Thực tại và hoang đường 8


CHƯƠNG VI: ĐÓNG - MỞ

“Và thật vô nghĩa khi đánh giá tư duy của một dân tộc nào đó là có tính triết lý hay không nếu chỉ dựa vào các tiêu chuẩn được định sẵn, đặc biệt những tiêu chuẩn truyền thống riêng của một dân tộc. Triết lý của bất cứ dân tộc nào đều là tinh hoa của nền văn hóa và là sự diễn tả trọn vẹn các phong cách tư duy, cảm nghĩ và sinh hoạt của dân tộc đó. Do đó, triết lý của từng dân tộc là sản phẩm của môi trường tạo ra nó và những cách thức riêng về nhận thức, tri thức, thẩm mỹ, luân lý và tôn giáo. Như vậy đánh giá triết lý của người khác theo những chuẩn mực và tiêu chí của một nền văn hóa nào đó quả là một hành vi tự phụ mù quáng để có thể hiểu các dân tộc khác. Để hiểu biết một dân tộc và nền văn hóa của dân tộc đó chính là hiểu cách thức dân tộc đó nhìn thế giới, nhìn chính nó và nhìn các dân tộc khác. Chỉ khi các thành viên của từng nền văn hóa tiếp cận các nguồn triết lý của các nền văn hóa khác bằng một đầu óc phóng khoáng và nghiêm túc nghiên cứu chúng, lúc ấy người ta mới hiểu được các dân tộc khác hoặc mới khai sáng và phong phú hóa triết học và văn hóa của chính họ..."
(R. Puligandla)

Tại sao lại lấy đầu đề chương này là “Đóng - mở”? Vì đó là cặp khái niệm tương phản được chúng ta cho là thuộc hàng cơ bản. Trong Vũ Trụ tổng thể các sự vật - hiện tượng, nếu quan sát, đâu đâu chúng ta cũng thấy hiện diện sự đóng - mở. Khi triết học đặt một câu hỏi lớn (mà đến nay vẫn chưa có lời giải đáp): “Vũ Trụ là hữu hạn hay vô hạn?", thì đó cũng chính là câu hỏi: Vũ Trụ là đóng hay mở? Cách hỏi thứ hai thoạt nhìn có thể cho là chưa tổng quát, chưa đầy đủ vì trong toán học đã xuất hiện những khái niệm vô hạn nhưng bị chặn (số vô tỷ), nhỏ vô cùng nhưng khác không (điểm hình học, số vi phân...), hay trong vật lý là khái niệm hữu hạn nhưng vô biên (qui mô Vũ Trụ theo quan niệm của S. Hawking). Ngẫm kỹ lại, đó chính là câu hỏi trực diện, dễ hiểu nhất mà cũng hàm súc nhất và có thể gợi ra được câu trả lời “hay nhất”. Vũ Trụ vô hạn nhưng bị chặn hay hữu hạn nhưng vô biên, xét cho cùng là một Vũ Trụ có tính duy nhất: tuyệt đối kín nhưng cũng... hở(!). Nếu đi từ vô cùng lớn đến vô cùng nhỏ, vượt qua vô cùng nhỏ sẽ trở về vô cùng lớn và ngược lại. Đối với chúng ta, đó là điều không thể tưởng tượng nổi vì cực kỳ phi lý. Đúng thật là cực kỳ phi lý, không thỏa mãn bất cứ lý lẽ nào của con người; nhưng chỉ với con người! Đối với nhận thức, đó thực sự là một quan niệm phi thường theo đúng nghĩa đen. Vì Tự Nhiên Tồn Tại “nằm ngoài" tất cả mọi khái niệm siêu hình, ngoài tất cả mọi lý lẽ logic nên bất cứ khái niệm “có lý cực đoan” nào gán cho Nó đều không đúng. Tự Nhiên Tồn Tại là một vô lý vĩ đại vì Nó chí lý tuyệt đối! Muốn hiểu đích xác Vũ Trụ thì không thể không chấp nhận điều đó. Và người đầu tiên chấp nhận điều đó (nên cũng là người đầu tiên, về cơ bản, biết được Vũ Trụ vốn dĩ thế), có lẽ là...Lão Tử!

Câu hỏi Vũ Trụ đóng hay mở cũng phi lý không kém và không chừng là “dở hơi” nữa. Nếu Vũ Trụ là kín thì nó phải đóng. Nhưng ai đóng? Thượng Đế chăng, và nếu đó đúng là có Thượng Đế để đóng Vũ Trụ thì đóng để làm gì? Còn nếu Vũ Trụ là mở thì mở ra trước cái gì và cái gì đó là cái gì? Nói thêm rằng nếu Vũ Trụ là hở (vì mở) thì tất cả những định luật bảo toàn trong khoa học tự nhiên phải bị vứt vào sọt rác vì không biết bảo toàn bằng cách nào và bảo toàn để làm gì?
Để đạp bằng tất cả mọi mâu thuẫn phát sinh trên con đường nhận thức Tồn Tại, cách tốt nhất là không nên… đạp bằng mà nên tránh khỏi chúng với câu trả lời nước đôi vô tiền khóang hậu của các thánh triết Ấn Độ. Và như vậy, trong trường hợp buộc phải trả lời câu hỏi “dở hơi”: Vũ Trụ là đóng hay mở? Chúng ta sẽ nói: Vũ Trụ vừa đóng vừa mở, là cả hai mà cũng không phải cả hai!

Những điều nói trên thực ra là nhắc lại những quan niệm mà chúng ta đã “kể lể”, nhấn mạnh để thêm vững niềm tin trong cuộc hành trình đầy đam mê, mộng mị và có lẽ là rất dài lâu của chúng ta. Đó cũng là một duyên cớ nhưng không phải là nguyên nhân chính để đặt tên cho chương này là “Đóng - mở”.

Nguyên nhân quan trọng là thế này: chúng ta muốn “kiểm kê” lại tất cả những gì được cho là quan trọng, quí giá mà chúng ta đã lượm lặt, lựa chọn được trong cái bao la bát ngát, có đủ mọi thứ, “đủ mọi đồ chơi” của triết học trên chặng đường mà chúng ta đã đi qua để cố kết lại như một hành trang phục vụ trong bước đường tiếp theo, đi tìm những cái còn chưa biết là cái gì, nghĩa là chúng ta “đóng” lại cuộc hành trình này để “mở” màn cuộc hành trình khác, rồi "đóng" cuộc hành trình khác để "mở" ra cuộc hành trình khác nữa, cứ như thế mãi cho đến khi chúng ta lại "mở"... cuộc hành trình đầu tiên. Số phận của chúng ta là thế, đã an bài. Chúng ta đã cạn niềm vui thú trần thế; thành những kẻ lang thang đến cuối đời để đi tìm những nguồn vui sống ngoài… trần thế, trong cõi hoang đường. Chẳng còn ai chữa được chứng hoang tưởng đã trở nặng của chúng ta nữa vì bác sĩ, Sigmund Freud, người sáng lập Phân tâm học, đã nói: “Chỉ thi thoảng, trong những cái đựợc gọi là phép lạ thì các thần thánh mới can thiệp vào qui trình thiên nhiên, như thể cho thấy rõ rằng họ không từ bỏ những gì thuộc phạm vi quyền lực nguyên thủy của họ. Về việc phân chia các số phận thì vẫn có sự nghi nan khó chịu cho rằng tình trạng rối ren và tính bất lực của loài người là vô phương cứu chữa. Chính tại đây các thần thánh dễ bị thất bại nhất. Nếu chính các vị thần đã tạo ra Số phận, thế thì các ý định của thần thánh hẳn là khó hiểu. Những con người tài ba thời xưa đã nảy ra ý niệm cho rằng Số phận (Moira) đứng trên thần thánh và chính thần thánh cũng có số phận riêng của họ”.

Nhưng nguyên nhân chính để đặt đề mục: “Đóng - mở” lại chỉ đơn giản là điều này: chúng ta rất khoái Quỉ Cốc Tử!

* * *

Quỉ Cốc Tử là nhân vật hết sức lạ lùng đậm màu sắc thần thoại trong lịch sử Trung Quốc. Ông được hậu thế gọi là Thiên Cổ Kỳ Nhân.
Các nhà nghiên cứu văn hóa Trung Quốc xác định Quỉ Cốc Tử sống trong khoảng cuối đời Xuân Thu, (770 – 476 TCN), đầu thời Chiến Quốc (475 – 221 TCN). Trong các sách sử đều đề cập đến ông nhưng rất ngắn gọn và mơ hồ. Có thuyết cho rằng ông là một người kỳ tài của phái Tung Hoành gia thời Chiến Quốc; họ Vương tên Hủ, tự là Danh Lợi, dân gian gọi là Vương Thiện Lão Tổ.
Theo truyền thuyết, mẹ của Quỉ Cốc ăn nhiều thức ăn đựng trong cái bát làm bằng xương quỉ (quỉ cốc), thụ thai, sau ba năm sáu tháng thì sinh ra ông. Bà mẹ sinh xong thì mất. Ông được con cọp già cho bú và nuôi nấng. Ông lớn dần lên, theo cọp rình vồ kiếm ăn nên rất tinh khôn, linh hoạt.
Theo sách “Đông Chu liệt quốc”, ở đất Dương Thành thuộc địa phận nhà Chu có một vùng núi cao rừng rậm, âm khí nặng nề, hoang vắng u tịch. Trong đó có một hang núi được dân địa phương gọi là hang Quỉ Cốc. Sau này ông vào ở ẩn trong đó và tự đặt tên mình là Quỉ Cốc.
Ban đầu ông không biết chữ nhưng đã sáng tạo ra được “60 giáp tý” như thuật bói toán để đoán vận mệnh gọi là “vô tự đại thư” (quyển sách lớn không chữ) và chuyên dạy cho người cách ăn nói lưu lóat, khoa trương; cách sử dụng mưu kế. Người đời rất khâm phục kính trọng; tôn ông là Quỉ Cốc thần sinh.
Cũng theo “Đông Chu liệt quốc” (tác giả Phùng Mộng Long) thì Quỉ Cốc tiên sinh là một ẩn sĩ thông hiểu mọi lẽ trong trời đất, có mấy môn học vấn ít người theo kịp, là:
- Số học: nhật nguyệt tượng vĩ đều thu ở bàn tay, xem việc trước, đoán việc sau, nói gì cũng linh nghiệm.
- Binh học: Lục thao tam lược biến hóa vô cùng, bày trận hành binh, quỉ thần không biết.
- Du thuyết học: nhớ rộng biết nhiều, hiểu rõ lý thế, buông lời hùng biện, muôn miệng không đương.
- Xuất thế học: giữ toàn chân tính, luyện thuốc nuôi mình, không ốm không chết, đắc đạo thành tiên.
Tương truyền Quỉ Cốc tiên sinh là bạn thân của Mặc Tử (một hiền triết chủ trương “Kiêm ái”, tức là yêu thương con người); từng quan hệ mật thiết với Lão Tử (một hiền triết được tôn vinh là Thái Thượng Lão Quân, ở Hàm Cốc), mặc dù học thuyết có khác nhau nhưng đàm luận rất tương đắc và cùng nhau du sơn ngoạn thủy nhiều nơi.
Thường người ta còn gọi Quỉ Cốc tiên sinh là Quỉ Cốc tử. Tử có nghĩa là thầy, là bậc thầy, chữ này xuất hiện vào đời Tần, tỏ lòng kính trọng. Cũng tương truyền rằng Quỉ Cốc Tử đương thời thu nhận rất nhiều người theo học. Học trò rất đông, ai thích đến học thì học, ai muốn bỏ đi thì cứ đi, ông không nề hà, tùy theo tư chất từng người để dạy, ai muốn học thuật gì thì truyền thụ thuật ấy. Học trò của ông sau khi xuống núi, hành nghề, truyền đạo, viết sách đã phong ông là tổ sư của các học phái: Âm Dương gia, Tung Hoành gia, Du Thuyết gia, Pháp gia…
Trong số học trò của Quỉ Cốc Tử, có bốn người về sau nổi danh thiên hạ, lẫy lừng cổ kim, đã tung hoành ngang dọc, khuynh đảo thời cuộc, góp phần làm nên cuộc tranh hùng dữ dội, khốc liệt của bảy nước thời Chiến Quốc (Tần, Tề, Sở, Yên, Hán, Ngụy, Triệu). Bốn người đó là: Tôn Tẫn và Bàng Quyên chuyên về binh pháp, Tô Tần và Trương Nghi chuyên về du thuyết. Họ đều là những nhà thao lược đại tài.
Tóm lại, Quỉ Cốc tử là một cao sĩ ẩn dật nơi thâm sơn cùng cốc nhưng hiểu biết, uyên thâm mọi sự và có lối sống dân dã như người làng kẻ chợ. Ông được dân chúng kính phục và lưu truyền trong lịch sử những câu chuyện huyền thọai về cuộc đời ông. Chính vì vậy mà hình tượng Quỉ Cốc Tử hiện lên vừa chất phác dung dị vừa lung linh kỳ ảo và có sức hấp dẫn lạ lùng.
Quỉ Cốc Tử là tên một con người kỳ lạ đến mức được gọi là thiên cổ kỳ nhân nhưng đồng thời cũng là tên của một cuốn sách kỳ lạ không kém, được gọi là thiên cổ kỳ thư.
Riêng việc xác định Quỉ Cốc Tử có phải là cuốn sách do chính Quỉ Cốc Tử viết không đã là đề tài tranh luận suốt dọc lịch sử, tốn không biết bao nhiêu giấy mực, hàng trăm cuốn sách nghiên cứu ra đời với bao nhiêu là giả thuyết, đến tận ngày nay vẫn chưa ngã ngũ. Có thể qui về ba giả thuyết chính:
- Cuốn Quỉ Cốc Tử do chính Quỉ Cốc Tử viết (sách: Trung hưng thư mục, Đàm thư chí…)
- Cuốn Quỉ Cốc tử do Tô Tần viết (sách: Tân Đường thư, Nghệ văn chí…). Nhạc Đoài viết: “Tô Tần muốn “thần kỳ hóa” thuyết của mình, cho nên mượn danh Quỉ Cốc Tử”.
- Cuốn Quỉ Cốc Tử do người đời Lục Triều viết rồi gán cho Quỉ Cốc tiên sinh (sách: Cổ ngụy kim thư khảo).
Điều nói trên đã là “kỳ thư” rồi. Thêm một “kỳ thư” nữa là cuốn Quỉ Cốc Tử không phải là không có người chê. Liễu Tôn Ngươn trong bài “Biện Quỉ Cốc Tử” đã chê là: “Lời nói kỳ dị mà “đạo” lại càng tầm thường”. Sách “Chư tử biện” của Tống Liêm thì phê phán nó “là cái tôi nhỏ nhoi của loài rắn, chuột, nếu đem dùng trong gia đình thì gia đình tan nát, đem dùng trong nước thì nước hư, đem dùng trong thiên hạ thì mất thiên hạ, các bậc đại phu, học sĩ nên phỉ nhổ bỏ đi mà đừng bàn đến…”. Hồ Ứng Lân cũng viết: “Quyển sách rất quê mùa nông cạn, nếu là bậc thầy của Trương Nghi, Tô Tần thì đạo thuật đâu có thấp kém đến mức ấy…”.
Nghĩ mà vui, theo ý chúng ta, chê đấy, nhưng hóa ra là khen. Nếu cuốn Quỷ Cốc Tử “không ra gì” thì sao nó có thể làm tan cửa nát nhà, “hư nước”, “mất thiên hạ” được? Nó phải có một nội lực nào đó rất “ghê gớm”. Với nội lực “ghê gớm” như thế mà lại được trình bày một cách “quê mùa, nông cạn” hay có thể nói là mộc mạc, dân dã thì cha đẻ của nó phải là bậc siêu quần chứ không thể tầm thường được. Nói về những điều cao xa vời vợi của trời xanh, thâm sâu thăm thẳm của lòng người mà hồn nhiên như nước chảy bèo trôi, bằng ngôn ngữ đại chúng và được đại chúng tin yêu thì phải là tiên hiền, thánh triết. Tiện đây, xin nói về một chuyện, “hàng ngày” nhưng rất kỳ bí. Như một “truyền thống”, chữ viết của bác sĩ thường là “đố mày đọc được”. Một bác sĩ kê toa thuốc cho bệnh nhân mà đến bác sĩ khác đôi khi cũng phải “đoán mò” thì đã xứng đáng được gọi là lương y chưa chứ chưa cần phải nói đến danh xưng “cứu nhân độ thế”?
“Nông cạn” mà tồn tại ngót nghét 25 thế kỷ thì chỉ có thể là “kỳ thư”!
Nhưng “kỳ thư” nhất của cuốn “Quỷ Cốc Tử” chính là ở nội dung cực kỳ thâm hậu của nó.
Có thể là do đặc tính của chữ tượng hình Trung Hoa và lối văn gọn, chắc thời Xuân Thu - Chiến Quốc mà cũng tương tự như các trước tác thời đó, cuốn “Quỷ Cốc Tử” được viết rất cô đọng nhưng uyên thâm, hàm chứa nhiều vấn đề rộng lớn, sâu sắc. Nó được nhiều học giả đánh giá rất cao và được chú giải từ rất sớm. Người ta cho rằng người chú giải “Quỷ Cốc Tử” đầu tiên là Lạc Phong (khoảng thời Ngụy - Tấn), kế đến là Hoàng Phủ Thụy (khoảng 215-282), rồi đến Doãn Tri Chương và người thứ tư là Đào Hoàng Cảnh (452-536).
“Quỷ Cốc Tử” được phân chia (theo Đào Hoàng Cảnh) thành 3 quyển: thượng, trung, hạ. Quyển Thượng có 4 thiên: Bãi hạp, Phản ứng, Nội kiện, Để hí; Quyển trung gồm 8 thiên: Phi kiềm, Ngỗ hợp, Soái, Ma, Quyền, Mưu, Quyết, Phù ngôn; Quyển Hạ gồm: Bản kinh âm phù và Trì khu.
Trong “47 Quỷ kế” (Trần Sáng biên dịch, NXB thanh niên, 2002) chúng ta đọc được những ngợi ca hết lời như thế này:
“ … cuốn Quỷ Cốc Tử dù của Quỷ Cốc hay không cũng được các nhà nghiên cứu đánh giá rất cao. Là cuốn bách khoa đặc sắc về tâm lý học, ngôn ngữ học, thuật hùng biện, khoa học quân sự…”.
“ Cái kỳ lạ nhất của cuốn sách Quỷ Cốc Tử là chứa lắm mưu nhiều kế, quỉ cốc thần kinh, thiên biến vạn hóa và dùng mãi không hết”.
“Trong đời sống có bao nhiêu hiện tượng thì có bấy nhiêu mưu kế, người ta gọi trăm phương nghìn kế không phải là không có căn cứ.
Quỷ Cốc Tử là cuốn sách đã hệ thống những hiện tượng, những qui luật trong đời sống thực tiễn thành những mưu kế độc đáo, thông minh và cô đọng nhất”
“Quỷ Cốc Tử được viết rất cô đọng súc tích, uyên thâm, phải thực hành mới thấy cái huyền diệu và sức mạnh của mưu kế.
Nếu đúng theo tương truyền, thì thông minh như Tô Tần cũng phải đóng cửa, lấy dùi đâm vế, thức đêm để học ròng rã mới hiểu được quyển “Âm phù”. Sau khi học xong, đi du thuyết mới thành công”.
“Đáng quí là cái tâm của tác giả đối với nhân dân. Tác giả khuyên các vua chúa phải dùng con mắt của nhân dân (thiên hạ) để nhìn, dùng tai của nhân dân để nghe, lấy cái tâm của mình để che chở cho nhân dân và lấy cái tâm của nhân dân để mưu cầu hạnh phúc cho mọi người. Mắt như vậy được gọi là “thiên lý nhãn”. Tai được như vậy gọi là “thuận phong nhĩ”. Tâm được như vậy gọi là “vạn linh tâm”. Trong sách nhắc nhiều lần, thông qua các kế mưu giáo hóa nhân dân.
Chứng tỏ tác giả khổ công và dùng cả cái tâm của mình để viết sách, gửi gắm ước mơ vào từng trang sách. Đó là mong nhân dân được hạnh phúc, no ấm và được giáo hóa trở thành những người văn minh.
Cái quý nữa là luôn cầu tiến bộ. Sách Quỷ Cốc Tử cho rằng “phản” là hiểu quá khứ, “ứng” là hiểu hiện tại. Có biết quá khứ mới hiểu hiện tại, có hiểu hiện tại mới biết tương lai. Cái gì không còn thích hợp thì bỏ, cái gì còn thích hợp thì gìn giữ và áp dụng.
Hiểu mình là trí, hiểu người là sáng suốt. Có sáng suốt mới có trí, có trí mới có sáng suốt.
“Ôn cố tri tân”, ôn cũ biết mới; “Tri kỉ tri bỉ”, biết người biết ta là chìa khóa vàng mở cánh cửa đời sống của người thông minh.
Hai ngàn năm, biết bao nhiêu khôn ngoan đã áp dụng thành công. Nhưng chiếc chìa khóa vàng vẫn còn nguyên vẹn giá trị, dành cho những người sáng suốt. Đó cũng là nét độc đáo của cuốn Quỷ Cốc Tử”.

* * *

Lịch sử Trung Quốc có một giai đoạn phát triển mạnh mẽ, vô cùng rực rỡ về tư tưởng, văn hóa là thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Như một sự bùng phát, nhà nhà viết văn, người người tìm lý giải về tự nhiên, xã hội; vô cùng năng động; các môn phái, học thuyết đua nhau ra đời. Biết bao nhiêu học giả kiệt xuất, những hiền triết bậc nhất xuất hiện ở thời kỳ này và đã để lại cho đời sau biết bao nhiêu kiệt tác về văn hóa cũng như tư tưởng và còn nguyên giá trị to lớn đến tận ngày nay. Có lẽ vì hiện tượng nở rộ nhân tài xuất chúng như vậy mà người ta còn gọi đó là thời kỳ Bách Gia Chư Tử.
Ngay từ thời Tiên Tần (221-206 trCN); (nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc lấy triều đại nhà Tần làm mốc, gọi giai đoạn lịch sử trước đó là thời kỳ Tiêu Tần), người Trung Quốc đã tìm hiểu và nghiên cứu quyền mưu về mặt lý luận. Theo quyển “Quyền mưu thần bí” (sách dịch, NXB Văn hóa thông tin, 1996) thì Trung Quốc có ba phái quyền mưu lớn. Lúc bấy giờ lấy học thuyết biện chứng mộc mạc mà tiêu biểu là “Chu Dịch”, “Lão Tử” để triển khai rộng rãi việc nghiên cứu các loại quyền mưu. Tình hình hỗn loạn, chiến tranh liên miên lúc bấy giờ như là một động lực khuấy động làn sóng nghiên cứu và vận dụng quyền mưu trong phạm vi toàn xã hội, biểu hiện rõ nét trong Bách gia chư tử. Một cách tương đối, có thể phân biệt ba phái quyền mưu là Pháp gia, Binh gia và Tung Hoành gia. Ba phái này do lý luận và chủ trương chính trị không giống nhau nên việc phát hiện và vận dụng quyền mưu cũng có chiều hướng sai biệt nhau.
Nói chung, Pháp gia quyền mưu thiên về chính trị, do Hàn Phi sáng lập, lấy sách “Hàn Phi tử” làm tác phẩm tiêu biểu; Binh gia quyền mưu thiên về quân sự, thủy tổ là Tôn Vũ, lấy “Tôn Tử binh pháp” làm tiêu biểu. Tung Hoành gia quyền mưu thiên về ngoại giao, do Tô Tần, Trương Nghi đề xướng, lấy “Quỉ Cốc Tử” làm tiêu biểu.
Như vậy, có thể thấy rằng sự khen ngợi ngất trời mà chúng ta đã dẫn ở phần trên về cuốn sách “Quỷ Cốc Tử” không hẳn đã là quá đáng.
Nhưng quyền mưu là gì?
Về mặt khái niệm, “quyền” nghĩa ban đầu là quả cân, sau thành ra nhiều nghĩa. Trong quyền mưu, nó có nghĩa như cách thức hành động phù hợp, thích nghi với hoàn cảnh. Chẳng hạn như quyền biến là tùy cơ ứng biến. Còn “mưu” từ chữ mẫu (mẹ) mà ra. Nó có nghĩa là suy nghĩ, hoạch định, tìm ra phương pháp, cách thức để đạt được mục đích nào đó. Người ta thường nói bày mưu tính kế, mưu lược, kế sách là như vậy. Vậy quyền mưu là xây dựng phương thức hành động theo như đã cân nhắc hoạch định từ trước nhằm đạt được mục đích đề ra trong đấu tranh, tranh hùng.
Quyền mưu xét về mặt tồn tại, chính là một hiện thực ảo, tồn tại trong trí não con người, cũng tương đối như một tưởng tượng về tương lai. Nó cũng chỉ là một sự vật - hiện tượng trong Vũ Trụ bao la.
Tồn Tại là không tạo dựng, chỉ các bộ phận của Nó, các sự vật - hiện tượng là có tạo dựng. Tất cả những hiện thực, hiện hữu đều phải nằm trong vòng nhân - quả, có khởi đầu và có kết thúc. Tất cả mọi sự vật - hiện tượng đều là kết quả tạo dựng của những sự vật - hiện tượng bên ngoài, xung quanh nó. Nhờ đặc tính này mà chủ thể mới có khả năng làm biến đổi khách thể, con người mới có thể tác động vào hiện thực và quyền mưu mới có thể được thực thi.
Quyền mưu là sản phẩm của con người nhưng không phải là cái gì đó phi tự nhiên mà trái lại có nguồn gốc sâu xa trong tự nhiên, từ Tự Nhiên.
Nếu không có các sự vật - hiện tượng gọi là vô cơ cùng với mối quan hệ phổ biến giữa chúng là tác động và phản ứng thì cũng chẳng có sự sống cùng với cảm giác và đấu tranh sinh tồn. Đấu tranh sinh tồn là bảo vệ, duy trì sự sống của mình bằng cách tác động vào môi trường mà đối với động vật chủ yếu là tước đoạt sự sống khác (mầm tội ác đã mọc!). Sự sống động vật nào cũng phải hành động như vậy cả cho nên mới có bạo lực, tấn công, phòng thủ, trốn chạy, ngụy trang, giả chết…, mới gọi là đấu tranh. Cuộc đấu tranh sinh tồn dài lâu làm cho loài vật hoặc bị diệt vong hoặc phấn đấu “khôn” lên để thích nghi, để sống còn. Những loài như hổ, báo, sư tử… không phải tự dưng mà có cách thức rình mồi, biết chờ đợi thơi cơ, chạy đón đầu, thậm chí là kết hợp nhau để săn bắt con mồi. Loài chó sói không phải ngẫu nhiên mà biết tấn công theo lối bầy đàn. Loài cá heo không thể ngay từ lúc mới hình thành đã biết phân công, hợp đồng khá phức tạp trong việc dồn đàn cá vào một chỗ để “đánh chén” được. Loài thỏ từ đâu mà biết cách chạy chữ chi để thoát kẻ thù? Ai dạy mà có loài chim biết thả quả có vỏ cứng từ trên cao xuống mặt đá cho vỡ ra để ăn nhân bên trong? Người ta gọi những thủ thuật phục vụ sinh tồn ấy là do bản năng. Đồng ý là như vậy nhưng bản năng từ đâu mà ra nếu không là sự đúc kết kinh nghiệm dù là tự phát từ những thế hệ trước, thậm chí là ngay trong đời một con vật? Phải cho rằng bản năng chính là thành quả của một dạng “trí nhớ” phôi thai nào đó. Chính “trí nhớ” đó đã làm hình thành nên những thủ thuật trong đấu tranh sinh tồn, hay có thể gọi là những quyền mưu phôi thai và bản năng là thực hiện quyền mưu một cách vô thức? Thiên nhiên đã suy nghĩ hộ cho loài vật hay cần phải định nghĩa lại sự suy nghĩ? Hay đơn giản là chúng ta điên rồ?! Nếu có một trăm người và cả một trăm người nói chúng ta điên mà chúng ta nói mình không điên thì một trăm phần trăm là chúng ta bị điên, nhưng chỉ vài người nói chúng ta điên mà chúng ta cũng nhận thấy mình bị điên thì có lẽ chúng ta còn tỉnh táo. Cứ chờ xem! Nhưng trong khi chờ đợi, chúng ta cứ tiếp tục câu chuyện hoang tưởng của mình!
Loài người không thể không thoát thai từ loài vật cho nên loài người cũng phải chứa đựng những đặc tính cơ bản của sự vật - hiện tượng nói chung và của loài vật nói riêng. Nghĩa là con người cũng phải có mối quan hệ tác động - phản ứng với môi trường xung quanh và cũng nằm trong xoáy lốc đấu tranh sinh tồn. Nhưng loài người là loài vật đã được tiến hóa trang bị cho tư duy nên ngoài bản năng ra, loài người còn biết dự đóan, dự định, xác định trước đường đi nước bước, biết phân tích lợi hại, chế tác công cụ hỗ trợ, “bày binh bố trận” trên bước đường tìm lẽ sống. Và quyền mưu thực sự ra đời từ đó.
Nhiều người cho rằng trong cuộc sống hàng ngày không có quyền mưu. Đó, theo chúng ta là nhận định không đúng. Khi chúng ta suy nghĩ thực hiện bất cứ công việc gì thì đã có dấu hiệu của quyền mưu rồi. Chẳng hạn: đi chơi thì không thể hiện quyền mưu nhưng suy nghĩ để thực hiện được cuộc đi chơi ấy lại có tính quyền mưu. Trong mối quan hệ giữa người với người thường xuyên xuất hiện quyền mưu. Nếu chúng ta muốn “theo đuổi” một cô nàng xinh đẹp nào đó, nhất thiết trong đầu chúng ta phải xuất hiện quyền mưu. Muốn kinh doanh thắng lợi thì không thể thiếu quyền mưu.
Nhưng quyền mưu thể hiện rõ nhất là trong tranh giành quyền lực, địa vị thống trị và xung đột vũ trang, những nơi mà quyền mưu đối chọi với quyền mưu, một mất một còn.
Nên lưu ý rằng bản thân quyền mưu là không tốt mà cũng chẳng xấu; chỉ là hiện tượng tự nhiên, còn tốt hay xấu là tùy thuộc vào con người. Quyền mưu của một kẻ vô đạo bao giờ cũng được gọi là mưu ma chước quỷ. Quyền mưu của bậc quân tử, chân nhân bao giờ cũng sáng ngời tính nhân văn và được khen là mưu chước như thần. Trong việc thực hiện quyền mưu, “người quân tử đôi khi phạm phải điều bất nhân, nhưng chưa từng thấy kẻ tiểu nhân làm được điều nhân nghĩa” (Khổng Tử).
Quyền mưu của con người được hình thành từ việc đúc kết kinh nghiệm của hoạt động thực tiễn đã qua, từ việc rút ra được những bài học thành bại của quá khứ, từ việc nhận thức và nhận thức lại những tri thức của tiền bối về những quy luật vận động của hiện thực xã hội - tự nhiên đầy biến động.
Con người lập được quyền mưu là nhờ tiếp thu được kinh nghiệm, hiểu biết của quá khứ, nhờ quan sát phát hiện được những nguyên lý phổ biến cũng như đặc thù trong cuộc đấu tranh sinh tồn của chính con người cũng như giới tự nhiên (cây cối, muông thú).
Chúng ta có thể phân biệt khái niệm quyền mưu và mưu kế. Quyền mưu là khái niệm rộng, bao hàm khái niệm mưu kế. Mưu kế đại khái có thể là suy nghĩ ra cách thức thực hiện nhằm đạt thắng lợi trước một sự việc, một đối tượng, trong phạm vi hạn chế về qui mô không gian và thời gian. Còn quyền mưu là sự nghiên cứu có hệ thống những sự kiện xảy ra trong thực tiễn, tổng kết, phân loại các mưu kế, nâng lên thành lý luận về những phương thức dành thắng lợi trong những trường hợp chung nhất; chỉ ra những nguyên tắc cơ bản trong việc thực hiện mưu kế tùy theo từng điều kiện và hoàn cảnh và diễn biến tình hình. Vì vậy một tác phẩm quyền mưu đúng nghĩa luôn mang tính triết lý sâu sắc, bộc lộ quan niệm về thế giới khách quan và có thể cho rằng quyền mưu là mưu kế của mưu kế.

* * *

Như đã đề cập, ba trước tác tiêu biểu của ba phái quyền mưu thời Xuân thu - Chiến quốc là “Hàn Phi Tử”, “Tôn Tử binh pháp” và “Quỉ Cốc Tử”.
Nội dung chủ yếu của “Hàn Phi Tử” là bàn về quyền mưu chính trị trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm lịch sử, dùng thực tế lịch sử cụ thể và truyền thuyết, bao gồm hàng loạt câu chuyện quyền mưu để chứng minh cho học thuyết chính trị kết hợp cả pháp, thuật, thế. Học thuyết đó được Hàn Phi sáng lập ra trên cơ sở tiếp thu lý luận của Thương Ưởng, Thân Bất Bại và Thân Báo; có thể tóm lược như sau: Pháp là chỗ dựa căn bản của vua chúa cai trị đất nước, thống trị nhân dân; Thuật là thủ đoạn chủ yếu để vua chúa điều khiển bề tôi, kiểm tra bách quan, Thế là quyền thế sinh sát ban phát tước đoạt mà vua chúa độc quyền nắm giữ; Pháp, Thuật, Thế lấy Pháp làm hạt nhân mang tính qui định về chính trị; Thuật là thủ đoạn đảm bảo cho Pháp thực thi; Thế là tiền đề tất yếu để vận dụng Pháp, Thuật; ba cái đó dựa vào nhau mà tồn tại. Và là cơ sở để vua chúa chuyên chế điều khiển bề tôi, thực hiện thống trị.
“Tôn Tử binh pháp” là trước tác lý luận quân sự sớm nhất của Trung Quốc tồn tại đến nay; trình bày rõ ràng, súc tích về những vấn đề liên quan đến chiến tranh, những nguyên tắc chỉ đạo và tiến hành chiến tranh, nêu lên khá tỉ mỉ về quyền mưu quân sự. Có thể thấy rằng những khái niệm cơ bản nhất của một cuộc xung đột vũ trang đã xuất hiện trong tác phẩm ấy. Giá trị của nó thì khỏi phải bàn, có những lý luận, những nguyên tắc mang tính phổ biến mà đến ngày nay vẫn không hề giảm sút giá trị. Chính người Anh cũng phiên dịch “Tôn Tử binh pháp” và liệt vào sách quân sự cổ điển mà trường võ bị Anh dùng để giảng dạy học tập, nghiên cứu. Trong thời hiện đại, người ta còn nghiên cứu nó để áp dụng vào cả công việc kinh doanh nữa mới thấy được cái “tuyệt” của một tác phẩm ra đời cách nay không dưới 2500 năm.
“Quỉ Cốc Tử” được người ta cho rằng có nội dung chủ yếu về quyền mưu ngoại giao, “dùng lý lẽ khuất phục người”. Trong đó bàn luận khá hệ thống về các vấn đề mang tính nguyên tắc, làm cơ sở cho du thuyết, hiến kế, nêu ra và luận giải rõ ràng “Thuật lượng nghi phát ngôn”. Thuật lượng nghi phát ngôn, nói nôm na là ước lượng, cân nhắc, dò xét khéo léo để biết được tâm trạng, nhân cách, tính tình của đối tượng mà tìm cách nói cho phù hợp, thực hiện quyền mưu. Chẳng hạn “Thuyết phục vua phải nói điều mới lạ, với bầy tôi phải nói tới tư lợi”. Đó là vì nói điều lạ với vua có thể lập nên công trạng lớn; nói tới tư lợi với bầy tôi, có thể bảo toàn tính mạng. Hay khuyên: “Chớ gán ghép cho người điều người ta không muốn, chớ dạy điều người ta không hiểu”, vì hai cách này là trái với lẽ thường tình cảm con người, dễ gây phật lòng nên khó mà đạt được mục đích dự định. Hoặc như: “Nói với bậc trí giả, dùng lời lẽ uyên bác; nói với bậc uyên bác, dùng biện luận; nói với nhà biện luận, dùng những điều cốt lõi; nói với kẻ quyền thế, dùng thế; nói với kẻ giàu sang dùng sự cao thượng; nói với người nghèo, dùng lời; nói với kẻ hèn, dùng khiêm nhường; nói với người dũng cảm, dùng can đảm; nói với người có chí tiến thủ, dùng sự sắc bén”.
Theo ý kiến của chúng ta, trong ba trước tác ấy, “Hàn Phi Tử” là kém giá trị nhất. Có thể là nó đã từng có tác dụng to lớn trong việc củng cố và hoàn thiện chế độ phong kiến, là sản phẩm tất yếu của một giai đoạn phát triển lịch sử nhưng việc áp dụng nó vào thực tiễn đời sống là hạn chế. Sách “Sử ký” viết: “Hàn Tử đưa ra tiêu chuẩn để xét sự việc, phân biệt điều phải, điều trái. Học thuyết ông ta hết sức thảm khốc, ít dùng ân đức”. “Tôn Tử binh pháp” là tác phẩm hay, viết cô đọng nhưng hàm chứa chân lý, nhiều vấn đề nêu ra như qui luật phổ biến về chiến tranh, có tác dụng không nhỏ đối với các cuộc chiến tranh trong lịch sử Trung Quốc và trong chừng mực nào đó còn được ứng dụng mặt này hay mặt khác ở một vài lĩnh vực của đời sống xã hội. Được như thế phải nói rằng tác giả của “Tôn Tử binh pháp” là người đại tài, đã nghiên cứu rất kỹ và chắc rằng đã thấu suốt được những nguyên nhân thành bại của cuộc hành binh, giao tranh trước đó và phát hiện ra được những mối quan hệ tác động lẫn nhau có tính qui luật giữa các sự vật - hiện tượng trong chiến tranh ấy; từ đó mà sáng tạo ra hệ thống lý luận về những nguyên tắc, cách thức giành thắng lợi trong đấu tranh vũ trang. “Tôn Tử binh pháp” nhờ thế mà có sức sống vượt thời đại.
Nhưng chúng ta vẫn “khoái” “Quỉ Cốc Tử” hơn. Dù “Tôn Tử binh pháp” nổi tiếng lẫy lừng kim cổ nhưng vẫn không được mang danh thiên cổ kỳ thư. Ấy vậy mà “Quỉ Cốc Tử” lại được mang danh ấy, trong khi có thể là không nổi tiếng bằng. Điều lạ thường này không phải là không có nguyên nhân và nguyên nhân phải được tìm thấy trong sự ca ngợi ngất trời mà chúng ta đã từng liệt kê, ở cái nội dung ẩn dấu của nó.
Tô Tần, Trương Nghi là hai đệ tử ưu tú của Quỷ Cốc tiên sinh; trở thành hai nhân vật tiêu biểu của Tung Hoành gia quyền mưu. “Tung hoành” là khái niệm có nguồn gốc từ thực tế diễn biến thời cuộc. “Tung” hàm nghĩa là “hợp tung”, do Tô Tần thực hiện, là chỉ sáu nước Sơn Đông từ Yến đến Sở, nam bắc hợp thành một tuyến, cùng nhau chống Tần để mong tồn tại. “Hoành” tức là “liên hoành”, do Trương Nghi thực hiện, là chỉ liên minh của nước Tần với bất kỳ nước nào, đông tây thành một tuyến, công kích nước khác, nhằm thống nhất thiên hạ. Nói chung, Tung Hoành gia chính là những mưu thần biện sĩ trên vũ đài ngoại giao thời Chiến Quốc, bôn ba du thuyết hoặc vào triều can dự chính sự, trực tiếp chịu trách nhiệm với kẻ thống trị các nước. Họ coi quyền mưu là sự hóa thân của trí và lý, cho rằng nó có thể phát huy không gì sánh được, với bên trong có thể làm cho nước trị dân yên, với bên ngoài có thể làm cho “chư hầu kết thân”, với bản thân thì muốn gì được nấy.
Chúng ta đều thấy trong cuộc sống đời thường, việc thu phục lòng người đâu phải dễ, huống hồ là “dùng lời nói khuất phục người”. Trong chính trị, thuyết giảng về sự thiệt hơn, lợi hại, mất còn để lèo lái các quốc gia ngả theo ý chí của mình, thì còn khó tới mức nào nữa!
Nói tới điều đó để thấy rằng những mưu thần biện sĩ Tung Hòanh gia phải có tài cán hơn người, am hiểu thời cuộc, kiến thức sâu rộng và lý luận sắc bén mới có khả năng “uốn ba tấc lưỡi” để thực hiện quyền mưu đạt kết quả. Ngoài ra những vấn đề mà họ hùng biện, thuyết giải phải có lý, hợp lẽ tự nhiên, “thuận thiên”. Thí dụ: để tránh bị thôn tính bởi một nước Tần mạnh gấp bội thì hành động hợp lý của sáu nước yếu là liên minh với nhau. Chính vì thấy được điều đó mà Tô Tần đã thực hiện thành công “hợp tung”. Trước sáu nước liên minh, Tần mất đi thế mạnh của mình. Điều hợp lẽ tự nhiên là muốn “bình thiên hạ” Tần phải tìm cách phá vỡ sự liên minh ấy. Nhưng phá bằng cách nào? Trương Nghi đã giải đáp: chỉ cần liên kết được với bất cứ nước nào trong khối liên minh ấy, cán cân lực lượng sẽ thay đổi có lợi cho Tần, và Trương Nghi đã thực hiện quyền mưu thành công, đó là "liên hoành"!
Chiến Quốc là thời ly loạn. Mối quan hệ giữa các nước, trong quá trình tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và hình thành củng cố chế độ phong kiến, là vô cùng chằng chịt những rối rắm phức tạp. Nước nào cũng cố gắng phát triển thực lực để tránh bị thôn tính đồng thời tranh giành quyền bá chủ các nước chư hầu. Vì thế mà xung đột vũ trang xảy ra liên tục. Bối cảnh ấy chính là cơ hội cho “trai thời loạn” thi thố tài năng, mưu cầu danh lợi. Tô Tần, Trương Nghi và các biện sĩ, du thuyết khác của phái Tung Hoành gia cũng không phải là những ngoại lệ. Điều đáng nói ở đây là tài năng xuất chúng của “trai thời loạn” Tô Tần và sau là Trương Nghi. Tài năng xuất chúng ấy thể hiện ở chỗ trước sự phô bày hỗn độn, họ đã quan sát, thấy được rõ ràng tình thế của thời cuộc, hiểu được, phán đoán được tâm trạng chung của vua chúa các nước, phân tích và nhận định một cách tinh tường khả năng tạo dựng một hiện thực thỏa mãn đòi hỏi bức thiết (dù là tạm thời) của một số người, phù hợp với thực tiễn lúc bấy giờ, trên cơ sở đó mà thi triển quyền mưu một cách xuất sắc, đạt kết quả mong muốn. (Chúng ta cho rằng, con người có thể tác động, và phải tác động làm nên tiến trình lịch sử nhưng không thể ảnh hưởng được đến xu thế tất yếu của nó. Chẳng hạn từ chế độ chiếm hữu nô lệ đến chế độ phong kiến là tất yếu. Thời Chiến Quốc, việc xuất hiện Hợp tung và Liên hoành không phải là tất yếu mà chỉ là khả năng, khả năng dễ xảy ra nhất. Nếu Liên hoành xảy ra trước thì việc xuất hiện Hợp tung là nhiều khả năng hơn cả, nhưng không phải là xu thế tất yếu. Nhà Tần thống nhất thiên hạ là một khả năng nhưng nếu phân tích tình hình thời cuộc ở một thời điểm nào đó (ở tình thế đã ngã ngũ chẳng hạn) thì đó lại là một xu thế tất yếu, số phận đã an bài. Một lần nữa chúng ta nhấn mạnh tính “bấp bênh”, tính tương đối của khái niệm).
Để phần nào nói lên cái cực khó trong việc thực hiện quyền mưu ngoại giao, ở cái thời mà sự sống chết của bề tôi phụ thuộc vào “ý thích” của vua chúa, chúng ta nghe “người trong cuộc” Hàn Phi nói (sách “Hàn Phi Tử", quyển bốn chương “Thuyết nan” (cái khó của du thuyết), trích theo “Sử ký” của Tư Mã Thiên):
“Cái khó trong việc du thuyết không phải là ở chỗ biết những điều cần phải đưa ra nói. Nó cũng không phải ở chỗ mình không biết biện luận. Cũng không phải ở chỗ không trình bày được rõ ràng ý nghĩ của mình. Cũng không phải ở chỗ không dám nói ngang nói dọc cho hết cái ý của mình. Phàm cái khó trong việc du thuyết chính là ở chỗ làm thế nào biết được cái tim của con người mình muốn thuyết phục để dùng cái thuyết của mình mà đối phó.
Nếu con người mình muốn du thuyết chỉ nghĩ đến cái danh cho cao, mà mình lại đem cái lợi lớn ra thuyết với họ, thì họ sẽ cho mình là bọn hèn hạ và đối xử như với bọn ti tiện. Thế là thế nào họ cũng vất bỏ ta thật xa. Nếu con người mình muốn du thuyết chỉ nghĩ đến cái lợi cho lớn, mà mình lại đem cái danh cao ra thuyết với họ thì họ sẽ cho ta không chú ý gì đến thế sự, nói chuyện viễn vông, và thế nào họ cũng sẽ không dùng. Nếu con người mình muốn du thuyết trong bụng nghĩ đến cái lợi cho lớn nhưng bên ngoài làm ra vẻ muốn cái danh cho cao mà ta đem chuyện danh cao ra thuyết thì bên ngoài họ làm ra vẻ dung nạp cái thân ta, nhưng thực ra thì bỏ rơi ta. Nhưng nếu ta đem chuyện lợi lớn ra nói với họ, thì trong bụng họ dùng lời nói của ta, nhưng bên ngoài họ sẽ vất bỏ cái thân của ta.
Đó là những điều không biết không được.
Phàm việc làm mà thành là do chỗ bí mật; lời nói mà thất bại là do chỗ bị tiết lộ. Bản thân mình chưa chắc đã tiết lộ ra, nhưng chỉ cần nói đến cái mà người ta giấu thì đã nguy đến thân rồi. Nhà vua có điều sai mà người du thuyết lại dùng những lời sáng tỏ, dùng cái nghĩa lý hay để suy luận ra sai lầm của nhà vua thì nguy đến thân.
Nếu ta chưa được ân huệ nhà vua tưới đến mà lại đem hết những điều ta biết ra nói thì hoặc là cái thuyết của ta sẽ được dùng đem đến kết quả nhưng ta chẳng được ân đức; hoặc là cái thuyết của ta đem dùng xảy ra thất bại, thế là ta bị nghi ngờ. Như thế thì nguy đến thân.
Phàm nhà vua được cái kế của ta, nhưng muốn xem đó là công lao của mình, mà người du thuyết lại muốn cùng biết, thế thì nguy đến thân. Nếu nhà vua rõ ràng muốn làm một việc gì và cho đó là công lao của mình mà kẻ du thuyết lại cùng biết điều đó thì nguy đến thân. Nếu mình cưỡng ép nhà vua bắt làm những điều nhà vua không quyết làm, bắt bỏ những điều nhà vua quyết không bỏ, thì nguy đến thân.
Cho nên nói: Nếu ta đem những người tôn quý trong triều ra nói với nhà vua, thì nhà vua sẽ cho ta là ly gián; nếu ta đem những người thấp hèn ra nói với nhà vua, thì nhà vua sẽ cho ta muốn bám quyền. Ta bàn đến cái nhà vua thích, thì nhà vua sẽ cho ta là nịnh nọt; ta bàn đến cái nhà vua ghét, thì nhà vua sẽ cho ta thăm dò nhà vua.
Nếu ta tóm tắt, ít lời, thì nhà vua sẽ cho ta không có kiến thức gì và khinh ta. Nếu ta nói mênh mông, lời lẽ phù phiếm, thì nhà vua sẽ thấy nhiều quá và chán. Nếu ta cứ trình bày sự việc theo ý muốn nhà vua, thì nhà vua bảo ta “nhút nhát, không dám nói hết sự lý”. Nếu ta suy nghĩ sự việc và nói rộng, thì nhà vua sẽ bảo ta “thô lỗ và ngạo mạn”.
Tất cả những điều khó này trong việc du thuyết không thể không biết đến.
Phàm việc thuyết phục là cốt ở chỗ biết tô điểm cho cái mà nhà vua quí trọng, từ bỏ cái mà nhà vua ghét. Hễ nhà vua tự cho cái kế mình là sai, thì ta chớ nêu chỗ nó sai lầm mà bắt bẻ đến cùng. Nếu nhà vua tự cho mình dũng mãnh ở chỗ quyết đoán một việc gì, thì ta chớ đưa ý của ta ra chống chọi để làm cho nhà vua nổi giận. Nếu nhà vua cho sức lực của mình đủ để làm một việc gì, thì ta chớ đem chuyện khó khăn ra cản trở. Nếu nhà vua muốn mưu việc gì cùng với một người khác, hay khen một người mà nhà vua cùng bàn mưu với họ thì ta nên tô điểm cho họ và chớ nói gì có hại cho họ. Nếu nhà vua và người ấy thất bại, thì hãy cố gắng tô điểm làm như họ không sai lầm.
Kẻ đại trung không dùng lời lẽ làm phật ý vua, lời can gián cũng không cốt đả kích bài bác gì ai. Sau đó mới đem cái tài biện luận và cái khôn của mình ra. Như thế cho nên gần gũi với nhà vua, không bị nhà vua ngờ vực.
Biết được cái đạo thờ vua là khó. Phải chờ đến khi nào quen biết đã lâu, đã được ân huệ nhiều, bày mưu kế sâu mà không bị nghi, cãi lại ý nhà vua mà không bị tội, lúc bấy giờ mới bày tỏ điều lợi hại, để lập được công, nói thẳng điều phải điều trái để cho cái thân mình được sung sướng. Khi nào vua và tôi đối với nhau được như vậy, lúc đó là lúc việc du thuyết thành công.
Y Doãn làm người nấu bếp, Bách Lý Hề làm người nô lệ đều do con đường hèn hạ mà gặp nhà vua. Cho nên họ đều thành đạt từ chỗ được nhà vua tin dùng. Hai người này đều là những bậc thánh nhân mà còn không thể không lấy thân mình làm tôi tớ, để bước vào đường đời một cách nhục nhã như vậy. Như thế đủ biết đó không phải là điều làm cho những bầy tôi tài giỏi phải xấu hổ.
Nước Tống có người nhà giàu. Trời mưa, tường hư hỏng. Người con nói: “Nếu không xây tường thì sẽ bị ăn trộm”. Cha của người hàng xóm cũng khuyên như vậy.
Đêm ấy, quả nhiên trong nhà mất của. Nhà ấy khen người con là khôn mà nghi cha của người hàng xóm.
Ngày xưa Trịnh Vũ Công muốn đánh Hồ, bèn gả con gái cho người Hồ. Nhân đấy, nhà vua hỏi quần thần:
- Ta muốn dùng binh, nên đánh ai?
Quan Kỳ Tư nói:
- Nên đánh Hồ.
Nhà vua bèn giết quan Kỳ Tư, nói:
- Hồ là nước anh em của ta, tại sao nhà ngươi lại nói nên đánh?
Vua nước Hồ nghe tin ấy, cho nước Trịnh là chỗ thân thiết với mình nên không đề phòng. Nước Trịnh đánh úp và lấy Hồ.
Hai điều nói trên chứng tỏ là hai người đều biết đúng sự thực nhưng người rủi nhất thì bị giết, người ít rủi thì cũng bị nghi. Như thế đủ biết cái khó không phải ở chỗ biết, cái khó là ở chỗ dùng cái biết của mình. Ngày xưa, Di Tử Hà được vua nước Vệ yêu, theo pháp luật của nước Vệ, ai tự tiện đi xe của vua là bị tội chặt chân. Được ít lâu, mẹ Di Tử Hà mắc bệnh. Có người nghe tin, đang đêm đến báo với Di Tử Hà. Di Tử Hà trái lệnh, đi ra bằng xe ngựa của vua.
Nhà vua nghe tin cho là người hiền, nói:
- Thực là người có hiếu! Vì mẹ mà phạm tội bị chặt chân.
Di Tử Hà đi chơi với nhà vua trong vườn quả. Di Tử Hà ăn quả đào thấy ngon, không ăn hết, dâng nhà vua. Nhà vua nói:
- Anh ta thật yêu ta! Quên cái miệng của mình mà nhớ đến ta.
Đến khi Di Tử Hà nhan sắc kém, lòng vua bớt yêu đi, lại phạm tội. Nhà vua nói:
- Nó đã có lần tự tiện đi xe ngựa của ta, lại có lần bắt ta ăn quả đào thừa của nó.
Cho nên việc làm của Di Tử Hà không khác, nhưng lần trước được khen là hiền, lần sau lại phạm tội. Đó là vì lòng yêu ghét hết sức thay đổi. Cho nên được nhà vua yêu thì cái khôn của mình càng làm cho mình được thân, bị nhà vua ghét thì cái tội của mình càng làm cho mình bị ruồng bỏ. Những kẻ sĩ đi du thuyết không thể không xét đến chỗ nhà vua yêu ghét cái gì, rồi sau đó mới thuyết phục.
Rồng là một vật có thể đùa bỡn, thậm chí có thể cưỡi. Nhưng ở dưới cái cổ của nó có cái vảy ngược dài một thước. Ai động đến thì bị nó giết ngay. Các vị vua chúa cũng có cái vảy ngược, kẻ du thuyết không sờ phải cái vảy ngược của vua chúa thì mới là người giỏi”.
Thế đấy! Thuyết phục vua chúa để mưu cầu danh lợi cho mình không phải dễ đâu nhé! Lạng quạng còn mất mạng như chơi!

* * *

Tài năng của Tô Tần, Trương Nghi là như thế. Và cùng với Tôn Tẫn, Bàng Quyên, họ đã làm mưa làm gió một thời trong thiên hạ.
Đào tạo được bốn học trò thuộc hàng kiệt xuất lưu sử quả là “xưa nay hiếm” và cái "biết" của Quỉ Cốc Tử tiên sinh quả thật là cao siêu, thượng thừa vậy!
Một sự biết được gọi là cao siêu, thượng thừa có nghĩa là sự biết đó đã nắm bắt được “đạo” vận hành của trời đất, đã am tường nhân tình thế thái. Chỉ có trên cơ sở sự biết như thế, Quỉ Cốc Tử tiên sinh mới truyền thụ được những kiến thức tuyệt đỉnh, làm nên những bậc thầy về du thuyết như Tô Tần, về binh pháp như Tôn Tẫn. Xét ở góc độ nhận thức tự nhiên, theo chúng ta, phải coi Quỉ Cốc tiên sinh như một hiền triết, sánh ngang hàng với những Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Mạnh tử… Tiếc rằng thân thế và sự nghiệp của ông ít được nhắc tới trong chính sử bởi cái mơ hồ, huyền ảo của nó. Nhưng nguyên nhân sâu xa rất có thể bởi cách sống của một “ẩn sĩ”, thấy rõ thời cuộc mà chán ghét thời cuộc, không trực tiếp tham gia vào cái chính trường đầy bất trắc và vô nghĩa (là không chính nghĩa mà cũng không phi nghĩa, có thể cả hai mà có thể không phải cả hai!); thích sống trong dân dã, lẫn vào hoa lá cỏ cây, “hiện” đấy mà cũng “ẩn” đấy. (Nếu Khổng Minh không nhập thế, xuống núi phò Lưu Bị thì đời này làm gì có một Khổng Minh với tài thao lược đi vào huyền thoại?!) Nói bên lề: cái thế "tam phân thiên hạ" là một khả năng tiềm tàng (có xác suất cao). Khổng Minh hơn người ở chỗ đã sớm thấy được khả năng ấy; đã từng nói với Lưu Bị rằng: “Tướng quân muốn thành nghiệp bá thì phải nhường thiên thời cho Tào Tháo ở phía bắc, nhường địa lợi cho Tôn Quyền ở phía nam, còn tướng quân thì nắm vững lấy nhân hòa. Trước hãy chiếm Kinh Châu làm nơi căn bản, sau lấy đến Tây Xuyên để dựng cơ đồ, hình thành cái thế chân vạc, rồi sau mới tính đến Trung Nguyên được”, và đã dấn thân trực tiếp thực hành quyền mưu tuyệt đích của mình để biến khả năng ấy thành hiện thực. Than ôi, thế chân vạc thì thành mà đường vào Trung Nguyên thì vô vọng! “Lượng sinh ra thời loạn, toan chịu già ở nơi rừng rú. Nhưng đội ơn Chiêu liệt Hòang Đế ba lần cầu đến, lại thừa việc thác cô rất trọng, nên phải ra sức khuyển mã để đánh giặc nước. Không ngờ tướng tinh sắp đổ, số thọ hầu tàn.” (lời Khổng Minh). Đúng là "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên" (Lập mưu là do người, thành hay bại là do trời), hay:"Người tính không bằng trời tính".
Nước chảy đá mòn, thời gian đã làm lu mờ nhiều điều, nhưng tư tưởng triết học siêu quần của Quỉ Cốc Tử vẫn tiềm ẩn trọn vẹn trong cuốn “Quỉ Cốc Tử”. Tương truyền lúc sinh thời, Quỉ Cốc Tử kết thân với Mặc Tử và Lão Tử. Xét về mặt thời gian theo chính sử thì không thể có hiện tượng ấy, nghĩa là tương truyền vừa nêu không thực. Vậy thì nó có thể hàm ý gì? Chúng ta đều biết Mặc Tử và Lão Tử được chính sử Trung Quốc xếp vào hàng những hiền triết đứng đầu những môn phái triết học. Thế thì Quỉ Cốc Tử, một người không những kết thân mà còn “đàm luận rất tương đắc” với hai hiền triết đứng đầu hai trường phái triết học ấy, dù không được chính sử vinh danh là hiền triết thì học thức của ông (chí ít!) cũng phải ngang bằng với các hiền triết. Không thể khác được!
Không thể khác được! Vâng, không thể khác được, Quỉ Cốc tiên sinh phải là hiền triết, phải là bậc thầy của bậc thầy về tư tưởng. Một hiền triết có bốn đệ tử ưu tú lưu danh sử sách mà bản thân lại xuất hiện hết sức mờ nhạt trong chính sử là một điều hết sức huyền bí, một uẩn khúc thuộc hàng lớn nhất của lịch sử Trung Hoa.
Trong chiều sâu của sự hoang tưởng, chúng ta “hình như” đã thấy rõ được sự uẩn khúc ấy. Chân lý là giản dị: Quỉ Cốc tiên sinh là một con người có thật, học thuật siêu phàm thật, hiện hữu một cách đường bệ trong lịch sử triết học của Trung hoa cổ đại với một cái tên khác. Vậy ông là ai? Chúng ta sẽ trình bày sau. Còn bây giờ, chúng ta quay lại với cuốn sách “Quỉ Cốc Tử”.
Tác giả của “Quỉ Cốc Tử” nếu không phải của Quỉ Cốc tiên sinh thì cũng phải là của một người nào đó thấm nhuần tư tưởng triết học của ông, một tư tưởng triết học uyên bác, thấu hiểu được nhiều điều về Tự Nhiên Tồn Tại; một thế giới quan vừa duy vật vừa biện chứng như cách nói của chúng ta ngày nay.
Tác giả của cuốn “Quỉ Cốc Tử” đã nhận biết được bản chất tương phản của thế giới hiện thực mà trong đó có các sự vật - hiện tượng vận động và biến đổi khôn lường. Tương phản vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của tất cả sự vận động và biến đổi ấy, đồng thời tất cả những vận động và biến đổi ấy lại là nguyên nhân và kết quả của mọi sự tương phản. Chính vì vậy mà tổng thể vận động và biến đổi mang tính chu kỳ, tuần hoàn nối tiếp nhau kéo dài như bất tận. Không những thế, tác giả còn thấy được (điều này mới thực sự quan trọng, làm nên nội dung quyền mưu thượng thừa của cuốn sách “Quỷ Cốc Tử”) sự phân định khách quan giữa chủ thể và khách thể, giữa quan sát và đối tượng quan sát trong hiện thực (môi trường), mối tương quan sinh động giữa chúng mà quan sát (chủ thể) đóng vai trò trung tâm. Còn một điều cũng không kém phần quan trọng làm nên cái “tuyệt” của cuốn sách là tác giả của nó đã nhận thức được nguyên lý tối thượng của Tự Nhiên, cái Đạo trong trời đất: vận động và biến đổi phải hợp lẽ tự nhiên, không thể “ngược ngạo”, tùy tiện được. Con người trong một chừng mực nhất định, có thể làm mất đi hoặc tạo dựng sự vật - hiện tượng nào đấy, vận động và biến đổi nào đấy, nhưng phải “thuận thiên”, hợp “Đạo”, theo như tự nhiên vốn dĩ. Có thể biến đổi dòng chảy một con sông thành cong, thẳng, quanh co nhưng không thể bắt nó tự nhiên chảy ngược dòng, từ chỗ thấp lên chỗ cao được. Một ông vua, ngồi trên đầu thiên hạ, bao giờ cũng làm theo ý chí của cá nhân mình. Nhưng nếu khéo léo, một người nào đó vẫn có thể “bắt” vua thay đổi ý chí, làm theo ý mình, dù rằng về hình thức, vẫn là ý chí vua.
Cuốn sách “Quỉ Cốc Tử” ra đời trên nền tảng tư tưởng ấy.
Không như “Tôn Tử binh pháp” chuyên bàn về quân sự, không như “Hàn Phi tử” chuyên nói về chính trị, thuật cai trị, không chỉ nói riêng về quyền mưu ngoại giao, cũng không chỉ nói về thuật thu phục lòng người (đấu pháp tâm thuật), có lẽ nên cho rằng cuốn “Quỉ Cốc Tử” là một chỉ dẫn “cách nhận biết đúng đắn về hiện thực để từ đó mà có cách ứng phó phù hợp trước hiện thực ấy, tác động làm biến đổi hiện thực ấy một cách tự nhiên. Hay có thể nói cuốn sách “Quỉ Cốc Tử” dạy cách để sống còn và thành đạt; là bí quyết, cẩm nang của cuộc sống; là “đạo sống”. Cuốn sách ấy, giản dị chỉ là như thế và chính vì như thế mà nó có thể ứng dụng rộng rãi trong cuộc sống đời thường cũng như ở bất cứ lĩnh vực nào trong đời sống xã hội. Xét dưới góc độ quyền mưu, nó như một nguyên lý tổng quát trong việc xây dựng quyền mưu và thực hiện quyền mưu chung cho quân sự, chính trị và ngoại giao.
Để chứng minh “đại ngôn” ở trên là không đến nỗi rỗng tuyếch, chúng ta sẽ đi sâu (không sâu lắm đâu!) vào nội dung của cuốn sách (chỉ là nội dung trích lược, thông qua biên dịch của Trần Sáng).
Nói chung mối quan hệ giữa sự vật - hiện tượng và môi trường (trường xung quanh nó cùng với các sự vật - hiện tượng khác ngoài nó) là mối quan hệ giữa tác động và phản ứng. Khi bị môi trường tác động thì sự vật sẽ phản ứng, tác động lại môi trường và ngược lại khi sự vật tác động vào môi trường thì môi trường cũng sẽ phản ứng lại. Phản ứng là quá trình vận động nội tại của vật đang ở trạng thái cân bằng (tương đối được cho là đủ phù hợp, thích nghi tương đối với môi trường) bị đe dọa mất cân bằng do tác động nào đó (của môi trường, của bản thân nội tại vật …) và cố giữ vững cân bằng (duy trì trạng thái cân bằng cũ hoặc “tìm” trạng thái cân bằng mới). Phản ứng ở thế giới vô cơ là nguồn gốc của cảm giác của thế giới sinh vật, và đối với con người trên Trái Đất này là năm giác quan. Nhờ có năm giác quan và bộ não biết tư duy mà con người có thể quan sát và nhận biết, hiểu được tương đối thế giới hiện thực. Mỗi con người là một chủ thể quan sát. về mặt thành phần cấu tạo, về cấu trúc hình thể nói chung là giống nhau nhưng cũng có những dị biệt do thí dụ như không cùng ngày sinh, nơi sinh, không cùng huyết thống, phát triển trong môi trường khác nhau… và đặc biệt là trình độ học vấn khác nhau, kinh nghiệm khác nhau, do đó mà dù cùng một góc độ quan sát thì các chủ thể quan sát thực tại khách quan cũng sẽ “thấy” các hiện thực, hiện hữu có những nét không giống nhau. Một thực tại khách quan qua quan sát và nhận thức, trở thành một hiện thực chủ quan (mang nặng tính chủ quan), méo theo quan niệm của chủ thể quan sát. Méo ít hay nhiều là tùy thuộc vào tâm sinh lý và năng lực của quan sát và nhận thức. Quan sát sai lầm về hiện thực sẽ đưa đến nhận định sai lầm và hành động sai lầm.
Muốn hành động đúng đắn trong đời sống, muốn thực hiện quyền mưu đạt hiệu quả thì phải lường được trước sự việc (cân nhắc, lượng định, chọn phương thức tác động, lập kế hoạch…) và tổ chức thực hiện (chuẩn bị dụng cụ đồ nghề, tập trung lực lượng, bố trí công việc…). Nhưng để lường trước sự việc thì việc đầu tiên là phải quan sát (dòm ngó, theo dõi, thu thập thông tin…) và nhận định (tình thế hiện tại, tương quan lực lượng, chiều hướng phát triển có thể…) một cách đúng đắn.
Làm sao có thể quan sát, nhận định được đúng đắn như vấn đề là thế trước một hiện thực với vô vàn sự vật - hiện tượng quan hệ chằng chịt nhau, phụ thuộc nhau, vận động và biến hóa không ngừng?
Quyển hạ của cuốn sách “Quỉ Cốc Tử” trả lời câu hỏi trên.
Quyển hạ có hai phần là “Trì khu” và “Âm phù”.
Trì khu chính là quan sát. Quan sát không đơn thuần là chỉ nhìn bằng mắt mà là “nhìn” bằng cả năm giác quan, là “biết” nhìn. Biết nhìn thì vừa nhìn thấy xa, rộng, vừa nhìn thấy cái cụ thể, tỉ mỉ. Đứng xa quá thì chỉ nhìn thấy rừng, đứng gần quá thì chỉ thấy cây, đứng đúng chỗ sẽ nhìn thấy cả rừng lẫn cây. Biết nhìn là học hỏi ở quá khứ mà thấy được sâu sắc ở hiện tại (ôn cố tri tân), biết mình biết người (“biết được người là khôn, biết được mình mới là sáng suốt”, Lão Tử). Biết nhìn là biết lắng nghe, biết tìm hiểu, biết lấy cái nhìn của muôn người trong thiên hạ làm cái nhìn của mình, và như thế sẽ được cái quan sát “thiên lý nhãn”, “thuận phong nhĩ”, “vạn linh tâm”. Từ đó mà thấy được luật sinh thành, biến hóa của vạn vật, luật tự nhiên vận hành của trời đất, thấy được trạng huống của hiện thực, hiện hữu và thấy được tiến trình biến đổi của chúng cũng như khả năng tác động vào tiến trình biến đổi ấy.
Quan sát được như thế mới mong thấy được cái vốn dĩ thế của hiện thực, của đối tượng quan sát.
Nhưng muốn quan sát được như thế thì phải làm sao kìm hỏa được cái mù mờ của chủ quan đi, giảm thiểu hoặc loại bỏ sự ảnh hưởng của nó vào quá trình quan sát. “Âm phù” chỉ ra cách thực hiện vấn đề khó khăn này.
Một con người mà yếu đuối, bệnh tật thì ngũ quan sai lạc; không chịu học hành, để mặc cho bị ngu dốt thì không thể biết nhìn, như thế, sẽ không thể nào quan sát thông tỏ được. Vậy thì việc đầu tiên trên con đường hoạn lộ của một đời người, bước đầu tiên của mưu cầu danh lợi là tu thân, luyện tâm.
Bản kinh có nghĩa là bài văn nhưng cũng có thể hiểu như bài hướng dẫn, bí quyết. Âm phù, có lẽ nên hiểu như là làm cho cái bên trong, cái nội tại, nội tâm đạt đến thông tuệ hòa hợp với tự nhiên, như nhiên. Nếu đúng như thế thì “Bản kinh Âm phù” là bản hướng dẫn cách tu luyện thân, tâm hay bí quyết (phương pháp) suy nghĩ đúng đắn.
Bản kinh Âm phù nêu lên bảy bước thực hành rèn luyện nội tâm.
Thứ nhất là “Thịnh thần ngũ long pháp”. Thịnh là đầy đủ, sung mãn; thần là tinh khí, sức khỏe. Ngũ long là năm con rồng, ám chỉ ngũ hành, ngũ quan của con người; pháp là phương pháp. Nghĩa là nuôi dưỡng tinh thần đạt được sung mãn dồi dào bằng phương pháp ngũ long.
Quan niệm của Trung Hoa cổ đại cho rằng Vũ Trụ hình thành bởi năm yếu tố, gọi là ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ: năm yếu tố ấy tương khắc, tương thành với nhau mà sinh ra vạn vật vận động biến hóa không ngừng. Chúng còn được gọi là ngũ long, năm con rồng tượng trưng cho thần thông biến hóa, hay cũng được gọi là ngũ khí.
Con người là tiểu vũ trụ, ngũ khí vận hành trong đó thể hiện ra như ngũ tạng (tim (hỏa), gan (mộc), tỳ (thổ), phế (kim), thận (thủy)), và phát xuất ra thành ngũ giác, gọi là thần minh.
Muốn quan sát tốt thì ngũ giác phải tinh nhạy, muốn ngũ giác tinh nhạy thì phải luyện tâm, rèn luyện thân thể, văn ôn võ luyện (đạo thuật?!). Một tinh thần sáng suốt (phẩm đức) cùng với một thân thể khỏe mạnh (tài năng) sẽ làm cho ngũ giác trở nên tinh tường, phân biệt được đúng đắn, tinh nhạy, góp phần làm nên chí, tưởng, thần, đức (nhận thức đúng đắn).
Thứ hai là “Dưỡng chí linh qui pháp”. “Dưỡng chí” là nuôi dưỡng ý chí; “linh qui” là con rùa linh, cũng hàm ý là sự kiên nhẫn. “Dưỡng chí linh qui pháp” là luôn bồi dưỡng tâm chí theo phương pháp linh qui. Muốn tu thân, luyện tâm đến thành đạt thì phải biết nuôi dưỡng ý chí. Nếu không kiên định được ý chí sẽ không có được sự kiên nhẫn để vượt qua gian khổ trong quá trình tu thân, luyện tâm. Ở đây, tác giả đã có cách nhìn biện chứng về mối quan hệ giữa dưỡng chí với tu thân, luyện tâm. Không có ý chí mông lung; ý chí luôn có mục đích cụ thể. Nuôi dưỡng ý chí thúc đẩy cho tu thân, luyện tâm thông đạt; tu thân, luyện tâm thông đạt để tạo tiền đề thực hiện mục đích của ý chí. Một mục đích viển vông, hư ảo sẽ không nuôi dưỡng được ý chí, như vậy sẽ không đủ kiên nhẫn để vươn tới thông đạt và tất cả sẽ trở nên vô dụng, vô ích.
Nếu mục đích cao cả là ước vọng của ý chí thì thèm khát tầm thường là dục vọng của bản năng. Dục vọng luôn quấy phá ý chí làm cho ý chí tiêu trầm. Ý chí bị tiêu trầm bởi không biết nuôi dưỡng ý chí, tâm thần chưa thống suốt và nghĩa là “luyện thần” chưa đạt.
Tâm và thần hợp nhất, an định thì dưỡng được chí, nuôi chí bền. Ý chí kiên định thì oai thế không bị phân tán, tưởng như có thần minh trấn thủ, gần gũi và phát huy được tài năng để thi triển quyền mưu.
Thứ ba là “Thực ý đằng xà pháp”. Hiểu nôm na là ý nghĩ phải rõ ràng, mạch lạc, không mơ hồ, rối loạn. Tâm an tĩnh thì tinh thần sáng tỏ, tinh thần sáng tỏ thì ý nghĩ không bị tán lọan, ý nghĩ không tán loạn thì sẽ suy nghĩ được rành mạch mà uyển chuyển nên cũng sâu, xa; suy nghĩ càng sâu xa thì nhận định càng sắc sảo, đúng đắn.
Thứ tư là “Phân uy phục hùng pháp”. Phân là ảnh hưởng xa, uy là tỏ cái lớn mạnh, hùng là con gấu, phục là nằm, nấp, rình; Phân uy phục hùng pháp được hiểu như là làm cho nội lực lớn mạnh như con gấu nằm chờ (thời cơ). Nội lực lớn mạnh ở đây chỉ việc tích lũy trau dồi kiến thức, học vấn đầy đủ, dồi dào, toàn diện (văn võ song toàn). Nhờ có ý chí kiên định mà chuyên cần trong tu thân, luyện tâm và thông qua tu thân, luyện tâm mà có nội lực đầy uy phong, có sức mạnh toàn diện, khi phân thì có uy, khi động thì có thế, gặp sự cố biết nhanh chóng tùy cơ ứng biến, lấy thực thủ hư, lấy hư thủ không, liên miên bất tận, khi động thì tùy, khi xướng thì họa.
Thứ năm là: “Tản thế chí đảo pháp”. “Tản thế” là phân tán, dàn trải thế lực; “chí đảo” là hành động dũng mãnh, nhanh nhẹn bắt mồi của con chim chí. Ý nghĩa bước này là: phải biết vận dụng học lực một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt, tinh thông, sắc sảo. Suy nghĩ, nhận biết vừa bao quát, vừa cụ thể, nhẹ nhàng như gió thoảng mây bay, tự nhiên như bèo trôi nước chảy mà thấy được thực hư, mà thấy được thiên cơ.
Thứ sáu là: “Chuyển viên mãnh thú pháp”. Trí tuệ toàn thiện là của bậc thánh nhân. Trí tuệ toàn diện sẽ đạt được sự suy nghĩ an định, hồn nhiên, uyển chuyển mà cao siêu tương tự như hình tượng vận động hợp lý nhẹ nhàng, tự nhiên mà hiệu quả đến mức viên miễn của một con mãnh thú. Trên một nền tảng trí tuệ đã được rèn đúc vững vàng, bậc thánh nhân có thể thấy được đạo lý trong sự hỗn độn của vạn vật, quan sát cái biểu hiện vận động biến hóa bên ngoài mà thấu triệt được cái động lực bên trong của sự vật - hiện tượng, từ đó mới lường định, đề ra mưu sách phù hợp làm biến chuyển tình thế từ yếu thành mạnh, từ xấu thành tốt…
Cuối cùng là “Tổn đoái linh thi pháp”. “Tổn” là tổn hại, “đoái” là nhìn, suy xét; thi là cỏ thi, người xưa dùng cỏ này để bói toán gọi là bói cỏ thi, linh là linh nghiệm; linh thi là bói toán linh nghiệm hay có thể suy ra là phán đoán tài tình. Có thể hiểu “Tổn đoái linh thi pháp” là xem xét, cân nhắc lợi hại, thiệt hơn để phán đoán đúng đắn, chính xác mà đi đến quyết định. Thành bại là thường tình cho nên cân nhắc lợi hại, thành bại để quyết tâm theo đuổi hành động, “thất bại là mẹ thành công”, chịu cái tổn nhỏ để đạt cái lợi lớn, “thua keo này bày keo khác”, không chùn bước trước thất bại tạm thời mà bỏ mất cơ hội thành công. Sự việc dù khó dù dễ đều phải cân nhắc kỹ càng để có được phương sách hợp với lẽ tự nhiên, hợp với đạo lý vì chỉ có như thế mới có thể làm nên công trạng.
Thánh nhân thường không biện luận nhiều, ít nói những điều vụn vặt vì lòng họ sáng tỏ, ý chí vững vàng, tâm thần an định.
Qua trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, tác giả của “Quỉ Cốc Tử” đã hiểu thấu đáo mối quan hệ giữa cảm tính và lý tính của con người, thấy được tầm quan trọng của tư duy đúng đắn trong quá trình quan sát, nhận thức chân lý. Đọc quyển hạ, chúng ta còn thấy hiện lên bàng bạc sự hình thành cũng như qui luật của tư duy trừu tượng. Thật là kỳ lạ!
Chúng ta tiếp tục “nhòm ngó” đến quyển thượng và quyển trung (nhưng chỉ vài thiên mà chúng ta cho là quan trọng thôi). Hai quyển này nói chung là bàn về thực hành quyền mưu, linh hoạt sử dụng mưu kế phù hợp (có lẽ khi chú giải, người ta chỉ chú ý đến vấn đề quyền mưu nên chưa thấy được hết ý nghĩa lớn lao của chúng). Tuy vậy chúng ta vẫn thấy rõ nét cái thế giới quan duy vật biện chứng, nói chung là đúng đắn cũng như cách nhìn kỳ tài của tác giả về đối nhân xử thế, về nhân tình thế thái.
Muốn làm nên một cái gì đó, con người luôn phải thể hiện cả hai mặt suy nghĩ và hành động; suy nghĩ đúng và hành động có lý trí. Một khi đã suy nghĩ kỹ, đã thiết lập được kế sách, xây dựng được về quyền mưu rồi thì con người phải “bắt tay” hành động thực hiện từng bước những mưu đồ đã hoạch định. Nếu cho rằng quyển hạ hướng dẫn suy nghĩ đúng, cơ sở để có cái nhìn đúng đắn về hiện thực để lượng định ra quyết sách thì quyển trung và hạ hướng dẫn cách thức hành động đúng trong quá trình thực hiện quyền mưu, lựa chọn áp dụng mưu kế phù hợp để đạt kết quả, giành thắng lợi.
Mở đầu quyển thượng là thiên mang tựa đề: “Bãi hạp chi thuật”
“Bãi là mở, hạp là đóng. Thuật bãi hạp là thuật đóng mở, mở đóng, đóng mở… Bãi là hành động tích cực, hạp là hành động tiêu cực.”
(trong phần này, những đoạn trong ngoặc kép là trích trong “47 Quỉ kế” của Trần Sáng)
Bản chất tương hỗ của thế giới thể hiện ra thành các sự vật - hiện tượng được hình thành, cấu tạo nên từ những lực lượng tương phản. Tương phản trở thành như đặc tính phổ quát nhất của tồn tại và vận động. Điều này đã được các hiền triết của Trung Hoa cổ đại thấy từ rất sớm, trước thời Xuân Thu. Họ đã đưa ra hai chữ âm và dương để mô tả tính tương phản của thế giới. Có lẽ nhân loại sẽ mãi mãi ghi công họ vì hai khái niệm tài tình ấy.
Âm, dương là để chỉ hai mặt, hai thuộc tính, hai lực lượng, hai yếu tố… tương phản nhau, biểu hiện ra từ sự vận động của các sự vật - hiện tượng. Người Trung Hoa xưa cho rằng đó là hai yếu tố, hai khí căn bản của Vũ Trụ. Chúng tác động, chuyển hóa lẫn nhau, mà nên vạn vật.
“Hai khí này là chủ tể của vạn vật, có khi khí âm mạnh, có lúc khí dương mạnh; có khi mềm yếu, nhu nhược, có lúc cứng rắn, cương cường; có lúc duỗi ra, có khi thu lại; có khi bộc lộ, khai mở, có lúc ẩn tàng, che dấu; có khi nhanh chóng, khẩn trương; có lúc chậm chạp, ung dung.
Dương khí truy cầu âm khí và âm khí truy cầu dương khí. Âm khí phát triển thành cực điểm thì thành dương khí. Dương khí phát triển đến cực điểm thì thành ra âm khí”.
Thuật bãi hạp dựa trên nguyên lý âm dương, lấy nguyên lý âm dương làm nền tảng lý luận.
Chúng ta biết rằng âm dương, ngũ hành, bát quái là vũ trụ quan và nhân sinh quan của Kinh Dịch. Những triết gia quan niệm theo Kinh Dịch tập hợp lại thành phái “Dịch học”. Chúng ta còn biết rằng Quỉ Cốc tiên sinh là người cũng rất am tường thuật số (nhật nguyện tượng vĩ đều thu ở bàn tay, xem việc trước, đoán việc sau, nói gì cũng linh nghiệm). Vì vậy chúng ta phán đoán rằng tác giả của cuốn “Quỉ Cốc Tử” phải là người nếu không sáng lập hoặc góp phần sáng lập thì cũng theo Dịch học phái, thuộc hàng siêu quần.
Nguyên lý âm dương là nguyên lý tự nhiên, vốn thế của trời đất, hết mưa thì đến nắng, hết nắng rồi lại mưa, bốn mùa xuân hạ thu đông lần lượt chuyển hóa bất tận, có thịnh thì có suy, hết suy rồi đến thịnh, thời cuộc cứ thế mà vô vi, vô thường.
Thuật mở-đóng chính là phương châm hành động tuân theo nguyên lý âm dương; tùy điều kiện hoàn cảnh, tùy lúc mà cương nhu co duỗi cho phù hợp, cương đấy mà nhu đấy, nhu đấy mà hóa ra cương, co để duỗi mà duỗi không được thì co; được thì mở, không được thì đóng, mở nhưng lại là đóng, đóng lại hóa ra mở, mở mở úp úp; úp úp mở mở, biến hóa khôn lường, liên tu kỳ tận.
“Người hiểu rõ đạo lý âm dương của trời đất vạn vật, thủ đắc được thuật bãi hạp thì đạt được lợi ích và thành tựu. Nếu sử dụng thuật này thành thạo, ảo diệu thì gọi là bậc tiên tri, tiên giác.
Người cao minh vận dụng ảo diệu thuật bãi hạp trong lãnh vực du thuyết không chỉ thuyết phục được một người, một nhà mà còn thuyết phục được cả một nước, cả thiên hạ”.
Rõ ràng thuật bãi hạp như là nguyên tắc chung nhất cho mọi hành động đối nhân xử thế, mọi hành động tranh quyền đoạt mưu, thực hành mưu kế. Nếu không theo nguyên tắc này thì hành động trở nên máy móc, khô cứng, không phù hợp, dễ để lộ mưu kế và dễ thất bại.
Xét theo nghĩa hẹp thì, bãi hạp là tên chung của hàng loạt rất nhiều mưu kế. Chẳng hạn “dương đông kích tây”, “không tiến thì lùi”, “hư thực”, “hư trương thanh thế”… đều thuộc bãi hạp.
Thiên thứ hai thuộc quyển thượng mang tên “Phản ứng chi sách”.
Tất cả mọi sự vật - hiện tượng luôn phản ứng khi bị tác động. Đó là luật của tự nhiên. Tác giả đã phát hiện được mối quan hệ phổ biến tác động - phản ứng giữa các sự vật - hiện tượng, trên cơ sở đó mà đề ra phản ứng chi sách.
Khi bị tác động, sự vật - hiện tượng phản ứng không dưới hình thức này thì cũng hình thức khác, không thể không phản ứng. Quan sát sự phản ứng ấy có thể phán đoán nhận biết được cái đằng sau, cái bên trong bị che khuất, ẩn giấu. Để được điều đó, phải quan sát kỹ càng, nhưng yếu tố có tính chất quyết định là chủ thể quan sát phải có một hiểu biết, kinh nghiệm nhất định, đã từng trải hoặc đúc kết được kinh nghiệm quá khứ (ôn cố tri tân).
“Phản là biết quá khứ, ứng là biết hiện tại.
Những gì hợp với hiện tại thì giữ gìn và ứng dụng, cái gì không còn thích hợp với hiện tại thì loại trừ.
Phải tìm hiểu quá khứ mới hiểu được hiện tại, hiểu được hiện tại mới biết được tương lai”.
“Ngày xưa, người ta săn muông thú trước là giăng bẫy, bủa lưới, sau đó người ta ném đá hay đánh vào đá hoặc một vật gì đó, làm cho muông thú hoảng sợ, phản ứng, chạy ra khỏi hang ổ, nơi ẩn nấp và sa vào lưới.
Do đó, có thành ngữ “đấu thạch vấn lộ” (ném đá hỏi đường). Là đánh động sau đó quan sát sự phản ứng; thăm dò động tĩnh của đối tượng và từ đó suy ra hành động”.
“Trong đối thoại, khi đối tượng phát ngôn, ta nên lắng nghe và lưu ý, xét kỹ về thái độ, sự tình, đạo lý, sách lược. Thái độ là vui, buồn, giận, ghét…
Lý luận là chỗ nào hợp lý, chỗ nào không hợp lý. Sự tình chỗ nào là thật, chỗ nào là giả.
Đạo lý, sách lược thì đâu là sự tương đồng, đâu là không tương đồng”.
Câu chuyện Tôn Tẫn giả điên (kế “giả si bất điên”) lột tả được ý nghĩa của thiên này.
Chúng ta nói về thiên thứ bốn: “Hư khích chi sách”.
“Hư khích chi sách” là sách lược tìm hoặc tạo ra chỗ sơ hở, điểm xung yếu của đối tượng, để tìm cách tác động vào đối tượng, làm thay đổi tình thế; đồng thời phát hiện kẽ hở, điểm xung yếu của mình để che đậy, tìm cách khắc phục.
Giữa các sự vật hiện tượng luôn tồn tại mối quan hệ tác động - phản ứng làm biến đổi lẫn nhau. Xét về mặt duy trì tồn tại thì giữa chúng còn có mối quan hệ mạnh - yếu và theo luật tự nhiên: mạnh được, yếu thua. Sự biến đổi phổ biến của các sự vật - hiện tượng bộc lộ một điều rằng chẳng có sự vật - hiện tượng nào được gọi là toàn thiện tuyệt đối cả và điểm bắt đầu biến đổi chính là điểm yếu, là yếu huyệt trước một tác động nào đó. Điểm yếu đó tồn tại một cách tự nhiên, có sẵn (do tác động của quá khứ để lại) hoặc được tạo ra (do tác động của hiện tại làm xuất hiện).
Thiên này được viết trên cơ sở nhận thức ấy của tác giả.
Người giỏi quyền mưu là người quan sát giỏi, phân tích nhận định hay, phát hiện kịp thời nơi xung yếu nhất, yếu huyệt của đối tượng để tổ chức hành động phù hợp, đạt hiệu quả cao. Nhưng trước hết phải thấy được bản thân mình để tự kiện toàn (nội kiện chi sách).
Trong trò chơi cờ tướng hay cờ vua, vấn đề quyền mưu nói chung và vấn đề tìm, tạo cơ sở nói riêng thể hiện rất rõ nét:
“Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ
Kiên quyết không ngừng thế tiến công
Lạc nước hai xe đành bỏ phí
Gặp thời, một tốt cũng thành công”.

“Vốn trước hai bên ngang thế lực
Mà sau thắng lợi một bên dàng
Tấn công phòng thủ không sơ hở
Đại tướng anh hùng mới xứng danh”.
(Hồ Chí Minh)
Đó chính xác là quyền mưu đối chọi với quyền mưu, hai lực lượng đối kháng nhau (tương - phản, âm – dương) để giải quyết vấn đề thắng thua; là nghệ thuật phát hiện điểm yếu, hoặc lập thế tạo điểm yếu của đối phương, khai thác triệt để sai lầm của đối phương, làm hình thành nên mối tương quan “ta mạnh - địch yếu”, tiến tới giành thắng lợi chung cuộc.
Sự phân định ra quan sát, hiện hữu, hiện thực hay chủ thể, khách thể (một cách tương đối gồm sự vật - hiện tượng và môi trường) là một tất yếu khách quan đối với nhận thức. Trong quyền mưu, một cách tự nhiên, cũng phân ra như vậy. Đối với trò chơi cờ tướng hay cờ vua cũng thế, cũng phân ra chủ thể quyền mưu (người thực hiện quyền mưu), khách thể quyền mưu (người chịu tác động của quyền mưu) và trường quyền mưu (môi trường để quyền mưu thi triển, thi hành mưu kế mà ở trường hợp này là bàn cờ).
Trong thực tiễn xã hội, việc lập quyền mưu và thực hiện quyền mưu, so với chơi cờ, khó khăn hơn gấp bội phần. Lúc này đối tượng của quyền mưu không chỉ là một mà có thể là hai hoặc nhiều, trường quyền mưu là thiên biến vạn hóa không chỉ bởi những yếu tố thuộc về con người, thuộc về xã hội mà còn do những yếu tố của thiên nhiên (mang tính khách quan), như: địa hình, địa vật, thời tiết… trong không và thời gian; tính rộng lớn của trường quyền mưu cũng như qui mô lực lượng đối tượng của quyền mưu.
Trong thực tiễn đấu tranh quyền mưu, chủ thể quyền mưu cũng đồng thời là khách thể quyền mưu, do đó việc phát hiện, tạo ra điểm yếu của đối tượng hoặc che giấu, khắc phục điểm yếu của bản thân là không phải dễ dàng, đòi hỏi rất cao về trí tuệ và thực sự trở thành một “thứ” nghệ thuật (nghệ thuật ứng xử, nghệ thuật chiến tranh, nghệ thuật ngoại giao…), cũng đòi hỏi rất cao về kỹ năng kỹ xảo, nghi binh, hóa trang, đóng kịch, dàn cảnh…
Nếu lấy yếu địch mạnh, lấy ít đánh nhiều, lấy sở đoản chống sở trường mà giành được thắng lợi, đó là nghệ thuật quyền mưu của những nhà thao lược có tài, của những thiên tài, hiểu rất rõ mối tương quan “ta mạnh - địch yếu”, nắm bắt kịp thời huyệt điểm của đối phương bộc lộ từng lúc, từng nơi trong quá trình đấu tranh quyền mưu.
Phát hiện sai lầm điểm yếu của đối tượng (có thể là do tài năng, có thể là do bị đối tượng dẫn dụ) là con đường dẫn đến tai họa.
Thiên thứ bảy trong quyển trung là: “Quyết sách chi thuật”. Quyết sách chi thuật được hiểu như là thuật cai trị, hay là cơ sở xây dựng đường lối chính sách của một nước sao cho giàu mạnh, quốc thái dân an.
Chúng ta đề cập đến thiên này để thấy được cái tâm sáng ngời của tác giả.
“Quyết sách là một vấn đề rất trọng yếu, quyết định đến họa phúc, thành bại, thái bình hay loạn lạc.
Là một trong những phương pháp tìm cái tốt, hạnh phúc và tránh cái xấu, tai họa”.
“Cái ác luôn chứa mầm tai họa, hoạn nạn. Để ngăn chặn cái ác, tai họa, hoạn nạn; người cai trị đất nước không chỉ biết năm phương pháp trị dân mà còn phải biết những trường hợp phải quyết định (ra quyết sách – NV).
Năm phương pháp trị dân là:
1- Dùng đạo đức để cảm hóa nhân dân
2- Dùng pháp luật để trừng phạt (những người làm điều ác, trái với pháp luật)
3- Dùng tín nghĩa giáo hóa nhân dân
4- Dùng cái tâm để che chở nhân dân
5- Dùng sự liêm khiết để nhân dân trong sạch”
Trong cái thời Xuân Thu - Chiến Quốc đầy ly loạn, chiến tranh triền miên, khốc liệt và tương tàn mà có được tư tưởng trị quốc ấy thì chỉ có thể đánh giá rằng tác giả có tầm nhìn sâu rộng về thời cuộc, đầy lòng nhân hậu, yêu thương con người mà cụ thể là quần chúng nhân dân. Hơn nữa, nhìn thấu thời cuộc và đề ra được các cách thức làm cho quốc thái dân an vô cùng chí lý ấy, còn phải là người nhận thức rất sâu sắc những nguyên lý thuộc hàng cơ bản nhất về vận động của tự nhiên đã chuyển hóa thành đặc thù trong đời sống xã hội. Trong chính sử, theo thiển ý của chúng ta, người như thế chỉ có thể là Lão Tử. Nếu đúng vậy, giữa Quỉ Cốc Tử và Lão Tử phải có mối quan hệ nào đó rất gần gũi, rất đặc biệt về tư tưởng!
Nước non mạnh hay yếu đều do dân mà ra cả, dân theo thì mạnh mà dân không theo thì yếu. Muốn dân theo thì phải làm cho dân yêu kính, mến phục. Muốn cho dân yêu kính, mến phục thì phải có lương tâm đối với dân, hiểu được nguyện vọng tha thiết của dân, (cũng là những con người như ta, chỉ muốn ấm no, hạnh phúc) mà thành tâm giúp dân. Dân giàu thì nước mạnh, đó là cái lẽ tự nhiên của muôn đời.
Muốn được như thế, vị quân chủ của một nước phải có một quyết sách cai trị hợp lòng dân (đảm bảo quyền lợi của toàn thể, trong đó có vị quân chủ, hay là của ông vua). Để có được một quyết sách hợp lòng dân thì vị quân chủ phải là minh chủ, vừa có “đạo” vừa có “đức”, nghĩa là vừa có tài năng, vừa có “kiêm ái” (yêu thương con người).
Quan niệm trị quốc của tác giả cuốn “Quỉ Cốc Tử” đến thời đại ngày nay vẫn hừng hực tính thời sự. Nạn “tham nhũng, quan quyền” vẫn đang là nỗi nhức nhối của nhiều quốc gia.
Thiên cuối chúng ta muốn đề cập đến là thiên thứ tám của quyển trung, có tực đề: “Phù ngôn chi thuật”.
Ngôn là ngôn từ, lời nói; phù nghĩa là phù hợp; phù ngôn có nghĩa là nói năng phù hợp. Phù ngôn chi thuật là cách nói sao cho hợp lý, đúng đắn. Chỉ có những người biết “đạo”, biết “nhân” mới có cách ăn nói hợp tình hợp lý, thuyết phục được người nghe; lời nói mà chân thành thì làm cho người nghe yêu mến, tin theo. Bậc quân chủ, ở địa vị trên cao lại càng phải biết cách ăn nói vì nó cũng là thuật phòng thân.
Để có được cách ăn nói phù hợp thì:
“Thái độ của bậc quân chủ phải: An (yên ổn), Từ (từ tốn), Chính (ngay thẳng), Tĩnh (bình tĩnh, tỉnh táo).
Là bậc quân chủ: mắt phải sáng suốt, tai phải minh mẫn, tâm thần phải trí huệ.
Phải lấy mắt của thiên hạ để nhìn, lấy tai của thiên hạ để nghe, lấy tâm thần của thiên hạ để suy nghĩ.
Lấy mắt của thiên hạ để quan sát, lấy tai của thiên hạ để phán đoán, lấy tâm thần của thiên hạ để lo lắng.
Nhìn thiên thời, quan sát địa lý, làm cho nhân hòa.
Định vị hỏa tinh, nhìn bốn phương, trên dưới, phải trái, trước sau.
Nếu mắt, tai, tâm được như vậy thì gọi là thiên lý nhãn, thận phong nhĩ và vạn linh tâm.
Đối với quần thần không nên cố chấp, biết lắng nghe những lời đàm luận. Nếu không lắng nghe khác nào có mắt nhìn núi nhưng không thấy đỉnh, thấy suối khe nhưng không lường được nông sâu.
Đối với thần dân phải giữ chữ tín. Xử phạt phải công chính.
Nếu bậc quân chủ không hiểu những đạo lý vừa nêu thì không khác người mù đánh xe không biết sẽ đi về phương nào”.

* * *

Cuốn sách “Quỉ Cốc Tử” trở thành bất hủ, được mang danh là thiên cổ kỳ thư là nhờ cái nội dung sáng tỏ mà thâm trầm, dung dị mà sâu sắc, tưởng là chỉ nói về ứng xử, quyền mưu mà hóa ra hàm chứa những nguyên lý cơ bản nhất về tự nhiên - xã hội. Có được như thế là nhờ tác giả của nó đã có sự nhận thức nói chung là đúng đắn về những biểu hiện có tính nguyên lý, qui luật đặc thù của Tự Nhiên Tồn Tại, có cái nhìn hợp lý về nhân sinh. Có lẽ đối với tác giả, cái đạt trong đối nhân xử thế, trong tranh đoạt quyền mưu chỉ xoay quanh một chữ PHÙ (phù hợp, hợp lý, hợp lẽ tự nhiên): mục đích phù hợp, suy nghĩ phù hợp, hành động phù hợp, và đó cũng chính là con đường của tự nhiên dẫn đến nhân nghĩa: phù hợp với ước nguyện của quần chúng, lực lượng vô địch, có thực mà vô danh, làm nên lịch sử.
Lấy dân làm gốc và chăm lo cho cái gốc ấy, đó là tuyệt đỉnh quyết sách mà cũng là tuyệt đích của hành động nhân nghĩa.
Chúng ta không biết chắc chắn tác giả “Quỉ Cốc Tử” là ai. Nhưng dù là ai đi nữa mặc lòng, cũng vẫn là... Quỷ Cốc tiên sinh.
Thưa Quỷ Cốc tiên sinh, ông là ai?
Và bốn bề im lặng trước câu hỏi có phần ngô nghê, mù tịt và kỳ dị ấy!

* * *

Chúng ta đã nói xong về cái nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc đặt chương này có cái tên là Đóng - mở. Và rồi, cái sự kể lể dông dài ấy, vô tình, cũng làm nên nội dung của chương.
Lịch sử loài người là một viện bảo tàng vĩ đại về nhận thức Tự Nhiên, đầy ắp những điều kỳ thú, bạt ngàn hoa thơm cỏ lạ, vô vàn những kỳ quan. Những kẻ nghèo hèn, không đủ tiền "mua vé” mà lại ước mơ được du lịch đó đây, thì chỉ cần mượn đâu đó (trong thư viện chẳng hạn) những quyển sách nói về lịch sử - văn hóa nhân loại, và “chịu khó” thả cho tâm hồn bay bổng một chút là sẽ có ngay một cuộc tham quan thỏa thích, tha hồ mà chiêm ngưỡng những cảnh quan tuyệt tác, tha hồ mà thưởng thức những của ngon vật lạ ở khắp nơi, ở khắp mọi dân tộc, không những ở hiện tại mà còn ở những thời điểm xa lắc thậm chí là tít tắp tận thượng nguồn (hay hạ nguồn?) quá khứ. Để ngắm nghía, chiêm nghiệm cho hết được mọi thứ trong viện bảo tàng vĩ đại ấy, một đời người là không thể xuể được. Còn nếu có đủ tiền sắm được cái máy tính thì...thôi rồi!!!
Viện bảo tàng vĩ đại ấy cũng chính là trường học vĩ đại của thế hệ hiện tại, bởi vì con người học từ đâu nếu không từ những bài học của lịch sử con người, của tổ tiên? Thế tổ tiên chúng ta học từ đâu? Học từ Thượng Đế! Chính xác là như vậy, chỉ có điều Thượng Đế là một huyền thoại, là cái tên tỏ lòng tôn kính mà tổ tiên chúng ta dùng để ca ngợi hiện thực. Còn hiện thực là gì thì chúng ta… biết rồi, khổ lắm nói mãi.
Trong cái viện bảo tàng vĩ đại ấy, có một khu vực rực lên hết sức đậm nét về bản sắc con người, đó là lịch sử Trung Quốc. Nếu cho rằng về đại thể, lịch sử nhân loại là lịch sử quyền mưu của con người đối với thiên nhiên thì lịch sử Trung Quốc là lịch sử quyền mưu của con người đối với con người. Ở đó phô bày tất cả những gì là đặc sắc nhất, quí giá nhất về quyền mưu và nhờ đó mà có thể thấy hết được những đặc tính mà con người vốn có.
Nhân dân Trung Quốc thật đáng tự hào về những cống hiến của họ cho nền văn minh nhân loại.
Chúng ta tạm dừng bước phiêu bồng cho bộ não hoang tưởng của chúng ta nghỉ ngơi đôi chút, vì có lẽ nó đã thấm mệt rồi. Nhân tiện, chúng ta sẽ kể vài ba câu chuyện của người xưa, gọi là “ôn cố tri tân”, cho nhau nghe để thư giãn.

* * *



Chuyện thứ nhất
Nước Việt (không phải nước của chúng ta đâu!) có nàng Tây Thi đẹp tuyệt trần (Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa). Nàng hay đau bụng, mỗi khi đau là ôm bụng nhăn mặt. Lúc đó trông nàng càng đẹp.
Một người đàn bà gần đó, thấy vậy, cũng bắt chước, về nhà ôm bụng nhăn mặt. Người ta trông thấy, tưởng là ma quỉ; nhà giàu thì đóng cửa chặt không dám ra, nhà nghèo thì bồng bế vợ con mà chạy trốn.
(Trang Tử)
Lạm bàn:
Hành động không phù hợp, thành trò cười thiên hạ. Nghệ sĩ hài thường vận dụng điều này.
Chuyện thứ hai
Vua Cảnh Công nước Tề hay uống rượu, có bận say luôn mấy ngày đêm, xao lãng việc nước.
Huyền Chương can:
- Nhà vua uống rượu say sưa như thế, hạ thần xin can, nhà vua không nghe, hạ thần xin tự tận.
Ngay lúc ấy Án Tử vào yết kiến vua. Vua bảo:
- Huyền Chương can ta bỏ rượu, không thì y tự tận. Nếu ta nghe, thì ta hóa ra non, nếu ta không nghe, nhỡ Huyền Chương chết, thì cũng đáng tiếc.
Án Tử nói:
- May lắm! May cho Huyền Chương gặp được nhà vua, chứ như vua Kiệt, vua Trụ, thì chết mất rồi, còn đâu sống được đến bây giờ nữa!
Cảnh Công nghe thế, tỉnh ngộ, từ hôm đó chừa rượu.
(Án Tử Xuân Thu)
Lạm bàn:
Cảnh Công là ông vua hiền. Rượu không xấu không tốt, bậc hiền thánh vẫn hay dùng, trong lễ tiệc vẫn thường dùng. Cách uống rượu của Cảnh Công là không hợp, nên điều tiết lại cho hợp chứ bỏ hẳn (chừa) thì kể cũng… uổng!
Huyền Chương là bầy tôi trung, dọa chết thì được chứ đừng chết thật, uổng mạng mình.
Án Tử hay, không dùng “chính ngôn” như Huyền Chương mà dùng “kỳ ngôn” là hợp tình thế (lúc này, chính không bằng kỳ!)

(Án Tử Xuân Thu)
Chuyện thứ ba
Giáp hỏi Ất:
- Đúc đồng làm chuông, đẽo gỗ làm dùi, lấy dùi đánh chuông kêu tiếng boong boong, thì tiếng kêu ấy là gỗ kêu hay đồng kêu?
Ất đáp:
- Lấy dùi gõ vào tường vách không kêu, gõ vào chuông kêu, thế thì tiếng kêu là do đồng.
Giáp hỏi:
- Lấy dùi gõ vào đồng tiền trinh không kêu, thế thì có chắc tiếng kêu là do đồng mà ra không?
Ất nói:
- Đồng tiền đặc, cái chuông rỗng, vậy tiếng kêu ở các đồ vật rỗng mà ra.
Giáp hỏi:
- Lấy gỗ, lấy bùn làm chuông đánh không ra tiếng, thế thì có chắc tiếng kêu là ở đồ vật rỗng mà ra không?
(Âu Dương Tu)
Lạm bàn:
Nếu cái dùi không đập vào đâu cả hoặc giả đập vào không khí thì không nghe được tiếng kêu. Nếu cái dùi đập vào chuông mà tai điếc thì cũng chẳng nghe được tiếng kêu. Do đó tiếng kêu là do va đập và tai nghe mà ra. Nói chung đã va đập là có tiếng kêu, không “boong boong” thì cũng “bẹt bẹt”, chỉ có điều tai có nghe được hay không mà thôi.
Nếu lấy cái dùi đánh vào mông Ất, Giáp thì sẽ nghe được ngoài tiếng kêu “bịch bịch” còn có tiếng “ái ái”.
Cần phải bắt Ất, Giáp học thuộc Kinh Âm phù chứ không biết ất giáp gì mà tranh luận thì chỉ gây ra tiếng ồn ào mà thôi.
Chuyện thứ tư
Có người nước Sở đi đò qua sông. Khi ngồi đò, đánh rơi thanh kiếm xuống sông. Anh ta vội vàng đánh dấu vào mạn thuyền, lẩm bẩm: “Gươm ta rơi ở chỗ này đây.”
Lúc thuyền đậu vào bến, anh ta cứ theo chỗ đánh dấu, lặn xuống nước mò tìm thanh kiếm.
Thuyền đã đi đến bến, kiếm rơi đâu thì vẫn còn đấy chứ có theo thuyền vào bến đâu? Tìm gươm như thế chẳng khờ dại lắm ư?
(Lã Thị Xuân Thu)
Lạm bàn:
Người nghĩ ra chuyện này phải là người có tính hài hước, nếu không thì cũng là người hiểu rõ nghĩa chữ “Thời”.
Chuyện thứ năm
Ba con rận hút máu một con lợn, tranh nhau ăn, đem nhau đi kiện. Một con rận khác gặp, hỏi:
- Ba anh kiện nhau về việc gì thế?
Ba con rận đáp:
- Chúng tôi kiện nhau vì tranh nhau một chỗ đất màu mỡ.
Con rận kia nói:
- Tôi tưởng các anh chẳng nên tranh nhau làm gì. Các anh chỉ nên lo đến con dao của người đồ tể và ngọn lửa của bó rơm thui lợn mà thôi.
Ba con rận nghe ra, biết là dại, thôi không đi kiện nữa, cùng nhau quần tụ, no đói có nhau. Con lợn ngày một gầy, người ta không làm thịt, cứ để nuôi, nhờ thế bà con rận no đủ mãi.
(Hàn Phi Tử)
Lạm bàn:
Ba con rận không biết, nhưng biết lắng nghe, nên biết và tha hồ vui sống.
Con rận thứ tư nhìn xa thấy rộng, không nói về tình yêu thương mà nói về lẽ tự nhiên, thật là phù ngôn. Con rận này chắc là bậc minh triết!

Chuyện thứ sáu
Đất Kiềm xưa nay không có lừa. Có người hiếu sự mang một ít lừa về nuôi.
Lừa được thả dưới chân núi. Lúc đầu, hổ trong núi ra, trông thấy lừa cao lớn, lực lưỡng, tưởng thần vật mới giáng sinh. Lại thấy lừa kêu to, hổ sợ quá cong đuôi chạy. Dần dần về sau, hổ nghe mãi, thấy tiếng lừa lúc nào cũng chỉ kêu như thế, lấy làm thường. Một hôm, hổ thử vờn, nhảy xông vào đầu lừa. Lừa giơ chân đá đi đá lại, quanh quẩn chỉ một ngón đá mà thôi. Hổ thấy vậy bụng bảo dạ: “Tài nghệ con lừa thì ra chỉ có thế!”. Rồi hổ gầm lên vồ, xé xác con lừa, đánh chén no nê, đoạn bỏ đi.
(Liễu Tôn Nguyên)
Lạm bàn:
Lần đầu tiên “thấy” khủng long, con người ta ai mà không ngán ngại. Tương tự, hổ lần đầu tiên thấy lừa cũng vậy. Nhưng thấy mãi thành quen, quen thì thành thường.
Có lẽ là bị đói mà hổ xáp đến con lừa, vì đã học được “Phản ứng chi thuật” nên giở kế “Đấu thạch vấn lộ” (ném đá hỏi đường), thử vờn và lừa đã bộc lộ điểm yếu. Hổ ta cứ thế mà xơi tái. Được vậy là nhờ quan sát.
Nếu sau này gặp con lừa khác, hổ sẽ “chẳng nói chẳng rằng nữa” mà xông tới vồ ngay. Đó là nhờ kinh nghiệm.
Con người ngày xửa ngày xưa chắc cũng thế nên bây giờ chúng ta mới có nhiều món thơm ngon để ăn!

Chuyện thứ bảy
Có người bảo vua nước Lương rằng:
Huệ Tử nói việc gì cũng hay “thí dụ”. Nếu nhà vua không cho thí dụ thì Huệ Tử chắc không nói gì được nữa.
Vua bảo:
- Ừ, để rồi xem.
Hôm sau, vua đến thăm Huệ Tử, bảo rằng:
- Xin tiên sinh nói gì cứ nói thẳng, đừng thí dụ nữa.
Huệ Vương nói:
- Nay có một người ở đây không biết nỏ là cái gì, hỏi cái nỏ là thế nào. Nếu tôi đáp: Nỏ là cái nỏ, thì người ấy có hiểu được không?
Vua nói:
- Hiểu làm sao được?
- Thế nếu tôi bảo người ấy: Cái nỏ giống như cái cung có cán, có lẫy, thì người ấy có biết được không?
Vua nói:
- Biết được.
Huệ Tử nói:
- Ôi! Khi nói với ai là đem cái người ta đã biết làm thí dụ với cái người ta chưa biết, để khiến người ta biết. Nay người ta bảo tôi đừng thí dụ nữa thì tôi không sao nói được.
(Huệ Tử)
Lạm bàn:
Biết được cái không biết từ cái đã biết là quá trình của dạy và học; là quá trình của quan sát và nhận thức; là quá trình hình thành và phát triển của hệ thống khái niệm.
Câu chuyện thứ tám
Mạnh Thường Quân nhà giàu có, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ.
Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi:
- Tiền nợ thu được, có định mua gì về không?
Mạnh Thường Quân nói:
- Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu thứ gì thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân lại bảo rằng:
- Các ngươi công nợ bao nhiêu, Thường Quân đều cho cả.
Rồi đem văn tự ra đốt sạch.
Lúc về, Phùng Huyên thưa với Mạnh Thường Quân rằng:
- Nhà tướng công châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không còn thiếu thứ gì nữa, chỉ còn thiếu một cái “nghĩa”, tôi trộm phép vì chúa công mua về.
Mạnh Thường Quân nghe thấy nói thế, cũng không hỏi gì đến tiền nữa.
Sau, Mạnh Thường Quân phải bãi quan về ở đất Tiết. Dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Huyên rằng:
- Trước tiên sinh vì tôi mua “nghĩa”, nghĩa ấy ngày nay tôi mới trông thấy.
(Quốc sách)
Lạm bàn:
Đó chính là kế Tử nhi hậu sinh (chết để sau sống)
Phùng Huyên giỏi
Mạnh Thường Quân hiền
Dân đất Tiết có nghĩa

Câu chuyện thứ chín
Trang Tử cùng đệ tử đi chơi trên núi. Thấy một cây to, cành lá rườm rà. Có người thợ rừng đứng cạnh nó mà không đốn. Hỏi tại sao, người đó nói:
- Không biết dùng nó vào việc gì cả.
Trang Tử nói với đệ tử:
- Cây này vì bất tài mà sống lâu.
Ra khỏi núi, Trang Tử ghé vào nhà quan. Chủ nhà mừng rỡ hối trẻ làm thịt chim mòng để đãi khách. Thằng con hỏi:
- Có một con biết gáy, một con không biết gáy, giết con nào?
Chủ nhà nói:
- Giết con không biết gáy.
Hôm sau, đệ tử hỏi Trang Tử:
- Hôm qua, cái cây trong núi vì bất tài mà sống, còn chim mòng, vì bất tài mà chết. Giá như thầy thì nên xử trí thế nào?
Trang Tử cười, nói:
Tài và bất tài cũng như nhau, đều là quấy cả, nên không thể tránh khỏi lụy thân. Chỉ có kẻ nào “biết” là sống thôi. Khôn, chết. Dại, chết. Biết, sống.
(Trang Tử)
Lạm bàn:
Người ta đốn cây về để sử dụng. Cây này chẳng có tích sự gì cả nên nó sống. Người ta nuôi chim mòng để gáy mà chim này không biết gáy nên nó chết. Do đó hợp lẽ tự nhiên thì sống; không hợp lẽ tự nhiên thì chết. Nhưng muốn hợp lẽ tự nhiên thì phải… biết.
Câu chuyện cuối cùng
Mạnh Tôn Dương hỏi Dương Tử (Dương Chu)
- Có kẻ mến đời, yêu thân, cầu cho không chết, có nên không?
Dương Tử nói:
- Có sống thì phải có chết, lẽ nào không chết được?
- Thế cầu sống lâu có nên không?
- Lẽ nào sống lâu được? Người ta không phải thích sống mà sống mãi được, yêu thân mà thân còn mãi được. Vả chăng, sống lâu để làm gì? Thế tình hay dở, xưa cũng như nay; thân thế an nguy, xưa cũng như nay; việc đời vui khổ, xưa cũng như nay; biến đổi trị loạn, xưa cũng như nay; cái gì cũng đã nghe thấy, trông thấy, đã từng trải cả rồi, thì sống trong khoảng trăm năm cũng đã lấy làm chán, huống còn cầu lấy sống lâu để cho khổ làm gì?
Mạnh Tôn Dương nói:
- Nếu như thế thì chóng chết còn hơn sống lâu. Ta nên xông vào gươm giáo, nhảy vào nước lửa để chết ngay đi có thỏa không?
Dương Tử nói:
- Không phải thế. Đã sinh ra đời thì lúc sống cứ tự nhiên mặc, muốn làm gì thì làm cho đến lúc chết. Lúc sắp chết, cũng tự nhiên mặc, muốn hóa ra gì thì hóa cho đến lúc cùng. Lúc sống, lúc chết, lúc nào cũng tự nhiên như không, hà tất phải quan tâm tới sống lâu hay chóng chết làm gì?
(Dương Tử)
Lạm bàn:
Ngôn ngữ Việt Nam đặt tên cho giống loài có tư duy cao nhất của Trái Đất là CON NGƯỜI. Đó là điều phải nói rằng “tuyệt cú mèo”. Con người khác con hổ, con chó, con thỏ… Khi mới sinh ra, chúng ta đều là con chứ chưa phải người, rất giống người nhưng vẫn là con. Mà đã con thì chưa có “ngã” (dần dần có mầm mống của ngã). Ở tuổi học trò, chúng ta vừa con vừa người (không hẳn con cũng không hẳn người) nên chúng ta hồn nhiên, tinh ngịch và chúng ta có ngây thơ (vừa ngã vừa phi ngã). Sự tinh quái của học trò được ông bà “khen”: “nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò”. Người ta còn gọi cái trạng thái chưa thành người ấy là “ngợm” (cũng có khi gọi là “nửa người nửa ngợm”). Ngợm rất giống quỉ, ma nhưng không phải quỉ, ma: ngợm là quỉ ma chưa thành người, còn quỉ ma là từ người mà thành.
Lớn khôn, chúng ta vào đời, lặn lội tự mưu sinh. Không ai bảo ai, mọi người lúc đó đều tham sống, mưu sinh trước hết vì bản thân mình, vì một bản ngã đã trĩu nặng thân xác.
Con mà có bản ngã thì được gọi là con người. Con người vì là con nên phải tìm ăn để sống, vì là người nên ước cầu danh lợi để sống giàu sang, khỏi lo hậu sự.
Như lẽ tự nhiên, ở đời biết thế nào là giàu sang khi không có nghèo hèn. Vì vậy mà đời người là cuộc chạy trốn nghèo hèn và tìm kiếm giàu sang. Bước vào đời, ai ai cũng cắm đầu cắm cổ chạy cùng một chiều như thế nên nghèo hèn trở thành mênh mông mà giàu sang trở nên eo hẹp, do đó mà có thi đua, tranh giành, thủ đoạn, máu chảy đầu rơi, huynh đệ tương tàn. Thế rồi có dằn vặt, suy ngẫm về nghĩa sống - chết, sang - hèn, sướng - khổ, vinh - nhục, thiện - ác… Kẻ nhận định thế này, thì thành vua Kiệt, vua Trụ (tính ác); người nhận định thế kia thì thành vua Nghiêu, vua Thuấn (tính thiện).
Có lẽ Dương Tử đã thấy một điều, đó là: Con vật cầu miếng no, miếng đủ để an nhiên sống, còn con người lại cầu miếng ngon, miếng lạ, đủ để phè phỡn sống. Điều đó cho thấy vì sao mà con người đã hèn thì hèn hơn con vật, đã dũng thì dũng hơn con vật, đã tham thì tham hơn con vật, đã nhường thì nhường hơn con vật, đã thù hằn thì thù hằn hơn con vật, đã yêu thương thì yêu thương hơn con vật, đã ác thì ác hơn con vật mà đã thiện thì cũng thiện hơn con vật. Cho nên ông đã đề ra học thuyết với tôn chỉ là: “Mất một cái lông mà lợi thiên hạ cũng không cho, được cả thiên hạ phụng sự riêng mình cũng không nhận, người nào cũng không chịu thiệt, người nào cũng không ham lợi thì thiên hạ tự nhiên thái bình”.
Người đời sau gọi thuyết đó là thuyết “vị ngã”, và hiểu vị ngã là “vì cái tôi” với nghĩa nhỏ hẹp, ích kỷ, yếm thế… Hiểu như thế, theo chúng ta, là đã hiểu lầm cái tư tưởng vĩ đại của Đạo gia.
Con là vô ngã, người là hữu ngã, hữu ngã thì không thể quay về vô ngã được, nhưng hãy biết sống hợp lẽ tự nhiên giống như vô ngã: mất một sợ lông mà lợi cả thiên hạ cũng không “biết” cho; được cả thiên hạ phụng sự cũng không “biết” nhận.
Đúng hơn, nên gọi là thuyết “vô ngã”.





Mời xem:

LỜI PHÂN TRẦN

PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ