mới thấy hết cái hay của nó…”.
Câu chuyện kể của Nhữ Thành, được chúng ta nhớ lại hầu như… nguyên văn. Một bộ não hay quên mà nhớ được như thế, kể cũng có thể được gọi là siêu phàm. Người đời sau đọc lại cuốn sách dịch “Sử ký Tư Mã Thiên” rồi đối chiếu tài liệu, sẽ tấm tắc khen chúng ta; và rồi sau đó, không chóng thì chầy, chân tướng của chúng ta cũng sẽ lộ ra: đồ nói láo để cầu danh. Vì vậy, để trừ hậu họa, chúng ta xin nói rõ thêm rằng khi nói là nhớ lại, có người nhìn thấy chúng ta tủm tỉm cười!...
Ối! Chúng ta đang ở đâu thế này? Chúng ta dừng chân, ngơ ngác nhìn ra xung quanh và dần nhớ lại mọi chuyện. Miên man với những vấn đề của lịch sử, hình như chúng ta đã đi “lố” quá xa cái đích mà chúng ta muốn đến. Và đúng thế thật, bên vệ đường, dưới một cái bảng panô quảng cáo, có vẽ hình một cô gái mặc “hai mảnh” đẹp tuyệt trần đang ở tư thế nhảy cẫng lên, với dòng chữ to đùng: “Tài trợ cho cuộc thi hoa hậu hoàn vũ là niềm tự hào”, là một bảng nhỏ hơn ghi dòng chữ: “Công viên Ngũ Hành - còn 7 đơn vị khoảng cách” và một mũi tên chỉ hướng ngược lại…
¯¯¯
Thế là chúng ta đã về tới thuở bình minh của Tổ quốc, đứng đâu đó ở vùng trung du Bắc Bộ, dưới một cơn mưa tầm tã. Nhờ “thủ” sẵn áo mưa nên chúng ta không cần phải lo lắng đến chiếc vé khứ hồi đang nằm sâu trong túi áo. Chỉ ngài ngại cái hoàn cảnh đơn độc giữa um tùm cây cỏ của miền trung du thời sơ sử mà nghe thông báo ở bến Vượt Thời Gian là rất thường xuyên xuất hiện các loài dã thú như cọp, beo, gấu, lợn lòi, bò tót… chưa kể trăn, rắn, rết…
Mưa tầm tã làm hạn chế tầm nhìn và trong cái tầm nhìn đã bị thu hẹp đáng kể ấy, chúng ta chẳng thấy một ai cả, chẳng thấy một cái gì cả ngoài thiên nhiên hoang dã. Trên là bầu trời mờ đục, bốn bề là mưa gió giăng màn, dưới loang loáng là nước, tràn nước lũ. Hình như chúng ta đã may mắn “đổ bộ” trên một triền đồi dù không cao lắm nhưng nước chưa lấn tới được. Biết đi đâu bây giờ trong lúc mưa tuôn nước đổ này? Chẳng đi đâu sất vì cũng chẳng biết đường nào mà đi. Dưới làn nước ngập kia ắt hẳn phải có những con đường mòn, nhưng làm sao xác định được chúng? Thôi, khôn ngoan nhất lúc này là chờ đợi vì vé khứ hồi còn có giá trị đến hết ngày mai. Ngày mai, chúng ta tha hồ mà “bôn ba” trong xứ sở này và đến lúc đó, chúng ta sẽ đi tìm tổ tiên để yết kiến cũng chưa muộn. Nghĩ đoạn, chúng ta tìm một cây cổ thụ để tạm lánh, và loay hoay, chúng ta thấy một cây to, có chạc ba để làm chỗ ngủ qua đêm rất tiện, tránh được hiểm nguy từ những loài thú đi săn mồi ban đêm. Quanh thân nó là chằng chịt dây leo có thể lợi dụng để làm thang lên rất tuyệt. Ý niệm về nhà sàn, nhà treo đã nảy sinh ra trong não người Đông Nam Á cổ đại như thế nào nhỉ?...
Nơi đến cuối cùng của con tàu tốc hành về Quá Khứ là trung tâm xứ sở Địa Đàng, nơi có ngọn Kim Tự Tháp mà đỉnh của nó quanh năm tuyết phủ trắng xóa, dưới ánh mặt trời lấp lánh như pha lê. Hành khách trên tàu hầu như đều đi tới đó, còn một số đi đến Ai Cập cổ đại, một số thì đến Ấn Độ thời kỳ văn minh Môhenjô Đarô - Harappa (khoảng thiên niên kỷ III đến II TCN), cũng có vài người ghé vùng hai con sông Hoàng Hà và Dương Tử để tận mắt xem Ngu Công dời núi, chỉ có chúng ta là hành khách duy nhất muốn thăm thú chốn này. Trên bản đồ lịch sử cổ đại thế giới thì đây chỉ được thể hiện như một chấm rất nhỏ, ít người chú ý tới, cho nên nó cũng không có tên trong danh mục các điểm dừng của con tàu tốc hành mà chúng ta đi. Để đến được đây, chúng ta đã phải mua vé đi Đại Lục Mẫu và dùng một chiêu thức cũ rích nhưng cực kỳ hiệu quả mà chúng ta đã học được ở thời hiện đại: đút lót. Lúc đầu chúng ta chọn một viên ngọc kha khá trong hành trang để “kính biếu” cho ông trưởng tàu. Ông ta nhăn mặt cười khẩy: “Anh định chơi khăm tôi đấy à? Đây mà là ngọc thì toàn bộ sỏi đá, thậm chí là mảnh thủy tinh vỡ trên hành tinh này đều là ngọc hết. Thôi đi! Tàu không đỗ ở đó được đâu. Đó là nguyên tắc, ông đừng có mà giở trò!...”. Nói thế rồi ông trưởng tàu đáng kính bỏ đi, nhưng chúng ta có linh cảm là dù ở đâu, ánh mắt của ông ta cũng chốc chốc dõi theo chúng ta. Có một lần, ông ta đứng ở phía xa, thơ thẩn một mình và chúng ta đã không bỏ lỡ cơ hội; thoăn thoắt tiến đến gần khẩn cầu: “Thưa ngài, tôi biết là về nguyên tắc, tàu tốc hành không được đỗ ở đó, nhưng mong ngài thông cảm giúp tôi, cho tàu chạy chậm lại ở đó để tôi nhảy xuống, khi quay về cũng chạy chậm lại để tôi nhảy lên, được như thế là tôi đội ơn ngài. Xin ngài vui lòng nhận trước một nửa tấm chân tình của tôi”. Nói vừa xong câu đó thì đồng thời chúng ta cũng nhanh như chớp và khéo léo “thảy” một xấp tiền mới cáu cạnh lọt vào túi ông ta. Xấp tiền khá nặng, thế mà hình như ông trưởng tàu không cảm giác được. Ông ta lẳng lặng quay đi làm chúng ta chưng hửng. Tuy vậy chúng ta cũng kịp nói với theo: “Toàn Euro cả đấy!”. Và nụ cười thoáng qua trên khóe miệng của ông ta làm chúng ta yên lòng.
Chính vị trưởng tàu đã “đạp” chúng ta xuống triền đồi này. Cú đạp tuy hơi đau nhưng sung sướng!...
Leo lên tụt xuống vài ba lần rồi chúng ta cũng “chễm chệ” được trên chạc ba. Đây là nơi hội lại của ba nhánh lớn nằm theo phương gần ngang so với mặt đất, rất thuận tiện cho việc nằm ngồi nghỉ ngơi. Điều bất ngờ là phần mặt trên của cả ba nhánh cây khá vạm vỡ này, quanh vùng ba chạc đều nhẵn thín. Chắc rằng chỗ này đã là nơi “trú ngụ” quen thuộc của ai đó trước chúng ta, là “trạm quan sát” trong những cuộc săn bắt của họ…
Ở độ cao này gió có vẻ nhiều và mạnh hơn làm cho trận mưa tầm tã trở nên dạt dào, từng lúc, từng lúc tạt tới tấp vào mặt chúng ta. Lúc này, khi đã yên vị rồi, chẳng còn việc gì làm ngoài việc nhìn mưa và chờ đợi, chúng ta mới chợt nhận ra hương vị của nước mưa thời thượng cổ: thơm tho và dịu ngọt lạ lùng. Tuổi thơ sau những lần chạy nhảy nghịch đùa khắp đầu làng cuối xóm dưới trưa nắng chang chang, chúng ta lại uống ừng ực từng gáo nước mưa múc từ trong lu ra. Những gáo nước mát lịm và ngọt ngào ấy, sau bao nhiêu năm tháng cuộc đời, vẫn đậm đà trong trí nhớ. Ấy vậy mà thứ nước ngọt trời cho ấy vẫn không ngọt bằng thứ nước ngọt trời cho của thời hồng hoang. Đồ ăn thức uống được chế biến ra trong sự vỗ về của thứ nước như thế này chắc là tuyệt lắm. Ước gì được ăn một bữa cơm với tổ tiên! Lòng chúng ta bỗng thấy đói cồn cào…
Trời ngả về chiều rất nhanh. Cơn mưa dồn trút ào lên một đỗi nữa rồi đột ngột ngớt hẳn. Tiếng sấm rền từ đâu đó xa xôi vọng về nghe vang và thanh chứ không đục và trầm như tiếng sấm ở thế kỷ XXI, làm chúng ta có cảm giác không gian của thời này có vẻ rỗng rang hơn, khoáng đạt hơn của thời mà “công nghệ thông tin” đang trị vì…
Mưa đã tạnh và gió cũng chỉ còn thoang thoảng những làn mỏng. Tiếng sấm cũng tắt. Chúng ta tự dưng lọt thỏm trong cái yên ắng, tuyệt đối - thứ yên ắng thường thấy giữa hai cuộc chiến, nhưng chẳng gợn chút đe dọa nào mà trái lại, tạo nên một khoái cảm vừa yên lành, vừa lâng lâng hơi có chút rạo rực của một kẻ bươn chải kiếm sống ở những khu ồn ào nhốn nháo đô hội, có dịp trở về quê hương, đi trên bờ ruộng giữa cánh đồng lúa bao la, đã chớm vàng báo mùa chín tới, trong một chiều thu hiu gió, dưới bầu trời xanh cao thoáng đãng.
Nước cũng đã bắt đầu rút tuy hơi chậm. Tầm mắt của chúng ta đã vươn tới rất xa. Tịch, vẫn không phát hiện ra một bóng người nào. Vẫn chỉ thấy lênh láng là nước. Và cảnh sắc đó cứ gợi nhớ về Đồng Tháp Mười ở miền Nam mùa nước nổi. Phải chăng vùng châu thổ hạ lưu sông Mê Công cùng với khí tượng thủy văn đặc thù của nó đã là phong cảnh thường thấy của Trung du Bắc Bộ thời tiền sử, cách đó khoảng 4 - 5 năm ngàn năm về trước mà hôm nay chúng ta đang thấy tận mắt? Dù sao, có một điều mà chúng ta có thể khẳng định chắc chắn được đó là: trận mưa vừa rồi là trận mưa lớn nhất mà chúng ta thấy và cũng là trận mưa sạch nhất mà chúng ta được hưởng trong đời. Rất có thể chúng ta đến đây vào giai đoạn tàn dư của cuộc tranh hùng Sơn Tinh - Thủy Tinh, khi Sơn Tinh về cơ bản đã dành thắng lợi còn Thủy Tinh dù biết rằng đã thua nhưng vì sĩ diện vẫn cứ hậm hực, tìm đủ mọi cách quấy rối theo kiểu “còn nước còn tát”. Nếu đúng như thế thì chúng ta đến đây, sớm nhất cũng chỉ có thể là vào khoảng thời gian cuối đời vua Hùng thứ sáu trở về sau và không muộn hơn đời vua Hùng có ý định xây thành Cổ Loa (vì chúng ta căng mắt ra mà chẳng thấy thành đó ở đâu cả!!!)? Không, sự thực chưa hẳn đã là như vậy. Có thể sự thực là như thế này: chúng ta đã đến thời vua Hùng thứ sáu đang trị vì (như một tộc trưởng của bộ tộc đứng đầu liên minh các bộ lạc), nhưng lại “đổ bộ” ở đâu đó ngoài “bãi chiến trường” trung tâm cuộc tranh hùng Sơn Tinh - Thủy Tinh nên chỉ chứng kiến được trận đánh nhỏ lẻ, có  tính “râu ria” của cuộc tranh hùng ấy. Chính vì thế mà chúng ta cũng đã không quan sát thấy công cuộc xây dựng Cổ Loa thành đang được tiến hành ở vùng trung tâm…
Những ngôi sao đầu tiên đã xuất hiện lấp lánh trên nền trời đỏ sẫm, báo hiệu một đêm đầy sao. Móc một miếng lương khô được tổng hợp nhờ công nghệ cao, nhai trệu trạo cho đỡ đói lòng xong, chúng ta lấy ba lô hành trang làm gối, cởi áo mưa ra làm mền đắp và ngả lưng. Một ngày chộn rộn dù chẳng nên tích sự gì cũng đã làm chúng ta mệt rã rời và buồn ngủ ghê gớm. Kệ! Cứ ngủ một giấc cho no, lấy lại sức rồi mai tính!...
Một người, không biết từ đâu, tự dưng xuất hiện ở phía đàng chân chúng ta. Hơi sợ, chúng ta cố gắng không nhúc nhích thân mình, cố mở to mắt để nhìn cho rõ. Đó là một người đàn ông, không béo mà cũng không gầy, có lưỡng quyền hơi cao; mắt long lanh sáng quắc trên bộ mặt đỏ rực như có ánh sáng hào quang đâu đó từ phía dưới chiếu hắt lên, trông cao vợi và phi thực. Người đó ở trần, da thịt au màu đồng đỏ, gân cơ nổi cuộn, săn chắc. Hình như ông ta không thấy chúng ta, đầu cứ chầm chậm quay qua quay lại, mắt nhìn chăm chăm ra xa vời, lâu lâu lại lột từng mảng da trên người, giũ bỏ. Những mảnh da khi đã lột ra khỏi cái thân thể ấy bỗng trở nên mỏng tang như lụa, nhẹ nhàng rơi xuống, rã ra thành vô vàn những chấm sáng li ti, lấp lánh đủ màu sắc rồi tan biến vào bóng tối mênh mông. Việc lột da cứ tái đi diễn lại mãi. Tuy nhiên người đàn ông chẳng có tỏ vẻ gì là đau đớn khó chịu cả, nét mặt ông vô cảm. Hình như ông ta không nhận ra sự “có mặt” của chúng ta ở đây.
Một kẻ nằm im thít, căng thẳng nhìn kẻ kia lặng lẽ lột hết miếng da này đến miếng da khác với vẻ mặt mông lung và lạnh như tiền, hiện hữu trong một thứ ánh sáng dịu lạnh như lân tinh giữa đêm tối tĩnh mịch, tạo nên một cảnh tượng ma quái, liêu trai.
Cảm giác sợ sệt rồi cũng qua đi, nhường chỗ cho sự tò mò cố hữu. Tự dưng bị đặt vào tình trạng phải quan sát bất đắc dĩ như thế này giữa thời đại sâu xa thượng cổ nổi tiếng là uy linh huyền bí, kể cũng oái oăm, nhưng cũng có phần thi vị. Thật là khoan khoái khi nghĩ đến mai kia, ít nhất cũng có một câu chuyện kỳ thú về chuyến du hành này để kể cho đám con nít nghe, trước những đôi mắt tròn xoe và những cái miệng há hốc. Không hay hoài nghi như người lớn, chúng sẽ tin câu chuyện của chúng ta là có thật. Trẻ con chúa là cả tin vì chúng không tin nổi người lớn lại có thể lừa dối chúng!...
Chúng ta nhìn ngắm rồi cố đoán xem người đàn ông này cụ thể là ai trong cái đêm tối mông lung này, ở nơi hoang dã này và ở thời đại cổ xưa này. Khuôn mặt quắc thước cùng với hai tai khá dài gợi cho chúng ta nhớ về những pho tượng đầu người dãi dầu mưa nắng ở đảo Phục Sinh. Sự hiện hữu rất thực cùng với vóc dáng chẳng có gì là to lớn phi thường mà còn có vẻ dung dị của ông ta nói lên rằng ông ta chẳng phải là thần thánh gì. Nhưng nếu là người thường thì bằng cách nào ông ta lại thoắt hiện ra đây được, tại sao cứ phải lột da mãi như thế và lại chẳng hề hấn gì?...
Rốt cuộc, chúng ta vẫn chẳng biết người đàn ông này là ai, ở đây nhằm mục đích gì.
Tư thế nằm bất động khá lâu đã làm chúng ta rất mỏi, hai chân tê dại. Một cách nhẹ nhàng nhất có thể, chúng ta chầm chậm duỗi một chân ra. Ấy vậy mà hình như người đàn ông đã phát hiện được cử chỉ ấy bởi chúng ta thấy ông ta chầm chậm quay đầu lại, cúi mặt xuống và lần đầu tiên nhìn chằm chằm vào chúng ta. Hai luồng sáng rực từ mắt ông ta chiếu trực diện làm chúng ta có cảm giác rất chói mắt, cơ thể đột nhiên nóng ran, tim đập bình bịch đến tức ngực, ngộp thở. Có cái gì đó đè nặng lên toàn bộ cơ thể làm chúng ta không sao nhúc nhích được. Dù đã cố rướn người lên để thở, đã cố động đậy chân tay để vùng thoát khỏi tình trạng ngày một ngộp thở mà không được. Cuối cùng, khi đã ở tình trạng bấn loạn và tức tối tột độ, chúng ta vung được cánh tay trái ra khỏi ngực mình kèm theo một tiếng thét vô thức: “Ông là ai?”…
Chúng ta chồm dậy, thở hồng hộc. Thì ra đã nằm mơ! Trăng tròn vành vạnh ngay trên đỉnh của vòm trời bao la. Ánh sáng chan hòa của nó rọi xuống chỗ chúng ta, qua một cành lá đòng đưa nhờ gió, lúc mờ lu lúc vằng vặc. Ánh trăng rằm thời đại này tươi mát và trong lành làm sao! Ở thế kỷ XXI chẳng thể tìm đâu ra một đêm thanh ngần như thế này. Loài người, sau mấy ngàn năm khai phá và tạo dựng theo quan niệm của mình để thỏa lòng thèm muốn vô độ lượng cũng của chính mình đã làm cho cảnh sắc thiên nhiên của Trái Đất biến dạng ghê gớm theo hướng tích tụ ngày một nhiều những ưu phiền và phẫn nộ. Chúng ta luôn dương dương tự đắc nên chỉ thấy mặt phải mà không thấy được mặt trái của sự sáng tạo, chỉ thấy được biểu hiện của sự phát triển trong tiến trình lịch sử loài người mà chưa thấy được những cảnh báo về nguy cơ dẫn đến suy tàn của xã hội loài người. Biết bao nhiêu nền văn minh đã từng rực rỡ rồi trở nên điêu tàn chỉ vì sự phát triển thái quá và vô lối từ sự hiểu biết ngây ngô và phiến diện về Đạo và Đức, đã là những bài học rành rành nhưng chưa ai thuộc?! Tương lai loài người, khi Đất và Nước đã bị vắt kiệt cùng rồi, sẽ đi về đâu? Đi về đâu hỡi loài người bi tráng? Đi về đâu, ôi, xứ sở này? Và rồi nữa, đi về đâu hỡi Thăng Long ngàn năm văn vật, khi cứ phải cố nở to ra chỉ vì những sở thích mù quáng? Hà Nội đẹp vì cảnh vật. Bản sắc của thiên nhiên và con người đã đan quyện nhau trong suốt quá trình dài chung sống và từng bước thăng hoa theo nhịp điệu nội tại của bản thân nó, tương hợp với thời cuộc đất nước; trở thành một kiến tạo thống nhất, nổi bật những đường nét nhu mì và hòa hiếu chứ không phải là sự kiêu hãnh phô trương. Hà Nội là thủ đô của một nước nhỏ bé, nên khiêm nhường và chuộng hòa bình, đồng thời là biểu tượng gan góc của một dân tộc không đông nhưng biết cách sống còn trong suốt 4 - 5 ngàn năm vật lộn với thiên tai và chống giặc ngoại xâm. Hà Nội tuyệt vời bởi nó vốn dĩ là thế, không cần đến sự thổi phồng khiên cưỡng, sự lắp ghép kềnh càng giả tạo và bởi vẻ diêm dúa lòe loẹt nào! Trái Đất này là viên ngọc bích long lanh vô giá của Thái Dương Hệ đâu phải vì nó vĩ đại!
Ông là ai hỡi người trong mộng? Ông là Kinh Dương Vương, là Lạc Long Quân, là vua Hùng, hay là hồn thiêng của tổ tiên chúng ta đó?! Ông là rồng thiêng, rắn linh, lột xác sống đời cho dân tộc Lạc Việt trường tồn, cho tổ quốc Việt Nam bất tử trong lịch sử loài người?!...
***
Chẳng làm sao mà ngủ lại được nữa! Chúng ta ngồi đây, trên cái chạc ba cổ thụ này, nơi tổ tiên chúng ta đã từng trú ngụ, với bao nhiêu suy nghĩ cứ miên man nối đuôi nhau đổ về không ngớt. Chúng ta yêu đất nước này vì tổ tiên ông bà của chúng ta ở đây, vì chúng ta được chôn nhau cắt rốn tại đây và vì thế mà chúng ta có quyền được ca ngợi nó, cũng như mọi người yêu quê hương họ và có quyền được ca ngợi đất nước họ. Tình yêu đó là chính đáng, là phù hợp với Đạo Lý và Đức Huyền Diệu!…
Trăng đã sà xuống và khuất lấp tự lúc nào. Cái tịch mịch của trời đất không còn nữa. Bóng tối đã nhạt nhòa bởi cái quầng sáng chớm hé ở chân trời phía đông. Mãi suy tư nên đến bây giờ chúng ta mới chú ý lắng nghe âm thanh của sự sống. Đó đây đã lác đác tiếng hót chào, gáy sáng của chim muông, tiếng voi kêu vang vọng, tiếng vượn hú lói chói, tiếng hổ gầm trầm hùng từ xa đâu đó khắp nơi vang vọng về hòa điệu báo hiệu một ngày mới, ráo hoảnh nhờ nắng và gió. Ấy vậy mà không phải vậy. Một ngày mới sáng trong đã không xuất hiện. Thiên nhiên đã không chiều theo ý chúng ta. Chẳng biết vì sao mà mây đen ùn ùn kéo về vần vũ trước sự bất lực của vầng sáng phương đông. Trời vừa mới hửng lên ngon trớn đã đột ngột u ám. Lại một cơn mưa như trút nữa đây! Qua một đêm, nước vẫn chưa kịp rút hết. Mặt đất vẫn còn loang lổ nước như một tấm da báo, đang khấp khởi đón bình minh, chợt trở nên ỉu xìu trước mối đe dọa bị nhấn chìm lần nữa. Thời tiết của thời đại này chuyển biến bất ngờ đến lạ lùng. Nhưng dù sao thì chúng ta cũng chứng kiến được một thực trạng là ở đây nhiều nước quá. Từ vùng lưng chừng đồi này nhìn xuống, ra xa, thấy sông, hồ đan xen, không thể không làm nhà sàn, nhà treo, nhà thuyền được. Tổ tiên của chúng ta đã thích nghi được với khu vực tuy dồi dào về nguồn thức ăn nhờ thiên nhiên ưu đãi nhưng đồng thời muốn như thế phải chịu được cuộc sống chung đụng với sông nước đan giăng, với thường xuyên bão dông, thác lũ, lụt lội và hơn thế nữa, sau này, là nạn ngoại xâm từ phương Bắc. Quá trình thích nghi để sống còn và đi tìm hạnh phúc ấy của tổ tiên chúng ta đã để lại cho đời sau những trang sử đầu tiên hết sức chói lọi của thời kỳ khai hoang bờ cõi, đắp thành Tổ Quốc từ Đất và Nước, đó là: Huyền thoại về nguồn gốc con rồng cháu tiên từ một “đồng bào” - kết quả của mối tình thuận vợ thuận chồng Âu - Lạc; là bản anh hùng ca Phù Đổng Thiên Vương đánh giặc cứu nước; là công cuộc trị thủy cam go được tạc lại thành biểu tượng truyền kỳ hào sảng Sơn Tinh - Thủy Tinh…
Mây ùn về nhanh thế, tưởng sẽ phải nổi lên cuồn cuộn, nào ngờ nó dàn trải ra như một tấm nệm bông dày cộm phủ kín bầu trời. Kiểu này làm sao mà hình thành nên một cơn mưa như trút được? Thà cứ trút ào đi một cái rồi tạnh hoảnh chứ cứ tầm tã lúc nhặt lúc khoang như hôm qua thì… thương cho chúng ta quá! Tốn một mớ tiền hơi “bị” nhiều để về đây leo lên cây ngồi ngắm mưa rõ ràng là chả hiệu quả tí nào! Mặc lại áo mưa và thu xếp hành trang xong, chúng ta cứ lưỡng lự mãi, không biết có nên “chào tạm biệt” cái chạc ba này không nữa? Nếu trời chỉ âm u thôi mà không mưa, trong khi chúng ta ở lại đây thì sẽ bỏ lỡ cơ hội đi diện kiến tổ tiên để hỏi cho ra lẽ nhiều điều, nhất là sự tích về Cổ Loa thành. Nhưng nếu chúng ta đi về phía vùng loang lổ da báo ấy mà bị trời mưa như hôm qua thì chắc chắn là sẽ bị chìm ngỉm ngay khi nước dâng cao vì chúng ta… không biết bơi! (Nghĩ mà thẹn với tổ tiên!)…
Rồi thì mưa cũng bắt đầu lác đác và vì thế mà tình trạng lưỡng lự cũng chấm dứt. Chúng ta ngồi phịch trở lại, bước vào cuộc chờ đợi mới và thở dài ngao ngán!
Mưa lác đác rồi dần trở nên rả rích và lại tầm tã, tuy không bằng sự tầm tã của ngày hôm qua. Trời mát đến hơi lạnh. Thời tiết này hao hao với thời tiết của vùng Nam Bộ - Việt Nam thời hiện đại với một năm gồm hai mùa mưa, nắng và không qua mùa đông. Nghĩ ra, chúng ta thấy mình thật đáng trách: cắm đầu cắm cổ về đây mà không chịu xem ngày, chọn tháng để phải ngồi thu lu trên cây giữa mưa tuôn như thế này. Nguy cơ về một cuộc hành trình vô tích sự đã manh nha thành hiện thực. Chiều nay chúng ta đã phải theo tàu vượt thời gian trở về mất rồi!...
Mưa vẫn nhạt nhòa và nước ngày một lênh láng. Vùng này khá cao mà nhiều nước thế thì ở những vùng đồng bằng châu thổ còn nhiều nước đến cỡ nào nữa? Và vào những khoảng thời gian như thế này, con người tiền sử ngụ cư ở đó chắc là khó khăn lắm rồi chứ nói chi đến trồng trọt - chăn nuôi?
Có lẽ, chốn dung thân thuở ban đầu của vượn người là rừng rú, về sau, vượn người rồi đến người vượn đã chọn hang động làm nơi “thường trú”. Đó chính là những ngôi nhà thiên nhiên an toàn nhất để tránh thiên tai. Gọi là “thường trú” vì không phải và cũng không thể ngày nào cũng ở hang động. Cuộc sống lang thang kiếm ăn có khi là dài ngày đã không cho phép người tối cổ thực hiện được điều đó. Không những thế, sự phát triển dân số của giống loài buộc những bộ phận người phải sống tách rời ngày một xa rừng núi, phải tìm cách thích nghi với điều kiện sống mới. Quan sát thiên nhiên, học hỏi thiên nhiên và sáng tạo, dần dà con người đã bỏ lối sống hang động với kiếm ăn chủ yếu là săn bắt - hái lượm sang lối sống định cư ở đồng bằng với kiếm ăn chủ yếu bằng trồng trọt - chăn nuôi. Lúc đó, chắc là họ đã biết xếp đá, đắp đất, kết cây, đan lá… làm ra những cái “hang nhân tạo” để trú ngụ mà sau này được gọi là “nhà”…
Sự tưởng tượng làm chúng ta thấy vui vui: nếu công cuộc khai hoang thời nay chủ yếu là phá núi mở rừng, cải tạo đồi trọc thì thời xa xưa là tiến về đồng bằng và ra ven biển. Sự lan tỏa dân cư từ miền ngược xuống miền xuôi Bắc Bộ, bắt đầu là từ Lạc Long Quân, về mặt hình thức, có thể được hình dung ra từ cuộc lan tỏa dân cư từ Bắc vào Nam bắt đầu vào cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII. Đến đây, chúng ta chợt nhớ đến bài thơ nổi tiếng của tướng Huỳnh Văn Nghệ. Nó thế này:
                              “Ai ra ngoài Bắc ta theo với
                              Thăm lại non sông, giống Lạc Hồng
                              Từ độ mang gươm đi mở cõi
                              Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”
                             
Sự lan tỏa dân cư bao giờ cũng có hướng ưu tiên (nghĩa là có lựa chọn) đến khu vực cho là “dễ sống” hơn. Do đó sự lan tỏa dân cư ở vùng này đồng thời cũng làm xuất hiện sự quần tụ dân cư ở vùng khác. Theo phỏng đoán, đã có một bộ phận dân cư mà biểu tượng là Kinh Dương Vương, tách ra từ cộng đồng Bách Việt, dần dần đến định cư tại các vùng cao và trung du Bắc Bộ, hòa hợp với dân bản địa mà hình thành nên người Lạc Việt. Sự quần cư mới hình thành và phát triển đến thời Lạc Long Quân thì xuất hiện nổi trội quá trình lan tỏa dân cư xuống những vùng thấp hơn, tìm cách sống thích nghi với sông nước chằng chịt, lũ lụt quanh năm. Quá trình thích nghi và thích nghi ngày một tốt hơn để sống còn và cải thiện đời sống tốt hơn ấy đã hoàn toàn tự nhiên đặt ra vấn đề cần giải quyết mang tính cốt lõi: trị thủy. Nếu trị thủy thành công thì vùng đồng bằng màu mỡ sẽ hứa hẹn những mùa lúa nước bội thu!...
Ôi, những con đê dọc theo những dòng sông miền Bắc, nơi chứng kiến biết bao nhiêu cuộc chia ly, tương phùng, biết bao nhiêu cuộc hò hẹn trai gái; nơi mà biết bao mồ hôi nước mắt con người đổ xuống để giữ gìn đồng lúa ruộng khoai, để bảo toàn cuộc sống làng xã, đã hình thành nên từ bao đời? Chúng ta không biết điều đó nhưng có lẽ chúng là kết quả của ý niệm nảy sinh từ thời kỳ đầu dựng nước và được bồi đắp liên tục qua từng thế hệ!...
Thui thủi trong mưa với những dòng suy tưởng mê man, đến đây, lòng chúng ta bỗng dưng bừng sáng: một hoang tưởng về Cổ Loa thành hiện lên, rõ mồn một. Vì là hoang tưởng nên không phải là sự thực lịch sử nhưng một câu chuyện không có thực đôi khi vẫn hàm chứa chân lý. Người ta nói ảo thuật là bịp bợm nhưng lại là sự bịp bợm có lý. Chúng ta nói thêm: một khi không phát hiện ra bất cứ xảo thuật nào đằng sau một trò ảo thuật thì đó phải là sự thật, chỉ có đức tin mới nói được nó là bịp bợm!
Tạm tin rằng Địa Đàng đã từng hiện hữu trên Trái Đất này và nền văn minh Địa Đàng đã tan biến vào đúng giai đoạn cực thịnh của nó. Tuy vậy, nền văn minh ấy đã kịp truyền bá phần nào ra khắp thế giới, trong đó có dải đất mà sau này là lãnh thổ Việt Nam. Trên dải đất này, con người nguyên thủy đã có mặt rất sớm ở rải rác các nơi. Ở đây, qua di tích khảo cổ có được cho đến nay, có thể thấy rằng trước thời Kinh Dương Vương, cũng đã từng xuất hiện những trung tâm văn hóa nổi trội (còn gọi là văn minh?) với qui mô và sức lan tỏa ở chừng mực nhất định (bị hạn chế bởi địa hình, bởi thiên tai thường gặp ở những miền duyên hải).
Cũng có thể thấy được, do đặc tính của lối sống man khai hồi đó đem lại mà sự chung cư còn mang nặng tính “mẫu tử”, huyết thống, bầy đàn; tính xã hội còn chưa bộc lộ hoặc đang manh nha, cho nên sự hiện diện của các vùng có con người sinh sống như là những lãnh thổ xác định còn chưa thành hình hoặc đã hình thành nhưng còn mờ nhạt, sơ khai, manh mún, theo cảm tính bản năng chứ chưa dựa trên một ý thức rõ ràng. Chính cuộc cách mạng trong trồng trọt (phát hiện ra cây lúa nước và lấy nó làm nguồn lương thực chủ yếu) cùng với quá trình phát triển và tương tác giữa các lực lượng dân cư của khu vực đã dần làm xuất hiện hình thái sống quần tụ dân cư đông đúc, định cư ổn định, lâu dài và từ đó mà cũng hình thành ý thức về cộng đồng xã hội, về chủ quyền lãnh thổ.
Không có gì đặc biệt, chưa kể đến những tác động từ môi trường thiên nhiên, với những nguyên nhân từ sự đan xen của các quá trình giao lưu, trao đổi văn hóa, từ sự lan tỏa và hội tụ dân cư… mà xảy ra hiện tượng có những trung tâm văn hóa (nền văn minh) chựng lại, thậm chí là thui tàn đi, đồng thời xuất hiện những trung tâm văn hóa mới, kế thừa và phát triển nổi trội trở thành nền văn minh. Có khả năng tại khu vực khoảng vùng Cực Nam Trung Quốc ngày nay đã từng xuất hiện và tồn tại một nền văn minh Bách Việt và ở thời gian phát triển nào đó, nó đã là một trung tâm lan tỏa dân cư. Quá trình lan tỏa dân cư của cộng đồng dân cư Bách Việt đã làm một bộ phận dân cư của nó dần tràn xuống xa hơn nữa về phương Nam, đến phần đất thuộc Bắc Việt Nam ngày nay, sinh cơ lập nghiệp, hòa hợp với dân cư bản địa để từ đó xuất hiện dân tộc Lạc Việt, thủy tổ của người Việt chúng ta. Từ đó, những yếu tố văn minh Bách Việt đã hòa quyện với văn minh bản thổ - một nền tảng văn minh lâu đời hơn, có tính cách cội nguồn của chính văn minh Bách Việt, đã làm hình thành nên một nền móng văn minh cho văn minh Văn Lang rực rỡ sau này.
Dựa vào các truyền thuyết lịch sử, chúng ta có thể hình dung ra quá trình khai mở và dựng nước của tổ tiên gồm ba giai đoạn; là:
- Thời kỳ Kinh Dương Vương: Đây là thời kỳ hình thành những cụm dân cư, sinh sống chủ yếu ở những vùng cao và trung du Bắc Bộ.
- Thời kỳ Lạc Long Quân (cũng như tên gọi Kinh Dương Vương), chúng ta coi Lạc Long Quân là tên gọi chung để chỉ một thời kỳ lịch sử). Đặc trưng của thời kỳ này là chế độ mẫu quyền (Âu Cơ) chuyển sang chế độ phụ quyền. Sự phát triển về mọi mặt của thời kỳ trước như mức sống, trình độ canh tác, dân số… đã làm cho thời kỳ này mang một đặc trưng nữa là quá trình di dân xuống định cư ở các vùng thấp trũng hơn, các vùng đồng bằng hạ lưu các con sông và ven biển, thích nghi với đời sống sông nước bằng những kỹ năng đầu tiên đã đúc kết được trước đó.
Có thể rằng khoảng cuối thời kỳ Lạc Long Quân, các bộ lạc đã hình thành từ lâu và cũng đã xảy ra các cuộc đấu tranh nhằm khuất phục nhau giữa các bộ lạc.
- Thời kỳ các vua Hùng: Vua Hùng đời thứ nhất nổi lên như người đứng đầu bộ lạc hùng mạnh nhất, đã thuần phục được tất cả các bộ lạc, thống nhất thành một khối gọi là liên minh các bộ lạc mà những người trưởng các bộ lạc đó, dưới trướng vua Hùng, được gọi là Lạc Tướng hoặc Lạc Hầu. Tất cả các khu vực lãnh thổ bộ lạc được liên kết lại thành một lãnh thổ duy nhất được đặt tên là Văn Lang - Tổ Quốc của mọi người Lạc Việt thuở đầu tiên, của mọi người Việt Nam ngày nay. (Cũng có thể là đời vua Hùng thứ nhất chỉ là người khởi xướng quá trình thống nhất các bộ lạc nhưng sự nghiệp chưa hoàn thành mà phải đợi đến đời vua Hùng thứ hai hay thứ ba. Nhưng nếu có thế thì ở đây, đối với chúng ta chẳng có gì quan trọng!).
Chúng ta tin rằng sau khi dựng nước và đặt tên nước là Văn Lang. Các vua Hùng cũng như cộng đồng dân cư Lạc Việt đã có được những điều kiện rất thuận lợi, những tiềm lực mới to lớn trong công cuộc lao động và sáng tạo để đưa đời sống vươn nhanh lên tầm cao mới cả về vật chất lẫn tinh thần.
Có thể nói sự lan tỏa dân cư và cùng với nó là sự giao hòa văn minh đã như một luồng sinh khí mới, tạo nên một sức sống mới và nửa sau thời kỳ Kinh Dương Vương đã xây dựng được những cơ sở vững chắc cho bước phát triển mạnh mẽ hơn ở thời Lạc Long Quân với quá trình mở rộng địa bàn dân cư ra đều khắp khu vực đồng thời với quá trình chuyển hóa hình thái kinh tế xã hội từ bộ tộc lên bộ lạc, tiền thân của nước Văn Lang và nhà nước cộng đồng các bộ lạc sau này - thời các vua Hùng.
Sau khi thu phục được các bộ lạc, thống nhất dân cư theo hình thức liên kết, liên minh các bộ lạc, định hình lãnh thổ chung (trên cơ sở tập hợp các vùng đất sở hữu riêng đã xác nhận của từng bộ lạc), lập nên nước Văn Lang, các vua Hùng ở những đời đầu, cùng cả dân tộc đưa đất nước tiến nhanh đến phú cường và đạt đến cực thịnh vào đời vua Hùng thứ sáu. Có thể đoán quá trình này có tính thần kỳ và thành quả của nó đã là nguyên nhân chủ yếu làm nên chiến thắng thần tốc của quân dân ta trước quân xâm lược nhà Ân, một đội quân cực mạnh thời bấy giờ. Ước chừng ba mươi mấy thế kỷ sau, quân dân ta đã lập lại chiến tích này chỉ bằng một trận quyết chiến chiến lược do hoàng đế Quang Trung, một thiên tài quân sự của nước ta chỉ huy, đại phá 30 vạn quân xâm lược nhà Thanh, vào xuân Kỷ Dậu (năm 1789).
Phải chăng hiện thực của thời kỳ đầu các vua Hùng dựng nước và giữ nước đã từng là như thế và đã được truyền kỳ bằng thiên anh hùng ca Phù Đổng Thiên Vương? Phù Đổng Thiên Vương chỉ có thể là con đẻ của một đất nước đầy tiềm lực, có thể chế nhà nước mang tính dân chủ cao độ, có một quốc sách trăm họ vi binh - toàn dân đánh giặc. Phù Đổng Thiên Vương chính là biểu tượng của một đội quân hùng hậu được huy động nhanh chóng từ quốc sách nói trên, được trang bị đầy đủ phương tiện chiến tranh như ngựa chiến, giáp sắt, roi sắt… và được nuôi nấng, cấp dưỡng kịp thời vể mọi mặt nhờ sự đóng góp, ủng hộ của toàn dân đã và đang sung sức. Hình tượng Phù Đổng Thiên Vương sau khi đại phá giặc Ân, cưỡi Long Mã bay về trời (xung thiên), thực ra cũng là nói đến cái quan niệm toàn dân vi binh: cái đội quân dân binh vô địch vì được toàn dân ủng hộ ấy, sau khi đánh tan quân xâm lược lại nhanh chóng giải tán “ai về nhà nấy” tiếp tục làm ăn sinh sống. Các đời sau đã phong cho anh hùng Phù Đổng đủ mọi danh xưng cao quí (Vương, Thánh, Thần) thực ra chính là tôn vinh Nhân Dân Vĩ Đại! Ngay từ trang đầu của lịch sử nước nhà, tổ tiên ta đã để lại bài học chí lý về giữ nước, đó là: phải làm cho nước mạnh; nước mạnh là nhờ có sức dân mạnh, muốn có sức dân mạnh thì phải làm cho dân được sung túc, ấm no và đoàn kết thành một khối cùng chung ý chí, nghĩa là dân giàu và đoàn kết thì nước mạnh; muốn dân giàu và đoàn kết thì phải thực hiện dân chủ và tự do theo nguyện vọng và ý chí của toàn dân tộc; và để làm được như thế thì những thế lực điều hành đất nước phải tài năng, thấm nhuần tư tưởng lấy dân làm gốc; trên cơ sở nhận thức rằng nhân dân là nền tảng, là nội dung và cũng chính là người chủ đích thực của đất nước, quyết định vận mệnh của đất nước. “Quan nhất thời, dân vạn đại”, ông bà ta nói thế và rất đúng! “Bèo thì trôi đi, nước cũng trôi đi, chỉ còn dòng sông ở lại với… nước mới và bèo mới!”, chúng ta nói thế và đã không thêm được chút hay ho nào ở đây mà còn gây ra cái cảm giác… buồn tênh quá!)…
Sau khi đánh bại quân xâm lược nhà Ân, khắc phục và hàn gắn vết thương chiến tranh, vua Hùng lại cùng dân chúng tiếp tục sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước còn dở dang của mình. Đất nước tiếp tục cường thịnh!
Ở những giai đoạn phát triển trước, từ khoảng cuối thời kỳ Lạc Long Quân, chuyển tiếp đến lúc này, đã xuất hiện những công việc trị thủy nhưng chỉ có tính nhỏ lẻ, cục bộ chứ chưa thành hệ thống. Có thể phỏng đoán rằng vào giai đoạn này, khi sự phát triển đã đạt đến mức độ mà mặt trái của nó làm nảy sinh ra những đòi hỏi mới, bức thiết về quốc kế dân sinh, thì để duy trì sự thịnh vượng và tiếp tục phát triển hơn nữa, cần phải tìm ra những biện pháp mới, những hoạch định mới, những cách thức và kỹ thuật mới trong trồng trọt chăn nuôi cũng như trong lao động - sản xuất nói chung, chẳng hạn như phân bố lại dân cư, tận dụng hiệu quả đất đai, khai hoang những vùng đất mới…
Đối với một khu vực mà sông ngòi chằng chịt, nước nổi mênh mang, năm nào cũng bão giông, lũ lụt như chúng ta “từng thấy” thì để ổn định dân cư ngày một đông về số lượng, cần phải có biện pháp gì? Chúng ta tin rằng nhiệm vụ được đặt ra đầu tiên trong tình hình mới ấy phải là trị thủy và trị thủy phải được nâng lên thành một quốc sách, thành một kế hoạch có tính qui mô, rộng khắp, có hệ thống.
Để sống chung được với nước, lũ, lụt lội thì phải tìm cách thích nghi theo chu kỳ biến động của chúng và tiến tới chế ngự được chúng để thích nghi là tiến trình tất yếu trong hoạt động sống của mọi cư dân vùng sông nước trên thế giới nói chung và của tổ tiên ta nói riêng.
Công việc thủy lợi đã có từ lâu, phát triển dần từ nhỏ lẻ, manh mún đến ngày một lớn, có tính tự giác và sự hợp tác. Đến giai đoạn đầu thời các vua Hùng, trước yêu cầu bức bách do mặt trái của sự phát triển xã hội đặt ra mà cách thức làm thủy lợi cho đến lúc đó không còn đủ sức đáp ứng cho đời sống của lực lượng dân cư nữa. Cần phải có một phương thức làm thủy lợi mới, chế ngự và điều tiết được nước ở qui mô rộng khắp, có tính hệ thống, thống nhất toàn vùng. Chúng ta tạm gọi phương thức làm thủy lợi mới ấy là “công cuộc trị thủy”. Công cuộc trị thủy là công tác thủy lợi được đặt ra ở tầm “quốc sách”, việc thực hiện có tính kế hoạch, triệt để nên cũng lâu dài và là sự nghiệp của toàn dân, thu hút vô vàn công sức.
Vì những lẽ nên trên mà chúng ta cho rằng một công cuộc trị thủy với qui mô to lớn và rộng khắp so với trước đó chỉ có thể được đặt ra vào thời các vua Hùng; khi trình độ nhận thức cũng như sự phát triển của nhân tài vật lực đã đạt đến độ chín muồi, thấy được tầm quan trọng cũng như khả năng thực hiện được một sự nghiệp như vậy.
Suy tư chồng chất suy tư, hoang tưởng kế tiếp hoang tưởng và đến đây, giữa cảnh mưa tuôn nước nổi này, một hoang tưởng mới lại ra đời.
Sự lan tỏa dân cư về vùng sông nước đồng bằng, nổi trội bắt đầu từ thời Lạc Long Quân, đến đầu thời các vua Hùng; đã tạo nên sự biến đổi về phân bố dân cư, làm trung tâm của sự quần cư cũng dịch chuyển theo hướng đó. Có thể là đến đời vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đại thắng giặc Ân, trước tình hình phát triển mới của đất nước, vấn đề dời đô đã được đặt ra và đó chính là nguyên nhân của việc xây dựng Cổ Loa thành.
Nơi xây dựng Cổ Loa thành, trước đó chắc là vùng đất tương đối cao. Tuy nhiên cần phải bồi đắp nhân tạo cao hơn nữa để khắc phục hẳn tình trạng nước lụt. Hình dáng ban đầu của Cổ Loa thành có thể chỉ như một quả đồi có tre mọc xung quanh tạo nên bức lũy để chống sạt lở. Đó cũng chính là hình ảnh chung nhất của làng mạc Bắc Bộ Việt Nam sau này! Ôi, lũy tre làng, mấy ai còn thấy được cái công lao bất diệt của nó đối với dân tộc Việt! Nhưng hàng năm, tình trạng sạt lở vẫn cứ xảy ra do nước lũ xói mòn mạnh mẽ làm tốn rất nhiều công sức tu bổ. Tình hình ấy đòi hỏi phải có một phương kế khắc phục, tạo nên sự bền vững lâu dài cho Cổ Loa thành, khi mà nó đã là Trung tâm điều hành đất nước, có vai trò là kinh đô của nước Văn Lang. Phải chăng là từ kinh nghiệm được kế thừa từ quan sát, nhận thức thực tại, từ suy nghĩ sáng tạo mà tổ tiên chúng ta đã có ý tưởng qui hoạch bảo vệ Cổ Loa thành bằng cách be bờ, đắp đất, trồng tre tạo thành lúc đầu là một lươn đất, sau là nhiều lươn đất kế tiếp nhau bao quanh nhằm phòng chống lũ lụt từ xa? Đúng là như vậy vì sự hoang tưởng của chúng ta được xây dựng nên từ bài viết của Quang Khải trong tạp chí “Thế giới mới” số 807, năm 2008. Theo Quang Khải thì nước ta, vào khoảng vài ba thế kỷ trước và đầu công nguyên, đã có đê điều khoanh vùng. Ngay cả nhiều người Trung Hoa thời đó, đến nước ta đã chứng kiến cảnh tượng ấy mà thư tịch cổ của họ còn lưu lại. “Giao châu” chép: “Huyện Phong Châu đã có đê để đề phòng nước sông Long Môn (sông Đà)”. (Nguyễn Văn Siêu dẫn trong bản điều trần về đê viết ngày 20-10-1852, Tự Đức thứ 5). “Hán Thư quận huyện chí” chép: “Phía tây bắc quận Long Biên đã có đê để giữ nước sông”. Vào thế kỷ III trước Công Nguyên, trong nông nghiệp nước ta đã có công cụ bằng đồng, sắt và cày bừa bằng trâu, bò. Nhiều người cho rằng vùng Dâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) còn dấu vết của cả một chuyên ngành trồng dâu, nuôi tằm tiền sử. Vào buổi đầu Công nguyên, quân xâm lược nhà Hán không thể đóng trụ sở của bộ máy đô hộ ở thành Luy Lâu (Dâu) được nếu không có đê bao bọc trong điều kiện tự nhiên của lũ sông Hồng và sông Thái Bình hàng năm nước ngập vài ba thước. Vào thế kỷ IX, Cao Biền (nhà Đường phong làm tiết độ sứ, quan đô hộ nước ta) đã huy động dân An Nam (tên nhà Đường đặt cho nước ta lúc đó) đắp đê bao quanh thành Đại La (Hà Nội ngày nay): đê dài 125 trượng 8 thước (khoảng 8500 m), cao 1 trượng 5 thước (khoảng 8m), chân đê rộng 2 trượng. Dấu vết của công trình vẫn còn lưu đến ngày nay. Thiên tai, hạn hán lũ lụt được ghi chép trong lịch sử nước ta sau khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Nhiều lần nước lũ tràn ngập cả kinh thành (năm Mậu Ngọ, 1078), tràn đến cửa Đại Hưng (năm Tân Sửu, 1121)… Năm 1077, nhà Lý đắp đê sông Như Nguyệt (sông Cầu), đê dài 64.380 bộ (khoảng 30 km). Hai mươi năm sau, theo sử chép, “năm Quí Mùi (1103) hiệu Long Phù Nguyên Hòa thứ 3, mùa xuân tháng giêng (nhà Lý) xuống chiếu cho trong và ngoài kinh thành đều đắp đê ngăn nước” (Việt sử lược). Sử còn chép: “Năm Mậu Tý (1108), niên hiệu Long Phù thứ 8, mùa xuân tháng 2, đắp đê gấp bội thời Bắc thuộc, theo Nguyễn Văn Siêu: “Nhân sinh đẻ ngày càng nhiều, làng mạc nhiều như sao sa, như quân cờ bày chứ không như ngày trước cứ tìm chỗ cao mà ở. Năm 1218 (Mậu Thân), Trần Thái Tông xuống chiếu đắp đê Đỉnh Nhĩ, “đắp suốt từ đầu nguồn cho đến của biển để giữ nước lụt tràn ngập”… Theo “Việt sử thông giám chương mục” thì “Năm Ất Mão (1255), vua sai Lưu Miễu bồi đắp đê sông ở xứ Thanh Hóa. Mùa hạ tháng 4, cho chọn các tân quan, làm Hà đê. Chánh, phó sứ ở các lộ khi nào rỗi việc đồng ruộng thì đốc thúc quân lính đắp đê để phòng lụt”. Vào thời ấy, chỉ riêng đê sông Hồng đã được mô tả: “Ở bên kia sông Phú Lương (sông Hồng) đều có đê ngăn nước. Một con đê chạy dài từ sông Việt Trì, sông Lô, sông Đại Lũng đến cửa Mạch, cửa Ninh Cơ thì dứt, mỗi bên đê cao 3 trượng, rộng 5 trượng” (theo “An Nam Chí nguyện”). Trong việc bồi trúc đê điều, nhà Trần huy động toàn dân tham gia, ngay cả sử còn kể rằng vào năm 1315, nước sông lên to, vua Trần Minh Tông thân chinh đi xem hộ đê. Lúc đó, quan ngự sử can: “Bệ hạ nên chăm sửa sang Đức Chính, đắp đê là việc nhỏ, đi xem làm gì?”. Quan Hành Khiển (tương đương Tể tướng) Trần Khắc Chung đáp lại: “Phàm dân gặp lũ lụt, người làm vua phải lo cấp cứu chứ sửa sang Đức Chính không gì to bằng việc ấy”. Nhà vua nghe lời Đức Chung. Từ năm Giáp Thân (1464), dưới triều Lê Thánh Tông, bắt đầu có công trình qui mô là đắp đê ngăn ngập mặn ở vùng biển, gọi là đê Hồng Đức. Điển hình là hai dải đê Hồng Đức vùng biển Ninh Bình: một dải từ phía Bắc Thần Phù đến bờ Nam cửa Cồn, phía ngoài có kè đá để chống sóng; một dải khác chạy từ xã Côi Trì, huyện Yên Mô đến xã Hồng Hải, huyện Yên Khánh. Đến triều Lê, bắt đầu việc đắp đê sông Tô Lịch, “đắp từ Cồn Trát đến Công Xuyên để trừ thủy họa”. Sông Tô Lịch xưa thông với sông Đáy, sông Đáy thông với sông Hồng. Phân tranh Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn liên miên làm cho công việc đê điều, trị thủy bị ngưng trệ. Quang Trung là ông vua trọng nông, đã ra kế hoạch đắp lại đê sông Nhị nhưng chưa kịp thực hiện. “Dĩ nông vi bản” (lấy nông nghiệp làm gốc) là một quốc sách đã được nhận biết từ lâu trong thời quân chủ. Một triều đại muốn tồn tại lâu dài không thể không quan tâm tới điều ấy. Năm 1803, Nguyễn Ánh vừa lên ngôi, quan lại Bắc Hà đã tâu: “Thế nước sông Nhị lên rất mạnh, đê Tả Hữu thuộc Tây Sơn, Kinh Bắc, Sơn Nam, thượng và hạ nhiều chỗ vỡ lở, xin cho dân sửa đắp ngay đề chống lụt mùa thu. Thủy đạo các trấn nhiều nơi ứng tắc, xin bệ hạ cho trấn thần tùy thế “khơi vét” (theo “Đại Nam thực lục chính biên”). Năm đó, Gia Long đã chuẩn cho đắp 7 đoạn đê mới trong các tỉnh nói trên, triều đình chi hết 80.100 quan tiền… Riêng thời Minh Mạng, đê mới được đắp ở Bắc hà nhiều hơn dưới bất cứ triều nào khác của nhà Nguyễn. Triều Minh Mạng cũng tiến hành nhiều biện pháp khơi sông thoát lũ, điển hình là sông Đuống được người phương Tây gọi là con sông đào lớn nhất xứ ta thời ấy…
Có thể nói, xuyên suốt quá trình tồn tại của dân tộc Việt cho đến tận ngày nay là hai công trình dựng nước và giữ nước đầy hy sinh gian khổ nhưng cũng thật chói lọi vẻ vang. Hệ thống đê điều đường xá có được hôm nay là thành quả của hàng ngàn thế hệ, được đắp nên từ công sức máu xương của hết đời này đến đời khác. Khởi đầu của công cuộc tạo dựng vĩ đại này đã được tiến hành ngay từ thời còn phôi thai của dân tộc Việt, còn trứng nước của giang sơn Việt, và đó là việc be bờ đắp lũy Cổ Loa. Cuộc sống đã nảy sinh yêu cầu phải chấp nhận sống chung với lũ lụt, phải định cư lâu dài được ở miền sông ngòi chằng chịt, nước nổi mênh mang hàng năm đã tự nhiên làm hình thành nên ý tưởng trong tổ tiên chúng ta về việc xây thành đắp lũy nhằm chế ngự, điều dẫn nước. Có lẽ công dụng nguyên thủy, thuở ban sơ của việc xây thành, lũy trên trái đất này của con người chỉ nhằm đấu tranh chống lại thiên nhiên hoang dã, chế ngự thiên tai, cụ thể hơn là nhằm trị thủy khi đã chuyển sang lối sống lấy trồng trọt chăn nuôi, lấy nông nghiệp làm phương thức sống chủ yếu…
Ý tưởng là một chuyện nhưng việc thực hiện ý tưởng lại là chuyện khác. Việc xây đắp một bờ đất bao quanh như vậy không phải là công việc của một ngày, cũng không phải là công việc của một năm mà có thể là vài năm hoặc thậm chí là nhiều năm. Và nếu chỉ là sự đào đắp đất đơn giản thì cứ qua mỗi mùa lũ lụt, công việc chưa kịp hoàn thành lại bị phá hỏng nhiều chỗ đến mức trầm trọng. Quả thực, thời gian đầu xây đắp Cổ Loa thành là rất khó khăn, ý tưởng qui hoạch có nguy cơ không thực hiện được nhưng rồi thần Kim Quy hiện lên mách bảo cho vua Hùng bí quyết để thành công.
Bí quyết đó là gì? Đồ rằng thần Kim Quy đã thì thầm đại khái thế này: tức nước thì vỡ bờ, lấy cứng làm giáp làm cốt để trụ vững, lấy mềm làm thịt làm thân để che chắn. Và vua Hùng đã hiểu ra được: phải kết hợp giữa đất và đá, đá xếp dưới làm móng như yếm rùa, đất đắp thành đê như thân rùa và đá đắp lên mặt đê như mai rùa rồi trồng tre như chân rùa để làm lũy, đi đôi với việc đó phải tạo thế thoát cho nước cường. Từ đó việc xây thành Cổ Loa tiến triển thuận lợi và có cấu trúc xoắn trôn ốc hết sức độc đáo.
Có thể là một sự khập khểnh nhưng cấu trúc ba vòng thành xoắn trôn ốc cứ gợi cho chúng ta man mác nhờ về thái cực; thần Kim Quy và Long Mã (con ngựa của Thánh Gióng!) cứ gợi nhớ đến Hà Đồ, Lạc Thư. Phải chăng quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp đã có từ thời Lạc Long Quân và đến thời kỳ các vua Hùng ở những thời đầu tiên đã xuất hiện Hà Đồ, Lạc Thư kiểu như mô tả ở hình 27? Phải chăng chúng cũng đã từng là nguồn cảm hứng trong việc tạo nên vóc dáng Cổ Loa thành? Chẳng có một chút xíu bằng chứng nào! Hầu hết mọi thứ đã chìm nghỉm rất sâu trong đại dương thời gian và dù chúng ta đã “lặn” được đến độ sâu ấy thì cũng đành bất lực ngồi trên chạc ba, không phát hiện ra thứ gì cả vì… trời mưa tầm tã và nước nổi quá xá cỡ!
Dù sao đi nữa việc xây dựng Cổ Loa thành thuở ban đầu không nhằm vào mục đích quân sự mà chủ yếu chỉ là để chế ngự lũ lụt, phòng ngự cho Kinh đô. Đó chính là công trình trị thủy có qui mô lớn đầu tiên của dân tộc ta. Có thể cho rằng Cổ Loa thành là biểu tượng bi hùng của công cuộc trị thủy thời các vua Hùng ở những đời đầu. Các vua Hùng đời sau trên cơ sở đó đã bồi đắp, tu bổ, cải tạo để nó mang thêm chức năng thành lũy phòng thủ về mặt quân sự…
Chúng ta giật bắn mình khi sực nhớ đến thời điểm phải theo tàu vượt thời gian trở về với hiện tại thực. Vì mãi suy nghĩ nên không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua; vì trời mịt mờ quá nên cũng không biết vẫn còn là buổi sáng hay đã là buổi chiều. Chúng ta vội vàng lục túi để biết chắc là chiếc vé khứ hồi vẫn còn đó và điều quan trọng hơn là vẫn còn đó xấp tiền Euro mới cáu cạnh, cái một nửa còn lại mà chúng ta phải “kính biếu” khi gặp lại trưởng tàu. Rồi chúng ta tụt nhanh xuống đất, chạy thục mạng đến địa điểm đã hẹn trước. Thà cứ đến đó sớm rồi chờ đợi cho chắc ăn kẻo lỡ chuyến, ở lại đây thành tổ tiên của vợ con và bạn bè thì thật chẳng ra thể thống gì! Cầu trời không “đụng độ” phải lão hổ, báo, hay lão đười ươi, gấu… nào!
May mắn làm sao! Con tàu cũng vừa liệng xuống. Nó không dừng hẳn lại mà chỉ có một bàn tay thò ra túm lấy cổ áo của chúng ta kéo lên. Thật hú vía! Tuy không thỏa mãn bao nhiêu nhưng cuộc hành trình đã kết thúc có hậu: chúng ta đã lên tàu trở về! 



Mời xem:

LỜI PHÂN TRẦN

PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

PHẦN II: NỀN TẢNG

PHẦN III: NGUỒN CỘI