THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 28



THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (III)



PHẦN III:     Nguồn cội

“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
.


CHƯƠNG VI: MIỀN ĐẤT VÕ

“Nay con đã khôn lớn và có bản lĩnh hơn người. Hãy xuống núi mà đem tài đức giúp đời giúp người. Con sống xứng đáng thì thầy chết cũng yên lòng”
(Hòa thượng- võ sư Thiện Hoa căn dặn đệ tử. Thiện Tâm, người sau này là thượng tọa Thích Thiện Tánh - tức võ sư Mai Văn Phát)

“Càng sống, tôi càng nhận ra rằng học võ không phải để múa hay, đánh giỏi, hạ nhanh và nhất là để có con rắn đen tự mãn trong máu thịt, mà chính học võ cốt biến được con rắn đen xấu xí kia thành “thanh gươm trí tuệ” chém tan bức màn vô minh, nhìn thấy được thực tướng của sự vật. Môn võ tuyệt thế chính là môn võ để chiến thắng chính mình. Và đó cũng chính là câu chuyện về thánh võ Kadgapa (một trong 84 vị thánh của Tây Tạng) khi người đi tìm môn võ tuyệt thế trong thiên hạ”
(Lời thổ lộ của nữ võ sư Phạm Cô Gia, khi bà đã 90 tuổi)

Như đã hứa, chúng ta sẽ kể một đôi dòng về võ nghệ và miền đất “con gái cũng biết múa roi đi quyền”.
Môi trường tự nhiên vừa ổn định tương đối vừa luôn bất ổn, vừa chuyển hóa có tính chu kỳ vừa có lúc đột biến ngẫu nhiên, đã tạo ra khó khăn cho sự sống còn của sinh vật. Những biểu hiện nhằm khẳng định sự có mặt, sự tồn tại của vạn vật ở thế giới vô sinh biến thành sự cố gắng sống còn bản năng của muôn loài trong thế giới hữu sinh. Sự cố gắng vượt qua khó khăn để sống còn không gì khác hơn là biến hóa thích nghi. Sự biến hóa (hay tiến hóa) để thích nghi có tính đa phương chiều, đa dạng, tùy vào trạng thái tiến hóa trước đó của sinh vật và mỗi giống loài sinh vật. Một trong những cách thức tiến hóa thích nghi ở muông thú là hoàn thiện “kỹ năng chiến đấu” để rình, vồ mồi, để chống trả tự vệ, trốn thoát “kẻ thù”, để đánh thắng trong việc tranh giành “quyền lợi”. Những động tác tối ưu, mang lại hiệu quả cao trong “chiến đấu” để sống còn, được lặp đi lặp lại, hun đúc lại, được “truyền thụ” cho nhau, “bắt chước” nhau một cách trực quan, sau đó ổn định dần dần thành bản năng, di truyền bằng con đường sinh học cho đời sau; không phải và cũng không thể là tất cả, mà chỉ là những gì cô đọng nhất, “tinh hoa” nhất. Ở muông thú đã thấp thoáng, dù lờ mờ, hình bóng của võ nghệ.

Sống trong thiên nhiên hoang dã đầy bất trắc, ở loài người cũng xảy ra quá trình hoàn thiện, “kỹ năng chiến đấu” như thế. Và hơn thế nữa, vì loài người biết suy nghĩ, cho nên quá trình ấy được xúc tiến ngày một nhanh và mạnh mẽ từ từ phát lên tự giác, chủ động học hỏi từ thiên nhiên hoang dã và sáng tạo ra thêm “chiêu thức” mới, chưa từng có. Lúc đầu, cũng như muông thú, con người cũng chỉ biết chiến đấu bằng tay không, bằng chân, bằng răng… nhưng từ khi biết cầm khúc cây, hòn đá để làm công cụ kiếm ăn thì cũng là khi con người bắt đầu biết “chiến đấu” bằng vũ khí.
Có thể nói võ thuật đã được nung nấu, phôi thai từ những ngày đầu biết suy nghĩ của loài người. Nó được hun đúc hoàn thiện dần thành những kỹ năng chiến đấu có tính tương đối ổn định để truyền thụ cho đời sau bằng con đường chủ yếu là dạy và học. Chúng ta cho rằng sự truyền thụ cho đời sau, thông qua con đường di truyền sinh học, là có mức độ giới hạn. Đến hạn độ đó, khi mà số lượng cũng như độ phức tạp của thông tin cần truyền thụ đã vượt quá khả năng của phương thức di truyền sinh học (hoặc đòi hỏi phải có một thời gian di truyền quá lâu, không phù hợp với mục đích của di truyền, hoặc nói đúng hơn là không đáp ứng được yêu cầu của thích nghi và trở nên phi đạo lý) thì sự truyền thụ sẽ chuyển sang phương thức chủ động là dạy và học một cách tự giác, và để có được như thế thì sự tiến hóa thích nghi sẽ phải làm xuất hiện ra sự suy nghĩ làm tiền đề cho nhận thức ở loài người. Tuy nhiên, sự di truyền  sinh học vẫn âm thầm làm công việc của nó và ở mức độ nhất định, thứ yếu, nó vẫn tác động đến quá trình truyền thụ các kỹ năng cho đời sau, thể hiện ra dưới dạng làm xuất hiện những năng khiếu, những đứa bé thần đồng, những thiên tài (theo luật tính trội, tính lặn?). Sự truyền thụ kỹ năng rất có thể còn một con đường đặc biệt nữa, đó là truyền thụ tâm linh chẳng hạn như thần giao cách cảm, nhập hồn…
Có thể nói võ nghệ được hình thành ở loài người có nguồn gốc từ tự nhiên, là kết quả của quá trình học hỏi thiên nhiên, rút kinh nghiệm từ thực tiễn và sáng tạo nhằm ngày một nâng cao khả năng, kỹ năng chiến đấu với mục đích nguyên thủy là tự vệ để sống còn trong môi trường thiên nhiên hoang dã cũng như trong xã hội còn đầy thú tính và đã bắt đầu xuất hiện những hành vi, thủ đoạn (tạm gọi chung là nhân tính).
Kỹ năng chiến đấu để tự vệ hay võ nghệ được chính thức đúc kết thành bài học hoàn chỉnh, xuất hiện lần đầu tiên ở đâu trên thế giới? Chúng ta khó mà biết được. Chỉ biết rằng, võ nghệ được truyền thụ như những bài học đích thực, đã có từ rất sớm. Ngày nay võ nghệ đã có mặt khắp nơi trên thế giới với sự đa dạng, phong phú của nó và mục đích của việc học võ nghệ cũng được mở rộng ra rất nhiều, về phía ngày một lành mạnh hóa (trước súng đạn, mục đích của võ nghệ đã phải lui bước xuống hàng thứ yếu!). Có một điều cũng hầu như chắc chắn: võ nghệ xuất hiện lần đầu tiên như một hiện tượng nổi bật là ở phương Đông và rất có thể là tại nơi cội nguồn của văn minh nhân loại, trên Đại Lục Mẫu, dưới chân núi Tu Di huyền thoại.
Thế giới võ nghệ cũng mênh mông như đại dương, truyện kể về võ thuật cũng nhiều như sao trên trời. Chúng ta là những kẻ được gọi là đi nhiều thấy nhiều và cũng đã tích cóp không ít những câu chuyện võ nghệ. Nhưng thực chẳng đáng là bao! Tuy nhiên chúng ta có cố nhớ lại, sắp xếp lại để kể ra đây. Vui là chính mà!
Các nhà nghiên cứu võ nghệ thấy rằng trong loại chữ tượng hình cách nay 6000 năm của Ai Cập cổ đại, đã phác họa những động tác của binh sĩ các Pharaon (vua Ai Cập) đang đấu quyền với những chiếc găng tay quấn bằng da. Thủy tổ của môn quyền Anh ngày nay có lẽ xuất phát từ đó. Các võ sĩ châu Phi thời cổ khi giao đấu không chỉ quấn da và vải quanh nắm tay như võ sĩ Ai Cập, họ quấn trọn cả cánh tay lên đến tận cùi chỏ. Ngày xưa các trận đấu không phân hiệp mà cũng chẳng phân hạng theo cân nặng của võ sĩ. Đôi bên cứ đấu cho đến khi một bên bị hạ gục (đo ván) hoặc chịu thua. Trường hợp cả hai đều kiệt sức thì phải bốc thăm. Người may mắn sẽ được đấm trước. Người kia phải đứng yên để chịu quả thôi sơn, nếu không bị đánh gục sẽ được đấm lại người kia bằng một quả như thế. Ai đo ván sẽ thua cuộc.
Những hình vẽ tìm thấy trên vách mồ tại làng Beni Hasan ở miền trung Ai Cập chứng minh rằng hơn 5000 năm trước đây, người Ai Cập cổ đại cũng đã sử dụng những thế kẹp thông thường mà ngày nay các nhà đô vật vẫn dùng.
Từ Ai cập, võ thuật lan truyền sang Hy Lạp theo ngả Créte. Sử liệu chứng tỏ môn võ vật đã là một phần quan trọng trong những ngày lễ hội của thời Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên phải đợi đến khi hình thức tranh tài Thế Vận Hội (Olympic) thành hình thì võ thuật mới được phổ biến khắp đất nước Hy Lạp. Vô địch quyền thuật đầu tiên là một người Hy Lạp tên là Onomastus (688 TCN). Trận tranh tài quyền thuật thiếu niên được tổ chức lần đầu tiên ở kỳ Thế Vận Hội thứ 41 (616 TCN). Sau này các đoàn quân viễn chinh của đế quốc La Mã mới đưa quyền thuật của mình đến khắp các nước phương Tây.
Nhắc đến đô vật thời xưa, người ta không thể bỏ qua cái tên Milo ở Crôtona, một tay đô vật cừ khôi vừa giỏi cả quyền thuật lẫn võ tự do của Hy Lạp. Milo đã là đô vật vô địch thế giới trong suốt 24 năm liền, giữ vững chức vô địch qua 6 kỳ Thế Vận Hội liên tiếp. Khi còn bé, Milo có lần vác một con bê con lên vai và ngày nào cũng vác đi rong như thế mãi cho đến khi con bê con lớn thành con bò mộng…
Ở Ấn Độ, có một môn võ cổ truyền từ rất lâu đời, có tên gọi là Kalari. Quê hương môn võ Kalari là ở bang Kêrala, nơi cao nguyên Đêcan, tiếp giáp với biển. Từ nơi đó môn võ Kalari phát triển và lan tỏa ra khắp Ấn Độ. Theo truyền thuyết thì võ Kalari có nguồn gốc từ Kalaripayat, nghĩa là binh thư đồ trận của nữ thần chiến tranh Mahakali của Ấn Độ. Nó được hệ thống hóa một cách có bài bản thành quyền phổ Sutra (kinh truyền khẩu có vần điệu, tương tự như Kinh Vê đa, kinh Upanisad…) từ cách đây đã hơn 3000 năm. Thường thì các võ sư Kalari thời cổ đại đều là những bậc minh triết, trong đó người đời sau cho rằng có Bồ Đề Lạt Ma.
Võ Kalari được truyền dạy và rèn luyện trong các ngôi đền thờ Tổ sư nữ thần Mahakali bởi các võ sư bậc thầy. Quyền pháp Kalari được diễn uyển chuyển, mềm mại như múa, gợi nhớ những động tác trong lúc thực hành nghi lễ thờ phụng. Tuy nhiên, trong chiến đấu, nó tỏ ra cực kỳ công hiệu. Về công phu nội, ngoại công, các võ sĩ Kalari trình độ cao có thể biểu diễn đi chân không trên than hồng, nằm lưng trần trên mảnh chai vỡ, nằm cho ô tô chạy qua tấm ván đặt ở bụng, dùng kìm kẹp vào các cơ bắp mà không hề hấn… Có những kỳ tích như võ sư Rummuati dùng ngực đỡ nguyên một con voi, võ sư Xixila biểu diễn khí công tĩnh tọa hoa sen lơ lững trên không với chỉ một tay níu nhẹ sợi dây mảnh bện từ đay mà hai đầu cột vào hai cây sào trồng thẳng đứng. Võ Kalari cũng sử dụng các loại binh khí như đao, kiếm, gậy… Gậy ngắn, gọi là Silam ban rất được ưa chuộng vì đó là thứ binh khí dễ kiếm, tấn công hoặc tự vệ đều hữu hiệu. các cao thủ múa Silamban kín đến mức cách xa chừng ba thước, ném gạch đá cũng khó lọt trúng người. Ngoài ra còn có loại vũ khí đặc thù gọi là Onta, hình thù như ngà voi, dùng để điểm huyệt. Ngay chiếc khăn quàng cổ, đội đầu, dùng lau mồ hôi cũng trở thành vũ khí lợi hại.
Một bộ phận không thể tách rời trong môn võ Kalari nói riêng cũng như của võ học phương Đông nói chung là “y võ”. Y võ là kiến thức về các vị trí huyệt đạo trong cơ thể người mà khi tác động vào đó có thể đả thương ngay, tiêu diệt đối phương hoặc chữa lành chấn thương, chữa bệnh tật mà không cần thuốc thang; là những bài thuốc có từ cây lá thiên nhiên cũng nhằm mục đích chữa trị cứu người… Trong quyền phổ Sutra, có mô tả vị trí, chức năng của 108 huyệt đạo trên cơ thể con người, gồm 96 yếu huyệt khi bị tác động vào sẽ gây thương tích trầm trọng hay liệt bại, 12 hiểm huyệt khi bị tác động sẽ gây tử vong.
Người Anh khi đến xâm chiếm Ấn Độ, biết được sự lợi hại của môn võ truyền thống này của người bản địa và cũng muốn thủ tiêu tinh thần thượng võ, niềm tự hào dân tộc của người Ấn, nên đã ra lệnh cấm phổ biến, truyền dạy môn võ này. Thế nhưng cũng như ở tất cả các nước Châu Á có nền võ thuật cổ truyền khác, môn võ Kalari rút vào bốn bức thường của gia đình, dòng họ và tiếp tục được truyền dạy theo kiểu cha truyền con nối. Mãi đến năm 1920, môn võ Kalari mới thực sự được phổ biến trở lại, tạo nên một làn sóng phục hưng khắp Ấn Độ, đặc biệt là ở miền Nam. Có một người rất nổi tiếng trong giới võ học Ấn Độ những năm 90 của thế kỷ XX, đó là Belyram Nait, chưởng môn phái Kalari (nhiều sách cũng gọi là Kalaripayat). Ông đã nhiều lần đi biểu diễn ở nước ngoài và được khán giả thán phục.
Có một nhân vật tên là Jeet Singh, năm 21 tuổi, sang định cư ở Mỹ. Dân ghiền xem đô vật ở đây vô cùng thích thú và trầm trồ khen ngợi một võ sĩ thượng đài với cái tên lạ hoắc, nhưng to khỏe, có những chiêu thức lạ mắt, rất linh hoạt, dũng mãnh. Họ liền đặt cho anh chàng một biệt danh là “Mãnh hổ” (Tiger). Đến khi báo chí tiết lộ, mọi người mới biết Jeet Singh là vô địch đô vật toàn Ấn Độ trước khi sang Mỹ thi thố. Người ta còn biết Jeet Singh chính là con một đại đệ tử của Belgram Nair, được huấn luyện từ năm mới lên 6 tuổi. Khi 17 tuổi, Jeet Singh chuyển sang luyện đô vật theo kiểu Mỹ (Wrestling) mà ở Ấn Độ thời bấy giờ cũng rất ưa chuộng. Chính nhờ có căn bản võ Kalarima mà Singh đã nhanh chóng đạt trình độ cao trong võ vật. Ernie Ladd là một đô vật Mỹ thuộc loại khổng lồ (cao 2m, nguyên là cựu cầu thủ bóng chày), đã từng là sát tinh của nhiều võ sĩ lừng danh, vậy mà khi đụng độ với Jeet Singh ở Buffalo, đã phải chịu thua. Với những đòn lạ của Singh, Ladd đã hết đường chống trả! Về sau, có lần Singh thổ lộ: “Những thế võ tôi áp dụng trong đô vật là đòn thế của các kiếm sĩ Kalaripayat…”
Trung Hoa là đất nước có nền võ học cổ truyền hết sức rực rỡ. Xét về mặt lịch sử thì nền võ học đó cũng đã có từ lâu đời, xâm nhập mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu sắc đến hầu hết các nền võ học cổ truyền của các nước phương Đông khác, thậm chí là nguồn gốc cốt lõi của không ít nền võ học cổ truyền đó, chẳng hạn như của Triều Tiên, Nhật Bản…
Ngày nay, qua quan sát võ thuật Thiếu Lâm Trung Hoa và võ thuật Kalari Ấn Độ, thấy giữa hai môn võ này có nhiều động tác chân tay, đòn thế giống nhau, nên nhiều nhà nghiên cứu võ học cho rằng có thể võ học Trung Hoa thời sơ khai bắt nguồn từ võ Kalari Ấn Độ. Điều này có thể đúng, nhưng chỉ đúng một phần, vì sự giống nhau ấy cũng có thể là môn võ Kalari đã học hỏi trở lại từ nền võ học Trung Hoa trong suốt hàng ngàn năm giao lưu.
Tương truyền rằng Bồ Đề Lạt Ma, vị sư tổ đời thứ 28 của Phật giáo Ấn Độ là người đã sang Trung Quốc truyền giáo và lập nên phái Thiền tông (người Nhật gọi là Zen), ảnh hưởng sâu xa đến toàn bộ tư tưởng Phật giáo Phương Đông.
Vào năm 495, hoàng đế Hiếu Văn đã cho xây dựng ngôi chùa tại vùng núi Trung Sơn, Trung tâm Trung Hoa, đặt tên là Thiếu Lâm (Thiếu Lâm Tự). Người trụ trì chùa Thiếu Lâm đầu tiên là một vị sư gốc Ấn, tên là Bạt Đà (người Trung Hoa gọi là Phật Đà). Ông này có vẻ mặt vui vẻ, thân hình mập mạp. Khoảng phần tư thể kỷ sau, Bồ Đề Lạt Ma đến trụ trì tại đây, giảng dạy Phật pháp và đề xướng ra phái Thiền Tông. Để đảm bảo sức khỏe cho các vị sư ở đây trong quá trình tụ tập, thiền định, chịu đựng được điều kiện thời tiết, khí hậu những lúc khắc nghiệt, Bồ Đề Lạt Ma đã truyền dạy cả môn võ Kalari và kỹ thuật luyện khí (hít thở) tăng cường sức đề kháng cho các đệ tử. Kỹ thuật luyện khí ấy, Bồ Đề Lạt Ma rút tỉa từ đâu? Từ môn Yoga chăng? Thế còn Yoga? Theo một cuốn sách thì Yoga có nguồn gốc chìm sâu trong buổi tối sơ của đất nước Ấn Độ, vào khoảng 4000 năm trước Công Nguyên, tức là trước khi có cuộc xâm nhập của người Aryen vào tây - bắc nước Đông Á này, thuộc vùng Penjab, thượng lưu sông Indus. Yoga là phương pháp rèn luyện tâm - thân bằng kỹ thuật thở (điều tức) cùng với kỹ thuật chế ngự ý nghĩ (điều tâm), kết hợp với những động tác chân tay, tư thế thân thể (điều thân), nhằm tăng cường sức đề kháng ẩn chứa tiềm tàng trong con người, để từ đó có thể thích nghi được với những khắc nghiệt của môi trường, điều trị bệnh tật, sống khỏe sống vui. Về sau, Yoga còn được sử dụng như phương pháp khổ luyện để làm hình thành nên những công năng đặc dị ở con người (và thực tiễn đã chứng tỏ nó thực sự có khả năng đó), để đưa tâm thần lên trạng thái tỉnh thức cao độ mà thấu tỏ chân lý (?). Hay có thể nói rằng phương châm của rèn luyện Yoga là trừu xuất bản thân mình ra ngoài thế tục để nối liền, để liên kết, để hợp nhất con người với vũ trụ, để tìm lại sự quân bình trong chính nó, nghĩa là hướng tinh thần về phía nội tâm, thay vì để nó bị cuốn hút về phía ngoại giới, tập trung và phóng xuất tất cả năng lượng hàm chứa trong nó lên chính nó (lên từng bộ phận của nó), để nó học biết được cái bản chất đặc hữu của nó, phát hiện được cái bí mật thầm kín nhất, sâu xa nhất, ẩn dấu nhất của nó; để thẩm thấu đến tận cùng tâm thức nó mà tự nó chiêm nghiệm, kiến nhận ra chân lý thực sự là chân lý (không bị sự nhiễu loạn của ngoại giới làm cho mê lầm, che khuất!). Đức Phật Thích Ca, dựa trên nền tảng của phương pháp rèn luyện Yoga, đã cải cách thành phương pháp tu thiền - nhập định trong việc tiếp cận, giác ngộ chân lý nhà Phật (về vấn đề này, chúng ta có ý kiến khác, nhưng nếu có điều kiện, sẽ trình bày sau hoặc cũng có thể là không bao giờ vì… không đủ thời gian!). Cũng có thể xem Yoga như là kỹ thuật nhập thần (entase), (khác với phép xuất thần (extase) của người lên đồng với những cơn co giật cơ thể…), tức là thu hút tinh thần trở lại bản thân nó, lấy chính nó làm đối tượng chiêm nghiệm tiếp xúc của nó (nghe khó hiểu thế nhưng thực ra đó là sự hàm chứa cái tư tưởng siêu phàm “vô vi vô bất vi” của Lão Tử!).
Võ thuật có nguồn gốc từ thiên nhiên hoang dã và buổi đầu là nhờ học hỏi thiên nhiên hoang dã. Một trong những yếu tố cực kỳ quan trọng trong sự hình thành và phát triển võ học phương Đông cổ truyền là bắt chước những động tác của muông thú trong hoạt động sinh tồn của chúng, phỏng theo những động tác, những hành động ấy mà nghiền ngẫm, rút tỉa, sáng tạo thành những động tác, chiêu thức, đòn thế, bài quyền cước chiến đấu đầy hiệu quả trong thực tiễn áp dụng.
Trong thời gian vị tổ sư Bồ Đề Đạt Ma trụ trì, truyền thụ võ thuật và khí công, tại chùa Thiếu Lâm dần xuất hiện những yếu tố đầu tiên, làm cơ sở cho nền võ học Trung Hoa sau này, được gọi là Thiếu Lâm quyền pháp cổ thức. Những cơ sở võ học và khí công đầu tiên đó ngày một được nghiên cứu sâu rộng, nhanh chóng phát triển thành một hệ thống quyền pháp - võ thuật hoàn chỉnh mang tên Thiếu Lâm Kungfu Ngũ Hành Quyền (khí công đã phát triển song đôi với võ thuật, trở thành bộ phận trọng yếu, không thể thiếu được trong võ học Trung Hoa, làm nên cái thần diệu của võ thuật Trung Hoa). Chúng ta cho rằng Thiếu Lâm Kungfu Ngũ Hành Quyền chính là nền móng võ học Trung Hoa ngày nay.
Nguồn gốc xuất xứ võ thuật Ngũ Hành Quyền có hai truyền thuyết. Truyền thuyết thứ nhất: tương truyền Bồ Đề Đạt Ma thấy dân Trung Quốc bấy giờ có tập luyện Ngũ Cầm Hí (năm loài cầm thú: gấu, hạc, hổ, nai, vượn), mới theo đó cải biên, kết hợp với võ thuật hiện có mà thành. Nhiều người nghiên cứu lịch sử võ học cho rằng truyền thuyết thứ hai có tính thuyết phục hơn. Cuối đời Tống, một công tử đất Nghiêm Châu xuống tóc tu học ở chùa Thiếu Lâm với pháp danh Giác Viễn Thượng Nhân. Bình sinh vốn đam mê võ thuật, nhận thấy học võ công ở chùa chưa đủ, bèn xuống núi tầm sư học thêm trong dân gian. Vị này gặp được một danh sư tại Lan Châu, đất Thiểm Tây tên là Lý Tẩu, học một thời gian lại được Lý Tẩu giới thiệu đến Lạc Dương thọ giáo danh sư khác tên là Bạch Ngọc Phong. Về sau, sư Giác Viễn vời cả hai người Lý Tẩu và Bạch Ngọc Phong về chùa Thiếu Lâm để truyền thụ tuyệt kỹ công phu (kungphu) cho sư tăng. Bạch Ngọc Phong trở thành đại sư của chùa Thiếu Lâm và chính trong thời gian này Bạch Ngọc Phong đã hệ thống hóa võ thuật, đúc kết thành Ngũ Hành Quyền (võ thuật mang hình tượng năm con thú: long, xà, hổ, báo, hạc). Trong lịch sử của chùa này còn ghi lời dạy của đại sư Bạch Ngọc Phong: “Tinh lực khí cốt của con người tích tụ theo thể ngũ hình: Long luyện thần, hổ luyện cốt, báo luyện lực, xà luyện khí, hạc luyện tinh. Con người phải hằng tâm tu luyện cho năm hình giao thoa hòa nhập mới đạt được thượng thừa thần hóa”.
Nhưng Ngũ Cầm Hí là một bài luyện võ công hay là cái gì? Chúng ta đều biết Hoa Đà là một danh y thời Tam Quốc, người Đông Hán, ở đất Tiều Quân, nước Bái (tức Nguyên Hóa). Ông nổi tiếng về nghề bốc thuốc, thuật châm cứu… trị bệnh cứu người. Sách “Tam Quốc chí” có ghi: “Hoa Đà có thuật vận khí hô hấp để chữa bệnh”. Thuật đó chính là Ngũ Cầm Hí công pháp. Như vậy Ngũ Cầm Hí là phương pháp luyện thở (điều tức) kết hợp với vận động thân thể (điều thân) để có sức khỏe tốt phòng chống bệnh tật và cũng là biện pháp trị liệu chữa bệnh.
Ngũ Cầm Hí đã được lưu truyền phổ biến trong dân gian từ rất lâu, đến hàng ngàn năm, nên nó cũng có nhiều dị bản. Các bản đó có những nét khác nhau nhưng tựu trung thì vẫn đồng nhất về nội dung cốt yếu, lấy ý dẫn khí thông qua các động tác thân thể tay chân. Tuy nhiên, người ta cho rằng bản giống nhất với Ngũ Cầm Hí công pháp của Hoa Đà là bản đời Nam Bắc Triều trong sách “Dưỡng tính điều mệnh lục” của Đào Hoằng Cảnh, được trước tác sau Hoa Đà 300 năm.
Có sách nói thuật Ngũ Cầm Hí là sáng tạo của Hoa Đà, nhưng cũng có những sách khác, khi bàn về dưỡng sinh lại nói nó có trước thời Hoa Đà, là sáng tạo của những hiền triết lập nên phái Đạo gia, thậm chí là có trước cả thời Lão Tử. Không biết thuyết nào đúng, nhưng chắc chắn rằng Ngũ Cầm Hí nếu là của Hoa Đà thì ít ra cũng phải có một tiền thân ở thời Tiên Tần và sự luyện thở (điều tức) dưới những dạng thức sơ khai sẽ còn sớm hơn nữa, rất sâu về phía cội nguồn.
Ai đã từ đọc “Tam Quốc chí” đều biết câu chuyện Hoa Đà chữa cánh tay bị thương do tên độc bắn trúng của Quan Công, một danh tướng thời đó. Một thời gian sau khi chữa lành vết thương cho Quan Công, Hoa Đà được Tào Tháo, vì nghe danh tiếng, vời đến chữa bệnh cho mình. Bệnh của Tào Tháo là đau đầu dữ dội sau khi đến Đàm Dược Long cho đốn cây (trong đó có cây lê thần!) để xây dựng điện Kiến Thủy. Chỉ vì quá đa nghi, nghĩ Hoa Đà định lợi dụng việc chữa trị để giết mình mà Tào Tháo đã ra tay sát hại một thần y. Trong khi Hoa Đà bị giam cầm ở cấm ngục, có người coi ngục tên là Ngô Áp Ngục vẫn hàng ngày lén mang rượu thịt vào thết đãi. Hoa Đà vô cùng cảm kích, biết mình trước sau cũng chết, liền nói với coi ngục họ Ngô:
- Ta sắp chết đến nơi, chỉ tiếc bộ sách Thanh Nang chưa truyền lại cho đời. Hậu tình của ông, chẳng biết lấy gì báo đáp. vậy tôi viết một bức thư để ông trao lại cho vợ tôi ở nhà. Vợ tôi sẽ đưa ông bộ sách ấy, coi như tôi tặng ông để ông nối lấy nghề thuốc.
Ngô Áp Ngục mừng rỡ nói:
- Nếu được bộ sách Thanh Nang, tôi sẽ bỏ đây, đi khắp thiên hạ chữa bệnh giúp người, để truyền cái đức của tiên sinh.
Mười ngày sau Hoa Đà chết. Ngô Áp Ngục mua quan tài về khâm liệm, đem mai táng tử tế rồi bỏ việc, y lời Hoa Đà dặn, nhận được bộ sách Thanh Nang. Học chưa kịp nghề thuốc thì một hôm về đến cổng nhà thấy vợ đang đốt bộ sách. Ngô Áp Ngục thất kinh, chạy vào dập lửa thì bộ sách đã cháy gần hết, chỉ còn vài trang. Họ Ngô mắng vợ thì vợ đáp:
- Mình có học được nghề thuốc giỏi như Hoa Đà rồi cũng đến chết trong ngục thất, quí báu gì thứ sách này mà giữ!
Do vậy, toàn bộ kinh nghiệm y thuật của Hoa Đà đã bị mai một. Rất may trong vài trang còn sót lại đó, còn nguyên phần chỉ dạy về phương pháp luyện khí công Ngũ Cầm Hí.
Trong mục “Nghệ Văn Chí” của sách “Hán Thư”, phần “Phương Thuật liệt truyện” có ghi lời Hoa Đà: “Con người vốn ham muốn vận động nhưng chớ quá sức. Có vận động thì khí cốc mới trao đổi, máu huyết mới lưu thông, bệnh tật nhờ thế mới không dễ dàng xâm nhập, như bản lề của cánh cửa thường xuyên đóng mở, không kẹt rít vậy. Cho nên bậc thần tiên ví vận động như hình ảnh con gấu uốn vặn mình mẩy để được mạnh khỏe. Nay ta có thuật Ngũ Cầm Hí gồm một là gấu, hai là hạc, ba là nai, bốn là hổ, năm là vượn. Bắt chước năm con này mà độ dẫn, sẽ tiêu trừ mọi bệnh tật, tay chân lại thêm linh hoạt nữa. Nếu thấy trong người phần nào không khỏe, có thể lựa lấy con thú hoặc cầm thích hợp mà tập luyện theo, đến đổ mồ hôi. Tập xong sẽ thấy người nhẹ nhàng khoan khoái và có khi còn thèm ăn nữa. Tập đều đặn liên tục, cho dù tới tuổi 90 thì người vẫn khỏe, tai mắt vẫn tinh tường, răng lợi vẫn y nguyên”.
Ngày nay, các nhà khí công dưỡng sinh đã giảng giải như sau về công dụng của phương pháp rèn luyện thân thể theo thuật Ngũ Cầm Hí:
- Gấu là biểu tượng hồn hậu, yên lắng của tâm hồn. Trông bề ngoài có vẻ phục phịch, nặng nề, nhưng thực ra gấu vận động mềm mại, xoay sở linh lợi. Bắt chước gấu rùng mình và đưa đẩy, ta luyện sự thâm hậu của nội lực. Trong lúc làm các động tác, ta vận động được toàn thân, vận kình rung các cơ khớp của vai, tay, mông, háng, và cả chân. Vận động theo loại hình gấu kết hợp nhịp nhàng với hơi thở có tác dụng trung hòa khí mạch, tăng cường chức năng tì vị.
- Khi nói đến hạc, chúng ta thường nghĩ tới sự nhẹ nhàng, bay bổng liệng đáp trong những bức tranh thủy mặc, sự thanh thoát trong hình tượng hạc đứng một chân bên cội tùng, trên lưng rùa, thường thấy trước bệ thờ ở đình chùa. Hạc tiêu biểu cho sự tĩnh mặc, thanh thoát, nên khi luyện loại hình này, động tác không gò bó, nặng nề, cương cơ mà trái lại là tinh thần an nhiên tự tại, dụng ý nhẹ nhàng. Ý nhẹ nhàng thì khí không trì trệ, kinh mạch thông thoáng, khí huyết điều hòa.
- Nai là biểu tượng của sự hồn nhiên. Nai tơ “ngơ ngác” giữa đồng cỏ, thanh thản uống nước bên bờ suối, nhưng một tiếng động nhỏ cũng làm nó nghểnh cổ lắng nghe. Khi tập luyện theo loại hình nai, toàn thân phải buông lỏng, thoải mái, thư giãn hoàn toàn thân tâm. Các động tác kết hợp với nhịp thở trong loại hình này có tác dụng giãn gân cốt, an thần.
- Hổ là biểu tượng của sư uy nghi, dũng mãnh. Hổ là chúa sơn lâm, có trí tuệ và sức mạnh vô địch, lúc động như vũ bão, lúc tĩnh như đêm trăng vắng lặng. Vì thế các động tác của loại hình này trông mềm mại mà có kình lực “miên lí tàng kim” (bông gòn bọc thép). Nếu dày công luyện tập sẽ tăng cường nội lực, tạo sự tự tin, loại bỏ những tư tưởng yếu hèn.
- Trong cầm thú, vượn được coi như tương cận với con người về nhiều mặt. Vượn khôn ngoan hơn nhiều loài vật, có thể bắt chước người dễ dàng. Cho nên con vượn là biểu tượng của sự khôn lanh. Vượn luôn táy máy, động đậy chân tay mình mẩy. Đó là biểu thị của “động”. Nhưng trong động có tĩnh, có sự tỉnh táo của trí khôn để ứng phó kịp thời. Vượn cũng như khỉ, là một loài khỉ, có tiếng lanh lợi. Động tác của loại hình này gọn gàng, có tác dụng làm cho thần kinh minh mẫn, thân thể tứ chi linh hoạt, khai thông huyết mạch, thần thái tươi tắn, lạc quan.
Trên cơ sở nền móng Thiếu Lâm Kungfu Ngũ Hình Quyền, cũng như sự xuất hiện của nó đóng vai trò kích thích như chất xúc tác, nền võ học Trung Hoa đã có những bước phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ và rộng khắp với đủ các trường phái, môn phái, đủ các cách thức tu luyện công pháp, quyền cước, binh khí, phong phú về nội dung và đa dạng về chiêu thức, đòn thế. Sau này, thường khi bàn về võ học Trung Hoa, người ta chia ra thành hai nhánh lớn là Nam phái và Bắc phái hoặc Nội gia quyền và Ngoại gia quyền. Sự phân chia đó chỉ là tương đối vì sự phát triển của võ học là học hỏi, giao lưu, lan tỏa, đan xen nhau.
Thiếu Lâm Kungfu Ngũ Hình Quyền vẫn tiếp tục sự phát triển của nó và trong sự phát triển sôi động của nền võ học Trung Hoa nói chung, nó dần chỉ còn đóng vai trò như một trong nhiều môn phái võ thuật của đất nước Trung Hoa. Nhưng dù có thế nào chăng nữa thì Thiếu Lâm Kungfu vẫn luôn được người đời ngợi ca là ngôi sao bắc đẩu trên nền trời võ học Trung Hoa.
Chùa Thiếu Lâm, với lịch sử bi hùng của nó; đã trở thành hiện tượng có một không hai: vừa là nơi xuất phát của Thiền tông, phái Phật Giáo có ảnh hưởng bao trùm không riêng gì ở đất nước Trung Hoa mà còn ở nhiều nước Đông Á, vừa là cái nôi của một nền võ học lớn nhất thế giới và cũng vô cùng thâm hậu, nguồn gốc của không ít nền võ học hiện tại ở các nước khác.
Vào thời cực thịnh của mình, cách nay khoảng 1300 năm, chùa Thiếu Lâm có đến khoảng 1500 vị sư tăng tụ tập, trong đó ít nhất có 500 vị được học võ nghệ đạt đến tuyệt luân. Hoàng đế Thái Tông nhà Đường đã cho phép nhà chùa được truyền dạy võ học cho các sư tăng. Điều này được ghi trên một bia ký còn lưu giữ được tại chùa Thiếu Lâm.
Được vậy là vì khi đó, Trung Quốc bị rợ Bắc xâm lăng, các nhà sư đã đến tiếp cứu Hoàng đế. Họ gồm 13 người và sau khi chiến thắng đều về lại chùa, tứ chối ân huệ của Hoàng Đế. Hoàng Đế đã ban thưởng cho chùa Thiếu Lâm bằng cách đó. Khoảng gần một ngàn năm sau, một vị Hoàng đế khác (có lẽ thuộc triều đại nhà Minh) lại cậy nhờ đến chùa Thiếu Lâm. Khoảng 128 vị sư lên đường xông pha vì Hoàng đế. Chiến tranh kết thúc, họ lại quay về chùa và cũng từ chối bổng lộc của Hoàng đế. Theo truyền thuyết thì để tưởng thưởng, Hoàng đế đã ban cho chùa Thiếu Lâm một thanh kiếm báu, một vòng cẩm thạch và một ngọc tỉ. Nghe nói ngọc tỉ này tượng trưng cho quyền lực Hoàng Đế, nghĩa là khi trưng nó ra thì lời nói của kẻ sở hữu nó có quyền lực như mệnh lệnh của Hoàng Đế.
Vài năm sau, quân Mãn Thanh xâm lược đánh đổ triều đại nhà Minh, lập nên triều Thanh. Tỉnh Hồ Nam có tri phủ mới. Tên này thèm muốn những báu vật mà tiên đế đã ban cho chùa, nhất là viên ngọc tỉ, đã tìm mọi cách mong có được nhưng không thành, đâm thù oán, trình tấu giả dối lên nhà vua. Vị Hoàng Đế trẻ tuổi lầm tưởng trong chùa có âm mưu gây biến loạn bèn cho quân lính đến đàn áp. Quân triều đình, nhờ có một sư thoái hóa bị đuổi khỏi chùa, tên là Mã Nhất Phu biết mọi ngóc ngách trong chùa, chỉ vẽ, đã bao vây chặt và đánh thốc vào chùa. Các sư, tăng cố chống cự và chết dần mòn. Vị phương trượng ra mệnh lệnh cuối cùng: “Phải có vài sư sống sót để tiếp nối truyền thống chùa Thiếu Lâm, số còn lại phải hy sinh để bảo vệ cho các vị đó đào thoát”. Cũng theo truyền thuyết thì có 5 vị sư thoát được là Lưu, Hồng, Thái, Lý, Mạc. Sau cuộc tàn sát và đốt phá đó, họ trở lại ngôi chùa và tìm thấy thi hài phương trượng, bên cạnh có cây kiếm gỗ, trên kiếm có dòng chữ viết bằng máu: “Phản Thanh phục Minh”. Năm vị sư đã minh thệ thực hiện theo ý nguyện cuối cùng của sư phụ. Trước khi chia tay đi các nơi tìm kiếm, truyền dạy lớp đệ tử mới cho chùa Thiếu Lâm. Họ qui định mật hiệu nhận ra nhau bằng động tác: nắm tay phải tượng trưng cho ánh mặt trời được bao lại bằng bàn tay trái mở ra, tượng trưng cho mặt trăng. Theo chiết tự, hai bàn tay “nắm - mở” mang ý nghĩa của chữ “Minh”. Năm vị tổ sư đó cũng chính là những người sáng lập ra Thiên Địa hội, một hội kín có tôn chỉ là “Phản Thanh phục Minh”
Trên thực tế, chùa Thiếu Lâm không bị thiêu hủy hoàn toàn, về sau, thời Hoàng đế Khang Hi, đã được trùng tu trên nền cũ, nhưng không còn đóng vai trò là trung tâm Thiền Tông và Võ thuật nữa.
Năm 1908, chủa Thiếu Lâm bị đốt lần nữa. Nhiều tài liệu võ thuật quí giá đã bị tiêu hủy.
Ngày nay, muốn đến thăm chùa Thiếu Lâm, khách du lịch sẽ được tập kết ở làng Thiếu Lâm. Từ đó, tiếp tục đi đến núi Tung Sơn, nơi tọa lạc Thiền viện. Ở khoảng cách khá xa, khách đã có thể thấy cánh cổng lớn quen thuộc trong phim Trung Quốc “Thiếu Lâm Tự”. Trước cửa đầy ngươi bán hàng rong.
Hai bên bậc thang trên bệ cao là hai con sư tử bằng đá, ngày xưa vẫn chào đón các tăng lữ viếng thăm. Phía trong cổng là tượng hai ông hộ pháp bằng đồng, hàm ý về một nơi giàu truyền thống võ thuật. Lòng tôn kính của người Trung Hoa giành cho Đạt Ma sư tổ được biểu hiện bằng pho tượng đồng của vị này ngay trong cổng chùa. Bức tượng mô tả tổ sư đang ngồi thiền theo thế liên tọa, mũi to, mắt lồi, râu quai nón, trông tương phản hẳn với tượng một đệ tử người Hoa ở bên phải.
Kiến trúc kế bên, ngày xưa vốn là nơi ở của phương trượng Chưởng môn, nay dùng đặt hai bệ thờ Đạt Ma sư tổ. Tượng thứ nhất cổ hơn, tạc vào năm 1624, đã trở thành biểu trưng chính thức cho hình đáng vị tổ sư: lông mày rậm với đôi mắt lồi và tia nhìn thấu suốt, áo cà sa che phủ tay nhưng để lộ bộ lông ngực. Phía trước bức tượng khắc nổi trên một phiến đá dày là bức tượng thứ hai, màu đen có hình đáng tương tự, do Hiệp hội Thiếu Lâm Nhật Bản kính tặng vào năm 1980.
Không phải bất cứ học giả nào cũng tin như các tín đồ nhiệt thành người Nhật rằng Bồ Đề Lạt Ma đã có công lớn trong sự phát triển võ thuật Thiếu Lâm. Nhiều cuộc tranh luận đã xảy ra. Phái hoài nghi cho rằng có rất ít chứng cứ trực tiếp chứng tỏ vị tổ sư này đã truyền thụ võ nghệ, thậm chí có người còn nghi ngờ về sự hiện hữu thực sự Lạt Ma sư tổ. Những người bên vực thì bảo rằng chính “Dịch Cân Kinh” là do Bồ Đề Lạt Ma viết trong thời gian vị này ở chùa Thiếu Lâm, đó là bằng chứng hiển nhiên nhất. Tuy nhiên, hàng nhiều thập niên sau khi Bồ Đề Lạt Ma viên tịch (khoảng năm 535), người ta mới tìm thấy cuốn “Dịch Cân Kinh” này trong một đình thờ (sự thật cuốn này cũng chỉ dạy các phép thở và luyện cơ để cho khí huyết lưu thông mà thôi!)
Những bức bích họa trên hai bức tượng lớn phía trong Thiền viện mới là di sản quan trọng và nổi tiếng nhất của chùa Thiếu Lâm. Chúng được vẽ vào khoảng thời gian từ năm 1640 đến năm 1800. Những bích họa này mô tả những thế võ tuyệt kỹ của Thiếu Lâm Kungfu, do biết bao nhiêu thế hệ sư tăng sáng tạo nên. Bức tường thứ nhất mô tả quyền cước. Hai nhà sư cong ngón tay lại thành “trảo” sử dụng trong “Hổ quyền”. Cặp khác đang áp lòng bàn tay trao đổi khí công. Bức vẽ khác vẽ một cao tăng, có thể là chính Lạt Ma sư tổ đang giao đấu với ba người, một người bị ném sang bên, người thứ hai bị vặn cổ tay trong khi người thứ ba đang tổ chức tấn công từ phía sau. Rồi hình vẽ các vị sư bá, sư thúc đang đứng ở xa quan sát, chỉ dẫn cho chư đệ tử… Bích họa ở tường đối diện mô tả sự luyện tập binh khí gồm thiết bảng, kích, song kiếm, những cao tăng có nước da sẫm màu (có thể là những nhà sư Ấn Độ) đang chỉ dẫn đệ tử tấn công và phòng phủ.
Thiên Phật Tự nằm trên thế đất cao nhất trong chùa Thiếu Lâm. Nhìn từ xa, nơi này chỉ có vẻ như một kiến trúc bình thường với màu xám, sẫm của gỗ, đá, có vẻ kỳ lạ khiến mọi người chú ý, tò mò. Quan sát kỹ sẽ thấy những vết lõm này có kích thước và hình dáng giống như bàn chân người, được xếp thành cặp, thẳng hàng. Đó chính là dấu tích của biết bao nhiêu thế hệ sư tăng, qua biết bao nhiêu năm tháng dậm chân trong khi luyện tập võ nghệ, đã làm mòn đá đi. Đây cũng là nơi trưng bày các bộ sưu tập đao thương bằng thép rèn lắp cán gỗ. Có lẽ số vũ khí này là do các nhà sư chùa Thiếu Lâm đã tịch thu được của kẻ thù từ những trận đụng độ xưa kia.
Một cánh cửa kín đáo ở phía đông Thiền viện dẫn đến một cái sân nhỏ. Ở đó có 200 pho tượng kích thước bằng người thật, mô tả tiến trình phát triển của võ thuật phái Thiếu Lâm Kungfu. Các tượng được xếp thành nhóm xung quanh sân theo chiều kim đồng hồ như một biên niên sử của môn phái, gồm 12 cảnh diễn tả những biến cố quan trọng của ngôi chùa. Không có bảng ghi chú rõ rệt nào về thời gian xảy ra các sự kiện, có lẽ để tránh sự tranh cãi của các học giả. Hai cảnh đầu là sinh hoạt thường nhật của các chư tăng, niệm kinh và nghiên cứu sách vở. Sự tập trung tu hành làm cơ thể họ có vẻ yếu đi, căng thẳng. Vài cảnh kế tiếp là lúc Lạt Ma sư tổ đã đến và khởi xướng việc luyện tập võ nghệ. Các nhà sư được chỉ dạy cách co giãn các bắp thịt và cách thở bằng bụng để dẫn khí lưu thông; những bước luyện tập ban đầu về các bộ tấn, pháp làm nền tảng cho giai đoạn kế tiếp, những đòn quyền sơ khởi cũng được phô diễn ở đây. Quang cảnh bốn mùa được thể hiện tuần tự ở những cảnh tiếp theo; sự luyện tập cần mẫn của chư tăng ngay cả giữa băng tuyết với trình độ quyền cước và các bộ tấn thủ đã được nâng cao, đã mang những nét đặc thù của Thiếu Lâm Kungfu; cảnh các nhà sư được chia thành cặp một để luyện công, thủ. Rồi đến cảnh luyện công, người thì luyện “Hổ du tướng” (bám vào tường cao 4m chỉ bằng đầu ngón tay, chân), kẻ thì đang khổ công với “Kim cương” (thọc đầu ngón tay vào các bao tải đựng hạt đậu). Cảnh sau nữa là thời gian các sư tăng Thiếu Lâm giúp Hoàng Đế Trung Hoa dẹp các tướng lãnh nổi loạn, họ chỉ dùng gậy gộc để chống lại gươm giáo và đã chiến thắng; Thiền viện bắt đầu có kẻ thù và đã phải cắt cử người canh gác. Sự hỏa thiêu chùa Thiếu Lâm được diễn tả ở các cảnh sau: thi thể của chư tăng và lính triều đinh rải rác khắp nơi trong khi những vị sư khác đang cố gắng chiến đấu, tiếp cứu huynh đệ. Quần thể tượng cuối cùng được bày trí như muốn nói rằng Thiếu Lâm Kungfu đã được dùng như nền tảng của võ thuật Trung Hoa hiện tại. Hậu cảnh là một tượng nhà sư Thiếu Lâm cầm gậy với bộ tấn trước các thiếu niên nam nữ không phải giới tu hành đang võ vẽ tập theo như là bức thông điệp: 15 thế kỷ nay, Thiếu Lâm Kungfu vẫn luôn là phương tiện hữu hiệu để tự vệ.
Trung Hoa quả là một đất nước vĩ đại vì không những đã sản sinh ra biết bao nhiêu những thánh hiền, minh triết, với những triết thuyết vừa kỳ bí vừa tuyệt diệu, mà còn sản sinh ra biết bao nhiêu những vị sư phụ, cao đồ có võ học tuyệt luân với những sáng tạo võ thuật thượng thừa, khí công siêu phàm. Các dân tộc phương Đông láng giềng đã học hỏi được rất nhiều từ nền văn hóa của dân tộc Trung Hoa.
Đi xem chọi gà, quan sát hai con gà chọi nhau, chúng ta thấy gì? Thấy chúng không phải gặp nhau là xông vào “đấu đá” túi bụi một cách mù quáng cho đến chết, mà chúng cũng biết “gầm ghè”, thủ thế, lừa thời đánh trúng mục tiêu, chọn kiểu đánh nào (mổ hay đá, đánh tạt ngang, dưới lên hay trên xuống…) và cũng biết né tránh, biết gan lỳ chịu trận hay thấy thua bỏ chạy, có con đá rất hay, nổi tiếng trong giới “võ lâm” và có con cũng rất dở. Xét riêng về hiện tượng thôi thì có thể cho rằng mọi con gà chọi đều có “võ” và chúng chọi nhau một cách có đòn thế võ thuật, được không? Tạm cho là được đi, thì chúng học võ nghệ từ lúc nào? Có thể thấy rằng khả năng “võ nghệ” của một con gà chọi đã thể hiện ra ngay từ trận đầu “chiến đấu” và quá trình “học hỏi” của nó qua mỗi trận đấu hầu như là không có, mà trước đó nó cũng chẳng được ai dạy cả, những trận đấu thử may ra chỉ là sự tập dợt, ôn luyện lại. Nhưng ôn luyện cái gì nếu chưa có học? Vậy có thể nào cho rằng những con gà chọi đã ôn luyện những “thế võ” mà chúng đã “học” được từ tổ tông bằng con đường di truyền sinh học? Và có lẽ như thế nên dân gian vẫn thường cố “lấy giống” để duy trì giống nòi những con gà chọi hay, chọi giỏi? Không thể phủ nhận là trước sự chuyển biến của đối phương, một con gà chọi giỏi sẽ biết lựa chọn “cước pháp”, nghĩa là biết lựa chọn cách đánh mà nó cho là phù hợp. Đó là lý trí hay bản năng? Thật nực cười nếu cho rằng đó là lý trí! Nhưng cũng nực cười không kém nếu cho rằng con gà chọi là một cái máy đã được lập trình sẵn! Vậy thì phải hiểu thế nào về hiện tượng chọi gà, một trò chơi được hàng ngàn thế hệ của biết bao nhiêu con người phương Đông say mê và trong đó đã không ít kẻ khuynh gia bại sản vì trò chơi đó?! Trò chơi đó có tính trí tuệ hay không trí tuệ, chỉ là may rủi đơn thuần?
Không thể phủ nhận được một thực tế là mỗi con gà chọi đều có lối đánh “sở trường” của nó, mỗi giống gà chọi đều có những “độc chiêu” “tuyệt kỹ” mang tính “cổ truyền”, và vì thế phải cho rằng gà chọi có võ thuật, khi chiến đấu nó biết công thủ một cách có phương pháp. Trước một gã gà chọi với “tướng tá” thường rất nghênh ngang và “vũ phu”, những gã gà thường bao giờ cũng lép vế, ít dám đối đầu và nếu gã nào có gan cóc tía mà gây hấn thì chỉ cần lãnh đủ một hoặc đôi “chiêu” chí mạng là đã hiểu ngay ra vấn đề để chỉ còn cách “dĩ đào thượng sách”, cắm cổ chạy dài. Trong làng chơi chọi gà ở Nam Bộ vẫn còn lưu truyền câu thơ:
                              Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh
                              Gái nào bảnh bằng gái Mỹ Tho.
Nghe kể tromg dân gian đại khái thế này:
Trước đây ở Sài Gòn, trong làng mê thú trò gà chọi (còn gọi là gà đá, gà nòi), không ai không biết đến những địa danh nuôi gà chọi nổi tiếng như Bà Hom, Bà Điểm, Thủ Đức, xa hơn một chút là Cao Lãnh, Tây Ninh, hay ra miền Trung thì có Phan Rang, Tuy Hòa, Quảng Ngãi… Vào thập niên 60 - 70 của thế kỷ XX, nức tiếng giống gà chọi tốt là: Mái Chín Cầu ở Xuân Hiệp Thủ Đức, Mái Thợ Bạc và sau này là Gà Năm Sô ở Bình Dương. Tại sao muốn có gà chọi hay phải chọn giống là “mái” chứ không phải “đực”? Di truyền học nói thế nào không biết, chứ theo lưu truyền trong dân gian thì “chó giống cha, gà giống mẹ”. Đó là lý do vì sao tên những nhân vật nuôi gà chọi giỏi thường được “vinh dự” đặt thêm chữ “mái” ở đằng trước.
Tuy nhiên có gà mái giống tốt thì trong bầy gà con không phải con nào cũng tốt. Chỉ có thể chọn được một, hai hoặc có khi là không được con nào vừa ý. Ở đây, tính trội, lặn trong sinh học di truyền vẫn phát huy tác dụng!
Nếu không phải là dân chuyên nghiệp thì không thể biết cách chọn, hoặc đơn giản hơn là thấy được con gà chọi nào gọi là hay. Khi chọn gà, người ta chú ý tới ngoại hình của nó, từ đầu, cổ, mỏ, móng, chân cách, dáng đi… và cả màu lông. Dân sành điệu thường dựa vào những tiêu chí sau để chọn gà:
- Mồng gà: phải nhỏ, thường người ta hay chọn mồng Trích (giống mồng chim trích), hay mồng dâu(?). Gà mồng dâu đá và né rất nhanh.
- Mỏ gà: phải to và ngắn, có màu ngà là tốt nhất, kế đến là màu chì.
- Đầu gà: không to quá, so với cổ; chọn được đầu dẹp là tốt vì gà đầu dẹp đá và né giỏi.
- Mặt gà: những gà đá hay thường có mặt chữ điền, chữ nhật; gà mặt tam giác giống mặt rắn thường rất dữ.
- Mắt gà: tinh anh, sâu, màu vàng, con ngươi nhỏ; cũng có thể màu bạc hay hồng, có nhiều tia máu, mí mắt phải mỏng. Gà mà hai mắt có màu khác nhau là loại…
- Cán gà (phần cổ dưới đầu gà): to, khỏe.
- Chân gà: phải cứng chắc, có ngón cứng mà cong (gọi là chân rọm, đá rất đau).
- Vảy: chọn kỹ hơn nữa thì phải biết coi cả vảy. Ngón chúa (ngón giữa) phải có 19 vảy trở lên, hai ngón ngoại và nội (ở hai bên ngón chúa) phải có 14 vảy trở lên, rồi ngón thối (ngón phía sau) phải có 7 vảy trở lên. Thường mỗi chân gà có hai hàng vảy xếp hình chữ nhân (). Nếu giữa hai hàng đó xen vào hàng vảy như những lát nhỏ, chạy từ gối đến sát chân gọi là vảy qui, rất quí, chỉ có ở gà linh (linh kê). Vảy ba hàng lỡ giống vảy qui nhưng chỉ có ba vảy từ gối xuống. Vảy ba hàng lỡ ở vùng cựa gà gọi là vảy tam tài. Tùy hình dáng vảy mà trong vảy tam tài còn được phân ra: vảy án thiên, vảy vấn khâu, vảy khai dương. Những gà có các loại vảy nói trên đá dữ, rất hay.
- Màu lông: Đối với người rành gà chọi thì màu lông rất quan trọng. Một con gà chọi dù hội đủ các tiêu chuẩn phía trên mà màu lông không đạt thì coi như bị loại. Chẳng hạn như lông có “gián cánh” (tức là trong hai cánh có một lông màu trắng) thì khi lâm trận chắc chắn sẽ bị đối phương đâm đui mắt. Người ta chia màu lông thành 5 loại là: đen huyền (gà ô), đỏ sậm pha xám (gà điều), trắng (gà nhạn), xám tro (gà xám), giống lông chim ó hay hung đỏ giống lông diều hâu (gà ó). Ngoài 5 loại màu cơ bản đó, còn có loại lông ngũ sắc (5 màu). Gà ó Mã Lai có lông toàn thân như lông gà mái không có lông mã. Loại gà này thường đá (chọi) rất hay.
Điều lạ lùng là không biết căn cứ vào đâu mà dân chơi gà chọi cũng lấy năm màu lông cơ bản nói trên lập thành Ngũ hành, cung tương sinh, tương khắc đàng hoàng:
                              Gà ô thuộc mạng Thủy
                              Gà diều thuộc mạng Hỏa
                              Gà nhạn thuộc mạng Kim
                              Gà xám thuộc mạng Mộc
                              Gà ó thuộc mạng Thổ,
                  Và:
                              Gà điều kỵ gà ô (Hỏa khắc Thủy)
                              Gà xám kỵ gà diều (Mộc khắc Hỏa)
                              Gà ô kỵ gà ó (Thủy khắc Hỏa)
Nhiều người chơi gà chọi rất tin vào chuyện trên. Vì vậy khi mang gà ra “trường độ” (chọn gà đá cặp, đá cược…), gặp phải gà có màu lông kỵ với màu lông gà “nhà”, người ta thường từ chối.
- Dáng: tiêu chí cuối cùng để chọn gà chọi hay là dáng đi, dáng đứng của nó nữa. Thú vị là ở chỗ người ta phân dáng gà ra làm 2 dạng: dáng tướng (võ) và dáng quan (văn). Gà dáng tướng thường xông xáo, đá rất hay, nhưng gà dáng văn tuy “hiền” hơn nhưng cũng không phải là dở.
Thường mỗi con gà chọi “thủ đắc” một đòn đá riêng (mà nó cho là độc chiêu?!). Người ta tổng kết được ba thế đá và đặt tên cho chúng: Đá ngọn (là tung chân cao đá từ cổ đến đầu), Đá ức (là tung hai chân từ dưới lên đá vào ức đối phương), Đá lưng (là nhảy lên cao, tung chân đá xuống lưng đối phương)…
Chuyện gà chọi, kể sơ qua như thế nghe đã thấy khoái rồi, huống hồ là tham gia vào cuộc chơi. Đúng thật là “nghề chơi cũng lắm công phu” và thảo nào mà có nhiều người “ghiền” đến độ “thẫn thờ”, bỏ ăn bỏ uống, đến độ “tan nhà nát cửa”…
Chọi gà là một thú vui dân gian đã xuất hiện từ thời cổ xưa. Ngay đời Trần đã rất phổ biến rồi, vì trong “Hịch tướng sĩ”, đã thấy Trần Hưng Đạo nhắc nhở quân, tướng mình: “Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển… Nến có giặc Mông tràn sang, thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh…” Bên Trung Hoa, trò chọi gà chắc chắn vào thời Trang Tử đã phổ biến rồi vì trong “Nam Hoa Kinh” có chép truyện Kỷ Sảnh Tử luyện gà đá cho vua.
Ngày nay vì quan niệm “cờ bạc là bác thằng bần” nên người ta cấm cờ bạc. Như thế cũng tốt. Nhưng họ đâu biết rằng có đàn áp thì cũng không cấm tiệt được nó, khi trong mỗi con người vẫn còn thèm muốn danh lợi, buồn vui theo mất - được danh lợi. Không chừng làm thế lại chỉ có lợi cho “kẻ gian”, còn người ra lệnh cấm thì “thất thu” và dân đam mê thì “buồn quá”. Nên chăng là không cấm mà “tiết chế” cá độ ở mức phù hợp, cho phép tổ chức đá gà công khai như một nghề kinh doanh để ai cũng “được” cả, kẻ nào phạm luật thì “mất” ráng chịu. Hãy cố gắng giữ gìn và duy trì những trò chơi dân gian truyền thống, dù có tính cờ bạc một chút, cho hôm nay và cho mai sau! Vì làm như thế cũng chính là phụng sự đời sống con người, giúp cho con người có thêm được những niềm vui thú nho nhỏ, trong cuộc đời vốn nhiều buồn khổ trần gian, tạm bợ và ngắn ngủi của mình…
Có một giai thoại về Tả quân Lê Văn Duyệt liên quan đến gà chọi, thế này:
Vào khoảng năm 1808, Lê Văn Duyệt làm trấn thủ Đế Đô, có đôi lúc vào chầu trễ. Có lời xì xầm đến tai vua Gia Long. Lần ấy, Lê Văn Duyệt cũng trễ chầu. Vua nói cạnh, giọng nghiêm:
- Khanh bận xem đá gà chứ gì?
Duyệt thưa:
- Muôn tâu bệ hạ! Hôm nay thần khó ở, cũng cố gượng vào chầu…
- Nhưng khanh có ham mê chọi gà không? - Vua gắt.
- Muôn tâu bệ hạ, quả có như vậy! Nhưng xin bệ hạ thứ cho, thần hạ trước nay nếu có làm được vài việc nhỏ trong quân binh giúp bệ hạ đều nhờ học hỏi chọi gà mà ra cả…
- ?!
- Dạ thưa: người xưa nói gà chọi là loài cầm thú hội đủ năm đức tính lớn: đầu nó có mồng như đội mão gọi là Văn; chân nó có cựa nhọn như giáo gọi là Võ; nó thấy kẻ địch thì xông vào quyết chiến gọi là Dũng; khi có gì ăn thì gọi đồng loại đến hưởng cùng gọi là Nhân; hàng đêm tới canh thì gáy vang nhắc, báo gọi là Tín. Văn thì đi liền với Lễ, với Trí; có Nhân thì cũng ắt có Nghĩa. Vậy, thần hạ thiển nghĩ, đã là tướng thì phải như gà chọi: “Văn - Võ song toàn”, tròn Dũng mà cũng vẹn Nhân; đã là bậc trượng phu thì cũng phải như gà chọi, nghĩa là gồm đủ “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín”…
Vua nghe tới đó, bật cười hỉ xả.
Còn giai thoại nữa (dựa theo “Hương Giang cố sự”):
Võ Liêm Sơn (1888-1949) là nhà văn, nhà giáo yêu nước, đậu bằng Thành Chung (1911), cử nhân hóa học (1912), giáo viên trường Quốc Học ở Huế, ông hay qua lại với Phan Bội Châu, làm cố vấn cho học sinh trong lễ truy điệu Phan Chu Ttinh (1926), tham gia Tân Việt (1927) và có chân trong Ban biên tập Quan hải tùng thư do Đào Duy Anh phụ trách. Chính ông là người lãnh đạo bí mật cuộc bãi khóa của học sinh Huế tháng 4-1927. Ông là người không đồng tình với đường lối cách mạng cải lương của giới mang tư tưởng dân chủ tư sản.
Trong đời sống hàng ngày, Võ Liêm Sơn có óc châm biếm khôi hài và có hai cái thú: viết văn làm thơ và đá gà. Một hôm, ông dắt hai học trò Quốc học là Nguyễn Chí Diểu và Nguyễn Khoa Văn đi đá gà ở Thành nội. Con gà của ông Sơn nhỏ con, bộ móng, mỏ của nó do thiếu chăm sóc nên không bén nhọn bằng gà của đám nhà nghề; bộ mã cũng bình thường. Người xem không ai nghĩ nó có thể chịu nổi một hiệp (một hiệp là cháy tàn một cây nhang). Ấy vậy mà khi xáp trận, gà của ông Sơn tỏ ra bình tĩnh, dai sức, biết tránh né những cú đá hiểm, biết tạo những sơ hở giả để đối phương đá cho mất sức. Suốt hiệp thứ nhất, gà của ông Sơn không một lần được vỗ tay, nhưng ai cũng công nhận nó khôn. Sang hiệp hai, nó bắt đầu “phản kích”, nhưng sức có hạn nên không tạo được thế áp đảo, làm người xem đến đây cũng không hy vọng nó thắng. Đến hiệp ba, gà ông Sơn không “công” nổi, đành “thủ”, nhưng vẫn linh hoạt tiến lui giữ thế. Còn gà đối phương có vẻ nổi nóng bởi phải giằng co mãi với “thằng oắt”. Nó đột nhiên trương cánh dùng hết sức bình sinh tung một cú đá song phi. Con gà ông Sơn đưa lưng ra đỡ rồi thừa cơ đối phương mất thăng bằng, mổ một nhát vào đúng hành tủy nó. Gà đối phương lảo đảo rồi gục xuống. Hàng trăm bạn gà đứng xem vỗ tay reo rần rần.
Ông Sơn vào sân ôm gà ra, nhận 5 đồng tiền thưởng. Ông bế con gà dính đầy máu me vào lòng, vuốt lông cho nó, hôn vào đầu và cái mỏ đã ra một đòn làm nên trận thắng vẻ vang.
Trên đường về, hai anh học trò khoái quá, thay nhau ôm con gà thắng trận cho thầy, mặt đầy vẻ hân hoan. Lúc chia tay, ông Sơn mời:
- Mai mấy con lên ăn cháo gà nghe!
Với 5 đồng tiền thưởng trong túi thầy, chỉ cần bỏ ra 2 đồng thôi là được bữa cháo gà “phè phỡn”. Diểu và Văn nghĩ vậy, nhận lời ngay.
Hôm sau, hai trò lên ăn cháo. Nhai thịt thấy dai dai, cả hai đều nghi nghi. Đến lúc thấy cái đầu gà trống hiện lên trong nồi cháo, họ mới biết là thịt gà chọi. Diểu hỏi ông Sơn:
- Thịt gà đá mô ri (nào đây), thưa thầy?
Ông Sơn đáp gọn lỏn:
- Thì con gà thắng hôm qua đó!
Ngạc nhiên quá, hai người trương mắt lên, một người hỏi rụt rè:
- Con gà đá hay vậy sao thầy lại thịt nó đi?
Lúc này, ông Sơn mới chậm rãi, ôn tồn:
- Con gà cũng như con người vậy, chỉ hay được một thời. Hóa kiếp để giữ khí tiết cho nó, âu cũng là việc nên làm. Chắc chi đá thêm một trận nữa mà nó còn thắng nổi, không khéo lại thân bại, danh liệt, chỉ làm khổ nó…
Hai trò hiểu ý thầy, lặng lẽ cùng quay nhìn ra cửa. Bên kia đường lộ là nhà của Phan Bội Châu - ông già Bến Ngự…
Trong khi chờ đợi ý kiến của các nhà nghiên cứu chuyên môn và thực sự uyên bác về gà chọi và sự chọi gà, chúng ta cứ thuận theo tâm hồn vừa nhẹ nhàng vừa hồn nhiên của dân gian là gà chọi có võ thuật. Thế nhưng trong thế giới gà chọi có tồn tại một nền võ học nào không? Sẽ không có một học giả đứng đắn nào thèm trả lời câu này vì theo họ như thế là thiếu nghiêm túc. Thậm chí là họ không dám vì theo họ, nếu ai cố tình trả lời câu hỏi này một cách có lý luận, kẻ đó sẽ mất ngay cái danh vị “học giả” và lập tức trở thành “lẩm cẩm thật”. Đúng là việc trả lời câu hỏi đó tương tự như gặm một khúc xương cứng mà chẳng được chút bổ béo gì. Nhưng câu hỏi đã được đặt ra và đòi hỏi một lời giải thích và sẽ có người quan tâm đi tìm câu trả lời, dù người đó không phải là học giả mà chỉ là kẻ điên rồ. Điên rồ thì cũng hành động vì danh lợi. Và danh lợi ở đây là danh lợi được quan niệm trong thế giới ấy, nên chúng ta thấy rõ một kẻ điên rồ thường rất thích thú tìm cách trả lời những câu hỏi đại loại như trên và trong trường hợp may mắn nhất, kẻ đó cũng có thể đạt đến một “vinh quang đời đời”, nghĩa là đoạt được giải thưởng cao quí nhất mà người tỉnh táo gọi là Ig Noben!
Ở một góc độ quan sát dị thường, chúng ta nói rằng trong thế giới gà chọi cũng có một nền võ học. Nền võ học ấy cũng phát triển, nâng cao qua quá trình dạy - học từ thế hệ này đến thế hệ khác, qua sự đúc kết kinh nghiệm từ những lần “thượng đài”, từ quá trình “thượng đài” liên tục hết đời này đến đời khác, bằng con đường di truyền sinh học đồng thời với sự nuôi nấng, dung dưỡng, vỗ về, rèn luyện của những con người say mê, thấy được ở con gà chọi và cuộc chọi gà một trong những thú vui “tuyệt hảo” nhất trần gian. (Loài người sẽ chẳng bao giờ dẹp được nạn cờ bạc một khi vẫn phải dung dưỡng nỗi thèm khát danh lợi trong lòng nó! Các nhà đạo đức có thấy được điều này?)
Ở thế giới loài gà đã như thế thì ở thế giới loài người có suy nghĩ phải hơn như thế, nghĩa là con người đã biết đến võ nghệ từ rất sớm, có thể là từ khi đã có thể trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ mà những động tác tấn công - tự vệ tỏ ra hữu hiệu ở mỗi con người cụ thể được truyền đạt qua lại, được chắt lọc, đúc kết, được cố định lại như một sự thừa nhận là cách thức chiến đấu hiệu quả nhất và được phổ biến trong cộng đồng. Võ thuật sơ khai đã ra đời như thế. Cuối cùng quá trình tìm tòi sáng tạo để vươn lên đảm bảo sự sống còn tốt hơn, khả năng sinh tồn chắc chắn hơn, võ thuật phát triển ngày một hoàn thiện hơn, tinh tế hơn và do đó mà cũng ngày một trở nên đa dạng, phong phú hơn (mức độ phức tạp cao hơn). Sự phong phú và đa dạng của võ thuật làm cho việc lưu nhớ và truyền thụ ngày càng khó khăn, do đó lại đòi hỏi đúc kết lại, sắp xếp lại cho có gốc có ngọn, có bài bản, tạo nên một cơ sở võ học để truyền thụ và rèn luyện võ thuật. Cơ sở võ học là hình thức sơ khai, manh nha của cái gọi là nền võ học”.
Chăn nuôi và trồng trọt tạo điều kiện cho sự định cư lâu dài. Sự định cư lâu dài tạo nên cộng đồng xã hội. Cộng đồng xã hội là một lực lượng dân cư bao gồm những bộ phận như gia đình, bộ tộc, dân tộc… sống tương đối độc lập nhau trong một tổng thể đan xen nhau, có mối quan hệ nội tại khăng khít với nhau, hay nhìn theo góc độ ở đây là gồm những cộng đồng người nhỏ hơn, mang tính địa phương hợp thành. Mỗi cộng đồng người nhỏ hơn ấy đều có một cơ sở võ học. Sự va chạm, giao lưu, loại trừ, học hỏi lẫn nhau giữa các cơ sở võ học đó dần làm nên một nền tảng võ học chung cho cả cộng đồng xã hội đó. Cũng như những hiện tượng xã hội khác, một nền võ học được hình thành và phát triển từ tản mạn, manh mún đến thống nhất tập trung để rồi lại ngày càng đa dạng phong phú, tạo tiền đề cho một tiến trình phát triển có tính lặp lại mới. Điều này cho thấy trước khi xuất hiện Thiếu Lâm Kungfu, trên đất nước Trung Hoa đã tồn tại một nền võ học, dù có thể nền võ học đó chưa rõ nét. Phải chăng sự kiện hình thành nên Thiếu Lâm Kungfu Ngũ Hình Quyền đã đóng vai trò như một cuộc cách mạng, mở đầu cho một chu kỳ phát triển mới của võ học Trung Hoa và là cơ sở của nền võ học Trung Hoa hiện tại?
Nếu thế, trên lãnh thổ Việt Nam, vào thời rất sâu trong tiền sử, có thể đã từng tồn tại một cơ sở võ học và con người thời cổ xưa đó đã biết đến võ nghệ, biết chiến đấu công - thủ bằng võ thuật. Kết quả khảo cổ đã làm cho các nhà nghiên cứu nhân loại - xã hội học tin rằng cách đây chừng 10.000-20.000 năm và có thể là lâu hơn nữa, ở Bắc Bộ - Việt Nam đã có hiện tượng định cư lâu dài. Có như vậy là vì con người thời đó đã phát hiện một cây lương thực cực kỳ quan trọng cho đến tận ngày nay, đó là cây lúa nước. Sự định cư lâu dài và tương đối ổn định ấy đã làm hình thành nên một nền văn hóa khu vực, gọi là nền văn hóa Hòa Bình (theo một tài liệu thì vùng đất Hòa Bình xưa kia thuộc trấn Hưng Hóa, đến năm 1866, dưới triều Nguyễn, thành ra một tỉnh gọi là Bờ, năm 1887 đổi tên thành Phương Long, từ năm 1897 mới được gọi là Hòa Bình).
Nền văn hóa tối cổ đó có võ không? Chắc là có! Thứ võ đó có dựa trên một cơ sở võ học nào không? Chắc là có luôn, dù cơ sở võ học đó là thô sơ với vài phân thế chiến đấu giản đơn, rời rạc. Tuy nhiên cũng có thể giả định rằng cơ sở võ học đó đã đạt đến tinh tế, đã phô bày ra cái công phu sáng tạo thực sự và bao trùm của trí tuệ, do đó mà đã mang sắc thái một nền võ học đích thực, nếu chúng ta cho rằng nền văn minh Hòa Bình là bộ phận còn sót lại không đáng kể, là một tàn dư nhỏ nhoi của một nền văn minh lúa nước vĩ đại hơn nhiều đã bất ngờ phải hứng chịu một đại họa thiên nhiên bi thảm, nền văn minh Mẫu - La, nền văn minh cội nguồn của mọi nền văn minh sau này…
Dù có thể là nhỏ bé nhưng nền văn minh Hòa Bình đã có một thời cực thịnh, rực rỡ vàng son của nó, để rồi cũng lại thăng trầm tan rã: một bộ phận rút lên cao trụ lại, phần lớn phiêu bạt dần lên bắc, phần khác xuôi nam ven sườn Trường Sơn và số còn lại thì vượt núi sang tây. Bộ phận nào cũng mang theo giống lúa nước, cách trồng cây lương thực quan trọng này và gieo trồng tại nơi họ đặt chân đến. Việc trồng cây lúa nước như một phương thức tạo miếng ăn ổn định, vì thế mà trở nên phổ biến, lan tỏa ra khắp nơi. Trình độ võ học cao cường của nền văn minh Mẫu - La mà văn hóa Hòa Bình còn lưu giữ được phần lớn, có thêm những sáng tạo mới, cũng theo đó mà được truyền bá rộng rãi…
Nền tảng của khí công hay Yoga là kết hợp giữa điều tức, điều tâm và điều thân. Trong ba cái đó thì điều tức (cách thở) là yếu tố cơ sở mang tính cốt lõi. Thở không đúng cách thì cũng không điều tâm được và như vậy cũng không thể tạo và lưu chuyển “khí” một cách có ý thức được (dù khí vẫn lưu chuyển tự nhiên không ngừng nghỉ!). Do đó việc luyện thở phải được đặt lên hàng đầu, phải là bước đầu tiên của quá trình tập luyện của khí công hay Yoga. Nhưng ai là con người đầu tiên nghĩ ra sự luyện thở. Cụ thể là ai thì không thể biết được, nhưng cư dân đầu tiên nghĩ đến việc điều khiển hơi thở phải là người sống ở vùng sông biển, thường xuyên ngập nước. Cuộc sống chống chọi với lũ lụt, cũng như đòi hỏi phải bơi lặn dưới sông, biển để săn bắt các loại thủy sản đã đặt ra yêu cầu phải làm sao không bị ngạt nước, phải nhịn thở được lâu… Sự tìm tòi, nghiên cứu và rèn luyện cách thở, cách ém hơi thở để có thể lặn được dài hơi đã là bước đi đầu tiên làm hình thành nên Yoga và khí công. Quá trình thực hành các cách thở đã dẫn đưa đến cho dân cư sông nước sự cảm nhận những biến đổi, những biểu hiện khác lạ trong cơ thể. Việc chiêm nghiệm những biểu hiện như có “cái gì đó” truyền trong cơ thể ấy, cũng như những biểu hiện tương tự từ những lần rùng mình tự nhiên của cơ thể, những lần cơ thể phản ứng khi bị đột ngột tác động từ bên ngoài như bất ngờ bị hù dọa, bị sét đánh gần… đã làm cho cư dân sông nước đi đến quan niệm về “khí”: thứ không thấy được, không hình dung được nhưng thực sự là có, là cảm nhận được sự lan truyền của nó trong cơ thể. Từ đó, sự từng trải đã cho họ “thấy” được nhiều điều, biết được cách thở tạo cảm giác về sự lưu thông của khí và biết được mỗi lần như thế thì cơ thể họ có vẻ mạnh khỏe hơn, tâm hồn họ thấy sảng khoái hơn. Hơn nữa, dần dà họ còn biết chủ động điều chuyển được “ dòng” lưu động của khí. Và cuối cùng là những bài học đầu tiên về khí công cũng như Yoga ra đời.
Người ta vẫn cho rằng khí công được rút tỉa ra từ Yoga và người thực hiện hành động đó là Đức Phật Thích Ca. Chứng cứ là về thời gian ra đời thì Yoga xuất hiện sớm hơn khí công nhiều. Chúng ta không hoàn toàn nhất trí bởi ngay cả Đức Phật Thích Ca cũng chỉ tồn tại ở dạng huyền thoại nhiều hơn là sự thực lịch sử. Trong tranh luận tôn giáo và cả trong tranh luận lịch sử về những sự kiện có tính mở đầu nguồn gốc của một hiện tượng nào đó, thường nhiều học giả vì danh dự của giáo phái mình, của dân tộc mình đã tùy tiện nâng khống tuổi của sự kiện lên cho nó “già” hơn sự kiện của giáo phái khác, của dân tộc khác. Ngay bản thân chúng ta cũng mắc phải bệnh này và vì thế, chúng ta cho rằng Yoga và khí công là hai nhánh khác nhau xuất phát từ một gốc chung tạm gọi là khí công Mẫu - La. Sau này hai nhánh ấy, trong quá trình phát triển tương đối độc lập đã biểu hiện ra những nét đặc thù. Tuy vậy chúng đã từng giao lưu học hỏi lẫn nhau; tiếp thu và cũng loại trừ nhau trên quan niệm dù cốt lõi là thống nhất nhưng cũng đã mang nhiều dị biệt của mỗi trường phái…
Đến thời kỳ biển thoái, cuộc sống con người ở vùng Bắc Bộ - Việt Nam lại bước vào chu kỳ “rộn ràng”, đổi mới. Một nền văn minh kế thừa văn minh Hòa Bình xuất hiện. Đó là thời kỳ Kinh Dương Vương cùng “bầu đoàn thê tử” từ phương bắc kéo xuống. Một cộng đồng xã hội gồm nhiều cộng đồng thành phần bắt đầu hình thành và tiếp theo quá trình ấy là xuất hiện nền văn hóa Văn Lang, kèm theo nền võ học của nó dần lộ diện. Nhờ có nền võ học ấy mà sau này Phù Đổng Thiên Vương mới có thể “múa” được roi sắt (có sách nói là gươm sắt, nhưng “công nghệ” thời đó không biết đã rèn ra được gươm sắt chưa?), mới có thể nhổ cả bụi tre ngà lên làm vũ khí đánh tan giặc Ân!...
Thoát thai từ nền võ học Văn Lang, và qua giao lưu học hỏi cái hay, cái đẹp từ nền võ học mà đại diện tuyệt vời của nó là Thiếu Lâm Kungfu Ngũ Hình Quyền, một nền võ học thứ hai xuất hiện và là nền tảng của võ học Việt Nam lúc đó, đó là võ học Đại Việt. Nền võ học Đại Việt cùng với người anh em ruột thịt của nó là nền nghệ thuật quân sự Đại Việt, đã làm rạng danh non sông đất nước Việt, dân tộc Việt.
Do nhiều nguyên nhân lịch sử mà vào thế kỷ XVIII, Bình Định trở thành “miền đất võ”. Có thể nói Bình Định thời bấy giờ đã là nơi hội tụ của nhiều trường phái võ như võ Tàu, võ Chăm, võ Khơme… và trên cơ sở lấy võ Đại Việt làm trung tâm, một trào lưu võ học mới ra đời, đóng vai trò như nền tảng võ học Việt Nam ngày nay.
Con người đã có mặt từ rất lâu trên dải đất duyên hải Trung Bộ - Việt Nam. Trước công nguyên, trên dải đất này ít ra cũng có một nền văn hóa gọi là văn hóa Sa Huỳnh (xấp xỉ cùng thời với văn hóa Đông Sơn ở Bắc Bộ). Cư dân Sa Huỳnh thời đó đã đạt đến giai đoạn phát triển sơ kỳ đồ sắt, có công cụ, khí giới bằng sắt, đã biết làm đồ gốm bằng bàn xoay, và đã làm nông nghiệp trồng lúa nước. Quá trình phát triển, quần tụ và hội nhập dân cư đã dần dần làm xuất hiện dân tộc Chăm cùng với nền văn hóa Chămpa. Nền văn hóa Chămpa chủ yếu vẫn là nền văn hóa của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước nhưng chịu ảnh hưởng rất sớm và rất mạnh từ nền văn hóa Ấn Độ. Và cũng từ rất sớm, khoảng thế kỷ I-II sau công nguyên, người Chăm đã tạo dựng nên một vương quốc có nền văn hóa Chăm độc đáo và rực rỡ, gọi là vương quốc Chămpa (ta quen gọi là nước Chiêm Thành).
Quân đội của nước Chiêm Thành được duy trì khá mạnh và cũng khá thiện chiến, nhiều lần lấn Nam phá Bắc và vào thời cực thịnh, đã từng ngự trị một khu vực lãnh thổ khoảng từ Quảng Trị đến Bình Thuận. Dân tộc Chăm, cũng như dân tộc Việt, chắc chắn phải có một truyền thống võ thuật không kém phần tinh tế và đặc sắc. Những bức chạm khắc biểu hiện đầy tinh thần thượng võ còn lưu lại đã nói lên điều đó.
Đất Bình Định xưa, thời Trịnh - Nguyễn, thuộc tỉnh Quảng Nam. Chuyện kể rằng sau khi đánh tan quân Cảnh Thịnh, chiếm được thành Hoàng Đế, Nguyễn Ánh đặt tên lại là Bình Định.
Vùng tỉnh Bình Định ngày nay (với tỉnh lị là thành phố Qui Nhơn), vào thế kỷ X, khi Chiêm Thành cho xây thành Đồ Bàn và đặt kinh đô ở đây, trở nên sôi động như một trung tâm văn hóa - thương mại.
Năm 1471, vua Lê Thánh Tông thân dẫn binh đi chinh phạt Chiêm Thành, đánh chiếm được thành Đồ Bàn. Từ đó Chiêm Thành suy yếu hẳn. Tuy nhiên, vùng cảng Thị Nại (Qui Nhơn) vẫn là nơi giao thương nhộn nhịp. Đến thời Trịnh - Nguyễn, Bình Định trở thành một trong những vùng thuộc trung tâm kinh tế giàu có nhất Đàng Trong.
Thời Tây Sơn, Chiêm Thành chỉ còn là một cát cứ nhỏ hẹp mang tính hình thức (của Bà chúa Chăm?) mà ở phía Bắc, Bình Định được coi như vùng giáp ranh. Từ khi thuộc Đàng Trong dưới sự cai quản của chúa Nguyễn, nơi đây trở thành đích đến của dân tứ xứ, đủ hạng, kể cả đám lục lâm, hải tặc…
Theo các nhà nghiên cứu võ học, trước thế kỷ XVIII ở Bình Định đã có những môn phái võ hoạt động, nhưng chỉ tới khoảng những năm cuối của nửa đầu thế kỷ XVIII, hoạt động võ thuật ở đây mới bắt đầu trở nên sôi nổi và đặc biệt rầm rộ dưới trào Tây Sơn. Trong dòng người tìm đến định cư ở miền đất này, có một số võ sư nổi tiếng Bắc Hà và cả những võ sư danh tiếng từ Trung Quốc sang. Chẳng hạn như võ sư Trương Văn Hiến từ xứ Thanh Nghệ, mở lớp dạy võ ở An Thái (An Nhơn), đã là người đào tạo phần lớn những người chỉ huy nghĩa quân Tây Sơn. Chẳng hạn như võ sư Diệp Kim Tòng từ Phúc Kiến (Trung Quốc), võ sư Đinh Văn Nhưng (có cha là người Ninh Bình phiêu dạt đến Bằng Châu - An Nhơn) đều là những người đã từng dạy võ cho anh em Tây Sơn… Có thể nói là vào nửa sau thế kỷ XVIII, trong sự giao thoa giữa các võ phái đã tồn tại từ trước và du nhập đến, giữa võ Đại Việt, võ Tàu, võ Chăm…, và trước yêu cầu cấp bách phục vụ chiến đấu của khởi nghĩa Tây Sơn, tại đây đã kết tinh, hun đúc nên, làm xuất hiện dòng võ Tây Sơn rất đặc sắc, rất mạnh, với những đòn đánh hiểm hóc, thế đánh biến hóa thần kỳ, dứt điểm nhanh chóng.
Dưới triều Gia Long, võ Tây Sơn bị cấm, nhất là đối với các môn: kỳ (cờ), cổ (trống), kiếm, đao. Việc cấm kiếm, đao, nói chung là cấm các binh khí kim loại (và cấm luôn cả việc tàng trữ chúng) thì dễ hiểu rồi, thế còn sao phải cấm cả cờ, trống? Cấm cờ, trống là sợ gợi nhớ về Tây Sơn. Chúng ta biết dòng võ Tây Sơn có môn gọi là Võ trận, tập luyện đánh theo hiệu cờ và nhịp trống, rất hào hùng (ngày nay nếu ai đó chỉ cần nghe một bài trống nổi lên thôi đã thấy lòng thúc giục rồi, huống hồ…!!).
Tuy bị cấm nhưng võ Tây Sơn vẫn được lưu truyền ngấm ngầm trong lòng dân gian, phân tán vào các làng quê, được truyền thụ theo lối cha truyền con nối (gọi là võ gia truyền), ẩn dật trong các ngôi chùa. Thời kỳ này võ Tây Sơn vẫn được tiếp tục nghiên cứu, phát triển, làm xuất hiện những chi phái, và dòng võ Tây Sơn với những chi phái đó được gọi chung là võ Bình Định. Ngoài 18 môn binh khí truyền thống phương Đông, võ Bình Định còn có nhiều môn công cụ đặc dị, trong đó nổi tiếng nhất là quyền chiến và roi chiến. Hệ thống kỹ thuật chiến đấu này được hình thành từ thời Tây Sơn do yêu cầu phải huấn luyện cấp tốc cho nghĩa quân. Hai môn này không có những bài thảo như thường lệ mà bao gồm một số đòn thế được sắp xếp lại theo một ý đồ chiến thuật được gọi là đường quyền, đường roi, học một đường thì chỉ sử dụng được một đường, không cần phải thành thạo hết những kỹ thuật cơ bản. Do đòi hỏi của bản thân võ thuật cũng như yêu cầu phải triệt hạ nhanh đối phương trong chiếu đấu của một xã hội ở thời kỳ chiến tranh khốc liệt và loạn lạc, nhất là về sau này những môn võ sử dụng binh khí kim loại như đao, kiếm bị cấm ngặt, nên hai môn này đã có những bước phát triển vượt bậc. Nhiều đòn thế hiểm, độc xuất hiện, những kỹ thuật tấn công nhằm vào các yếu huyệt, quăng quật, khóa khớp, bẻ khớp, rút gân, nhất là điểm huyệt định giờ (đối phương khi bị trúng đòn sẽ chết trong khoảng thời gian do người đánh ấn định)… cũng được sáng tạo ra.
Do mức độ quá nguy hiểm của nó nên các võ sư trước đây rất thận trọng trong khi truyền thụ vì nếu kẻ vô đức, bạo liệt lĩnh hội được thì thật khó lường. Những tuyệt kỹ ghê gớm thuộc loại này, ngày nay đã bị thất truyền do tính sát thương hiểm độc cao độ của chúng.
Có một loại quyền pháp đặc dị của võ Bình Định gọi là Kê quyền (võ gà) tương truyền do Nguyễn Lữ sáng tạo ra khi quan sát các trận đá gà, mang nhiều nét phảng phất kiểu gà đá nhau bằng cựa, những cú mổ bằng mỏ vào nơi hiểm yếu, những cú quạt cánh… Một trong những đặc trưng của quyền chiến Bình Định là đòn đánh xoay. Những đòn đá xoay, đấm xoay phối hợp với thân pháp di chuyển theo kiểu làn sóng, thoạt cao thoạt thấp, từ trên ập xuống, từ dưới bật lên, thường làm cho môn đồ của những võ phái khác kinh ngạc vì bất ngờ.
Roi chiến Bình Định thật ra là một biến thể của côn pháp. Điểm khác biệt chính của roi và côn là đánh côn thiên về dụng lực, xả nhiều mà ít đâm, còn khi đánh bằng roi thì thiên về tốc độ, ít xả mà thường đâm nhiều bằng cả đầu roi và đốc roi. Thân roi có thể bằng mây hay những loại gỗ chắc và dai. Ở Bình Định, roi thường làm bằng một loại tre to cỡ cổ tay, mọc nhiều tại đây. Roi tre được bịt đồng ở hai đầu để chống dập. Người xưa thường chọn tre làm roi chiến vì có lợi là dễ kiếm, nhẹ nhưng chắc dẻo, khi đánh đụng vật cản thì có sức bật trở lại dễ biến đòn, dùng roi quá nặng hoặc cứng quá bị tốn lực do thiếu tính đàn hồi, khi đánh ra gây hiện tượng chìm đòn. Cây roi, chỉ cần gắn đầu nhọn vào sẽ trở thành giáo mác, lợi hại vô cùng. Có trường hợp người ta đào cả gốc tre, đóng đinh vào, sử dụng như trùy. Xưa kia, cá biệt, những người có thần lực, vác cả bắp cày đánh như roi, có thể làm bật cả bụi tre, sập cả nhà. Muốn sử dụng roi chiến thành thạo phải có thân pháp cực nhanh, đòn đánh ra phải như chớp giật, luyện tập công phu có thể dùng roi đâm xuyên bao cát.
Còn một đặc trưng nữa của võ Bình Định là phép dùng lực. Người Việt vốn nhỏ con, yếu sức mà trong giao chiến thường phải lấy nhỏ chống lớn, yếu địch mạnh, nên phương châm của võ Bình Định là mưu chước và sự lanh lẹ để bù đắp nhược điểm về thể trạng. Trong thực tế chiến đấu, võ Bình Định không dùng sức chọi sức mà nương theo đòn đánh của đối phương, tập trung sức mạnh đột kích vào những chỗ sơ hở, nhằm tạo thế đánh dứt điểm. Nếu như Thiếu Lâm võ phái chú trọng lấy động chế tĩnh, đòn thế cương mãnh; Võ Đang võ phái chú trọng lấy tĩnh chế động, đòn thế nhu nhuyễn, thì ở võ Bình Định lại chủ trương lấy động chế động, đòn thế phát ra theo lối nhu kình “cứng tối thiểu, mềm tối đa”, cơ bắp luôn thả lỏng, chỉ căng cứng chốc lát đúng lúc va chạm mục tiêu.
Trong võ Bình Định, cũng không thể thiếu rèn luyện khí công. Khi võ sinh đã đạt đến trình độ cao thì được truyền dạy môn khí công nhằm hoàn thiện thể chất và tinh thần, cũng như để đủ khả năng thi triển được những kỹ thuật đặc dị, siêu phàm.
Có một ý lóe lên trong đầu chúng ta thế này: ở con người Nguyễn Huệ, thiên tài quân sự là sự thăng hoa từ năng khiếu võ thuật bẩm sinh, cùng với bộ não tinh nhạy, thông sáng đã nhận ra được để rồi thấm nhuần được những giáo huấn trác tuyệt của truyền thống binh pháp dân tộc Việt, ẩn chứa tiềm tàng trong tư tưởng của nền võ học Đại Việt mà dòng Võ Tây Sơn và sau đó là Võ Bình Định kế thừa một cách xuất sắc và đầy sáng tạo.
Gắn liền với võ cổ truyền Bình Định là ba địa danh nổi tiếng: Thuận Truyền, An Thái, An Vinh qua câu: “Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh - An Thái”, hay “Trai An Thái, gái An Vinh” vẫn còn được lưu truyền đến ngày nay.
Thuận Truyền xưa thuộc Bình Khê trong phần đất Tây Sơn Hạ, là một bộ phận của đất võ Tây Sơn, lừng tiếng ở thế kỷ XVIII. Nay Thuận Truyền thuộc xã Bình Tây, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Là một làng nhỏ, song Thuận Truyền được nhiều người biết đến nhờ đường roi vang danh cả nước.
Đầu thế kỷ XIX, võ binh khí kim loại bị cấm ngặt, chỉ có thể sử dụng gậy hay còn gọi là côn (trường côn, đoản côn), nhưng để tránh hẳn phiền phức và cũng do cây tre dùng làm côn có đặc tính dẻo dai nên người Thuận Truyền gọi trại đi là roi, “ngọn roi”, để rồi tập trung trau chuốt kỹ thuật đến thượng thừa thành “roi Thuận Truyền” trong ngôn ngữ làng võ. Họ Hồ ở Thuận Truyền (có thể cũng là họ gốc của anh em nhà Tây Sơn?) đã cùng các họ khác trong vùng âm thầm rèn luyện ngọn roi gia truyền, mai danh ẩn tích suốt thế kỷ XIX. Sang thế kỷ XX, một nhân vật võ lâm lừng lẫy là Hồ Ngạnh với tài võ do chính bà mẹ truyền dạy cho từ khi còn nhỏ, được triều đình Huế mời về kinh đô dạy côn - quyền cho một số thanh niên hoàng tộc. Cùng thời với Hồ Ngạnh có Dư Đành cũng nổi tiếng khắp huyện Bình Khê với ngọn roi tuyệt vời. Nghe kể, lúc đầu Hồ Ngạnh đấu roi thua Dư Đành, sau về học thêm một thầy võ cũng họ Hồ trong vài năm, cuối cùng thắng Dư Đành và từ đó nổi tiếng khắp vùng Qui Nhơn. Khi Hồ Ngạnh đã là thầy võ hoàng gia, tại Huế có nhóm võ sĩ Sơn Đông (Trung Quốc) tới hành nghề mãi võ, trong đó có một võ sư thượng thặng về trường đao, cựu vô địch Sơn Đông (vùng nổi tiếng về võ nghệ của Trung Quốc) tên là Trịnh Hùng Trí. Do sự sắp xếp của hoàng gia, một cuộc thượng đài tranh tài cao thấp xảy ra. Hồ Ngạnh hai lần thay roi đều bị đao của Trịnh Hùng Trí phạt đứt, nhưng chính đó là đòn đánh gia truyền được gọi là “Trí hoặc”, nhờ đối phương vát hộ đầu ngọn roi thành nhọn như mũi giáo, để rồi chớp thời cơ, bằng thế võ “Ưng Trảo quyền”, Hồ Ngạnh đã đoạt được trường đao của Trịnh Hùng Trí, khẳng định: “Hồ Ngạnh danh bất hư truyền”.
Hồ Ngạnh được giới võ lâm tôn là “Tổ sư phái võ Thuận Truyền” và đầu thập niên 30, ông có mở võ đường để truyền dạy.
An Thái thuộc huyện An Nhơn, An Vinh thuộc huyện Tây Sơn. Tuy khác huyện nhưng cả hai đã gắn bó nhau trong môn võ quyền (võ tay không), tạo thành một trung tâm nổi tiếng của quyền Bình Định. An Thái từ giữa thế kỷ XVIII đã được biết đến với võ đường của võ sư Trương Văn Hiến. Ngay từ thời ấy, ở đây đã có sự gặp gỡ của ba dòng võ Việt - Hoa - Chăm để rồi kết tinh lại trong võ Tây Sơn.
Võ quyền An Vinh gắn bó với dòng họ Đinh mà tổ sư là Đinh Văn Nhưng, người gốc Bắc, đã từng dốc lòng võ học cho nhà Tây Sơn. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, tự xưng Gia Long và trả thù nhà Tây Sơn thì Đinh Văn Nhưng đã mất. Họ Đinh ở Bằng Chân (An Nhơn) phải đổi sang họ Đào để tránh nạn (đến khi chết lại trở về họ Đinh, “sinh Đào, tử Đinh”). Trước đó có một nhánh nhỏ đến Kim Tài (cũng thuộc An Nhơn) tạo nên một chi, và ở đây họ Đinh được giữ nguyên. Đinh hay Đào thì cả về dòng họ lẫn nghiệp võ đều cùng chung một vị tổ là Đinh Văn Nhưng.
Như đã nói, An Thái - An Vinh lúc đầu là một trung tâm thống nhất, nổi tiếng về quyền thuật Bình Định, cùng dựa trên một nền tảng võ học với những cái tên làm nên niềm tự hào của nó như: Đinh Khải (tức Đinh Cát), Năm Nghĩa (tức Hứa Nghĩa), Hương Mục Ngạc…, rồi vào những thập niên trước năm 1945 nổi lên những cái tên như: Hương Kiếm Mỹ (tức Đinh Hề), Bảy Lụt, Tám Cảng (nữ), Sáu Sanh (nữ)… Về sau, một võ sư là Tàu Sáu xây dựng được một môn phái riêng gọi là võ phái An Thái. Để rồi võ truyền thống của trung tâm được gọi để phân biệt là võ phái An Vinh (nơi hội tụ chủ yếu của võ phái?). Nhiều người tỏ ra tiếc nuối về sự phân ly này. Nhưng thiết nghĩ xu hướng phát triển (hay đúng hơn là vận động) của bất cứ nền võ học nào cũng phải vậy: hội tụ để phân tán, phân tán để lại hội tụ. An Vinh hay An Thái thì cũng là Bình Định và sự phân kỳ ấy có lẽ mang lại lợi nhiều hơn hại cho võ Bình Định đang trên đà tàn lụi, thất truyền.
Tàu Sáu có tên thật là Diệp Trường Phát (1896-1962), sinh tại làng An Thái, có cha là người gốc Hoa. Năm 13 tuổi, Tàu Sáu về quê nội ở Trung Quốc học võ 10 năm, rồi sang Hồng Công học thêm 5 năm nữa. Có thể trước khi sang Trung Quốc, Tàu Sáu đã từng học võ Bình Định và đã tiếp thu được ở mức độ nhất định, có tính chất khai mở. Năm 1924, ông trở về An Thái mở trường dạy võ. Tàu Sáu đã tiếp thu, chọn lọc tinh hoa võ thuật lâu đời của cả vùng rộng lớn An Thái, An Vinh, Thuận Truyền, Kiến Mỹ, Cảnh Nàng, Vân Sơn, Háo Lệ, Vân Quang (Nước Mẫu), Hữu Pháp, Kỳ Sơn… (có cùng gốc gác là võ Tây Sơn trước đây) và trên cơ sở võ học truyền thống đó, đã phối chế với tinh hoa võ học Trung Hoa cũng như của các nước láng giềng, với quyền cước của cả ba miền Việt Nam, cải tiến, tổng hợp, tạo nên võ phái An Thái. Nghe đâu, Tàu Sáu từng tự xưng là ông tổ của võ thuật Bình Định chân truyền. Nếu có thế thì kể cũng hơi quá. Khi võ sư Tàu Sáu mất, con là võ sư Diệp Bảo Sanh lên kế vị, làm Chưởng môn. Lúc này võ phái An Thái có thêm danh xưng là Bình Thái Đạo, võ đường có tên hiệu là Tây Sơn võ đường Bình Thái Đạo.
Khi An Thái tách ra, phá vỡ tính thống nhất của trung tâm quyền An Thái - An Vinh thì gia phái họ Đinh càng trở thành võ phái An Vinh độc lập, tiếp tục lưu truyền nhiều nơi ở vùng Qui Nhơn - Bình Định. Đinh Văn Tuấn (tức Bốn Trân) sinh ra và lớn lên ngay tại An Vinh, là học trò của cả ba thầy võ ở Bình Định là Hương Kiểm Mỹ (An Vinh), Ấm Hổ tức Sáu Hổ (An Thái) và Hồ Ngạnh (Thuận Truyền) nên đã tiếp nhận được tinh hoa của cả quyền và roi, am tường khá rộng về võ Bình Định cổ truyền và cũng đã mở võ đường để tận tâm truyền bá cho thế hệ sau. Võ sư Bảy Tòng (tức Từ Tâm), quê gốc An Thái, song đã tìm sang đất quyền An Vinh định cư, học võ thầy Sáu Hà, tiếp nhận một vốn võ Võ Bình Định cổ ở ngay tại đây. Ông cho biết: quyền An Vinh là lối đánh chậm nhưng kín và chắc đòn, biết nhu - cương đúng lúc, đúng chỗ, lại có những né tránh, phản đòn rất lợi hại, tiêu biểu là “thế dồn”. Trong võ quyền An Vinh còn phải kể gia phái võ sư Mười Đậu ở Trường Úc (Tuy Phước), võ sư Mười Đậu là bạn võ của Hương Mục Ngạc và Năm Nghĩa, đã truyền dạy cho Xã Hào (tên thật là Trần Trọng). Xã Hào cũng là một võ sư nổi tiếng ở vùng Tuy Phước những thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Ông lập võ đường khoảng đầu thập kỷ 30, đặc biệt chú trọng đến việc truyền dạy đạo đức con nhà võ.
Rất có thể võ phái An Thái “cương” hơn nên phù hợp với nam giới hơn, võ phái An Vinh vì đậm nét truyền thống hơn nên “nhu mì” hơn, hợp với nữ giới hơn. Đó phải chăng cũng là một nguyên nhân và có khi là nguyên nhân chủ yếu để làm xuất hiện trong dân gian câu lưu truyền: “Trai An Thái, gái An Vinh”?
Như vậy, võ Thuận Truyền đi sâu và nổi trội ở “múa roi”, võ An Vinh - An Thái đi sâu và nổi trội ở “đi quyền”. Nhưng quyền chiến, roi chiến đều gắn bó thống nhất trong nội dung võ Bình Định cổ truyền với câu đúc kết “Quyền tay đấu, roi đấu”. Tiêu biểu cho đặc sắc về roi là võ sư Hồ Ngạnh, tiêu biểu cho đặc sắc về quyền là võ sư Hương Kiểm Mỹ. Sự đặc sắc của hai môn này là có những nét riêng mà làng võ Bình Định đã tổng kết rất cô đọng, đúng “khẩu khí” truyền thống của dân gian. Chẳng hạn: “Roi tiên, quyền tiếp”, hay “Roi tiên, quyền liếp”. “Roi tiên” là người cầm roi vào trận đấu phải chủ động ra đòn trước để chiếm trên cơ, dồn đối phương vào thế đối phó, bị động. “Quyền tiếp” là khi đấu quyền thì đòn thế phải ra liên tục, không dứt, chỉ dừng lại khi thắng bại đã phân. Còn “quyền liếp” là người đi quyền phải dựa theo thế đánh của đối phương mà liệu tìm thế đánh lại sao cho hợp lý nhất. Tuy roi, quyền là hai môn võ đặc thù, khác nhau về kỹ thuật, nhưng đều phải tuân theo nguyên tắc chung là công thủ đi liền, đối với bộ tấn thì “túc bất ly địa” (chân không rời đất) hay “Đi như lá, đứng như đá” (nghĩa là khi đứng thì phải vững như bàn thạch, khi di chuyển thì phải gọn gàng, nhẹ nhàng, nhanh chóng). Cả quyền và roi đều đòi hỏi phải rèn luyện thể lực, sự phản ứng nhanh nhạy trong phân thế chiến đấu và tinh thông kỹ thuật, nghĩa là: “Nhất mạnh, nhì lanh, ba giỏi”.
Còn một bộ phận nữa của võ cổ truyền Bình Định, vẫn âm thầm lưu chảy qua thời gian dưới triều Nguyễn đến tận ngày nay mà chúng ta không thể không nhắc đến, đó là, như nhân gian thường gọi: Võ nhà chùa, hay Võ chùa. Võ chùa Bình Định vừa mang nét riêng của một vùng đất võ, vừa có nét chung của truyền thống võ Đại Việt. Trong võ chùa Bình Định, nếu tinh ý sẽ thấy còn đọng lại nhiều nét thời ban sơ hình thành nên dòng võ Tây Sơn, cũng như sẽ phảng phất hình bóng xa xưa của võ Đại Việt. Đối với những ai muốn quan tâm tìm hiểu lịch sử của truyền thống võ học nước nhà thì đối tượng nghiên cứu đem lại nhiều bất ngờ lý thú nhất, theo chúng ta, đó là Võ chùa.
***
Hệ thống kinh sử và chùa chiền thường vẫn lưu giữ được những vết tích cổ xưa một cách lâu dài và “chân truyền” đó là nói chung, như chúng ta đã từng đề cập, có lẽ là huyền sử về nguồn gốc, về sự mở đầu của bất cứ dân tộc nào, bất cứ tôn giáo nào, do bị “nhiễm” tình cảm ưu ái (rất dễ thương thôi!), muốn đề cao dân tộc mình, tôn giáo mình của những nhà xây dựng nên huyền sử ấy, bao giờ cũng được “ưu tiên chiếm thế thượng phong”, và thời gian xảy ra các sự kiện thường dễ bị “đẩy” xa hơn một chút(!) về hướng “cổ hơn”, “lấy của người làm của mình” dù có thể chỉ là vô tình. Truyền thuyết hay những điển tích Phật giáo cũng không thể ngoại lệ. Dù sao thì nhiều khi do tính duy nhất của tư liệu lịch sử, chúng ta vẫn phải sử dụng vì không còn cách nào khác. Tốt thôi! Chỉ có điều cần nói là nên dè dặt, nghĩa là đừng quá cả tin như Quan Vân Trường mà cũng đừng quá đa nghi như Tào Tháo!
Theo Phật sử thì Phật giáo truyền vào nước ta từ rất sớm. Vào khoảng thế kỷ III TCN, vua Asoka (273-286 TCN), vị anh hùng đã thống trị toàn bộ Ấn Độ và đồng thời rất sùng đạo Phật đã phái những đoàn truyền giáo Ấn Độ đến Miến Điện, Thái Lan và Việt Nam. Sách “Thủy kinh chú” nói rằng: vua Asoka đã cho xây dựng một ngôi Phật tháp (Stupa) tại thành Nê Lê (thuộc Đồ Sơn - Hải Phòng) của nước ta. Theo “Lĩnh Nam chích quái” thì dưới thời Hùng Vương thứ 18, Chử Đồng Tử đã theo khách buôn nước ngoài ra đảo Quỳnh Viên học đạo Phật của một nhà sư Ấn Độ và khi về còn được trao cho một cây gậy cùng một chiếc nón lá có thể làm phép gây mưa. Câu chuyện này làm chúng ta có cảm giác nhà sư Ấn Độ nọ mang hình bóng của nhà truyền Đạo Giáo hơn là Đạo Phật. Có một câu hỏi đặt ra: tại sao các đoàn truyền giáo đó không “tiện thể ghé vào” lãnh thổ của dân tộc Chăm để truyền thụ Phật Giáo ở đó luôn? Vì sao Phật Giáo lại chừa khu vực đó ra cho Đạo Bà la môn “chiếm chỗ”? Đạo Bà la môn xâm nhập vào dân tộc Chăm lúc nào? Tại sao Đạo Bà la môn lại không xâm nhập được vào Bắc - Việt Nam, hoặc nếu có xâm nhập vào thì cũng mờ nhạt, không “thịnh” lên được? Theo chính sử thì đầu Công Nguyên, đạo Bà la môn đã đến với cư dân Phù Nam và cư dân Chămpa trên đất nước ta. Sau này, thông qua con đường Chămpa, đạo Bà la môn đã ảnh hưởng đến vùng đất Đại Việt: nhiều vua Lý cho làm chùa để thờ các tượng thần Phạm Vương và Đế Thích. Các Gatuda, Nandin và Apsara được điêu khắc và trang trí trong một số công trình kiến trúc thời Lý. Lẽ nào đạo Bà la môn đến vùng Bắc bộ - Việt Nam sau khi đạo Phật đã phổ biến ở đây, để chỉ tạo được vài dấu ấn trong kiến trúc thời Lý, rồi lại “ra đi”? Hay Bà la môn đến trước đạo Phật từ lâu và sự xuất hiện của đạo Phật đã làm nó suy vi và đến thời Lý chỉ còn là sự hửng lên cuối cùng của ngọn lửa leo lét trước khi phụt tắt?
Thế còn Đạo Giáo xuất hiện sớm nhất ở nước ta vào thời kỳ Văn Lang hay sau Công Nguyên, trước hay sau Phật Giáo, trước hay sau Bà la môn? Vì sao những nhà sư đầu tiên đặt chân lên mảnh đất này truyền giáo phải thi triển nhiều phép lạ để mê hoặc, thu phục nhân tâm? Phải chăng là để “cạnh tranh” với những đạo sĩ của Đạo Giáo đã có mặt từ trước? Có một lạ lùng là Phật Giáo và Đạo Giáo, trong dân gian nước ta hình như đã hòa quyện làm một vào thời kỳ đầu: đạo sĩ cũng có thể là cao tăng và nhiều cao tăng “kiêm luôn” cả vai trò đạo sĩ. Ngày thơ ấu, chính thế hệ chúng ta, khi nghe những câu chuyện cổ tích, thần thoại đều không thể phân biệt được đâu là cõi Bồng Lai, đâu là cõi Niết Bàn và đều cho rằng Bụt (đại diện cho Phật Giáo) và Tiên (đại diện cho Đạo Giáo) là hai nhân vật của cùng một thế giới. Mà hình như chuyện thần tiên, hóa phép… vẫn là những câu chuyện hay nhất (ở hầu hết các dân tộc trên thế giới) và đều răn dạy con người: ở hiền gặp lành, trời không phụ người nghèo khó…
Câu hỏi cuối cùng: tại sao vua Asôka chỉ quan tâm đến việc truyền Đạo Phật vào vùng Đông nam Á và có thể là cả Đông bắc Á mà sao không quan tâm tới những vùng khác cũng rất “gần” Ấn Độ, chẳng hạn như Pakistan, Iran, Ả Rập…, hay đã cố truyền mà dân những xứ đó không “thụ” được?
Lịch sử tôn giáo phương Đông và sự lan truyền của nó quả là mập mờ!
Lặn hụp mệt phờ trong khối mập mờ đó, trong bộ não hoang tưởng hết sức phong phú và đa tạp của chúng ta bỗng lóe lên một ý nghĩ nổi da gà: phải chăng quá trình truyền đạo vào khu vực Bắc Bộ - Việt Nam trong giai đoạn trước - sau Công Nguyên chừng 200-300 năm là quá trình quay trở về nguồn cội, về nơi đã tạo tiền đề tư tưởng cho những giáo phái đó phát sinh, mà “dư luận” đương thời đều “sùng bái” như thế? Lúc đầu là Bà la môn Giáo, kế đến là Phật Giáo, lần lượt đến như về một thánh địa hoặc cũng có thể chỉ là Phật Giáo đến nơi đã có sẵn một tín ngưỡng mà cốt lõi của nó là đa thần, tự do, hồn nhiên, làm cơ sở cho Bà la môn Giáo và Đạo Giáo. “Gan cùng mình” mới có thể suy luận liều mạng như thế! Nhưng, biết đâu đấy!
Qua những nhận xét của các nhà khảo cổ học, chúng ta thấy rằng xã hội (?) tối cổ trên đất nước ta đã đạt được những thành tựu lớn lao để có được nền văn hóa Hòa Bình, một nền văn hóa có thể là rực rỡ hơn chúng ta thấy rất nhiều, nếu tất cả những hiện vật của thời đó, (giả dụ như đồ gỗ, đồ đất sét chưa nung hoặc nung chưa “đủ lửa” để thành đồ gốm…) tồn tại nguyên vẹn qua thời gian đến ngày nay.
Chỉ qua những vật dụng với số lượng tất nhiên là hạn chế, phát hiện được nhờ khảo cổ, người ta đã có những lời nhận xét về trình độ nhận thức của con người ở thời kỳ tối sử này, rằng: đã có những nhận thức khá sâu sắc về thế giới tự nhiên, về qui luật sinh trưởng của thực vật; đã xuất hiện quan niệm về sự tồn tại của linh hồn, tư duy về tín ngưỡng vật tổ, tín ngưỡng nông nghiệp, tư duy về mĩ cảm, về hình học, về chữ viết, về số đếm, về thiên văn, về lịch pháp, các loại hình nghệ thuật như hội họa, điêu khắc cũng đã được biết đến; đã nhận ra sự biến động có tính tuần hoàn của thiên nhiên, tính phân lập, đối xứng của các sự vật hiện tượng, tư duy về sự hiện diện cũng như sự trôi của thời gian, về vũ trụ.
Vậy thì với trình độ về vật chất và tinh thần như trước đây đã nói và vừa nói đó, văn hóa Hòa Bình so với các trình độ văn hóa ở những vùng lãnh thổ láng giềng và cả trên thế giới, lúc đương thời đã có thể được gọi là một nền văn minh đích thực chưa? Phải chăng, vùng đất xuất hiện văn hóa Hòa Bình, do có những điều kiện thiên nhiên thuận lợi như khí hậu, thổ nhưỡng… đã là nơi quần tụ dân cư từ rất sớm và vì đã từng ở rất gần Địa Đàng nên so với những khu vực khác, đã là nơi tiếp thu sớm nhất, nhiều “điều tốt lành” nhất từ nền văn minh Địa Đàng, thậm chí đó là nơi tiếp tục lan tỏa ra thế giới nền văn minh Địa Đàng sau khi thời đại Địa Đàng đã đột ngột kết thúc, nghĩa là nhiều khu vực tiền văn minh cổ đại đã hấp thụ không ít nét về tinh thần và vật chất của văn minh Địa Đàng một cách gián tiếp thông qua văn hóa Hòa Bình? Chính nền văn hóa Hòa Bình, cùng với những nền văn hóa kế thừa sau đó, có tính chuyển tiếp đã làm nên nền văn hóa Phùng Nguyên và tiếp theo là văn hóa Đông Sơn…, và cũng với những nền văn hóa đó đã xây dựng nên một quan niệm tươi tắn, hồn nhiên, khoáng đạt, đậm tính phồn thực về thế giới đa thần, có phân có hợp, tuần hoàn biến đổi không ngừng. Có thể rằng trước khi Kinh Dương Vương có mặt tại khu vực Bắc Bộ - Việt Nam, nơi đây đã có một nền văn hóa bản thổ với những nhận thức có tính mầm mống về một thế giới lưỡng phân lưỡng hợp, tam phân tam hợp để rồi sau đó làm hình thành nên một quan niệm chính thống hết sức tài tình về Tự Nhiên. Tục thờ những bộ phận sinh dục nam, nữ, coi chúng là những vật linh Linga (dương vật), Yoni (âm vật), cũng như tính phân hợp nhưng thống nhất Lưỡng Nghi, Âm - Dương tương phản mà tương đồng rất có thể đều xuất phát từ quan niệm này…
Sự suy tưởng thiếu chứng thực có thể đúng mà cũng có thể sai. Mặc lòng! Vì chúng ta biết rằng bản thân đã cố gắng đạt đến lương tri cao nhất có thể, đã cố gắng đạt đến trình bày khách quan nhất trong thế giới chủ quan của mình. Với một núi bằng chứng “rõ như ban bày”, được sử dụng bởi một quan niệm thiên kiến, “tối như mực” thì cũng phỏng đã hơn gì?
Nhưng có một chắc chắn: trước khi có sự xâm nhập của Phật Giáo, Đạo Giáo, Bà la môn Giáo, tổ tiên dân tộc Việt đã có sẵn một… “Giáo”: một nền văn hóa, một tín ngưỡng, một trình độ võ học - khí công hoàn toàn độc lập và đặc sắc, có tính truyền thống, có gốc rễ lâu đời, tại chỗ. Và có một lạ thường: Bà la môn, Phật, Đạo, sau này là Nho khi xâm nhập vào Tổ Quốc Văn Lang đã không những không bài trừ gay gắt nhau, mà còn nương nhau, học hỏi nhau, và hòa hợp cùng tín ngưỡng dân gian tại chỗ, tất cả những Tổ, Tiên, Bụt, Thần, Thánh đều vui vẻ bên nhau trong cùng một thế giới. Hình như đó có vẻ như là một sự hội ngộ, tương phùng cuả những tư tưởng dù cũ dù mới, dù đã có nhiều sai biệt, nhưng đều có chung một gốc sâu xa. Cốt lõi của những tư tưởng ấy, xét về nhận thức tự nhiên, là trong sáng, phù hợp cho việc giải thích những sự vật - hiện tượng thiên nhiên, xét về nhận thức xã hội, là nhân hậu, bao dung, giản dị, dân dã, thỏa mãn ước vọng Đại chúng, mà Phật Giáo, trong thời đại cực thịnh của nó, đã đóng vai trò đại diện một cách xứng đáng. Sự trường tồn và tiếp tục phát triển trong dân dã của Phật Giáo, cũng như của vài tôn giáo khác trên thế giới không phải vì nguyên nhân là tốt đẹp. (Phật Giáo không thể giữ chính quyền được vì tính quá “hiền như ngu” của nó, Chủ Nghĩa Xã Hội không “sống” hồn nhiên và bền như Đạo Phật trong lòng dân dã được vì tính “dữ như ác” của nó. Chủ Nghĩa Xã Hội sẽ không được “thờ phụng” nếu không có sự bênh vực của chính quyền, dù khẩu hiệu mà nó dương ra là tốt đẹp, dù nó cũng muốn điều tốt đẹp cho Đại Chúng giống như Đạo Phật!)…
Đạo Phật đã là như thế nên không ai “nỡ” và “dám” tàn phá nhà Phật, trừ thằng điên, hôn quân bạo chúa và trừ… Ngô Đình Diệm. Vì lẽ đó mà chúng ta cho rằng trong cõi nhà Phật ở Việt Nam còn tiềm ẩn rất nhiều sự thật thời cổ xưa, trong đó có võ học Đại Việt, một nền võ học vừa mang tính riêng của dân tộc Việt, vừa mang tính chung của võ học Đông Á, được hun đúc nên từ kế thừa có chắt lọc vốn cũ, học hỏi lựa chọn các nền võ học láng giềng, đồng thời với nghiền ngẫm sáng tạo thêm.
Đọc lại những truyền thuyết, huyền tích trong các sách “Lĩnh Nam chích quái”, “Việt điện u linh”, “Nam Hải dị nhân”… ai cũng biết rằng trước cả thời tiền Lý, ở nước ta đã xuất hiện hiện tượng nhiều nhà sư cũng đồng thời là võ sư thượng thặng, nhiều đạo sĩ đồng thời là những nhà có công phu cao siêu. Điều đó cho thấy có khả năng từ rất xa xưa, trong một số điện, chùa nước ta đã có hiện tượng tương tự như chùa Thiếu Lâm sau này: bên cạnh việc truyền thụ Phật pháp, tu hành, còn có truyền thụ võ nghệ (gồm võ thuật, y võ, khí công). Sự truyền thụ võ học trong nhà chùa từ đó được lưu truyền âm thầm tạo nên một mạch võ cho đên nay gọi là Võ Chùa.
Theo lời kể của Mai Văn Muôn thì ngày nay, trong bầu không khí xã hội có nhiều cởi mở, người ta dễ dàng nhận thấy tại miền đất võ Bình Định có một số chùa vẫn thường xuyên dạy võ bởi các thầy dạy là các hòa thượng, thượng tọa. Chẳng hạn như thượng tọa Thích Huyền Ấn ở Qui Nhơn (viên tịch năm 1989) rất giỏi võ, có giao du rộng với các võ sư ngoài đời cũng như trong giới, trong đó có võ sư là nhà sư trụ trì đời thứ 38 của một ngôi chùa cổ thuộc phái Tiểu Thừa (thường tiến hành dạy võ sinh và võ đạo trước khi dạy võ nghệ).
Đặc biệt ở huyện Tuy Phước có chùa Long Phước là một nơi của một phái võ chùa đặc sắc, mới đây còn do thầy Thích Hạnh Hòa và sư Vạn Thanh đảm nhận việc dạy võ các môn sinh, tạo ra lực lượng võ sĩ, võ sinh nòng cốt của huyện trong những cuộc tổ chức biểu diễn và thi đấu ở cấp tỉnh và khu vực. Trong khuôn viên nhà chùa, thường xuyên có hàng chục thanh thiếu niên tập luyện những môn võ nghệ cổ xưa. Ngoài việc dạy hai môn võ cổ truyền đặc sắc của Bình Định là quyền và roi, nhà chùa còn dạy một số môn võ binh khí như thương, kiếm, đạo… với những bài song đấu lạ lẫm như: Sa Vân Kiếm Pháp, Đằng Vân Sát Kiếm, Xích Kiếm Ô Long Tiên, Uất Linh Tiên, Tây Qui Kim Môn Tiên. Hai nhà sư - thầy võ Hạnh Hòa và Vạn Thạnh biểu diễn các bài kiếm, đao, thương của võ chùa, trông uy mãnh đến là lạ thường! Có những bài múa võ có lẽ chỉ ở đây mới có (?) như: các bài thương tương truyền là của Trần Quốc Tuấn, có bài Hàn Kiếp Trùng Dương, bài Lữ Đáo Thương (hay còn gọi Đông Địa Chung Thương) của Trần Quốc Toản, các bài đại đao của Lý Thường Kiệt, các bài kiếm có nét đao bên trong, các bài võ của Phạm Ngũ Lão tập luyện trên những gò cao… Sư thầy Thích Hạnh Hòa cho biết: võ nhà chùa đang lưu truyền tại nhà chùa là rút từ pho binh thư “Lục tướng tằng vương, Phổ minh binh thư chiêu pháp” do tổ Hư Minh sáng lập từ mất trăm năm trước.
Ngoài việc dạy các môn võ nghệ, chùa Long Phước còn có những qui pháp từ lâu đời, rất gần dân dã mà cụ thể là đòi hỏi môn sinh phải thực hành được 5 điều:
-         Hiếu hạnh với cha mẹ
-         Ân tình và trọng nghĩa
-         Không bất nhã với người trên, phải tôn sư trọng đạo
-         Khiêm tốn, không tham lam, không lộ tướng oai hùng
-         Không được đem lòng hiểm độc
Ngược lại với  điều trên là 5 điều cấm kỵ nữa.
Huyên thuyên, liến thoắng về đề tài “võ nghệ” đến đây có lẽ cũng tạm gọi là ổn. Nhưng trước khi kết thúc, chúng ta nên kể thêm vài ba giai thoại của làng võ nữa cho đủ vẻ, xôm tụ hơn:
- Chuyện thứ nhất
Trong khoảng thời gian lập căn cứ địa chống Pháp ở Đồng Tháp Mười, có lần trong một buổi nhậu vui vẻ với thuộc hạ, mọi người nài nỉ Thiên Hộ Dương biểu diễn tài nghệ võ học. Thiên Hộ Dương hứng khởi bèn cởi áo ra, cầm roi múa. Lúc đầu còn thấy bóng người, sau chỉ nghe tiếng gió vù vù và bóng cây roi che phủ kín người ông Thiên Hộ suốt nửa tiếng đồng hồ. Ông tới lui giáp vòng sân, rồi tiến vào giữa sân, nhảy lên một gò cao cả thước gần đó mới đột ngột ngừng roi. Tiếng vun vút đến ghê người phát ra từ ngọn roi lúc đó mới chấm dứt.
Mọi người vỗ tay rần rần, khen ngợi hết lời. Ông Thiên Hộ nói với họ rằng đó là đường roi song đôi, dùng khi bị lọt vào giữa vòng vây để “thượng bảo kỳ nhân, hạ bảo kỳ mã” (trên thì bảo vệ mình, dưới thì che đỡ cho ngựa). Rồi ông nói với ba thủ hạ giỏi võ của mình là Thủ Chiếu, Nhiêu Chấn và Thông Phụng:
- Nếu muốn biết sự lợi hại của đường roi song đôi, tôi sẽ cưỡi trâu từ dưới kinh lên, chấp ba ông ở trên bờ ra roi đánh cản, tôi sẽ đội roi đi qua cho coi.
Dưới ánh trăng soi mờ mờ, Thiên Hộ Dương cầm roi, cưỡi trâu ra bờ kênh thúc nó lao ùm xuống nước. Ba ông kia trên bờ cũng cởi áo ra, cầm roi thủ sẵn. Thiên Hộ Dương kẹp hai dây vào hàm trâu quấn vào hai ngón chân cái rồi thúc trâu xông lên bờ. Cả ba ông Chiếu, Chấn, Phụng nhất tề ra roi tấn công tới tấp. Đêm đang thanh vắng bỗng dội lên tiếng va chạm rốp rốp liên hồi của gậy gộc xen lẫn với tiếng nước ào ào làm nhiều nghĩa quân thức giấc, tưởng có chuyện, cầm binh khí chạy ra bờ kênh. Đến đó họ thấy các vị thủ lĩnh của mình đang trổ tài cao thấp với những đường roi ào ạt đẹp mắt nên thích thú quá, đứng xem luôn.
Đột nhiên ông Chiếu tung ra một đường roi liên hoàn ba đòn làm Thiên Hộ Dương phải thúc trâu lùi lại và khen:
- Đòn đó khá lắm!
Khen xong rồi ông cười, lại thúc trâu tiến lên. Đoán chừng ba ông kia đã thấm mệt, ông ra đòn tuyệt kĩ. Thấy trâu xông lên dũng mãnh, hai ông Chấn, Phụng ra sức đấu roi với ông Thiên Hộ, kêu ông Chiếu tìm cách đánh vào giò trâu cho ngã. Những đường roi đầy uy lực của Thiên Hộ Dương càng lúc càng linh động, biến ảo lạ thường. Cuối cùng, sau khi vừa đánh gạt roi ông Phụng, ông Chấn, ông Thiên Hộ nhứ tới như ra đòn công làm hai ông này dạt ra. Nhưng chủ tâm của ông Thiên Hộ là dùng thế hồi, đót roi dọa ông Chiếu làm ông Chiếu vội thu roi lại không dám đánh vào giò trâu. Thừa lúc ông Chiếu thu roi còn lỡ bộ, nhanh như chớp, ông Thiên Hộ ra tiếp một đòn, đánh văng roi ông Chiếu ra xa đến hơn 10 thước rồi cũng nhanh như chớp chuyển roi sang đòn đỡ hai đòn của ông Chấn và ông Phụng rồi đánh dấn tới, đồng thời thúc mạnh cho trâu vọt lên bờ.
Ông Chấn, ông Phụng thấy vậy, thu roi trở lại, nhảy lui. Mọi người đứng xem vỗ tay rần rần bái phục ông Thiên Hộ Dương. Ba ông Chấn, Phụng, Chiếu lắc đầu, le lưỡi. Một người nói với ông Thiên Hộ:
- Ngài quả là bậc kỳ tài trong thiên hạ!
- Chuyện thứ hai:
Tám Cảng (em gái của Hương Mục Mạc) có võ nghệ cao cường mà hồi trẻ cũng rất xinh gái. Tám Cảng nói với cha là chỉ chịu lấy người có võ nghệ hơn mình. Nhiều chàng trai đã đến thử sức võ nghệ kén chồng của chị đều thua. Có một anh chàng tên là Dư Hựu đã đến xin đấu, mấy lần bị Tám Cảng đạp nhào vô bể cá. Dư Hựu về tầm sư học thêm vài năm rồi quay lại đấu nữa. Lần này anh ta tóm chân được Tám Cảng ném luôn vô bể cá, trả được món nợ năm xưa. Và cũng từ đó hai người thuận tình nên vợ nên chồng. Tám Cảng tính bướng bỉnh lại hay nói châm chọc nên họ thường hay cãi nhau. Tuy vậy họ cũng chung sống yên ổn với nhau được 3 năm. Lần nọ Dư Hựu nổi nóng, lại coi bị chọc ngang làm cho điên tiết, chụp luôn cái chén ném vào mặt Tám Cảng. Tám Cảng chụp được, bỏ xuống chiếu nói tửng: “Cái chén sứ này mà vỡ thì cũng uổng”. Anh chàng chụp tiếp cái chày tiêu quăng vào đầu chị chàng. Chị cũng chụp bắt được, đặt xuống chiếu, lại nói: “Cái đầu mà lầm là cái cối tiêu thì có lẽ đã hóa quáng”. Không kiềm nổi nữa, Dư Hựu rút luôn con dao phay phóng vào ngực Tám Cảng. Chị ta ngửa người ra tránh được lưỡi dao. Dư Hựu vùng bỏ chạy về nhà cha vợ, chắp tay lạy, kể đầu đuôi câu chuyện rồi xin cho vợ chồng được ly dị vì sợ với tính khí của vợ như thế có ngày rồi anh cũng sẽ gây án mạng. Sau khi ly dị, Tám Cảng bỏ nhà, lưu lạc giang hồ.
- Chuyện thứ ba:
Võ sư Hồ Ngạnh có một đứa con trai mà ông hết lòng dạy võ cho anh ta từ tấm bé lớn lên, người con trai đó giỏi võ vô cùng, đấu với ai cũng thắng. Dù thế, anh ta vẫn chưa thỏa mãn vì nghĩ rằng thân phụ chưa truyền hết nghề cho. Ngày xưa thầy dạy võ cũng hay giữ lại một vài thế võ hiểm phòng học trò trở mặt, làm phản. Nghĩ vậy nhưng anh con trai không dám hỏi. Một đêm kia, Hồ Ngạnh đang ngủ bỗng nghe có tiếng tháo cổng chuồng bò. Nghĩ có kẻ trộm, ông choàng dậy, đi ra, vừa tới chuồng bò, ông đã bị một kẻ bịt mặt tấn công tới tấp bằng toàn những đòn hiểm. Túng cùng, Hồ Ngạnh đành sử dụng miếng võ phòng thân. Quả nhiên, tên kia trúng đòn gục xuống. Ông lột khăn bịt mặt của nó ra thì thấy chính là con trai ông. Hồ Ngạnh thở dài, bảo người nhà: “Có gì ngon cho nó ăn, ba ngày nữa nó chết”. Đúng thật, ba ngày sau, người con trai xấu số đó qua đời.
- Chuyện thứ tư:
Một người học trò cũng nghi ngờ thầy mình còn giấu đòn độc, bữa nọ cầm cây rựa ra đón đường thầy, bảo: “Nếu thầy không chỉ, tôi chém thầy thành hai khúc”. Ông thầy thật sự đã tận tình dạy hết, chẳng còn ngón đòn nào nữa, nhưng dù có nói thế nào thì người học trò cũng không tin. Lúc này trong tay ông thầy chỉ có cái gậy, trong khi người học trò võ nghệ cũng chẳng kém gì ông, đang sức trai, lại đang cầm cây rựa bén, thật thất thế vô cùng. Biết phân trần nữa cũng vô ích, ông thầy chống cây gậy xuống đất, bảo người học trò: “Được rồi! Nhưng trước tiên, mày ôn luyện võ nghệ tới đâu, có chém đứt nổi cây gậy này không?”. Anh học trò lập tức vung rựa phạt đứt phăng cây gậy. Lưỡi rựa vừa lướt qua, với khúc gậy còn lại trong tay mà đầu đã được phạt nhọn, nhanh như cắt, ông thầy đâm ngay vào cổ họng người học trò, kết liễu đời một kẻ phản sư.
- Chuyện thứ năm:
Võ sư Trương Thanh Đăng, trưởng môn phái Sa Long Cương. Nhân khi một môn sinh đi côn hay đụng vào ghế, vào máng xối nơi võ đường, sư trưởng giảng giải: phải đi cho gọn vì trong thực tế chiến đấu, có thể phải hành động trong đường hẻm, trong hành lang chật hẹp hoặc nơi rậm rạp. Rồi ông kể:
Một võ sư rất giỏi côn. Một đêm, nghe có tiếng kẻ trộm khoét vách, ông ta xách côn chạy ra ngoài nhà, len lén đến chỗ tên trộm đang lom khom đào, giơ côn lên đập xuống một cái bằng trời giáng. Rủi thay, vì vườn nhà có nhiều cây ăn trái nên cây côn của ông võ sư bị vướng một cành ổi, không xuống tới người ăn trộm. Tên trộm giật mình, sẵn cây xà beng, thúc ngược lên. Ông võ sư trúng đòn, lăn ra chết.
- Chuyện thứ sáu:
Do nhu cầu cấp thiết về võ tướng nên vào năm Đinh Mão (1851), vua triều Nguyễn đã chỉ dụ mở những cuộc thi võ để tuyển nhân tài. Thời ấy, cả nước có 4 trường thi võ mở ở 4 khu vực là Hà Nội, Thanh Hóa, Huế và Bình Định. Trường thi võ Bình Định nằm ở phía tây - nam thành Hoàng Đế cũ, thuộc xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn. Thi tiến sĩ võ cũng theo qui chế từ thấp lên cao như thi tiến sĩ văn, cũng gồm thi Hương, thi Hội, thi Đình, cũng có những danh vị như tú tài (võ), cử nhân (võ)… Thí sinh giỏi võ mà không giỏi về binh pháp; trận đồ thì cũng không được công nhận là tiến sĩ võ. Năm 1884, dưới áp lực ngăn cản của Thực dân Pháp, việc tổ chức thi quan võ bị triều đình Huế đình chỉ, bãi bỏ luôn.
Ở huyện Tuy Phước (cách thành phố Qui Nhơn khoảng 10 km), có làng Lê Tuyên. Làng mang tên đó là để tưởng nhớ công lao đối với một võ tướng tên Lê Tuyên, thường được gọi “ông Bá Mười”, một thời theo Mai Xuân Thưởng tham gia phong trào Cần Vương kháng Pháp.
Có người kể rằng: sau khi đã đỗ cử nhân võ, ông Mười tiếp tục ra kinh đô Huế thi Đình và đạt danh hiệu tiến sĩ võ. Vị tân tiến sĩ võ được vua cho về quê “vinh qui bái tổ” rồi ra lại triều đình để nhậm chức. Khi đi ngang qua địa phận đèo Nhung (huyện Phú Mỹ) thì ông Mười bị một con cọp đột ngột nhảy ra tấn công. Ông phải quần thảo với con cọp dữ từ lúc nửa đêm đến gần sáng mới giết được nó. Dân trong vùng vừa nể phục vừa hàm ơn ông Mười vì trừ được mối họa luôn rình rập ở đoạn đèo này. Tuy nhiên, các quan võ triều đình nghe tin đã kết tội vị tân tiến sĩ là “phản sư”, vì giết cọp, theo họ, là điều cấm kỵ của con nhà võ. Nhà vua sau khi nghe tâu lên đã giáng ông Mười xuống hàng thứ dân (có ý kiến cho rằng ông không bị tước học vị tiến sĩ võ mà chỉ bị “treo” nhằm cảnh cáo mà thôi).
- Chuyện thứ bảy:
Thuở ấy có ông Bầu Đê rất giỏi võ, tiếng tăm lan xa ra ngoài vùng Bình Định. Được khuyến khích, ông ra Huế ứng thi một phen. Ngay trong phần thi đầu tiên là mang vật nặng đi 200 m, Bầu Đê xách tạ chạy một mạch giáp vòng trường thi đến cả ngàn mét không nghỉ. Ban giám khảo triều đình hội ý, lập tức đề cử Bầu Đê đạt thủ khoa, không cần thi tiếp các môn đao, kiếm, côn, quyền. Nhiều ý kiến trong giới võ sinh không phục, họ nại rằng “võ gia dõng vi bán”, nghĩa là sức mạnh chỉ mới là một nửa của nhà võ, và đề nghị Bầu Đê đấu với từng người trong số 10 thí sinh đạt điểm cao nhất khóa, thắng mới phục. Ban giám khảo đồng ý. Cử nhân võ thứ nhất ra đấu, chỉ với một chiêu của Bầu Đê, roi của anh ta đã gãy. Cử nhân võ thứ hai ra đấu, ngay hiệp đầu đã bị Bầu Đê cướp roi, quật ngã. Tám vị cử còn lại thấy thế, bái phục, xin được miễn thi đấu.
Viên quan chủ khảo, vốn đã là tiến sĩ võ, nổi tiếng với môn trường côn, “ngứa nghề”, đòi thử tài với Bầu Đê. Thời ấy nếu ở Bình Định có câu “Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh” thì cũng có câu “Roi kinh (đô), quyền Bình Định”. Quan chủ khảo đề nghị đấu 10 hiệp. Mọi người xung quanh đều chắc mẩm Bầu Đê sẽ thua. Ngày xưa, khi đấu roi, để tránh sát thương, người ta thường bọc vải bôi lọ nồi ở đầu roi và khi đâm thì nương tay, chỉ tạo vết lọ trên cơ thể đối thủ để dựa vào đó mà tính điểm, phân thắng bại. Lúc mới vào trận, Bầu Đê có phần e ngại, vì nể nên chỉ né đỡ là chính. Quan giám khảo thấy vậy mở lời động viên Bầu Đê đấu cho thực tình. Thế là Bầu Đê trổ tài. Ông la lớn: “Xin phép quan lớn cho tôi ra tuyệt kỹ thứ nhất”, rồi nhanh như chớp đánh văng cây trường côn của quan chủ khảo. Quan chủ khảo có phần “quê độ”, vào hiệp mới cẩn trọng hơn và cũng quyết chiến hơn, giở nhiều chiêu hiểm tấn công tới tấp Bầu Đê. Bầu Đê đánh đỡ một lúc rồi lại đột ngột la lớn: “Xin phép quan lớn cho tôi ra tuyệt kỹ thứ hai”. Quan chủ khảo thủ thế chờ đối phó độc chiêu của Bầu Đê, chẳng thấy gì lại ra chiêu mới. Hai người quần nhau đến hết hiệp đó mà không phân thắng bại. Quan chủ khảo thắc mắc: “Sao ta không thấy anh ra tuyệt kỹ thứ hai?”. Bầu Đê từ tốn thưa: “Dạ, bẩm quan lớn, tôi ra rồi, và đã đâm trúng nách ngài!”, Quan chủ khảo vội dơ tay lên để lộ ra một vết lọ nồi trên áo, ngay nách. Lúc này, mọi người mới ồ lên kinh ngạc. Vị quan võ đó đành thoái bộ, xin ngưng cuộc đấu, chịu phục và khen hết lời Bầu Đê…
Bầu Đê chính là đệ tử chân truyền của ông Bá Mười!
- Chuyện thứ tám:
Gần đây hơn là câu chuyện của võ sư người Bình Định, tên là Lý Xuân Hỷ (sinh năm 1940), với thành tích: từ năm 18 tuổi đến năm 35 tuổi đã thượng đài 300 cuộc mà chỉ để thua đúng một trận.
Năm 1969 có tay người Việt, học võ Đại Hàn, tên Long, là võ sư bậc tứ đẳng với huyền đai Thái Cực Đạo. Tay này kênh kiệu, nghe Lý Xuân Hỷ vô địch Cao nguyên Trung phần, luôn bắn tin khiêu khích, thách đấu, và có lần tuyên bố huênh hoang: “Đêm nay hạ Lý Xuân Hỷ, đêm mai hạ Minh Cảnh” (võ sĩ Minh Cảnh, vô địch quyền Anh Đông Dương, từng được mệnh danh là “võ sĩ quyền Anh không đối thủ”, luôn phải đấu “chấp” với những đối thủ nặng “ký” hơn nhiều…). Do điều kiện ngoại cảnh mà phải ba năm sau, cuộc đấu mới diễn ra. Lý Xuân Hỷ kể là khi thượng đài, “hắn tấn công liên tục, mình giả đò dựa dây, hắn chạy tới công thẳng vào mặt mình. Mình gục xuống, đánh vào chấn thủy của hắn, khi hay hắn sụp rồi, mình câu đầu đối phương đập chỏ…”. Trận đó, võ sư Long bị trọng thương, gãy răng và “bay” hàng chân mày.
Năm võ sư Hỷ 62 tuổi, có một võ sư người Ý, 42 tuổi, nặng 120kg, với 3 năm học thêm võ Tàu, đến gặp để phân cao thấp. Ông Hỷ kể: “Người đó rất hay. Tôi không công mà chỉ né. Những người đứng xem nói ông Tây hay quá, còn ông Hỷ thì né cũng lẹ quá. Tới chừng anh ta đá ngang mặt tôi, tôi đá một đòn phá chân trụ làm đối phương ngã chúi xuống đất và… hạ nốc-ao (knock out) luôn”.
Theo võ sư Hỷ: “Khi đấu đối kháng, không có thế võ nào thắng thế võ nào mà quan trọng là võ sĩ chiến thắng đã tinh nhuệ hơn đối phương của mình mà thôi!... Phải làm thế nào để đánh đối phương mà đối phương tránh không kịp, đứng yên cho mình đánh…”. Và ông thổ lộ: “Thật ra, tôi giỏi chỏ, ngoài sự chỉ dạy của cha, còn có sự trợ giúp của sư phụ… Năm 1966, tôi có gặp ông thầy người Tàu, gọi là Tám Tàu, từ Thiếu Lâm Tự ra, rất giỏi võ. Tôi học thêm tuyệt chiêu của ông… Ông thầy thứ hai là thầy Minh Cảnh. Tôi học thêm ba tháng về quyền Anh… Bởi thế, tôi được lĩnh hội nhiều cái hay trong võ thuật…”
Gia phái võ họ Lý mà Lý Xuân Hỷ đang đại diện, cũng nổi tiếng khắp làng võ Bình Định về roi, quyền và cũng vì có một tuyệt kỹ công phu rất đáng nể. Đó chính là bài quyền “Miêu tẩy diện” (Mèo rửa mặt), do ông nội võ sư Hỷ sáng tạo ra, mô phỏng theo thế đánh nhu nhuyễn, linh hoạt của loài mèo, tính đến nay đã trên trăm năm. Mèo cũng như hổ, có cách tự vệ giống nhau, có lối “rửa mặt” bằng lưng bàn chân trước, hai lòng bàn chân hướng ra ngoài, nhờ thế mà khi chống đỡ chúng rất linh hoạt, đối với hổ thì còn chụp được cả gươm giáo, khi tấn công thì vồ, tát cực kỳ lợi hại. Xưa nay, hiếm khi người đánh được hổ, ai đánh được là thành nổi tiếng. Bởi vậy, người ta mới xếp hổ đứng đầu trong hàng võ; mới có câu “Mãnh hổ tướng quân”.
Mèo, hay hổ cũng vậy, “công - thủ” hữu hiệu được là nhờ sự quyền biến của hai chân trước. Tập “Miêu tẩy diện” là phải tập cho được đôi tay. Đôi tay phải thật lanh lẹ, kết hợp nhuần nhuyễn với nhau và với chỏ tay. Ngón chỏ cũng là một tuyệt kỹ của võ sư Hỷ. Đòn chỏ, nếu biết sử dụng điêu luyện sẽ trở nên biến hóa khôn lường, rất lợi hại khi phản đòn. Ngón chỏ được sáng tạo mô phỏng theo cách húc sừng của động vật, của con trâu, nên cũng được gọi là ngọn “ô du”:
                              “Ô du là ngọn trâu dằn
                              Xê ra cho khỏi khéo lâm vào mình”
Với lối đánh kết hợp quyền thế “Miêu tẩy diện” để né tránh và nhanh nhẹn phản công bằng những ngọn ô du tuyệt kỹ, võ sư Lý Xuân Hỷ đã từng một thời được mệnh danh là “Hùm xám cao nguyên”. Ông đưa ra nhận xét: “Võ Đại Hàn rất hay ở bộ chân. Nhưng bộ chân không đáng sợ bằng bộ tay vì chân ít khi đánh được huyệt đạo, còn tay thì biến hóa khôn lường…”
Võ sư Hỷ vẫn còn nhớ được lời tiền bối dặn dò là: “Võ gia ngũ luyện pháp”, gồm:
                              “Phong dạ đăng sơn
                              Hắc dạ đả quyền
                              Nguyệt dạ luyện kiếm
                              Vũ dạ cán binh
                              Trí dạ tọa tĩnh”
Nghĩa là: nhà võ phải luyện rèn theo 5 cách, gồm:
                              Đêm gió thì lên núi (luyện công?)
                              Đêm tối thì đánh quyền
                              Đêm trăng thì luyện kiếm (đao, côn…)
                              Đêm mưa thì đọc binh (thư)
                              Thiền định hàng đêm để đạt thông tuệ.
***



Mời xem:

LỜI PHÂN TRẦN

PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

PHẦN II: NỀN TẢNG

PHẦN III: NGUỒN CỘI