THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 31/b




PHẦN III:     Nguồn cội

“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
.


CHƯƠNG IX: THỜI CUỘC

“Nếu như sau cái đêm tối tăm của thời trung cổ, các ngành khoa học đột nhiên sống lại với một sức mạnh không ngờ và bắt đầu phát triển nhanh chóng một cách kỳ diệu, thì sự kỳ diệu ấy cũng chính là nhờ sản xuất mà có”
Ph. Ăngghen

***
(tiếp theo)
Vào 3 giờ 30 phút sáng, ngày 22-6-1941, không một lời tuyên chiến, phát xít Đức bất ngờ nổ súng, ào ạt tấn công trên khắp biên giới phía tây Liên Xô, từ biển Đen đến biển Bantích.
Toàn thế giới nín thở, tuyệt đại đa số lo âu nhưng không ít chính khách tư bản khấp khởi.
Trước đó, ngày 12-5-1941, Bộ chỉ huy tối cao Đức đã đề ra chỉ thị cho sĩ quan và binh lính Đức như sau:
“Hãy nhớ và thực hiện:
- Không có thần kinh, trái tim và sự thương xót - anh được chế tạo từ sắt, thép Đức…
- Hãy tiêu diệt trong mình mọi sự thương xót và đau khổ, hãy giết bất kỳ người Nga nào và không được dừng lại dù trước mặt anh là ông già hay phụ nữ, con gái hay con trai.
- Chúng ta phải bắt thế giới đầu hàng… anh là người Đức, và là người Đức thì phải tiêu diệt mọi sự sống cản trở con đường của anh”.
Ngay từ ngày đầu, phát xít Đức đã làm chủ bầu trời bằng cuộc tập kích không quân vào các sân bay nằm trong vùng phía tây Liên Xô, gây thiệt hại ghê gớm, tạo điều kiện cho lực lượng mặt đất  của chúng tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô. Cuộc tiến công đã ít nhiều gây ra bất ngờ đối với Nhà nước Xô Viết.
Dù trong tình thế chịu bất lợi to lớn về nhiều mặt, nhưng lực lượng vùng biên giới của Hồng quân đã chống cự quyết liệt và anh dũng. Một trong những tấm gương tiêu biểu là cuộc chiến đấu ở pháo đài Brét. Các chiến sĩ Xôviết, dưới sự chỉ huy của thiếu tá P. M. Gabrilốp, đã ngoan cường cố thủ trong pháo đài từ những giờ phút đầu chiến tranh đến tận cuối tháng 7-1941, khi mặt trận đã lùi xa hàng trăm km về phía đông. Pháo đài Brét đã trở thành biểu tượng về tinh thần bất khuất của Hồng quân.

Với mục đích kìm chân địch càng lâu càng tốt trên các tuyến phòng ngự để tranh thủ thời gian đưa lực lượng từ phía sau tới, thành lập thêm lực lượng dự bị, di tản các mục tiêu công nghiệp vào sâu trong nước và chuyển hướng sản xuất công nghiệp sang phục vụ nhu cầu chiến tranh, Hồng quân Liên Xô đã phải chiến đấu trong tình thế vô cùng gay go trước một lực lượng quân Đức hoàn toàn áp đảo và đang giữ quyền chủ động chiến lược.
Trước một cố gắng giành lại chủ động chiến lược và phòng ngự tích cực, từ ngày 23-6 đến ngày 29-6, các quân đoàn cơ giới của ba phương diện quân Liên Xô đã thực hiện nhiều trận phản công lớn trên nhiều địa bàn. Một trận tao ngộ chiến bằng xe tăng rất lớn đã diễn ra ở miền tây - Ucraina, khoảng giữa hai thành phố Brôda và Đúpnô. Tại đây, 4 quân đoàn cơ giới của Hồng quân đã phản kích cụm xe tăng số 1 của phát xít Đức. Quân đoàn cơ giới số 8 của Hồng quân, sau khi vượt 400 km hành quân, đã tổ chức tiến công thọc sâu vào phía sau đội hình xe tăng địch; gây ra những tổn thất và buộc chúng phải dừng lại. Tuy vậy, trong tình hình chung còn rất bất lợi, cùng những thiếu sót trong chỉ huy và thiếu sự yểm trợ của không quân đã làm cho trận phản kích ấy cũng như những trận phản kích khác kết thúc không thắng lợi, dù có gây cho quân Đức những thiệt hại đáng kể.
Trước những đòn đột kích lớn của quân Đức đã phát triển vào sâu trong đất nước, Hồng quân, sau khi đã phải chịu những hy sinh, tổn thất nặng nề và để tránh bị bao vây tiêu diệt, đã phải rút lui trên toàn mặt trận. Ở hướng tây - bắc, Hồng quân phải rút về tuyến tây - Đơrina, nhưng cũng không giữ được, đành phải tiếp tục rút lui. Quân Đức đông hơn đã xâm nhập vùng Lêningrát. Ở hướng tây (chính diện), đến ngày 29-6, quân Đức đã hợp điểm được ở khu vực Minscơ. Nhiều đơn vị Hồng quân bị vây, vừa mở đường máu vượt thoát, vừa tiếp tục chiến đấu ngoan cường đến ngày 8-7. Họ đã kìm chân được bộ binh Đức, tạo thời gian cho các lực lượng dự bị của Hồng quân từ phía sau lên, tổ chức phòng ngự ở tuyến sông Đơnhiép. Ở hướng tây - nam, Hồng quân vừa tác chiến vừa rút lui về tuyến phòng ngự đã được củng cố, dọc theo biên giới quốc gia cũ (trước năm 1939). Tuy vậy Hồng quân cũng không giữ nổi tuyến này. Cụm xe tăng số 1 của quân Đức đã chọc thủng phòng tuyến, tiến đến sát cửa ngõ thành phố Kiép mới bị chặn lại.
Đến giữa tháng 7-1941, chiến cục biên giới coi như kết thúc. Mặt trận đã di chuyển từ biên giới phía tây về phía đông, vào sâu trong lãnh thổ Liên Xô từ 350 km đến 600 km. Tuy nhiên nước Đức phát xít đã phải trả một cái giá không rẻ: trong 22 ngày chiến đấu đã có 92 ngàn quân chết và bị thương, một nửa số xe tăng và một số lớn máy bay bị phá hủy, nguy cơ phá sản rõ ràng của “chiến tranh chớp nhoáng”, và nghiêm trọng hơn cả, theo như nhận định của đảng Cộng sản Liên Xô sau này là: “ngay từ thời kỳ đầu chiến tranh đã cho thấy việc phiêu lưu quân sự của nước Đức phát xít nhất định sẽ đi đến thất bại”.
Trái lại, Bộ chỉ huy Đức cho rằng từ thời điểm quân Đức tiến được đến sông Đơnhiép, các lực lượng chủ yếu của Hồng quân đã bị đập tan và nhiệm vụ chủ yếu của cuộc chiến tranh chống Liên Xô đã được giải quyết. Đánh giá tình hình như vậy nên Tổng hành dinh Đức đã giao nhiệm vụ cho các cụm tập đoàn quân:
- Cụm tập đoàn quân “Bắc” tiếp tục tấn công vào Lêningrát.
- Cụm tập đoàn quân “Trung Tâm” bao vây và tiêu diệt Hồng quân trong khu vực Xmôlenscơ.
- Cụm tập đoàn quân “Nam” tổ chức bao vây Hồng quân ở hữu ngạn Ucraina và dùng một phần lực lượng phát triển tấn công vào Kiép.
Đại bản doanh của Bộ tổng tư lệnh tối cao Hồng quân Liên Xô (gọi tắt là Đại bản doanh; được thành lập ngày 29-6-1941) đã tổ chức triển khai nhanh chóng các lực lượng dự bị chiến lược ở những hướng bị uy hiếp, tạo ra một chiều sâu phòng thủ thích hợp, và sau khi xác định hướng chính là phía tây, đã tập trung ở đó những lưc lượng dự bị chủ yếu. Ở cửa ngõ tiến vào Mátxcơva đã bắt đầu xây dựng tuyến phòng ngự Môgiaixki gồm 3 tập đoàn quân.
Cuộc chiến đấu tiếp tục sôi nổi và ác liệt ở trên cả 3 hướng phòng thủ: tây - bắc, tây và tây - nam. Nhưng diễn biến ở hướng tây là đặc biệt quan trọng.
Tại hướng tây, từ ngày 10-7 đến ngày 10-9-1941, đã diễn ra trận đánh lớn nhất của thời kỳ đầu chiến tranh ở Xmôlenxcơ. Khi bắt đầu trận đánh, lực lượng quân Đức trội hơn lực lượng Hồng quân về người là gần 2 lần, về đại bác và súng cối là hơn 2,4 lần, về máy bay là hơn 4 lần.
Trong thời gian từ ngày 10-7 đến ngày 20-7, với những cụm tập đoàn xe tăng mạnh, tập trung trên những địa đoạn hẹp của chính diện, được sự yểm trợ dày đặc của không quân, quân Đức đã đột phá sâu vài nơi. Quân đoàn 20 của Hồng quân đang phòng ngự “cửa ngõ Xmôlenxcơ” (giữa hai con sông Tây - Đơvina và Đơnhiép) có nguy cơ bị bao vây. Cụm xe tăng số 3 của quân Đức đã thực hiện được việc đánh vòng từ phía bắc vào hậu phương của lực lượng phòng thủ xô viết, tới tận Iaxêvô và cắt đứt trục đường sắt quan trọng nhất, cắt đứt xa lộ Minscơ - Mátxcơva. Ở phía nam, cụm xe tăng số 2 của quân Đức đã đột phá tới ngoại vi Xmôlenscơ vào ngày 16-7. Ở cánh phải của đội hình phòng ngự Hồng quân, quân Đức đã buộc tập đoàn quân số 22 Liên Xô phải rút về Veliki; ở cánh trái, chúng cũng đã chiếm được Ennhia, tạo được bàn đạp tiến về phía đông, tấn công Mátxcơva.
Hồng quân Liên Xô thuộc phương diện quân phía tây đã phải gồng mình chịu đựng những đòn tiến công mãnh liệt của quân Đức. Tuy nhiên họ đã không thụ động mà luôn phòng ngự tích cực bằng việc liên tục tổ chức những đòn phản kích và phản đột kích. Nhằm làm giãn lực lượng địch ở hướng chính Xmôlenscơ, tập đoàn quân 21 và cụm kỵ binh ở hướng Bôbruixki, dưới sự chỉ huy của tướng Ph. I. Cudơnhétxốp, vào ngày 13-7 đã mở chiến dịch đột kích vào hậu phương của cụm tập đoàn quân “Trung tâm”. Hành động này đã kìm châ khá lâu các lực lượng chính của tập đoàn quân số 2 Đức, không cho tập đoàn quân này phát triển tiến công. Bên cạnh đó là hàng loạt những cuộc phản đột kích của Hồng quân cũng được tổ chức ở vùng Ennhia và gần Xmôlenscơ. Một trong những trận đó là sư đoàn xe tăng số 57 của Hồng quân, dưới sự chỉ huy của đại tá V.A. Misulin đã đập tan một bộ phận lực lượng tiến công vào Xmôlenscơ của quân đoàn xe tăng số 2 của tướng Đức là Guđerian, ở gần thành phố Crátnôie.
Ngày 14-7, ở gần Óocxa, loạt đạn súng cối phản lực của Hồng quân trên chiến trường Xô - Đức đã lần đầu tiên được bắn ra từ đại đội do đại úy I.A Plêrốp chỉ huy. Sau loạt đạn đó, trong trận địa dày đặc quân địch bốc lên ngọn lửa cháy dữ dội làm đám lính Đức còn sống sót chạy tán loạn, đầu hàng, bị bắt làm tù binh trong nỗi kinh hoàng. Loại vũ khí tầm xa lợi hại có tính uy hiếp và sát thương rất cao đó được các chiến sĩ xô viết gọi một cách trìu mến là “Cachiusa” - tên của một thiếu nữ Nga.
Tập đoàn quân số 13 của Hồng quân đã bị chia cắt thành nhiều bộ phận. Tuy nhiên họ vẫn tiếp tục ngoan cường chiến đấu. Trong nhiều ngày đêm, quân đoàn số 16 cùng với những binh đội của quân đoàn cơ giới số 20 của tập đoàn quân này, trong tình thế bị bao vây, đã anh dũng phòng ngự Môghiliép, thu hút vào đó 5 sư đoàn Đức.
Thời gian từ 21-7 đến 7-8 là giai đoạn cường độ của trận đánh lớn lên cao nhất.
Tổng hành dinh quân Đức cho rằng lực lượng Hồng quân ở hướng Mátxcơva đã bị đánh phân tán. Trong chỉ thị số 33 ngày 19-7 về việc tiếp tục tiến hành chiến tranh ở phía Đông và chỉ thị bổ sung ký ngày 23-7, Hítle đã giao nhiệm vụ cho cụm tập đoàn quân “Trung Tâm” là “phải tiêu diệt quân địch còn đang tiếp tục kháng cự ở giữa Xmôlenxcơ và Mátxcơva… và phải chiếm bằng được Mátxcơva”. Đồng thời tổng hành dinh Đức còn vạch kế hoạch tiến công vào Cápcadơ cũng như Cận Đông và cả kế hoạch đưa quân đội trở về nước Đức “sau chiến thắng” (!?).
Đại bản doanh của Hồng quân, sau khi nhận định tình hình, đã tung lực lượng dự bị ra đối phó và chỉ trong tháng 7-1941 riêng ở hướng tây đã triển khai xong 3 thê đội gồm 74 binh đoàn mới. Ngày 20-7, Đại bản doanh đã giao nhiệm vụ cho bộ đội hướng tây chuyển sang tiến công “tiêu diệt địch, chiếm lại vùng Xmôlenscơ và đuổi quân Đức ra khỏi Óocxa”
Ngày 23-7, phương diện quân miền tây của Hồng quân chuyển sang tiến công vào Xmôlenscơ. Nhiều trận đánh ác liệt đã diễn ra. Ngày 27-7, các binh đoàn của tập đoàn quân 16 Liên Xô đã chiếm được nhà ga, triển khai chiến đấu nhằm giành lại phần phía bắc thành phố. Quân Đức đã đột kích vào sau lưng tập đoàn quân 16 và 20, tiến hành bao vây họ ở phía bắc và tây thành phố. Cuộc tiến công của Hồng quân không giành được thắng lợi quyết định nhưng đã bẻ gãy cuộc tiến công của cụm xe tăng số 3 của quân Đức, giúp ổn định tình hình ở hai bên sườn phương quân Miền Tây và gây cho địch nhiều thiệt hại nặng.
Tại khu vực Ennhia, tập đoàn quân 24, dưới sự chỉ huy của tướng K. I. Racuchin, trong suốt 26 ngày đêm đã chiến đấu rất kiên cường, buộc quân Đức phải rút khỏi bàn đạp Ennhia.
Những trận đánh ở khu vực Iaxêvô cũng không kém căng thẳng, ác liệt. Lực lượng Hồng quân ở đây đã bẻ gãy mọi ý đồ mở rộng tấn công của quân Đức, tổ chức phòng ngự vững chắc dọc đường giao thông Minxcơ…
Trong quá trình chiến đấu hết sức gay go của những ngày đầu tháng 8, trên hướng tây đã có biểu hiện về cân bằng lực lượng. Quân Đức đã bị kìm hãm và lần đầu tiên trong chiến tranh thế giới thứ hai, quân Đức ở hướng trung tâm đã buộc phải chuyển sang phòng ngự trong hai tháng.
Trận đánh lớn ở Xmôlenscơ đã đem lại thắng lợi cho Hồng quân, tỏ rõ trước thế giới lòng quả cảm vô song của các chiến sĩ Xô Viết. Ý đồ tiêu diệt Hồng quân tại khu vực trung tâm trên mặt trận Xô - Đức của Bộ chỉ huy phát xít Đức đã phá sản.
Do phương diện quân Miền Tây cũng bị thiệt hại đáng kể trong chiến đấu nên ngày 10-9-1941, Đại bản doanh ra lệnh cho lực lượng Hồng quân ở chính diện chuyển sang phòng ngự.
Tại hướng tây - bắc và tây - nam, từ tháng 7 đến tháng 9-1941, nhiều trận chiến đấu ác liệt, qui mô lớn cũng đã diễn ra.
Ở hướng tây - bắc, các phương diện quân miền Bắc, phương diện quân Tây - Bắc và cả hạm đội Bantích Cờ Đỏ đã tổ chức các chiến dịch phòng ngự chống lại cụm tập đoàn quân Bắc của phát xít Đức và lực lượng chủ yếu của quân đội Phần Lan. Bộ chỉ huy Đức chỉ thị phải chiếm Lêningrát và tiêu diệt hạm đội Bantích trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 8. Ngày 10-7, quân Đức mở cuộc tiến công từ vùng Pêscốp và Ốtstrốp theo hướng Lugiơki và Nốpgôrốt. Tập đoàn quân số 11 của Hồng quân đánh rút lui. Quân đoàn cơ giới số 56 của Đức ngày 13-7 đã thọc được vào khu vực thành phố Xonxa và chuẩn bị đánh chiếm Nốpgôrốt. Phát hiện ra những sườn hở và đội hình kéo dài của quân đoàn 56 cơ giới Đức, Hồng quân của tập đoàn quân số 11 bất ngờ tổ chức phản đột kích. Trong 4 ngày chiến đấu quyết liệt, Hồng quân đã đánh tan sư đoàn xe tăng số 8 Đức và tiến về phía tây hơn 40 km. Cuộc tiến công của cụm xe tăng số 4 của Đức cũng phải tạm thời dừng lại. Đây là một thắng lợi rất lớn của bộ đội Xô viết, góp phần làm dừng cuộc tấn công vào Lêningrát và buộc quân Đức phải tung một bộ phận lực lượng ra để đối phó.
Tuy nhiên Lêningrát vẫn bị đe dọa ngày một nghiêm trọng. Ngày 25-8, một lực lượng gồm 9 sư đoàn quân Đức, có sự yểm trợ của không quân, tiếp tục mở cuộc tấn công vào Lêningrát. Quân đoàn cơ giới 39 Đức đã chọc thủng đến vùng Cônpinô mới bị chặn lại. Một lực khác của quân Đức tiến đến Xlitxenbua và phong tỏa Lêningrát từ phía đất liền. Bắt đầu từ ngày 8-9-1941, việc liên lạc của thành phố với thế giới bên ngoài chỉ còn có thể thực hiện được bằng đường không và qua hồ Lađôga. Ngày 9-9, phát xít Đức tiếp tục đột kích vào Lêningrát. Một cụm gồm 8 sư đoàn quân Đức đánh vào Urítxcơ và Lêningrát. Một mũi hỗ trợ gồm 3 sư đoàn bộ binh từ vùng Cônpinô đánh vào Lêningrát ở phía đông nam.
Lực lượng của tập đoàn quân 42, triển khai gần những vùng ngoại vi phía nam Lêningrát đã chống cự quyết liệt, làm tiêu hao và buộc quân Đức phải dừng lại gần Ligôvô. Tuy nhiên ở phía khác, gần Xtrelơmưi, quân Đức đã tiến được đến bờ biển vịnh Phần Lan, cô lập tập đoàn quân 8 của Hồng quân khỏi phương diện quân Lêningrát (lúc này phương diện quân miền Bắc đã được chia thành 2 phương diện quân là Caren và Lêningrát, trực thuộc Đại bản doanh).
Đến ngày 10-9, tình hình Lêningrát càng nghiêm trọng. Song, bằng những biện pháp tích cực, phương diện quân Lêningrát do tướng G. K. Giucốp chỉ huy, đã đẩy mạnh công cuộc phòng thủ và đã cứu vãn được tình hình. Cuối cùng cụm tập đoàn quân “Bắc” của phát xít Đức bị kiệt sức, mất hết khả năng tấn công. Ngày 23-9, cụm tập đoàn quân Bắc chuyển sang phòng thủ và Tổng hành dinh Đức quyết định bao vây phong tỏa dài ngày đối với Lêningrát.
Tại hướng tây - nam, những chiến dịch phòng ngự của Hồng quân Liên Xô ở Ucraina từ tháng 7 đến tháng 10-1941 cũng cực kỳ căng thẳng.
Giữa tháng 7, các binh đoàn cơ động của cụm xe tăng số 1 và theo sau nó là các đơn vị tập đoàn quân số 6 của Đức đã tiến về Kiép và bị chặn lại ở đây. Lúc này phương diện quân tây - nam của Hồng quân bị chia làm 2 cụm: cụm tập đoàn phía bắc (tập đoàn quân 5) triển khai chiến đấu ở Côrốtchen và cụm tập đoàn phía nam (tập đoàn quân 6 và 12) phòng ngự chạy dọc biên giới quốc gia cũ.
Trong tháng 7 và đầu tháng 8, cả hai cụm tập đoàn của phương diện quân tây - nam cùng một lúc tiến hành 2 chiến dịch: chiến dịch Côrốtchen và chiến dịch Umanski. Trong chiến dịch phòng ngự Côrốtchen, tập đoàn quân số 5 của Hồng quân phải trải qua những trận chiến đấu ác liệt, giam chân 8 sư đoàn Đức, gây cho chúng những thiệt hại lớn, góp phần làm giảm nhẹ tình hình của Hồng quân ở vùng Kiép, bảo vệ thủ đô Ucraina. Trong chiến dịch Umanski, cụm tập đoàn chủ yếu của phương diện quân Tây - Nam bị thu hút vào những trận đánh lớn trên Hữu ngạn Ucraina. Kết quả những trận đánh đó, dù có gây cho quân Đức nhiều thiệt hại (cụm xe tăng số 1 của Đức bị hao hụt hơn 50% khí tài), nhưng đều bất lợi cho Hồng quân. Quân Đức đã tiến được vào vùng Umana, bao vây cụm tập đoàn này. Các cánh quân bạn của phương diện quân Tây - Nam đã phải rút lui về phía đông làm cho lực lượng Hồng quân ở đây bị đe dọa bao vây cả hai bên sườn. Trước tình hình đó, Đại bản doanh đã lệnh cho các tập đoàn quân ở hướng tây - nam phải rút qua sông Đơnhiép, tổ chức phòng ngự ở bờ phía tây của vùng Kiép, Đờnheprôpêtrốpxca và các bàn đạp khác ở phía nam. Đến cuối tháng 8, Hồng quân đã rút qua sông Đơnhiép, một bộ phận khác rút về Ôđétxa. Quân Đức đã chiếm được bàn đạp ở Đétsna gần Cônôđốp.
Trận phản đột kích của phương diện quân Brianxcơ nhằm tiêu diệt cụm xe tăng số 2 của quân Đức không đem lại kết quả mong muốn, không xóa bỏ được mối đe dọa hở sườn phía bắc (sườn phải) của phương diện quân Tây - Nam.
Sau khi chọc thủng phòng tuyến của Hồng quân ở hướng Cônôđốp, quân Đức phát triển thắng lợi vào hậu phương của các lực lượng Hồng quân thuộc phương diện quân Tây - Nam đang phòng giữ tuyến Đơnhiép và Kiép. Quân đoàn cơ giới số 24 của Đức phát triển thắng lợi theo hướng Rômna và tập đoàn quân dã chiến số 2 của chúng tiến công từ Chécnhigốp vào Priluki.
Ngày 1-9-1941, cụm tập đoàn quân Nam của Đức vượt sông Đơnhiép. Những trận đánh giành giật bàn đạp phía Bắc Kiép, gần Klêmentrúc và Cakhốpca đã diễn ra ác liệt suốt 10 ngày đêm. Cụm xe tăng số 1 của quân Đức đã qua sông ở bàn đạp Klêmentrúc. Phương diện quân Tây - Nam của Hồng quân lâm vào tình thế nguy kịch. Việc Đại bản doanh không cho phép rút lui cùng một lúc bộ đội của phương diện quân Tây - Nam về phía đông đã làm cho các tập đoàn quân 5, 37, 26 và một bộ phận của các tập đoàn quân 21 và 38 bị bao vây ở phía đông Kiép. Chỉ sau này, phần lớn lực lượng đó mới tìm được cách rút ra khỏi vòng vây.
Các chiến sĩ Hồng quân ở Ôđétxa đã chống giữ anh dũng suốt 73 ngày, kìm chân 18 sư đoàn Đức trong một thời gian dài. Đến tháng 11, quân Đức đã tiến đến gần Rốtxtốp.
Sự thất bại của phương diện quân Tây - Nam của Hồng quân đã làm cho quân Đức tiến được vào Đônbát, chiếm được Tả ngạn Ucraina và có mặt ở cửa ngõ Crưm.
Hồng quân Liên Xô đã phải nỗ lực rất lớn, đưa các lực lượng dự bị mới vào chiến đấu, mới củng cố được mặt trận phòng ngự và đến cuối mùa thu thì chặn đứng được quân Đức. Bản thân cụm tập đoàn đột kích của cụm tập đoàn quân Nam của Đức lúc này cũng đã kiệt sức.
Nhìn chung, đến cuối tháng 9-1941, phát xít Đức đã tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô. Dù ở hai hướng chiến lược tây và tây - bắc, quân Đức phải chuyển sang phòng ngự tạm thời nhưng lực lượng của chúng còn rất lớn và vẫn đe dọa nghiêm trọng nền độc lập của đất nước Liên Xô.
Tháng 10-1941, phát xít Đức tập trung nỗ lực mở chiến dịch có mật danh là “Bão táp” nhằm mục đích chủ yếu là chiếm Mátxcơva. Mátxcơva là trung tâm động viên, tổ chức kháng chiến của nhân dân Liên Xô; là vùng tập trung phần lớn sản xuất công nghiệp có ý nghĩa quốc phòng; là đầu mối giao thông đường sắt và đường bộ lớn nhất đất nước; là biểu tượng của chính quyền Xôviết. Do đó, Tổng hành dinh Đức cho rằng chưa chiếm được Mátxcơva tức là chưa giành được thắng lợi quyết định đối với Liên Xô.
Ý đồ của chiến dịch “Bão táp” là: đột kích chọc thủng mặt trận phòng ngự chính diện trên cửa ngõ Mátxcơva, đồng thời bao vây tiêu diệt lực lượng chủ yếu của Hồng quân tại vùng Viadơma và Brianxcơ, rồi phát triển tiến công đánh vu hồi từ phía bắc và nam, hoàn thành chiến dịch trong thời gian ngắn.
Cụm tập đoàn quân “Trung Tâm” được giao nhiệm vụ tiến hành chiến dịch nói trên với một lực lượng hơn 1 triệu quân, hơn 14 ngàn pháo và súng cối, 1.700 xe tăng và 950 máy bay.
Đối đầu với lực lượng đó của quân Đức trong việc phòng thủ Mátxcơva là 3 phương diện quân Hồng quân: Miền Tây, Dự Bị và Brianxcơ, bao gồm 800 ngàn quân, 6.800 pháo và súng cối, 780 xe tăng và 545 máy bay (phần lớn là kiểu cũ).
Trong hội nghị các tướng lĩnh, Hitle huênh hoang tuyên bố biến Mátxcơva “thành một cái hồ lớn bao phủ vĩnh viễn thủ đô của dân tộc Nga”. Hitle còn lệnh cho Bộ chỉ huy cụm tập đoàn quân “Trung Tâm”: “Phải bao vây thành phố thế nào để không một người lính Nga nào, không một người dân nào, dù là đàn ông, đàn bà hay trẻ con có thể bỏ chạy” và “phải hủy diệt nhân dân và thành phố Mátxcơva”.Trong nhật lệnh ngày 2-10-1941, Hitle yêu cầu phải tiêu diệt kẻ thù “trước khi mùa đông tới” và ấn định ngày 7-11-1941 sẽ “chiếm xong Mátxcơva và duyệt binh chiến thắng tại Hồng Trường”. Sự điên cuồng, ngạo mạn và vô văn hóa của Hitle lên đến tột đỉnh khi cho thành lập một đội đặc biệt để chờ phá hủy điện Cremli. Điều lạ lùng nhất là một kẻ mắc chứng thâm thù, khát máu, vĩ cuồng bệnh hoạn như thế đáng lẽ phải ở bệnh viện tâm thần thì lại nghiễm nhiên là Quốc trưởng của nước Đức ở thời văn minh, bắt cả dân tộc Đức thông thái mà ở quá khứ đã sản sinh ra những đứa con triết gia vĩ đại, tên tuổi còn lừng lẫy khắp địa cầu đến tận ngày nay, phải răm rắp phục tùng! Điều phi lý dị thường như thế phải chăng chỉ có thể giải thích được ở tầng nền tảng của nền tảng sinh học, tạm gọi nôm na là “Tầng thu phát bức xạ điện từ và cộng hưởng sinh học”?
Mở màn chiến dịch, các cụm tập đoàn đột kích của phát xít Đức đã đánh vào phương diện quân Brianxcơ ngày 30-9, đánh vào phương diện quân miền Tây và phương diện quân Dự Bị ngày 2-10-1941. Với lực lượng trội hơn từ 5 đến 8 lần, quân Đức nhanh chóng chọc thủng dải phòng ngự chính diện. Trên tất cả các hướng, Hồng quân nỗ lực tổ chức các cuộc phản đột kích nhằm làm chậm bước tiến đối phương nhưng vẫn không khôi phục lại được tuyến mặt trận đã bị chọc thủng. Cụm tập đoàn xe tăng Đức, sau khi đánh bật những cuộc phản kích của Hồng quân, đã tiến vào chiều sâu phòng ngự chiến dịch và đến 6-10 đã hợp quân được ở vùng Viadơma. Các tập đoàn quân 19, 20, 24, 32 của Hồng quân đã bị bao vây gần Viadơma, còn các tập đoàn quân 3, 13, 50 của phương diện quân Brianxcơ thì bị vây hãm tại khu rừng Brianxcơ. Tất cả các tập đoàn quân đó, trong tình thế hết sức khó khăn, vẫn tích cực chiến đấu một cách quyết liệt, gây cho quân thù những thiệt hại to lớn và mặc dù phải chịu những tổn thất nặng nề, đặc biệt là về trang bị vũ khí, cũng đã rút ra được khỏi vòng vây về tập kết ở tuyến qui định. Tại vùng Viadơma, tình hình cũng trở nên rất nghiêm trọng! Từ ngày 7 đến ngày 14-10, Hồng quân đã phải trải qua những trận đánh ác liệt trong vòng vây. Bằng những tốp nhỏ, một bộ phận lớn Hồng quân đã rút được về phía đông.
Dù bị đánh tê liệt 28 sư đoàn, nhưng quân Đức vẫn còn rất mạnh. Đại bản doanh Hồng quân buộc phải điều lực lượng mới từ lực lượng dự bị và các phương diện quân khác về, tung vào hướng chủ yếu, chiếm lĩnh tuyến phòng ngự Môgiaiscơ. Phương diện quân Dự Bị được sát nhập vào phương diện quân miền Tây, dưới sự chỉ huy của tướng G. K. Giucốp, cũng đồng thời là tổng tư lệnh chỉ huy phòng thủ Mátxcơva.
Ngày 14-10, quân Đức chiếm được thành phố Calinin, tạo ra khả năng đột kích thẳng vào Mátxcơva và vào hậu phương của phương diện quân Tây - Bắc. Để loại trừ nguy cơ đó, ngày 17-10, phương diện quân Calinin của Hồng quân được thành lập. Từ ngày 18 đến ngày 20-10, lực lượng này đã mở cuộc phản kích vào cụm xe tăng số 3 của quân Đức, buộc quân Đức ở hướng Calinin phải chuyển sang phòng ngự.
Quân đoàn bộ binh cận vệ số 1 của Hồng quân được điều đến hướng Oóclốp-Tula trong vùng Mxenscô. Lữ đoàn xe tăng số 4 của quân đoàn đã tỏ ra rất xuất sắc (sau trận này được phong danh hiệu “Cận vệ”), đã đương đầu với 2 sư đoàn xe tăng Đức và chỉ trong vài ngày, bằng lối đánh phục kích, đã tiêu diệt 133 xe tăng  của chúng. Sự hoạt động thành công của quân đoàn bộ binh đã cải thiện rất nhiều tình hình của các tập đoàn quân 50, 3 và của phương diện quân Brianxcơ. Các đơn vị này đã rút lui có tổ chức về tuyến Beliép, Pônưri, Phategiơ, Lơgốp để tiếp tục phòng ngự.
Khi quân Đức tiến đến Tula, chúng tổ chức nhiều trận tiến công bằng xe tăng và bộ binh cơ giới vào thành phố, nhưng đều bị các đơn vị Hồng quân, dân quân bảo vệ thành phố cùng một lực lượng của tập đoàn quân 50 đến tăng cường, đánh lùi.
Vào hạ tuần tháng 10, tại tuyến phòng ngự Môgiaixcơ đã diễn ra những trận đánh ác liệt. Quân Đức đã chiếm được Caluga, Malôiarốtxláp, Môgiaixcơ và Vôlôcôlamscơ và như vậy đến tháng 10, chúng đã tiến quân được 230 - 250 km. Tuy nhiên, sự chiến đấu ngoan cường của các chiến sĩ Xôviết trong những hoạt động phòng ngự tích cực của các binh đoàn Hồng quân đã buộc quân Đức phải phân tán lực lượng trên chính diện rộng, phải tổ chức tiến công theo nhiều hướng phân tán với những tổn thất ngày một tăng cao. Đến cuối tháng 10-1941, quân Đức phải tạm dừng tiến công để tổ chức lại.
Trận tiến công đầu tiên của phát xít Đức vào Mátxcơva đến đây, đã bị bẻ gãy. Song tình hình vẫn còn rất căng thẳng. Bộ chỉ huy Đức vẫn quyết tâm chiếm Mátxcơva trước mùa đông.
Trước cuộc tiến công lần thứ hai của quân Đức, nhìn trên toàn cục, lực lượng quân Đức hơn lực lượng Hồng quân về quân số là gần gấp 2 lần, về xe tăng là gấp 1,5 lần, về pháo binh và súng cối là gấp 2,5 lần, nhưng ít hơn về máy bay là 1,5 lần.
Lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần bất khuất của nhân dân Liên Xô đã thể hiện rõ ràng nhất  trong công cuộc phòng thủ Mátxcơva. Sự xả thân của nhân dân Mátxcơva vì tổ quốc, vì thủ đô của họ thật vô cùng cảm động! Trong một thời gian ngắn, họ đã biến Mátxcơva thành một pháo đài quyết tử, một công binh xưởng khổng lồ hoạt động hết công suất dưới làn bom đạn. Ngay trong tháng 9 và tháng 10, gần 500 ngàn người dân Mátxcơva và các vùng phụ cận đã xây dựng những tuyến phòng ngự Viadơma và Môgiaiscơ. Tháng 11, trong giá rét và dưới những cuộc tập kích của máy bay Đức, họ tiếp tục xây dựng tuyến phòng ngự ngay trên các đường vào và trong lòng thủ đô. Họ đã đào được 676 km hố chống tăng, 445 km hào chống tăng, dựng trên 1.300 km hàng rào kẽm gai và ở hướng chính diện, đã đào đắp được 380 km các ụ chống tăng, xây dựng trên 30 ngàn điểm hỏa lực. trong các khu rừng phụ cận Mátxcơva, họ cũng dựng được 1.528 km các bãi cọc chống tăng.
Theo sáng kiến của nhân dân và hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng bộ Mátxcơva, 12 sư đoàn dân quân với nhiều tổ xung kích đánh xe tăng của thủ đô đã được thành lập. Có tới 41 đội du kích hoạt động ngay trong vùng quân Đức tạm chiếm, trên địa bàn tỉnh Mátxcơva.
Có hơn 500 nhà máy lớn đã được di chuyển an toàn vào sâu trong hậu phương đất nước Liên Xô. những xí nghiệp còn lại (gần 2 ngàn) đều được chuyển sang sản xuất súng máy, cối, pháo, hỏa tiễn, đạn dược và cả máy bay, xe tăng, xe bọc thép, tàu hỏa bọc thép.
Sáng ngày 7-11-1941, kỷ niệm lần thứ 24 Cách mạng tháng Mười, tại Hồng Trường đã diễn ra cuộc duyệt binh như thường lệ. Có điều đặc biệt là những đơn vị duyệt binh với vũ khí và đạn dược sẵn sàng, diễu qua Hồng Trường chào tổ quốc rồi tiến thẳng ra mặt trận. Quân thù đã đến cửa ngõ và Mátxcơva đang lâm nguy!
Đến giữa tháng 11, tình hình ở các hướng tây - bắc và hướng nam có khá hơn. Gần Chichvin và Rôtstốp, Hồng quân đã chuyển sang tấn công, làm nhẹ bớt cường độ chiến đấu ở hướng chiến lược phía tây.
Ngày 15 và 16 tháng 11, các cụm xe tăng số 3 và số 4 của quân Đức bắt đầu tấn công ở hướng Vôlôcôlamxcơ; ngày 18-11, tập đoàn quân xe tăng số 2 của Đức mở cuộc tấn công ở hướng Tula; vài ngày sau, tập đoàn quân số 2 của chúng tiến công phương diện quân Tây - Nam ở hướng Elét. Trên một chính diện rộng 600 km lại rộ lên những trận đánh ác liệt. Sức kháng cự của Hồng quân đã mạnh lên rất nhiều.
Trong những trận đánh ở trước cửa ngõ Mátxcơva, các chiến sĩ Xô Viết đã tỏ ra vô cùng anh dũng. Ngày 16-11, một tổ Hồng quân thuộc sư đoàn bộ binh số 316, đã đương đầu với một đại đội quân Đức trang bị tiểu liên và có xe tăng yểm hộ. Dù chịu nhiều hy sinh nhưng các chiến sĩ Xô Viết đã không để trận địa lọt vào tay quân thù. Chính tại đây đã vang lên tiếng hô của chính ủy đại đội V. G.  Klốtrơcốp: “Nước Nga vĩ đại, quyết không lùi bước, đằng sau chúng ta là Mátxcơva!”.
Các tập đoàn quân cánh phải của phương diện quân Miền Tây bị các cụm xe tăng 3 và 4 của quân Đức tiến công, dù đã ra sức chiến đấu và chịu nhiều thương vong, vẫn không giữ được dải phòng ngự chính. Sau khi đã gây cho quân Đức những thiệt hại không thể khắc phục được, lực lượng này từ từ rút lui.
Đến cuối tháng 10, những binh đội đi trước thuộc cụm đột kích phía bắc của quân Đức đã đến được kênh đào Mátxcơva - Vônga và đã vượt qua kênh đào ở khu vực Iacrôma. Trước tình huống này, Hồng quân đã tổ chức những cuộc phản đột kích bằng một phần lực lượng các tập đoàn quân dự bị và quân Đức đã bị đẩy lui trở lại bờ tây kênh đào.
Ở cánh trái phương diện quân Miền Tây, tập đoàn quân xe tăng số 2 của Đức dù đã tiến sâu vào hậu phương của tập đoàn quân 50 của Hồng quân nhưng vẫn không chiếm được Tula. Việc thành phố Tula và vùng phụ cận được giữ vững đã tạo điều kiện củng cố phòng ngự ở cánh trái phương diện quân Miền Tây và cho phép tổ chức hàng loạt các đòn phản đột kích mạnh mẽ vào quân Đức. Trận phản đột kích lớn hơn cả là trận đánh lớn gần Casira, do lực lượng của quân đoàn kỵ binh vận vệ số 1 phối thuộc với sư đoàn xe tăng số 112 của Hồng quân tiến hành.
Do kết quả của các trận đánh, ngày 4-12, tập đoàn quân xe tăng số 2 của quân Đức đã buộc phải ngừng tiến công và chuyển sang phòng ngự.
Trong thời gian ấy, tại vùng Riadan, việc tập kết tập đoàn quân số 10 thuộc lực lượng dự bị của Đại bản doanh cũng đã hoàn thành.
Ngày 5-12-1941, các mũi đột kích của quân Đức, thuộc cụm tập đoàn quân Trung Tâm đã bị chặn đứng trên toàn mặt trận. Cuộc tiến công thứ hai của phát xít Đức vào Mátxcơva đã bị đập tan.
Mặc dù còn nhiều khó khăn to lớn và xét đơn thuần về quân lực thì quân Đức vẫn còn ưu thế hơn Hồng quân, nhưng Đại bản doanh vẫn hạ lệnh quân đội Xôviết trên mặt trận Mátxcơva chuyển sang phản công, vì cho rằng: quân Đức đã mệt mỏi; chúng không có lực lượng dự bị chiến lược, chưa kịp tổ chức phòng ngự hoàn chỉnh và thiếu những tuyến phòng ngự có chiều sâu; quân đội Đức không chuẩn bị chu đáo cho chiến đấu trong điều kiện mùa đông lạnh giá; đã xuất hiện hình thái có lợi trên chiến trường tạo điều kiện cho Hồng quân đánh vào sườn và hậu phương quân Đức; tinh thần chiến đấu lên cao của chiến sĩ Xôviết.
Tham gia cuộc phản công này có phương diện quân Calinin, phương diện quân Miền Tây và phương diện quân Tây - Nam; trong đó phương diện quân Miền Tây đóng vai trò chính.
Ngày 5-12-1941, phương diện quân Calinin bắt đầu phản công. Ngày hôm sau, đến lượt hai phương diện quân Miền Tây và Tây- Nam cũng chuyển sang phản công.
Ở cánh phải của phương diện quân Miền Tây, Hồng quân đã bẻ gãy sự kháng cự của quân Đức, buộc chúng phải rút lui về tuyến Klin và Itstra. Ngày 13-12, cụm quân Đức tại vùng Klin bị bao vây. Để cố giữ tuyến phòng ngự dọc đường xe lửa Mátxcơva-Calinin, quân Đức ở đây đã chống cự quyết liệt. Ngày 13 và 14-12, quân Đức đã tổ chức bốn lần phản kích nhằm phá vây cho cụm tập đoàn ở Klin nhưng không thành công. Hồng quân đã đánh bật chúng về phía tây. Ngày 15-12, Hồng quân chiếm được thành phố. Trên hướng Itstra, quân Đức tổ chức phòng ngự mạnh tại vùng Kriucôvô. Sau khi chuẩn bị chu đáo, Hồng quân tấn công và chiếm được vị trí này và tiếp tục triển khai tấn công Itstra, cho hai lực lượng cơ động bao vây vu hồi. Để tránh bị vây, quân Đức ở đây đã vội vã rút chạy về Vôlôcôlamxcơ, bỏ lại khí tài, thiết bị. Hồng quân chuyển sang truy kích.
Ngày 25-12, lực lượng Hồng quân cánh phải của phương diện quân Miền Tây tiến đến tuyến sông Lam và Rudơ, định đánh bật quân Đức phòng thủ ở đây trong hành tiến nhưng không thực hiện được.
Phương diện quân Calinin, phối hợp với các tập đoàn quân cánh phải của phương diện quân Miền Tây, chiếm lại được thành phố Calinin vào ngày 16-12. Lực lượng cánh trái của phương diện quân Miền Tây tiến công theo những hướng hợp vây vào Udơlốp, đánh bại tập đoàn quân xe tăng số 2 của Đức. Đến ngày 7-1-1942, Hồng quân đã tiến được 220 km và đã bao vây cụm tập đoàn quân Trung Tâm của Đức từ phía nam.
Quân của phương diện quân Tây- Nam, hiệp đồng với lực lượng cánh trái của phương diện quân Miền Tây, tiến về phía tây được từ 100 km đến 200 km.
Như vậy là trong thời gian từ 25 đến 30 ngày tiến công liên tục của Hồng quân, hai cụm đột kích của tập đoàn quân Trung Tâm ở vùng Kalinin và Elét đều bị đánh thiệt hại nặng. Mối đe dọa trực tiếp đối với thủ đô Xôviết đã bị loại trừ. Chiến dịch “Bão táp” hòng chiếm Mátxcơva của phát xít Đức đã hoàn toàn thất bại và cuồng vọng của Hitle cũng tan vỡ theo. Thất bại đó đã bộc lộ ra một vấn đề quan trọng như tướng Đức là Vétphan thú nhận: “Quân đội Đức, trước đây được coi là không thể đánh bại, nay sắp bị tiêu diệt”.
Trong sự cay cú và “quê độ” ê chề, Hitle đã điên tiết cách chức hàng loạt các tướng lĩnh phát xít, trong đó có Phôn Bơraosít, Phôn Bốc, Guđêrian.
Cũng nên nhớ lại rằng có một sự kiện vô cùng quan trọng, góp phần làm nên thắng lợi của Hồng quân trong việc phòng thủ Mátxcơva nói riêng và cuộc vệ quốc nói chung, đó là: vào giai đoạn đầu của “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại” (từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 11-1941), trong điều kiện rất khó khăn, nhân dân Liên Xô đã tiến hành một cuộc di chuyển khổng lồ chưa từng có trong lịch sử: 1500 xí nghiệp lớn (chủ yếu là phục vụ quốc phòng) và 10 triệu dân (gồm cụ già, phụ nữ và trẻ em) đã được di tản sâu về phía đông. Việc di chuyển, khôi phục và phát triển ngành công nghiệp trong những năm chiến tranh, theo lời Xtalin, có ý nghĩa “cũng trọng đại ngang với các chiến dịch vĩ đại nhất của cuộc chiến tranh vệ quốc”.
Cuộc phản công thắng lợi trong trận đánh Mátxcơva đã chuyển quyền phòng ngự tích cực sang phía Hồng quân Liên Xô.
***
Sau khi đã giải vây cho thủ đô, nhằm triệt để lợi dụng thời cơ, Đại bản doanh Xô viết đã quyết định tiếp tục cuộc tiến công và phản công trên cả 3 hướng chiến lược. Tháng 1-1942, chín phương diện quân Hồng quân đã chuyển sang tiến công trên chính diện rộng tới 2.000 km.
Trong cuộc tổng tiến công này, Hồng quân đã đánh bật quân Đức ra xa từ 100 km đến 350 km, diệt 50 sư đoàn của chúng. Tuy nhiên các chiến dịch Hồng quân đã không hoàn toàn thắng lợi. Chẳng hạn ở hướng Tây - Bắc, lực lượng Hồng quân của phương diện quân Lêningrát và phương diện quân Vônkhốp đã không hoàn thành nhiệm vụ tấn công nhằm đánh tan cụm tập đoàn quân Bắc của Đức để giải vây cho Lêningrát. Nguyên nhân chủ yếu là qui mô của kế hoạch tác chiến đã không phù hợp, vượt quá khả năng của lực lượng vũ trang Hồng quân ở đó.
Nhìn chung, đến mùa hè năm 1942, tình hình của Hồng quân trên mặt trận có tốt hơn một chút: lực lượng chiến đấu tiếp tục tăng lên, kinh nghiệm chiến đấu dày dặn hơn, vũ khí được trang bị đầy đủ hơn, bắt đầu trang bị hàng loạt vũ khí mới… dù rằng sự hy sinh mất mát cán bộ chỉ huy ở thời kỳ đầu chiến tranh là rất to lớn và còn đầy những căng thẳng, gian nguy ở phía trước.
Lợi dụng việc Anh, Mỹ chưa mở mặt trận (thứ hai) ở Châu Âu, nước Đức phát xít không ngớt tăng cường lực lượng sang chiến trường Xô - Đức. Từ tháng 12-1941 đến tháng 5-1942, số sư đoàn Đức ở đây đã tăng từ 191 lên 211 sư đoàn (không kể lực lượng của Tổng hành dinh). Ý đồ của phát xít Đức là trong mùa hè năm 1942, tổ chức đòn tấn công quyết định, tiêu diệt các lực lượng Hồng quân chủ yếu, tạo bước ngoặt để kết thúc chiến tranh, hoàn thành cuộc xâm lược Liên Xô. Do không đủ lực lượng tổ chức tiến công trên toàn tuyến mặt trận Xô - Đức và khó lòng chiếm Mátxcơva bằng cuộc tấn công chính diện, Bộ chỉ huy tối cao Đức chọn mũi đột kích chủ yếu là hướng nam nhằm bẻ gãy cánh trái của Hồng quân, chiếm các vùng sông Đông, khu vực sông Vônga và Cápcadơ (vùng dầu lửa và vựa lúa mì lớn nhất Liên Xô) sau đó sẽ chiếm hoàn toàn vùng Crưm và tiến tới chiếm Mátxcơva từ phía sau.
Ngày 8-5, tập đoàn quân 11 của Đức tiến công bán đảo Kécchencô. Tập đoàn quân 14 thuộc phương diện quân Crưm phòng ngự sơ hở nên bị vỡ trận. Dù đã chống cự quyết liệt, nhưng phương diện quân Crưm cũng không ngăn nổi sự đột phá của quân Đức. Ngày 20-5, những đơn vị còn lại của binh đoàn phòng ngự buộc phải rút lui về bán đảo Tamanxki.
Sau thắng lợi đó, quân Đức tiếp tục tiến đánh Xêvátxtôpôn. Hồng quân đã không giữ nổi thành phố. Ngày 4-7, Crưm lọt vào tay quân Đức. Hạm đội Biển Đen mất những căn cứ chính.
Ngày 12-5-1942, Hồng quân mở cuộc tiến công Kháccốp nhằm bao vây tiêu diệt quân Đức tại đây. Trong hai ngày, tập đoàn quân 6 và 28 của phương diện quân tây - nam đã chọc thủng phòng ngự quân Đức và tiến sâu được 20 - 30 km. Ngày 17-5, quân Đức mở những cuộc phản đột kích mạnh, bao vây trở lại tập đoàn quân 6, 57 và cụm quân của tướng L. V. Bốpkin. Đến cuối tháng 5, chỉ từng đơn vị lẻ phá được vây, về tập kết ở Bắc - Đônét. Sự thất bại ở Kháccốp đã làm thay đổi tình hình ở cánh phía nam mặt trận Xô - Đức có lợi cho phát xít Đức. Quyến chủ động lại chuyển sang tay chúng. Chủ lực quân Đức bắt đầu tiến công vào ngày 28-6 sau khi đã chọc thủng tuyến phòng ngự của các phương diện quân Brianxcơ và Tây - Nam, phát triển thắng lợi về hướng Vôrônhegiơ rồi mở mũi đột kích vào hướng nam.
Để tránh bị bao vây, ngày 17-7, phương diện quân Miền Nam đã rút về tuyến sông Đông. Sự thất bại trong phòng ngự của Hồng quân ở hướng Vôrônhegiơ và Đônbát cùng với sự rút lui đã tạo ra một khe hở phòng ngự rộng đến 170 km ở cánh phía nam, tạo điều kiện cho chủ lực quân Đức tiến công vào Cápcadơ và tập đoàn quân 6 của chúng tiến công vào Xtalingrát.
Ngày 25-7, quân Đức vượt sông Đông ở gần Rốtxtốp, tiến công vùng Cubăng và tiến về vùng dầu lửa Bắc - Cápcadơ. Hồng quân chống cự quyết liệt nhưng cũng phải bỏ Maicốp (ngày 10-8) và cả Crátsnôđa (ngày 11-8). Cuối tháng 8, quân Đức đã đến được vùng Môdơdốc với nhiều tổn thât.
Sự chấn chỉnh kịp thời đã làm sức đề kháng của Hồng quân mạnh dần lên. Âm mưu đột phá Tuáp và Ócdơgiônhikítdê không thành công. Quân Đức cũng không đạt được mục đích trong tiến công dọc bờ biển ở Dacápcadơ.
Để ngăn chặn quân Đức chọc thủng mặt trận Xtalingrát, Đại bản doanh nhanh chóng điều các tập đoàn quân 62, 63, 64 trong lực lượng dự bị đến tuyến sông Đông. Ngày 12-7-1942, phương diện quân Xtalingrát được thành lập. Nhiệm vụ của phương diện quân Xtalingrát là giữ vững dải phòng ngự rộng 530 km, không cho quân Đức tiến sâu hơn nữa.
Trận Xtalingrát là một trong những trận đánh lớn nhất trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, là “trận đánh của thế kỷ” theo lời tướng V. Truicốp, và cũng là một trong những trận đánh oai hùng nhất của Hồng quân Liên Xô trong “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại”.
Ngày 17-7-1942, quân Đức nổ súng tiến công, mở màn trận đánh. Ai đó có nói rằng: người ta có thể gây chiến khi mình muốn nhưng không thể kết thúc lúc mình mong. Trong trường hợp trận đánh lớn Xtalingrát, câu nói trên thật đúng đối với phát xít Đức!.
Các đơn vị tiền vệ của tập đoàn quân 62 và 64 của Hồng quân đã bước vào cuộc chiến đấu không cân sức một cách ngoan cường, kéo dài đến 6 ngày đêm.
Ngày 23-7, quân Đức tiến công dải phòng ngự chính. Với lực lượng chiếm ưu thế hơn về quân số, máy bay, xe tăng, chúng mở đòn đột kích rất mạnh vào sườn phải (là nơi tổ chức phòng ngự yếu nhất) của tập đoàn quân 62, chọc thủng dải phòng ngự chính và đến cuối ngày 25-7 thì tiến công được đến vùng Verơkhơnhe - Budinốpca. Do đó gần 2 sư đoàn của tập đoàn quân 62 bị bao vây.
Để khôi phục lại tình hình, phương diện quân đã đưa 2 tập đoàn quân xe tăng số 1 và 4 chưa xây dựng xong vào chiến đấu cùng với quân đoàn xe tăng 13 của tập đoàn quân 62, nhằm phản kích lực lượng đột nhập của quân Đức, đảm bảo cho bộ phận bị vây trở về với lực lượng chủ yếu. Trong 3 ngày chiến đấu ác liệt, quân Đức bị thiệt hại nặng và phải dừng bước tiến.
Không đạt được kết quả mong muốn ở giải phòng ngự thuộc tập đoàn quân 62 của Hồng quân, quân Đức chuyển sang tiến công phía nam dải phòng ngự của tập đoàn quân 64. Tại hướng này, chúng đã tiến được đến sông Đông và chiếm được bến phà ở vùng Nhigiơnhe - Chirơ. Tuy nhiên, do kết quả phản đột kích của tập đoàn quân 64, quân Đức cũng đã phải dừng lại.
Cuộc chống cự quyết liệt của Hồng quân buộc phát xít Đức phải điều trở lại tập đoàn quân xe tăng số 4 của chúng từ mặt trậm Cápcadơ về Xtalingrát. Ngày 7-8, bốn sư đoàn của tập đoàn xe tăng số 4 của Đức đột phá vào khu vực Ápganherôvô. Tập đoàn quân 64 đã tổ chức 3 sư đoàn bộ binh và quân đoàn xe tăng số 13 phản đột kích hiệu quả, khôi phục lại tình huống đã mất. Quân Đức buộc phải chuyển sang phòng ngự và trong suốt 10 ngày không có những hoạt động tích cực nào.
Ngày 19-8, quân Đức lại chuyển sang tiến công quyết liệt.
Ngày 23-8, cụm tập đoàn xe tăng thuộc tập đoàn quân 6 của Đức đã chọc thủng đến bờ sông Vônga về phía bắc Xtalingrát. Cũng trong ngày đó, không quân Đức đánh cấp tập vào thành phố với 2.000 lần chiếc. Thành phố bị đánh phá khắp nơi. Máy bay tiêm kích của Hồng quân đã anh dũng đánh lui nhiều đợt tập kích đường không của Đức. Pháo cao xạ cũng góp phần không nhỏ trong việc phòng thủ trên không và trong nhiều trường hợp, đã phải hạ nòng bắn thẳng vảo quân Đức ở mặt đất.
Để làm giảm áp lực tấn công của quân Đức vào thành phố, trong những ngày từ 20 đến 28-8, bộ đội của các tập đoàn quân 63, 21 và tập đoàn quân cận vệ số 1 đã tổ chức nhiều trận phản kích đế chiếm lại các bàn đạp trên sông Đông và thu hút một bộ phận lực lượng đáng kể của tập đoàn quân 6 Đức lên phía bắc. Đến ngày 28-8, Hồng quân đã chặn được quân thù ở ngoại ô tây - bắc thành phố Xtalingrát.
Quân Đức tăng cường sức tiến công. Tháng 8, tập đoàn quân số 8 của Ý và tháng 9 là tập đoàn quân số 3 của Rumani bắt đầu tham chiến vào trận đánh lớn này. Trong tháng 9, quân Đức huy động 50 sư đoàn vào hướng Xtalingrát, còn ở Cápcadơ khoảng 30 sư đoàn. Tình hình đối với cuộc phòng ngự của Hồng quân tiếp tục xấu đi. Đại bản doanh đã phải điều động bổ sung cho phương diện quân Xtalingrát tập đoàn quân 24 và 66. Hai tập đoàn quân này cùng với tập đoàn quân cận vệ số 1 đã tiến hành nhiều trận phản đột kích vào quân Đức đang tiến đến sông Vônga ở phía bắc Rưnốc, làm một bộ phận lực lượng quân Đức phải thu hút vào đây. Tuy vậy, tình hình vẫn rất căng thẳng.
Ngày 12-9, quân Đức ồ ạt đánh vào thành phố. Để tiến được 100 - 120 km, trong thời gian 63 ngày đêm, quân Đức đã phải trả một giá đắt: mất 87 ngàn binh lính và sĩ quan, trên 350 xe tăng, 400 máy bay mà vẫn chưa chiếm được Xtalingrát.
Nhiệm vụ bảo vệ vành đai phòng thủ bên trong thành phố lúc này do hai tập đoàn quân 62 và 64 của Hồng quân đảm nhiệm. Tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ Xô Viết phòng thủ Xtalingrát ngày một cao, đã ngoan cường lại càng ngoan cường. Sự quả cảm của họ thật không có bút nào tả xiết. Đó chính là kết quả của lòng yêu nước nồng nàn trước kẻ thù xâm lược, của tình yêu tin vào chế độ mà họ xả thân phụng sự. Quân Đức được hun đúc khiên cưỡng từ gang thép Đức. Còn Hồng quân trở thành gang thép từ chính ngọn lửa rừng rực căm thù trong lòng họ khi tổ quốc thiêng liêng, thân yêu và vô tội của họ bị dày xéo và đang lâm nguy. Chính nghĩa thuộc về ai đã quá rõ, khỏi bàn! Tinh thần hy sinh chiến đấu quên mình của các chiến sĩ Xô Viết trong công cuộc phòng thủ Xtalingrát đã là nguyên nhân quan trọng nhất trong số những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thắng lợi của Hồng quân Liên Xô trong “trận đánh của thế kỷ”.
Trong những trận đánh ác liệt từ ngày 13 đến ngày 26-9, quân Đức đã chiếm được phần phía nam của thành phố, đã thọc được đến sông Vônga trong khu vực nhà máy chế tạo máy kéo và ngày 11-10, chúng đã đột phá được ra bờ sông ở phía nam nhà máy “Baricátdơ”. Tuy vậy quân Đức vẫn không làm chủ được thành phố. Cuộc kháng cự anh hùng của các chiến sĩ xô viết trong thành phố đã không cho chúng thực hiện điều đó. Có một sự kiện sáng ngời: ngày 28-9, một tổ trinh sát Hồng quân do hạ sĩ cận vệ Ia. Ph. Páplốp đã đánh bật nhóm quân Đức ra khỏi tòa nhà 4 tầng ở phố Penden. Sau 2 ngày đêm, quân tăng viện do trung úy cận vệ I. Ph., Aphanaxép chỉ huy đã dần biến ngôi nhà thành ổ đề kháng làm gợi nhớ đến pháo đài Brét. Quân Đức phải dùng không quân đánh phá và nhiều lần cho xe tăng và bộ binh đánh chiếm lại nhưng đều thất bại. Các chiến sĩ Xô viết ở đó đã chiến đấu một mất một còn trong suốt 58 ngày đêm và đã giữ vững trận địa. Sự kiện đó đã trở thành biểu tượng bất diệt về con người bất khuất của người lính Xô Viết.
Hạm đội sông Vônga đã dùng hỏa lực từ các tàu chiến của mình để chi viện cho các đơn vị bộ binh chiến đấu trong thành phố. Quan trọng hơn, vì không có bến phà cố định, hạm đội sông Vônga đã đảm nhiệm vai trò trọng yếu vận chuyển qua sông tiếp tế cho thành phố. Dưới làn mưa bom bão đạn của máy bay và pháo binh Đức, hạm đội này đã chuyển qua sông được hàng chục ngàn binh sĩ và hàng ngàn tấn hàng.
Dù gặp muôn vàn khó khăn gian khổ, tổn thất hy sinh, cuộc phòng ngự của Hồng quân bên trong thành phố Xtalingrát đã đứng vững. Các đảng viên Cộng sản đã là linh hồn của sự phòng thủ đó.
***
Khi quân Đức đang sa lầy ở Mátxcơva, Phôn Ribentrốp, ngoại trưởng Đức đã hối thúc Nhật mở mặt trận phía Đông đánh Liên Xô để phối hợp. Nhật trả lời chưa sẵn sàng vì gặp nhiều khó khăn.
Đúng thật là Nhật đang thiếu trầm trọng nhiên liệu, nhất là khí đốt. Nhưng đó không phải là nguyên nhân sâu xa. Dù đã hợp thành phe Trục nhưng cả ba nước phát xít đầu sỏ Đức, Ý, Nhật, do bản chất ích kỷ, vụ lợi sẵn có nên luôn muốn lợi dụng nhau để mưu hưởng lợi riêng.
Chính phủ Nhật tính rằng gây chiến ngay với Liên Xô là không có lợi; cứ để “ông bạn” Hítle đấm đá với “gã khổng lồ”. Nếu Đức chiếm được Mátxcơva, đánh quị Liên Xô thì lúc đó mới xông vào từ phía Đông để vừa được tiếng là giúp đỡ bạn bè, vừa dính máu ăn phần, kiếm chác chút cháo mà cũng đỡ tốn máu xương.
Nguyên nhân sâu xa hơn là Nhật đang “bận rộn” với kế hoạch bàng trướng xuống Nam - Thái Bình Dương, vùng thuộc địa của các nước tư bản Châu Âu thua trận và lực lượng của Anh, Mỹ ở đó không mạnh lắm. Chiếm được vùng này, nước Nhật phát xít sẽ mở được cánh cửa đi vào Ấn Độ Dương, nhưng trước hết sẽ giải quyết được vấn đề nhiên liệu từ nguồn dầu lửa ở Inxulin và Xinhgapo và Indonêxia. Phương án “Nam tiến” của Nhật được phác thảo từ năm 1938.
Nhưng muốn thế, phải làm chủ được Thái Bình Dương. Muốn làm chủ được Thái Bình Dương thì phải áp chế được lực lượng hải quân của Anh và Mỹ. Áp chế bằng cách nào nếu không tranh quyền đoạt lợi bằng bạo lực? Cuộc chiến tranh Châu Á - Thái bình Dương là điều không thể tránh khỏi đối với thế giới mà nước Nhật phát xít là kẻ khởi xướng. Cuối năm 1940, Tổng tư lệnh hải quân Nhật, Thủy sư đô đốc Isôrôku Yamamôtô đã đề xuất mục tiêu cụ thể đối với trận đánh đầu tiên của cuộc chiến tranh này là quân cảng Trân Châu ở quần đảo Haoai nước Mỹ.
Đô đốc Yamamôtô đã có công lớn trong việc xây dựng hải quân Nhật thành một lực lượng hùng mạnh. Lịch sử quân sự thế giới đã ghi nhận ông là một tư lệnh lỗi lạc về mặt chiến lược, chiến thuật trên biển; là một vị chỉ huy có biệt tài nhìn xa, phán đoán đúng, xông xáo, táo bạo và cực kỳ linh hoạt, bất ngờ trong khi đặt kế hoạch tác chiến. Chính Yamamôtô là một trong số ít tướng lĩnh Nhật tỏ ý không tán thành việc Nhật liên minh với Đức quốc xã và Ý phát xít cũng như gây chiến với Mỹ. Năm 1940, ông có nói: “Nếu không còn cách nào khác nữa mà tôi phải chiến đấu thì cần kết thúc chiến tranh trong 6 tháng hay một năm… Tôi cho rằng chính phủ nên tránh một cuộc chiến tranh với Mỹ”. Kể ra như thế để thấy rằng trong hàng ngũ quân đội phe phát xít không thiếu gì những tướng lĩnh đầy năng lực, tài giỏi. Nhưng kết cuộc phe phát xít vẫn là kẻ bại trận. Điều đó cho thấy sự không thể chống lại ý chí của Đức Huyền Diệu; không thể một mình chống lại cả thế giới đã đứng dậy vũ trang.
Ngày 6-9-1941, cuộc họp tuyệt mật của Hội đồng quốc phòng do Nhật hoàng Hirô Hitô chủ trì, đã phê duyệt cái gọi là “Khối thịnh vượng chung Đông Nam Á” với nội dung:
- Đánh đòn bất ngờ, giành thắng lợi ở cảng Trân Châu, rồi tiến sâu vào Philippin, Luxông, Guam, Boócnêô, Malaixia sau khi chủ lực Anh, Mỹ ở đây đã quị.
- Phát triển về hướng Manila, Xingapo, Thái Lan, Inđônêxia, Miến Điện, Ấn Độ, phối hợp với Đức tiến vào khu dầu lửa Trung Cận Đông…
Trận tập kích cảng Trân Châu là trận đánh hiệu quả nhất trong chiến tranh thế giới thứ hai: chỉ trong 3 giờ tiến công, quân Nhật đã loại khỏi vòng chiến đấu 75% lực lượng nòng cốt của hải quân và không quân Mỹ ở Thái Bình Dương trong khi chỉ chịu những tổn thất không đáng kể. Chiến thắng vang dội đó của quân Nhật như sau này các nhà lý luận quân sự phương Tây nhất trí nhận định là: “Nó tỏ rõ sự thành công tuyệt đỉnh về phạm vi chiến lược, chiến dịch và thực hành chiến đấu, từ cả ý đồ, quá trình tổ chức và thực hiện cụ thể. Nhưng kết quả đó đã vượt xa hơn nhiều, ngoài dự tính của những người lạc quan nhất”. Quân Nhật có được chiến thắng đó, trước hết và trên hết, là nhờ vào việc đảm bảo gần như tuyệt đối yếu tố bất ngờ.
Đành rằng để đảm bảo yếu tố quyết định đó, quân Nhật đã thực hiện công tác bảo mật hết sức nghiêm ngặt, đã khôn khéo nghi binh, đánh lạc hướng trên nhiều phương diện, kể cả về mặt ngoại giao, nhưng khó mà hình dung được việc xây dựng một hạm đội cỡ lớn, việc tổ chức diễn tập, rồi đưa cả hạm đội ấy vượt qua khoảng cách đến 3500 hải lý (1 hải lý = 1,852 km) đường biển, rồi làm cho xuất hiện đột ngột trước cảng Trân Châu, đánh một trận tiêu diệt kinh hoàng, rồi rút lui an toàn, mà chẳng có “tai, mắt” nào của Mỹ phát hiện ra, thậm chí là không có một sự đánh trả đáng kể nào từ lực lượng hùng hậu tại quân cảng. Lý giải điều này chỉ có thể là: phía Mỹ đã chủ quan khinh địch đến tê liệt cả cảnh giác và sự mất cảnh giác đó thể hiện ra cứ như là định mệnh.
Trong việc thành lập hạm đội đánh cảng Trân Châu, quân Nhật đã sắp xếp tổ chức, tuyển chọn có cân nhắc kỹ càng các kíp thủy thủ, các kíp bay; huy động từ nhiều nơi, riêng lẻ từ nhiều căn cứ, tập trung đến trong những thời điểm khác nhau. Vị trí tập kết của hạm đội tham chiến là vịnh Tankan (có tên là Hito kappu), ở đảo Etorophu, thuộc quần đảo Curin, nằm ở cực Bắc - Nhật Bản. Đó là nơi hoang vắng, dân cư thưa thớt, xa đường hàng hải quốc tế, trong một khu vực khí hậu ẩm ướt, có nhiều mây mù thấp, dày đặc, lại thường xuyên có bão và gió xoáy bất ngờ.
Đoàn tàu chiến của hạm đội lúc đầu đóng ở vịnh Curê. Khi hạm đội rời đi và đã tập trung đầy đủ ở Tankan thì việc liên lạc vô tuyến vẫn được duy trì theo đúng chế độ, giờ giấc phát sóng tại căn cứ cũ. Trò đó đã đánh lừa được tình báo Mỹ. Ngay cả các sĩ quan và đô đốc Nhật không tham gia cũng bị bất ngờ. Trên đường di chuyển, đoàn tàu chiến vẫn chạy với tốc độ tàu buôn thường. Việc dùng cờ, đèn, pháo hiệu bị cấm ngặt. Các thức ăn thừa, vỏ đồ hộp, thư từ, giấy tờ và mọi thứ rác thải đều phải thu gom hết và lưu giữ trên tàu, không được ném xuống biển…
Đúng 15 giờ ngày 26-11-1941, hạm đội đi đánh cảng Trân Châu, gồm 31 tàu chiến, do Nagumô chỉ huy, tuần tự nhổ neo với đội hình như sau:
- Đi trước là 6 tàu sân bay (hàng không mẫu hạm) của 3 sư đoàn không quân.
- Tiếp theo là các thiết giáp hạm cũ nhưng tốc độ nhanh và các tàu tuần dương kiểu mới.
- Bảo vệ hai bên sườn là nhiều tàu tuần dương loại nhẹ, tàu phóng ngư lôi và tàu khu trục trang bị mạnh.
- Cuối đội hình là 8 tàu chở dầu.
- Phía dưới là 3 tàu ngầm mẹ chứa các tàu ngầm mini.
Để đánh lạc hướng, hạm đội tiến theo hướng bắc rồi đi theo đường vòng dài gấp đôi, tránh xa đường hàng hải quốc tế, chọn những đoạn đường sóng to, hay có bão để đi, hết sức né tránh các tàu lạ dọc đường. Theo chỉ thị của Yamamôtô: trong trường hợp gặp lực lượng hải quân của bất cứ nước nào, nếu trước ngày J (ngày tiến công) 2 ngày thì hạm đội nhất thiết phải quay về Nhật, còn trước 1 ngày thì quyền quyết định được trao cho tư lệnh Nagumo; trường hợp gặp tàu buôn lẻ thì phải thủ tiêu cho được để bịt đầu mối.
Sau 7 ngày vật lộn với sóng gió, hạm đội đã đi qua đảo Mítxây và ngày 2-12-1941, Nagumô nhận được một mật lệnh từ Tôkiô: “Niitakayama - nobore” (mang ý nghĩa: vượt qua đỉnh núi Niita Kayama - Oasintơn chưa biết gì, cứ đúng ngày J hành động).
Trước đó, lãnh sự quán Nhật ở Hônôlulu, thừa lệnh chính phủ Nhật, lấy cớ giảm bớt căng thẳng trong đàm phán Mỹ - Nhật, đề nghị Mỹ cho quan hệ buôn bán bình thường. Hai bên đồng thuận: trong 3 tháng cuối năm 1941 sẽ có 3 chuyến tàu Nhật được đến Hônôlulu vào 3 thời điểm khác nhau.
Ngày 23-10, tàu Tatu Tamaru cặp bến cảng Trân Châu. Khi viên lãnh sự Nhật lên tàu, thuyền trưởng tàu này đã trao cho một phong bì dán kín: “Đây là những chỉ thị tối mật khẩn cấp, phải điều tra và báo cáo về nước”.
Ngày 1-11, tàu Tayoman đến, lưu lại 5 ngày ở Hônôlulu. Có hai chuyên viên quân sự trên tàu, không lên bờ, dùng kính tiềm vọng và ống nhòm quan sát mọi chi tiết trong vịnh. Viên lãnh sự Nhật đã chuyển tài liệu trinh sát được ở đảo cho viên thuyền trưởng. Hải quan Mỹ đã khám xét kỹ nhưng không phát hiện thấy điều gì bất thường.
Ngày 5-11-1941, tàu này nhổ neo.
Ngày 20-11, đàm phán Mỹ - Nhật đi vào ngõ cụt. Ngày 27-11, Tôkiô tuyên bố bỏ họp. Ngày 29-11, nội các Nhật, do Tojo mới thành lập, quyết định dùng vũ lực. Tuy nhiên, tổng thống Mỹ là Rudơven vẫn gửi công hàm cho Nhật hoàng Hirô Hitô yêu cầu giữ nguyên tình trạng hòa hoãn.
Được Mỹ cho phép, tàu Tatu Tamaru sẽ quá cảnh Hônôlulu (chuyến tàu thứ ba theo thỏa thuận trước đây) để giàn xếp việc hồi hương kiều dân hai nước. Báo chí Mỹ và Nhật rùm beng về chuyện này. Tờ “Nữu Ước thời báo” bình luận: “Trong tương lai gần, vẫn còn dấu hiệu hòa hoãn, chưa thể nổ ra chiến tranh…”. Thực tế, đó chỉ là đòn nghi binh đánh lạc hướng bằng ngoại giao của Nhật, vì sau khi tàu Tatu Tamaru khởi hành rời cảng Yokoyama không lâu đã nhận được điện quay trở lại.
Ở Hônôlulu và trên khu vực đảo Oahu (thuộc quần đảo Haoai), 6 tháng cuối năm đã rộ lên tin đồn: chiến tranh sẽ nổ ra ở Thái Bình Dương. Nhưng binh lính, các sĩ quan và cả đô đốc ở đây chẳng mấy ai tưởng tượng được chiến tranh lại có thể xảy ra trước tiên tại chốn này. Đối với họ, không thể tin được chuyện từ nước Nhật xa lắc xa lơ, một lực lượng đồ sộ đến được đây mà không phát lộ trong suốt chặng quá dài hành quân trên biển. Vả lại phong cảnh nơi đây thật thanh bình, yên ả: bãi biển trong xanh, rặng dừa thơ mộng, quán rượu vũ trường nhộn nhịp nhạc Jazz và nổi tiếng nhiều gái đẹp. Tất cả đều làm quên lãng chiến tranh…
Tổng chỉ huy lực lượng Mỹ vùng Thái Bình Dương, tướng Mác Áctơ đã từng gửi điện nhắc nhở tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ là Hơxbơn Kimen, nhưng các sĩ quan cao cấp ở đây vẫn thấy chẳng có gì cấp thiết. Hơn nữa, họ cũng đã tiến hành tăng cường lực lượng cho một số đảo phía bắc. Ngày 8-11, tàu sân bay Lexintơn, 3 tàu tuần dương loại nặng, 5 tàu khu trục cùng một số quân và 12 máy bay chiến đấu tăng cường cho đảo Mítuây. Ngày 5-12, tàu sân bay Intơprai với 3 tàu tuần dương, 9 tàu khu trục bảo vệ cũng đang trên đường đến tăng cường cho đảo Uâyk (tuy nhiên do bị hỏng máy dọc đường, phải sửa chữa suốt 15 tiếng đồng hồ nên tàu Intơprai đã không đến được căn cứ trước trận đánh và đó là điều may cho nó).
Thực ra tin tức về một trận tập kích của Nhật vào cảng Trân Châu đã được nhiều quan chức Mỹ biết và cũng đã có những cảnh báo từ rất sớm. Nhưng tất cả đều bị “bỏ xó” cứ như chuyện đùa. Câu chuyện tiếp theo cho thấy sự chủ quan, lơ là cảnh giác của quân đội Mỹ đến cỡ không thể nói khác hai từ: định mệnh.
Vào tháng 5-1940, tại vùng biển Bêrinh, gần Alaska một tàu đánh cá Nhật bị bão đánh chìm. Người ta vớt được xác chết của viên thuyền trưởng tàu đó và trao cho đội tuần tra Mỹ. Trong túi của tử thi có một quyển sách có bìa là hai tấm chì. Sau khi tìm hiểu, xác định, Mỹ biết người chết là một đại úy tình báo Nhật và quyển sổ đó chính là quyển ghi chép mật mã cơ yếu dùng thông tin vô tuyến điện của hải quân Nhật (Thật ra đây là bản mật mã cơ yếu dùng chung cho cả hải quân, không quân và Bộ ngoại giao Nhật. Điều ngạc nhiên là nó đã không được Nhật thay đổi trong suốt cuộc chiến tranh. Lục quân Nhật dùng mật mã riêng. Mật mã này khó tới mức tất cả các chuyên gia hàng đầu của Mỹ đều chịu thua, không giải được).
Sau một thời gian ngắn, Mỹ đã mở được khóa mật mã này. Mỹ cố giữ kín và ra sức tận dụng sự phát hiện tình cờ nhưng vô giá này. Nhờ thế, tình báo Mỹ đã biết được nhiều nội dung thông tin tình báo từ Tôkiô đi các nơi và từ các nơi gửi về.
Nhật đã không mảy may hay biết gì và đó chính là nguyên nhân dẫn đến cái chết của thủy sư đô đốc Yamamôtô sau này trên chiến trường ở quần đảo Salômôn, nơi ông đang điều binh khiển tướng, phát huy đến cao độ lối đánh gần, đánh tiêu hao đầy hiệu quả của mình. Sáng sớm ngày 17-4-1943, trung tâm do thám vô tuyến điện của Mỹ đặt tại vùng Alaska bắt được một bức điện mật phát đi từ thiết giáp hạm Yamatô, mang cờ hiệu của đô đốc Yamamôtô. Lập tức bức điện được giải mã và có nội dung: Đô đốc Yamamôtô đi thị sát các căn cứ hải quân trên đảo Buganhvin, Salômôn; cùng đi có tổng tham mưu trưởng và 7 sĩ quan cao cấp hải quân hoàng gia; Đoàn khởi hành từ Truk, vào 8 giờ sáng nay, theo 2 máy bay Sally (loại 2 động cơ ném bom), có 6 máy bay khu trục hộ tống; từ đảo Buganhvinh sẽ có các máy bay khu vực của phi trường Kahili bảo vệ, hành trình dự kiến: Rêban, Búcka 16 giờ 30, nghỉ đêm ở Búcka và sáng sớm hôm sau đi Kahili, tới nơi 9 giờ 45. Mỹ đã lên kế hoạch chớp nhoáng: dùng máy bay P38 ở sân bay Hendécxơn Phin trên đảo Goađêcanên để đón đánh Yamamôtô ngay trên sân bay Kahili vào ngày hôm sau. Sáng chủ nhật, ngày 18-4-1941, một phi đội gồm 16 chiếc P38 của Mỹ cất cánh, bay thấp, giữ im lặng, vòng ra xa các hòn đảo có quân Nhật chiếm giữ để tránh bị phát hiện, hướng tới mục tiêu là đảo Bunganhvin. Khi phát hiện ra máy bay Mỹ, 6 chiến khu trục hộ tống của Nhật tổ chức đánh chặn, 2 chiếc Sally vội vàng đâm thẳng về phía đảo. Nhưng đã không còn kịp. Chiếc chở Yamamôtô bị một chiếc P38 lách được đến gần bắn trúng một loạt đạn 20 mm từ 4 trọng liên. Động cơ bên phải bốc cháy, máy bay này sà xuống, vướng vào các ngọn cây, gãy thêm cánh bên phải, bốc cháy và đâm xuống khu rừng. Chiếc Sally thứ hai chở ban tham mưu cao cấp bị một chiếc P38 khác đuổi kịp, bắn trúng. Nó đâm đầu xuống một bãi san hô rồi nổ tung. Các đội tìm kiếm thấy đô đốc Yamamôtô bị chết thiêu, nhưng vẫn trong tư thế ngồi thẳng, hai bàn tay chống trên đốc chiếc kiếm của võ sĩ Samurai. Sau này nhận định về sự kiện Yamamôtô, bộ trưởng hải quân Mỹ là Phren Xnốc viết rằng: việc chiếm dụng bản mật mã của hải quân Nhật có giá trị tương đương với việc hải quân Mỹ được trang bị thêm một hạm đội.
Quay lại chuyện chính. Nhờ có bản mật mã, Mỹ đã có thể nắm bắt nội dung của nhiều bức điện của một tình báo Nhật lợi hại nằm vùng ở Hônôlulu, tên là Yo Slu Kava Takeo. Mỹ cũng khám phá được một số tin mật từ sứ quán Nhật ở Oasintơn gửi về Tôkiô. Ấy vậy mà nhiều tin tức quan trọng đó đã bị chôn vùi trong đống hồ sơ lưu của Bộ tổng tham mưu Mỹ, trong đó có nhiều bản tin đã giải mã xong nhưng chưa dịch ra tiếng Anh.
Ngay từ ngày 24-7-1941, Xnốc đã báo cáo với bộ trưởng Bộ chiến tranh Mỹ là Henri Xtimsơn như sau: “Nếu xảy ra chiến tranh với Nhật, thì đòn bất ngờ đầu tiên sẽ là cảng Trân Châu”.
Ngày 27-7-1941, Đại sứ Mỹ ở Nhật gửi thông báo về Oasintơn, có đoạn: “Do nhiều nguồn tin, trong đó có cả từ phía Nhật, ông Pớcgu bạn tôi ở đây cho biết là khi xảy ra rắc rối giữa Mỹ và Nhật thì trận đụng độ đầu tiên là ở cảng Trân Châu - Hônôlulu”. Thông tin này phải qua nhiều khâu chậm trễ mới đến được Cục tình báo hải quân. Cục này không tin đó là việc có thật, chỉ thêm phần bình luận rồi gửi cho đô đốc Kimen ở Hônôlulu. Ông này bỏ qua mà không có ý kiến gì.
Ngày 20-8-1941, Henri Xtimxơn nhận được một báo cáo chi tiết của đại tá không quân Pátrinh về cuộc diễn tập của các tàu sân bay Nhật, chuẩn bị cho trận tiến công cảng Trân Châu. Trong đó cũng dự kiến thời điểm tiến công là lúc mờ sáng vào những ngày cuối năm, hướng xuất phát không bình thường, có thể là hướng bắc. Không hiểu sao bộ hồ sơ này nằm chết dí luôn ở văn phòng bộ trưởng Xtimxơn.
Đến tận những ngày cuối cùng trước trận đánh, Oasintơn mới thấy cần báo động khẩn cấp cho Haoai. Tướng Gioóc Mácsan, tổng tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, gửi cho đô đốc Kimen một công văn khẩn “Nhật đang chuẩn bị gửi tối hậu thư cho Mỹ ngày 7-12-1941. Toàn căn cứ phải ở trong tình trạng báo động khẩn cấp”. Công văn gọi là “khẩn” mà lại đi gửi theo đường hàng hải thương mại thông thường , nên khi đến nơi thì chiến sự đã nổ ra và đô đốc Kimen nhận được nó cùng với lệnh triệu hồi.
Thật là chủ quan, lơ là đến ngỡ ngàng!
Chưa hết! Đêm 6-12-1941, lợi dụng tối thứ bảy (ngày cuối tuần), người Mỹ thường nghỉ việc, tàu lặn mini I.16 của Nhật đã xâm nhập đến gần đảo để trinh sát. I.16 là loại tàu ngầm chỉ dài 13m, có một máy nổ nhỏ, 2 người điều khiển và trang bị 2 thủy lôi 450mm. Chúng thường được tàu ngầm mẹ mang đến gần căn cứ đối phương thả ra và hoạt động độc lập. Nhờ hệ thống giảm âm, tốc độ chậm, lướt rất nhẹ, ít để lại gợn sóng trên mặt nước nên khó bị phát hiện. Nó hoạt động có tính cảm tử, khi cần phải tự hủy để khỏi lộ tung tích. Do vậy nó ra đi ít có khả năng quay về.
Đêm đó các tàu I.16 xâm nhập đến cách đảo 8 dặm, nhô kính tiềm vọng để quan sát rồi sau đó nổi hẳn lên mặt nước. Dưới ánh đèn bảo vệ sáng rực, ánh đèn pha cực mạnh và quét thấp theo chu kỳ, toàn bộ quang cảnh căn cứ, các vị trí tàu đậu… hiện lên rõ ràng trong tầm ngắm quan sát của các thủy thủ Nhật.
Từ 2 giờ đến gần sáng ngày 7-12, hai tàu tuần tiễu loại nhỏ của Mỹ đi tuần ngoài khơi. Trên đường về căn cứ, một tàu phát hiện cách xa khoảng 1000m loáng có vết di động, sóng bị dạt và chao đảo, vạch một đường trên mặt nước hướng vào căn cứ. Thuyền trưởng cho tàu bám sát, nghi là một kính tiềm vọng. Tàu này liên lạc với hai tàu tuần tiễu lớn hơn là tàu Scot và Oát trao đổi thông tin về mục tiêu lạ. Sau đó 15 phút, tàu Oát báo động toàn tàu, tăng tốc độ bám sát vệt nước đang vào. Để khỏi chạm mìn và thủy lôi rào quanh căn cứ, tàu Oát phải giảm tốc độ, quay vòng thì mục tiêu cũng mất hút. Bấy giờ là khoảng 4 giờ 30. Sau đó cửa khẩu ngầm mở rộng để các tàu tuần tra hết phiên trực trở vào căn cứ. Chớp thời cơ, các tàu I.16 của Nhật lẻn vào trót lọt.
Trời mờ sáng, tàu công trình Andares dắt tàu bia (tập xạ kích) trở về. Cửa ngầm lại mở. Hai tàu I.16 tiếp tục lọt được vào.
Đến 6 giờ 30, một thủy phi cơ trinh sát Mỹ cất cánh tuần tiễu. Nhờ biển lặng, phi công nhìn thấy từ trên cao một vệt di động, bèn cho máy bay lượn nhiều vòng, sà thấp, quan sát kỹ hơn rồi liên lạc với đội tàu tuần tra của căn cứ. Mục tiêu lộ rõ. Sợ nhầm phải tàu ngầm Mỹ đi lạc, họ cho báo động và sau khi chờ trả lời không kết quả, thuyền trưởng tàu Oát ra lệnh nổ súng. Một chiếc I.16 bị diệt.
Ở Sở chỉ huy, sau khi nhận được báo cáo từ tàu Óat, phó đô đốc Blốc cũng chỉ báo động cho riêng tàu khu vực Monaghon, các chiến hạm khác vẫn không hay biết gì.
Không quân Mỹ phát hiện thêm 2 tàu I.16 nữa trong tuyến hàng rào thủy lôi. Ba tàu Mỹ dùng pháo và lựu đạn chống tàu ngầm bắn chế áp mãnh liệt. Hai tàu I.16 buộc phải nổi lên để rồi bị bắn chìm. Hai tài I.16 còn lại, sau khi đã báo về chỉ huy đầy đủ thông tin quan sát được, lúc quay ra bị lạc hướng, vướng mìn, thủy lôi, và bị tàu khu vực Hâym bắn chìm nốt.
Trạm rađa trên đồi Opana (bắc đảo Oahu) vào phiên trực từ 4 giờ đến 7 giờ. Tốp trực là các trắc thủ giỏi và có tinh thần trách nhiệm. Hồi 6 giờ 15, họ bỗng phát hiện có những chấm sáng rung động, nháy mạnh, từ ít đến nhiều ở mép cuối màn rađa. Sau 8 -9 phút, những vết sáng càng lúc càng đậm nét, di động xuyên tâm màn hình rađa (nghĩa là đang bay đến căn cứ). Tín hiệu chỉ ra rằng đó là một lực lượng lớn máy bay. Kíp trắc thủ bàng hoàng, vừa ghi tọa độ vừa quay chuông điện thoại báo khẩn cấp về Sở chỉ huy. Liên lạc thời đó rất tệ, mãi 6 - 7 phút sau mới gọi được sĩ quan trực chiến. Còn ngái ngủ, nghe báo cáo xong bèn quát: “Đồ điên!” rồi cúp máy.
Các trắc thủ rađa đứng ngồi không yên, cố tìm cách liên lạc đến mãi 7 giờ 02 phút mới gọi lại được: “Báo cáo có mục tiêu trên không, biên độ lớn, cự ly 113 dặm…”
Lần này, tiếng viên sĩ quan trực chiến trả lời vừa bực dọc vừa châm biếm vài ba câu rồi kết: “Đừng có mà báo cáo gì thêm nữa!”. Vậy là lần thứ hai, tinh thần trách nhiệm cao của các trắc thủ vẫn không được tôn trọng. Họ cứ tiếp tục ghi chép nhưng không biết thông báo đi đâu. Cơ hội cuối cùng và duy nhất cứu vãn sự sống của toàn căn cứ đã bị bỏ lỡ một cách đau xót…
Sau đây là diễn biến trận tập kích:
Đúng 3 giờ ngày 7-12-1941, các tàu dầu được lệnh tiếp đầy dầu cho toàn hạm đội rồi quay về Nhật. Các tàu tiến công tăng tốc nhằm rút ngắn thời gian bay cho không quân đến mục tiêu. Trong lễ chào cờ truyền thống chữ Z của hải quân Nhật được tiến hành trang nghiêm, đô đốc Nagumô đọc thư động viên của Thủy sư đô đốc Yamamôtô. Lễ tuyên thệ được tiến hành trong từng chiến hạm trước bàn thờ nhỏ. Toàn thể các phi công tham chiến đều làm lễ Seppeiku (quỳ và chắp tay hướng về phía mặt trời mọc - tỏ lòng trung thành với Thiên hoàng, Hirô Hirô). Trước khi ngồi vào khoang lái để chuẩn bị cất cánh, họ còn hô vang “Temo benzai!” (Thiên hoàng vạn tuế!).
Lúc 6 giờ, lực lượng máy bay tham gia đợt không kích đầu tiên xuất phát. Từ hạm chỉ huy Agaki, cờ lệnh được kéo lên, 183 máy bay lần lượt rời đường băng. Hạm đội còn cách Oahu 230 dặm, thời gian máy bay đến được mục tiêu không kích là 1 giờ 30 phút. Chỉ huy đợt này là đại tá không quân Mitsuô Fuchiđa. Fuchiđa chủ trương tiến công cả hai hướng đông và tây, tránh hướng bắc vì có dãy núi trên đảo Oahu.
Trong vịnh Trân Châu có 96 tàu các loại, nhưng không có quả khinh khí cầu nào được thả ở lưng chừng trời để chống máy bay bay thấp.
Đô đốc Kimen, chiều thứ bảy ăn cơm và chơi khuya tại nhà tướng Sót. Sáng sớm, ông ta chuẩn bị đi chơi gôn ở ngoài thị trấn, vừa lên xe con thì máy bay Nhật ập tới trên đầu.
Trong căn cứ, mọi người đang chuẩn bị cho buổi chào cờ thường lệ vào 8 giờ sáng. Trên chiến hạm Ôridôna, đội kèn đồng đã chờ sẵn. Lá cờ Mỹ đang được kéo lên ở cột cờ cao của tàu công trình. Đúng lúc đó (7 giờ 55 phút, giờ Haoai), máy bay Achi 99 của Nhật lần lượt bổ nhào xuống đảo Pho. Trên tàu phóng lôi, phó đô đốc Uyliam Phơlơn, người đầu tiên nhận ra có máy bay Nhật xuất hiện ở hai phía. Ông ta ra lệnh bắn nhưng chẳng có thứ gì trong tay để chỉ huy.
Tham mưu trưởng không quân tại căn cứ, đại tá Morixơn, báo cáo cho đại tá Philíp, sĩ quan giúp việc cho tướng Sót: máy bay Nhật đang khống chế sân bay. Philíp trả lời: “Này anh bạn, anh điên à!”. Khi bom đã rơi nổ và lửa bốc cháy dữ dội thì nhiều sĩ quan và quân lính Mỹ hãy còn ngáy ngủ. Còi báo động rúc lên nhưng đã muộn.
Khu tập trung các thủy phi cơ bị tấn công đầu tiên, tiếp đó là các sân bay, kho tàng, bến cảng và suốt dãy hành lang neo đậu của các tàu thiết giáp, tàu tuần dương loại nặng và vừa. Các máy bay Nhật sà thấp, thả bom, thả thủy lôi thia lia, xả súng liên thanh quét dọc các hạm. Tàu Ralâu trúng bom vào ống khói, tàu Uta trúng giữa thân gần như bị đứt đôi, tàu Ôridôna và những chiếc khác cũng trúng bom, thủy lôi xuyên từ chiếc này sang chiếc kia, có chiếc bị trúng bồi nhiều lần trước khi chìm hẳn. Đội danh dự, thủy thủ và sĩ quan ở tư thế chào cờ trên boong, bị súng liên thanh quét dữ dội, thương vong nặng nề, một số bị hất xuống biển. Lẫn trong tiếng còi báo động, tiếng gầm rú của máy bay, tiếng đạn bom ầm ĩ là tiếng gào thét điên loạn. Lửa bốc càng lúc càng mạnh ở khu vực tàu chủ lực.
Các máy bay đậu trên sân bay Hicơn Phin, một số bốc cháy và nổ tung, vài chiếc phát động được máy, sắp rời đường băng cũng bị bắn hạ. Sân bay Uynlơ Phin bị tổn thất nặng nề, riêng máy bay đã bị hủy diệt 33 chiếc trên tổng số 49 chiếc ngay trong đợt không kích đầu tiên. Sau đợt này, hàng loạt sân bay của lục quân và hải quân Mỹ ở căn cứ đã bị oanh tạc và đều không sử dụng được.
Chỉ huy đợt không kích thứ hai là đại tá Shigekaku Shimazaki. Đợt này với 170 máy bay các loại, đã cất cánh lúc 8 giờ 30. Thời gian bay tới mục tiêu đã được rút ngắn nhờ tư lệnh Nagumô cho hạm đội tiến gần hơn.
Tại sân bay Belao, một số máy bay Mỹ chuẩn bị xuất kích, nhưng do tổ chức bị động, rời rạc, chỉ huy rối loạn nên bị triệt ngay trên đường băng, vài chiếc kịp cất cánh được thì ngay lập tức cũng bị bắn rơi.
Hỏa lực phòng không đã bắt đầu hoạt động nhưng lẻ tẻ, rời rạc, kém chính xác nên đến 9 giờ 6 phút, tàu thiết giáp chỉ huy dự bị Penxivơniơ, các tàu khu trục Koxin và Đaox cũng phải chịu những tổn thất…
Đến 9 giờ 45, toàn bộ trận đánh lớn của quân Nhật vào cảng Trân Châu kết thúc. Vào lúc 13 giờ ngày 7-12, chiếc máy bay cuối cùng tham gia cuộc tập kích hạ cánh an toàn xuống tàu sân bay Agaki.
Toàn hạm đội do đô đốc Nagumô chỉ huy cặp quân cảng Nahinajima ngày 23-12-1941.
Kết quả trận đánh:
- Thiệt hại về phía Mỹ: Đắm và trọng thương 19 tàu chiến lớn cùng một số lớn tàu chiến nhỏ; 188 máy bay bị tiêu diệt, 159 chiếc bị phá hỏng; chết và mất tích 2.403 người, bị thương 1.188 người.
- Thiệt hại về phía Nhật: 29 máy bay bị rơi do tai nạn, do hết xăng không hạ cánh được; 5 tàu mini I.16 bị tiêu diệt; chết và mất tích 64 người, 1 người bị bắt làm tù binh.
Trận cảng Trân Châu đã kích hoạt làm bùng nổ chiến tranh Thái Bình Dương. Ngày 8-12, Mỹ và Anh tuyên chiến với Nhật. Ngày 11-2, Mỹ tuyên chiến với Đức và Ý. Cùng ngày, Đức và Ý cũng tuyên chiến với Mỹ.
Ngày 10-12-1941, xảy ra trận thủy chiến Kwantan (Xingapo). Ngay trong 15 phút đầu tiên giao chiến, 2 chiến hạm chủ lực nổi tiếng thời đó của hải quân Anh là Prinxơn Uâyx và Ripơn bị không quân của Nhật đánh chìm. Hạm đội Anh do thủy sư đô đốc Tôm Philip chỉ huy nhanh chóng tan tác. Tư lệnh Philíp tuẫn tiết theo kỳ hạm (tàu chỉ huy), giữ truyền thống của hải quân Anh. Trong phiên họp khẩn của Quốc hội Anh đêm 10-12, thủ tướng Uyntơn Sơcxin chua chát nói: “Gần cả đời tôi, trải qua nhiều kinh nghiệm lãnh đạo chiến tranh, chưa lần nào tôi nghĩ đến một tổn thất to lớn như vậy; nó thật kinh hoàng và chua xót…”
Cách thủy chiến bằng hải quân kết hợp với không quân chiến đấu của Nhật đã chỉ ra: từ đây, một hạm đội, dù hỏa lực có mạnh đến mức nào, cũng không thể trụ nổi trước đối phương, nếu không có máy bay chiến đấu yểm trợ. Trong chiến tranh Thái Bình Dương, xuất phát từ đặc tính môi trường tác chiến là biển cả, việc loại khỏi vòng chiến đấu các căn cứ hải quân và không quân của đối phương là một yếu tố rất quan trọng để giành thế chủ động chiến lược. Không quân của lực lượng hải quân trên các tàu sân bay đã trở nên giữ vai trò chính yếu trong việc giải quyết nhiệm vụ đó…
Khi bắt đầu chiến tranh, các lực lượng vũ trang của Mỹ, Anh, Hà Lan… ở Thái Bình Dương có 22 sư đoàn (420 ngàn người), 237 tàu chiến (trong đó chỉ có 3 tàu sân bay), 88 tàu ngầm và 1.290 máy bay. Nhưng các lực lượng đó bị dàn mỏng ra nhiều căn cứ, hơn nữa lại ít hơn Nhật hai lần về tàu sân bay và số máy bay đậu trên tàu sân bay. Ngoài ra, tại khu vực này chưa thành lập được một bộ chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang Đồng Minh.
Trong vòng 5 tháng sau trận tập kích thắng lợi, gây thiệt hại nặng không kịp phục hồi cho hải quân Mỹ ở cảng Trân Châu, phát xít Nhật, với tương quan lực lượng vượt trội, đã giành tiếp hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, đánh bật Anh, Mỹ ra khỏi Thái Bình Dương, chiếm được một vùng lãnh thổ rộng lớn đến 3,8 triệu km2 với hơn 150 triệu dân (nếu tính cả phần đất Trung Quốc đã chiếm được trước đó thì lúc này Nhật chiếm khoảng 7 triệu km2 và 500 triệu dân cư)
Tuy nhiên, năng lực quân sự của Nhật không phải là vô hạn. Đến thời gian này, những mâu thuẫn giữa khả năng và mục đích của phát xít Nhật đã được bộc lộ. Hàng loạt khó khăn xuất hiện đã buộc các mũi tiến công chiến lược của quân Nhật phải dừng lại.
Mỹ cấp tốc đề ra các biện pháp tăng cường sức mạnh cho không quân và hải quân. Lực lượng vũ trang Nhật dàn mỏng trong không gian rộng lớn Thái Bình Dương đã bắt đầu cảm thấy sức chống cự của đối phương ngày một tăng.
Tháng 5-1942, hải quân Nhật mở cuộc tiến công nhằm chiếm một cảng quan trọng trong vùng biển San hô (Corail), giữa Úc và quần đảo Salômôn - cảng Môtơsơbi. Trong cuộc giao chiến ngày 7 và 8-5, quân Nhật đã buộc phải rút lui sau khi mất 1 tàu sân bay, 1 khu trục hạm và trên 80 máy bay. Đây là thắng lợi đầu tiên của Mỹ và cũng là thất bại đầu tiên của Nhật trên chiến trường Thái Bình Dương.
Sau thất bại đó, bộ chỉ huy Nhật chọn quần đảo Mituây (Midway) làm mục tiêu tấn công. Cuộc nội chiến lớn trên biển giữa hải quân Nhật và hải quân Mỹ - Anh đã xảy ra từ ngày 4 đến ngày 6-6-1942. Thất bại thuộc về quân Nhật với thiệt hại: mất 4 tàu sân bay, 1 tàu tuần dương loại nặng và 253 máy bay (dẫn đến mất ưu thế trước đây về tàu sân bay so với Mỹ - Anh).
Trong 6 tháng cuối năm 1942 và trong năm 1943, nhờ có tiềm lực lớn lao về kinh tế và quân sự, lực lượng Mỹ - Anh đã dần dần lấy lại được quyền chủ động chiến lược, hoạt động có phần tích cực hơn. Đến cuối năm 1943, Mỹ - Anh đã đuổi sạch quân Nhật khỏi các đảo Ghinbéctơ, Alêuchiên, phần lớn các đảo trên biển San hô và phần phía đông - nam đảo Tân Ghinê.
Sự gây chiến qui mô lớn của ba nước phát xít Đức, Ý, Nhật đã gây ra khói lửa, chết chóc trên hầu khắp các châu lục Á - Âu - Phi, chà đạp thô bạo lên quyền sống cơ bản của các dân tộc ở đó và do đó mà cũng thổi bùng lên phong trào chống phát xít trên khắp thế giới. Việc thành lập một liên minh quốc tế nhằm chống lại sự đe dọa hủy diệt của lực lượng phát xít, giành lại hòa bình cho thế giới đã trở thành nguyện vọng và đòi hỏi bức thiết của Đại chúng nhân loại.
Ngày 15-8-1941, tổng thống Mỹ và thủ tướng Anh đã gửi bức thông điệp chung cho chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô, trong đó đề nghị tổ chức tại Mátxcơva một hội nghị để bàn về việc cung cấp cho nhau những nguyên liệu và vật tư chiến tranh. Chính phủ Liên Xô  đã chấp thuận và Hội nghị đã được tiến hành từ ngày 29-9 đến ngày 1-10 và văn kiện Hội nghị được ký kết vào ngày 1-10.
Sau khi chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra, Anh và nhất là Mỹ dù vẫn muốn hòa hoãn với Nhật thì cũng đã bị lôi tuột vào vòng chiến. Giờ đây, trực tiếp hay gián tiếp thì không những toàn thể loài người mà núi rừng, sông hồ, biển cả đều tham gia cuộc chiến; hay có thể nói Trái Đất đã lâm chiến tự hủy diệt mình do đứa con hư của nó gây ra. Và thuận theo lẽ tự nhiên, sự tích cực thích nghi để sống còn đòi hỏi phải có một lực lượng thống nhất của loài người, dùng chiến tranh để cứu vãn hòa bình, lấy tiêu diệt để loại trừ sự tiêu diệt; phải có một trận tuyến mà một bên là đa số không phân biệt đảng phái, tôn giáo, chế độ, tư tưởng, miễn là biết chính nghĩa và một bên là thiểu số phát xít tham tàn, bạo ngược, ích kỷ. Hồng quân Liên Xô đã là người lính đầu tiên trên tuyến đầu, phản kích lại quyết liệt cuộc thập tự chinh nô dịch thế giới của chủ nghĩa phát xít và với trận đánh phòng thủ thắng lợi trước cửa ngõ Mátxcơva, họ đã đem lại niềm tin lớn lao cho lực lượng cần lao và yêu chuộng hòa bình thế giới. Nhân dân Liên Xô trong khi chiến đấu bất khuất tự cứu mình thì cũng đồng thời trở thành những người phất cao ngọn cờ khởi nghĩa cho bốn phương hướng về.
Đến cuối năm 1941, điều kiện và hoàn cảnh đã chín muồi để làm xuất hiện một mặt trận liên minh trên phạm vi toàn thế giới chống chủ nghĩa phát xít.
Ngày 1-1-1942, tại Oasintơn đã ký kết bản “Tuyên bố Liên Hợp Quốc” của 26 nước, trong đó có Liên Xô, Mỹ, Anh. Bản tuyên bố qui định:
“- Các chính phủ cam kết dốc toàn bộ sức mạnh quân sự và kinh tế của đất nước vào cuộc chiến tranh chống lực lượng phát xít và chư hầu của chúng.
- Mỗi chính phủ cam kết hợp tác với các chính phủ tham gia bản tuyên bố chung, không được ký hiệp định đình chiến hay hòa ước riêng với các nước thù địch.
- Bất cứ nước nào có đóng góp vào cuộc đấu tranh chiến thắng chủ nghĩa phát xít đều có thể tham gia bản tuyên bố trên”.
Ngày 26-5-1942, tại Luân Đôn đã ký kết hiệp ước giữa Anh và Liên Xô về việc liên minh chống nước Đức phát xít cùng các nước chư hầu của nó ở Châu Âu và việc tương trợ lẫn nhau sau chiến tranh.
Ngày 11-7-1942, tại Oasintơn đã ký kết hiệp ước Xô - Mỹ về những nguyên tắc tương trợ trong quá trình đấu tranh chống phát xít xâm lược.
Như vậy, Mặt trận Đồng Minh chống phát xít toàn thế giới, mà nòng cốt là sự liên minh Xô - Mỹ - Anh đã được thành lập. Mặt trận này đã có tác dụng tích cực và to lớn đối với việc tạo nên sự đoàn kết, phối hợp, hỗ trợ giữa các lực lượng chính nghĩa trong chiến tranh thế giới thứ hai.
***
Cuộc phản công trong trận đánh lớn Stalingrát của Hồng quân Liên Xô đã tạo ra bước ngoặt trên chiến trường Xô - Đức: quyền chủ động chiến lược chuyển hẳn sang tay Hồng quân và quân Đức, do không thể phục hồi, đã phải chuyển sang phòng ngự chiến lược trên toàn chiến trường để rồi bị đánh tới tấp, buộc phải rút lui dần đến tận sào huyệt của chúng là Béclin.
Đến giữa tháng 11-1942, tương quan lực lượng trên toàn mặt trận Xô - Đức là:
- Hồng quân có: 385 sư đoàn (hơn 6,1 triệu người), 72,5 ngàn pháo và súng cối, trên 6 ngàn xe tăng và pháo tự hành, 3.068 máy bay chiến đấu, 233 tàu chiến.
- Quân Đức có: 258 sư đoàn (6,2 triệu người; biên chế sư đoàn Đức hơn sư đoàn Hồng quân 1,5 lần); 70.980 pháo và súng cối, 6.600 xe tăng và pháo xung kích, 3.500 máy bay, 194 tàu chiến.
Tham gia vào cuộc phản công ở khu vực Stalingrát là 3 phương diện quân Liên Xô là phương diện quân Tây - Nam, phương diện quân Sông Đông và phương diện quân Xtalingrát; cụ thể gồm hơn 1 triệu người, 13,5 ngàn pháo và súng cối, 979 xe tăng, 1.350 máy bay. Còn phía quân Đức gồm: hơn 1 triệu người, 10.290 pháo và súng cối, 675 xe tăng và 1.200 máy bay. Theo đó, ưu thế của Hồng quân tại đây so với quân Đức là không đáng kể cho nên kết quả của chiến dịch to lớn này là do tài năng quân sự quyết định. Và ở đây, một cái tên rất nổi tiếng trong hàng ngũ tướng lĩnh Hồng quân lại xuất hiện: Ghêoócghi Giucốp. Chúng  ta sẽ kể đôi nét về ông.
Giucốp sinh ngày 1-12-1896 trong một gia đình nghèo tại làng Stơrencốtca, tỉnh Kaluga và mất năm 1974. Ông tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất được thưởng hai huân chương Thánh Gioóc. Năm 1918, ông tham gia Hồng quân và năm 1919 trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Nga.
Chính Giucốp là người đã chỉ huy Hồng quân đánh bại quân Nhật trong trận Khankhingôn (Mông Cổ). Hè 1940, Giucốp chỉ huy quân khu Kiép, tháng 1-1941 làm Tổng tham mưu trưởng rồi Phó tổng tư lệnh tối cao, đại diện của Đại bản doanh trên nhiều mặt trận, đại diện Bộ tổng tư lệnh tối cao chủ tọa lễ ký văn bản của phát xít Đức đầu hàng phe Đồng Minh.
Theo hồ sơ lưu trữ của phát xít Đức do Hồng quân thu được sau chiến tranh thì tướng lĩnh Đức đã sớm coi Giucốp là đối thủ đáng gờm nhất, ngay từ sau chiến thắng của ông ở Khankhingôn. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, ông thực sự là vì sao sáng chói về tài năng quân sự. Quân dân Liên Xô đã thừa nhận ông là vị chỉ huy lỗi lạc nhất của quân đội Xôviết trong “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại”. Có thể nói rằng trên mặt trận Xô - Đức, ông luôn có mặt ở những nơi xung yếu nhất, lúc tình hình nghiêm trọng nhất. Với tất cả đức tính cần có của một nhà chỉ huy quân sự vĩ đại, ông đã được Xtalin tin cậy, giao phó những mặt trận nóng bỏng nhất và ở đâu ông cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Trong những ngày đầu chiến tranh, trước sức tiến công vũ bão của quân thù, trong cuộc họp khẩn cấp của Bộ chính trị, Giucốp đã đề xuất các biện pháp phòng ngự ngăn chặn. Người ta đã bác ý kiến của ông: “Không phải ngăn chặn mà là tiêu diệt”. Nhưng thực tiễn cho thấy điều đó không thể thực hiện được.
Trong thời kỳ đặc biệt khó khăn ấy, trên cương vị Tổng tham mưu trưởng, Giucốp đã làm việc cật lực, chỉ huy các quân đoàn và nhiều khi trực tiếp đến cấp sư đoàn trong việc tổ chức phòng ngự chiến lược theo chiều sâu. Nhưng tầm nhìn chiến lược của ông đã không bị cuốn hút vào những trận đánh phòng ngự ác liệt. Ông đã lệnh cho rút các đơn vị cơ giới và pháo binh về làm dự bị và xây dựng lại. Quyết định đó đã đem lại sức mạnh to lớn cho Hồng quân sau này. Chưa đầy một năm sau, nhiều tập đoàn thiết giáp của Hồng quân được thành lập hoàn chỉnh và tiến ra mặt trận. Từ 1942, chính pháo binh và thiết giáp lực lượng dự bị của Bộ Tổng tư lệnh đã mở ra cho quân đội Xô Viết con đường tiến về phía Tây.
Sau khi quân Đức đã tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô tới 500 - 600 km và nhịp điệu tiến công đã bắt đầu chậm dần lại, Tổng tham mưu trưởng Giucốp và các phụ tá nhận định: khả năng quân Đức không phải là vô hạn; do bị tổn thất nặng bởi sự chống trả quyết liệt của Hồng quân nên không còn có thể tiến công trên toàn mặt trận mà chỉ có thể tập trung đột kích vào một trong những hướng chiến lược; mũi nhọn đột kích chủ yếu của quân Đức có thể nhắm trước hết vào phương diện quân Miền tây rồi tới phương diện quân Tây - Nam. Ngày 29-7, Giucốp báo cáo với Xtalin, đề nghị tăng cường phương diện quân Miền Tây, rút các đơn vị của phương diện quân Tây - Nam ở bên kia sông Đơnhiép, bỏ ngỏ Kiép và tổ chức ngay một cuộc phản kích trong khu vực Ennhia vì từ nơi này, quân Đức có thể đánh vào Mátxcơva.
Xtalin phản đối bỏ Kiép. Ngay ngày hôm ấy, Giucốp phải thôi giữ chức Tổng tham mưu trưởng để nhận chức Tư lệnh phương diện quân Dự Bị, tuy vẫn là Phó Ủy viên Nhân dân quốc phòng và thành viên Đại bản doanh.
Vừa nhận chức mới, ngày 4-8, Giucốp ra lệnh cho tướng Kátsalốp rút ngay các đơn vị ở cánh trái và trung tâm về phía đông mà không chờ đội quân này được chuyển biên chế từ phương diện quân Miền Tây sang phương diện quân Dự Bị. Quyết định sáng suốt này được Tổng tham mưu trưởng mới là Sapốtxnhicốp hoàn toàn nhất trí. Quân Đức ở gần Rốtxláp đông gấp bội. Nếu chúng chiếm được Rốtxláp thì lực lượng của tướng Kátsalốp sẽ lâm vào tình thế nguy hiểm.
Trên cương vị là thành viên của Đại bản doanh, khi Liên Xô đã tập hợp được những lực lượng vũ trang quan trọng điều về phòng thủ Mátxcơva thì Giucốp nhận định: quân Đức sẽ tạm thời dừng cuộc tiến công chính diện vào Mátxcơva, giữ thế phòng ngự tích cực ở hướng đó, đồng thời có thể chúng sẽ tổ chức đột kích mạnh vào vùng sườn trái của phương diện quân Miền Tây và Dự Bị để tiến vào vùng Chécnigốp - Cônôtốp - Prinxki, đánh tập hậu tiêu diệt các đơn vị của phương diện quân Tây - Nam, sau đó mới mở cuộc tiến công chính vào Mátxcơva, và cùng lúc sẽ đánh chiếm Đônét.
Nhận định ấy là một trong những thí dụ về sự sáng suốt đáng kinh ngạc của tài năng quân sự chiến lược tầm cỡ vĩ nhân của Giucốp, nếu biết rằng đúng lúc đó, Tổng hành dinh Đức cũng đã thông qua kế hoạch tấn công mới, trùng hợp với dự kiến của ông: chia mũi nhọn đột kích vào Ucraina và Lêningrát.
Khi mặt trận vùng trước Lêningrát lâm vào tình huống cục kỳ khó khăn, Giucốp đã lập tức đến đó theo lệnh của Đại bản doanh để tổ chức phòng thủ. Quân thù đông hơn bội phần và khí thế rất mạnh. Không hy vọng đẩy lùi chúng ngay được, nhưng cũng không thể để chúng vào được Lêningrát. Quyết định đầu tiên của Hội đồng quân sự phương diện quân dưới sự chỉ huy trực tiếp của tướng Giucốp là phải bảo vệ Lêningrát đến người cuối cùng bằng lối đánh phòng ngự tích cực nhất: tiến công, tiến công hơn nữa. Ngay từ đầu, những mệnh lệnh của ông đã mang tư tưởng của lối đánh phòng ngự - tiến công, tích cực tiến công để phòng ngự, đánh mạnh, chớp thời cơ đánh mọi lúc, mọi nơi có thể, mở những cuộc hành quân phản đột kích táo bạo giáng cho quân thù những đòn sấm sét, không cho chúng rảnh tay tổ chức lại các binh đoàn xung kích và đồng thời bị tiêu hao, kiệt sức.
Lực lượng quân Đức mở đường đến các vùng phụ cận Lêningrát được trang bị rất nhiều xe tăng. Giucốp tổ chức trước hết một lưới lửa bắn chặn ở vùng Uritxcơ - điểm cao Puncôvô bằng pháo binh, pháo cỡ lớn của hải quân và một số pháo phòng không được chuyển sang nhiệm vụ chống tăng. Ông đã điều cả một bộ phận lính thủy rời tàu ra mặt trận trên bộ, tạo ra khắp nơi những tuyến phòng ngự có chiều sâu và cuối cùng là rút cả một phần lực lượng Hồng quân ở eo đất Carêli để bố trí trước Uritxcơ (việc này quả thực táo bạo vì Hitle đang thúc dục Tổng tư lệnh Phần Lan là Mannéchem chuyển sang tấn công). Tổng tham mưu trưởng Sapốtxnhicốp đánh giá: “Đây là một quyết định đúng đắn duy nhất”.
Nghe tin cuộc phòng ngự của quân đội Liên Xô  trên mặt trận Ucraina thất bại, Giucốp tiên đoán: Hítle say sưa với thắng lợi, sẽ tung trở lại về hướng Mátxcơva cụm tập đoàn quân xe tăng của Guđêrian cũng như các quân đoàn thuộc cụm thiết giáp của Hốt. Nếu quân Đức tổ chức đột kích vào Mátxcơva thì chiến dịch đó phải xảy ra trước mùa đông. Do đó lực lượng xe tăng của Hốt  chắc chắn rời khu vực Lêningrát. Nhưng trong khi chờ đợi, PhônLép, tư lệnh cụm tập đoàn quân “Bắc”, dưới sức ép mạnh mẽ của Hítle, buộc phải chiếm bằng được thành phố Lêningrát, sẽ tranh thủ sử dụng lực lượng xe tăng này đến phút chót.
Đó là suy luận xuất sắc về mặt chiến lược của tướng Giucốp.
Trong một thời gian rất ngắn, chỉ có 27 ngày, Giucốp đã hoàn thành được nhiệm vụ hết sức nặng nề. Xoay chuyển cục diện có lợi cho Hồng quân, ổn định được mặt trận phòng thủ Lêningrát. (Sau này Giucốp còn được cử đến Lêningrát lần thứ hai để phối hợp mọi cố gắng nhằm phá vỡ cuộc bao vây phong tỏa của quân Đức. Ngày 12-1-1942, các phương diện quân Lêningrát và Vônkhốp chuyển sang tấn công từ hai bên hành lang đi đến hồ Lađôga nối liền Lêningrát với phần còn lại của đất nước Liên Xô. Cần nói thêm điều này: Sau 900 ngày đêm sống và chiến đấu ngoan cường trong vòng bao vây phong tỏa khốc liệt của phát xít Đức, nhân dân Lêningrát đã phải chịu sự tổn thất hết sức nặng nề, riêng về nhân mạng đã có 16.747 người chết và 33.782 người bị thương vì phi pháo, trên 800.000 người chết vì đói, và bệnh tật do thiếu thốn).
Như đã kể, ngày 30-9-1941, mặt trận phòng ngự Brianxcơ bị chọc thủng, một bộ phận quân đội Xô Viết bị bao vây. Ngày 2-10, quân Đức đột kích mạnh mẽ từ hai hướng bắc và nam về phía thủ đô. Nhiều đơn vị thiết giáp của Đức đã bắt liên lạc được với nhau trong khu vực Viadơma. Ngày 7-10-1941, Giucốp từ Lêningrát cấp tốc đáp máy bay về Mátxcơva. Trước tai họa thực sự đang đe dọa thủ đô, Xtalin đã cử Giucốp với tư cách đại diện Đại bản doanh, có toàn quyền chỉ huy mặt trận phòng thủ Mátxcơva.
Ngày 15-10-1941, quân Đức chỉ còn cách Matxcơva 27 km. Tình hình thật nguy ngập. Xtalin hỏi Giucốp: “Anh có tin là chúng ta giữ được Matxcơva không? Tôi hỏi anh điều này với nỗi đau đớn. Anh hãy nói một cách chân thành với tư cách là một đảng viên!”. Giucốp trả lời: “Nhất định chúng ta giữ được! Nhưng chúng ta cần tăng cường ít nhất 2 quân đoàn và 200 xe tăng”. Xtalin đồng ý và quyết định điều quân dự bị từ Xibêri về.
Theo Giucốp, hiểm họa chính nằm trong sự mỏng manh của tuyến phòng ngự Môgiaixcơ. Xe tăng Đức có thể bất ngờ thọc vào Mátxcơva bất cứ lúc nào. Ông cố gắng bắt liên lạc với các đơn vị đang chiến đấu trong vòng vây phía bên kia Viadơma để lên phương án thoát vây nhưng không kịp, liên lạc đã bị cắt đứt. Do đó các đơn vị này đã không thực hiện được một cuộc rút lui có tổ chức. Chỉ một vài đơn vị thoát ra, tìm được về căn cứ. “Chịu đựng mọi tổn thất và đổ máu không phải là vô ích”, về sau Giucốp đã viết như vậy. Hai mươi tám sư đoàn quân Đức đã bị giam chân tại đây trong vòng từ 9 đến 10 ngày đã tạo điều kiện cho quân đội Xô Viết tranh thủ được thời gian củng cố sự phòng thủ trên tuyến Môgiaixcơ. Phán đoán chính xác, Giucốp đã tập trung nỗ lực đánh tan cả hai cánh quân Đức ở hai phía bắc và nam, tiến tới giải vây cho Mátxcơva như chúng ta đã biết.
Cuộc đời của nguyên soái G. Giucốp sau chiến tranh thế giới thứ hai có nhiều thăng trầm và đau buồn riêng tư do “chữ tài đi với chữ tai một vần” trước thói đời ghen bạc. Lịch sử là quá khứ đã qua nhận thức nên nó bị sự chủ quan hóa làm méo mó đi và thậm chí là bị xuyên tạc bởi những mưu đồ, những thèm muốn vị kỷ. Một quá khứ có thể có nhiều lịch sử nhưng bản thân nó là duy nhất! “Nhớ lại và suy nghĩ” của Giucốp là một tác phẩm trong sáng, chúng ta cho là như vậy.
Sáng ngày 29-8-1942, Giucốp, lúc này đã là Phó tổng tư lệnh tối cao, nhận lệnh rời Mátxcơva đi Xtalingrát. Thế là ông lại đến với nơi xung yếu nhất của mặt trận Xô - Đức. Kẻ thù đã đến được sông Vônga. Đạo quân Đức đang tiến về Xtalingrát là tập đoàn quân xuất sắc nhất của Hitle trong những chiến dịch ở hướng tây năm 1940 và chưa từng bại trận nào.
Đến nơi, qua tìm hiểu tình hình thực tế, ông thấy kế hoạch tiến công thì đã hoàn tất nhưng các đơn vị Hồng quân không đủ thời gian tập kết ở tuyến xuất phát. Ông vội gọi điện về cho Xtalin đề nghị hoãn, nhưng chưa nhận được trả lời. Với trách nhiệm của một tướng “ngoài biên ải”, Giucốp đã tự quyết định ngưng cuộc tấn công đến ngày 13-9. Sau đó, ông nhận được điện của Đại bản doanh báo tin quân thù chỉ còn cách Xtalingrát 3 vecxtơ (đơn vị chiều dài của Nga, bằng 1.067 m) và lệnh phải cho các tư lệnh bộ đội hướng bắc và tây - bắc lập tức tiến công nhằm hỗ trợ cuộc phòng thủ của Hồng quân trước cửa ngõ Xtalingrát. “Không được chậm trễ một phút! Sự chậm trễ trong tình thế hiện nay cũng tương tự như một tội ác!”. Mệnh lệnh trên do Xtalin ký với lời lẽ cả quyết hiếm có. Giucốp báo cáo ngay cho Tổng tư lệnh tối cao (Xtalin) bằng điện thoại và được lệnh hoãn cuộc tiến công.
Ngày 12-9, Giucốp cùng Vaxilépxki, người vừa được bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng, báo cáo cho Xtalin tình hình ở vùng Cápcadơ và Xtalingrát. Sau đó, họ đã đi đến kết luận: trong cuộc tiến công ở hướng nam, quân Đức đã nắm quyền chủ động chiến lược, vậy cần phải giành lại quyền chủ động đó. Xét về tương quan lực lượng và sự bố trí lực lượng của quân Đức thì không thể đánh vào những đơn vị ưu tú còn rất mạnh của chúng. Vậy thì đánh vào đâu? Đạo quân tiến đánh Xtalingrát là mũi nhọn đột kích của một tam giác khổng lồ mà các cạnh kéo dài hàng trăm km, trong đó có đoạn do các đơn vị quân đội Hungari, Rumani, Ý, kém thiện chiến hơn nhiều đảm nhiệm. Cần phải đánh vào đúng chỗ này, nơi rất gần với cạnh đáy của tam giác.
Tối 13-9, Giu cốp và Vaxilépxki báo cáo cho Xtalin kế hoạch tác chiến. Chiến dịch sẽ chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn 1 là chọc thủng hệ thống phòng ngự của quân thù, bao vây đội quân Đức đang chiến đấu ở Xtalingrát, xây dựng một phòng tuyến bên ngoài đủ vững chắc để đẩy lui quân tiếp viện Đức; giai đoạn 2: tiêu diệt các đơn vị Đức đã bị bao vây. Mọi người  nhất trí kế hoạch đó.
Trong khoảng thời gian 5 ngày đêm trước cuộc phản công, ở các hướng đột kích chính, Hồng quân đã tiến hành những trận đánh thăm dò để trinh sát.
Ngày 19-11-1942, quân đội Xôviết trên mặt trận Xtalingrát chuyển sang phản công bắt đầu bằng những đòn đột kích của các phương diện quân Tây - Nam và Sông Đông. Bộ đội phương diện quân Xtalingrát chuyển sang tấn công vào ngày 20-11.
Sau khi hoàn thành việc đột phá trận địa phòng ngự đối phương, lực lượng của cả 3 phương diện quân Hồng quân tiếp tục phát triển tiến công theo chiều sâu. Các quân đoàn xe tăng và cơ giới của Hồng quân, sau khi đánh lui các đợt phản kích của quân thù, đã cơ động táo bạo, trong một vài ngày cá biệt, tiến được 50 - 70 km.
Ngày 22-11, quân đoàn cơ giới số 4 của tập đoàn quân 51 Hồng quân đã đến được vùng Xôvétski. Ngày hôm sau, các binh đoàn của quân đoàn xe tăng số 4 cũng đã tiến đến vùng này. Sự xuất hiện lực lượng xe tăng và cơ giới của các phương diện quân Tây - Nam và Xtalingrát ở vùng Calát và Xôvétski đã cho Hồng quân thực hành được việc bao vây 22 sư đoàn, tức là 160 binh đội độc lập của tập đoàn quân dã chiến số 6 và một phần lực lượng của tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức, gồm 330 ngàn quân. Bộ đội của phương diện quân Sông Đông không ngăn được quân địch ở khúc cong nhỏ của Sông Đông và từng bộ phận của chúng đã rút được về với lực lượng chủ lực đang hoạt động sát gần Xtalingrát.
Tuy nhiên, kế hoạch giai đoạn 1 của chiến dịch đã hoàn thành, Hồng quân đã chọc thủng hệ thống phòng ngự của quân Đức và đã bao vây được lực lượng chủ yếu của chúng. Quyền chủ động chiến lược ở cánh phía nam của mặt trận Xô - Đức đã thuộc về quân đội Xôviết.
Để giải vây và khôi phục lại tình hình, Tổng hành dinh Đức vội vã rút bớt lực lượng từ những địa đoạn khác trên mặt trận Xô - Đức, từ Tây Âu, thành lập cụm tập đoàn quân đặt tên là “Sông Đông”, gồm 30 sư đoàn. Cụm tập đoàn quân này có nhiệm vụ đột kích phá vỡ vòng vây bên ngoài, phát triển tiến công về phía Xtalingrát.
Ngày 12-12, quân Đức tiến công từ khu vực Côtennhicôvô. Dù gặp sự kháng cự mãnh liệt của các lực lượng thuộc tập đoàn quân 51 và lực lượng dự bị tăng cường của Hồng quân, ngày 19-12 quân Đức vẫn đến được sông Mưsơcốp. Nhưng đến đây, gặp một lực lượng đánh chặn mạnh hơn của Hồng quân, chúng đã bị khựng lại.
Ngày 16-12, bằng lực lượng của phương diện quân Tây - Nam và tập đoàn quân 6 của phương diện quân Vôrônegiờ, Hồng quân tổ chức tấn công và chỉ trong có mấy ngày, đã đánh tan tập đoàn quân số 8 của Ý và bộ phận còn lại của tập đoàn quân số 3 của Rumani.
Do tiến công thắng lợi của phương diện quân Tây - Nam và sự phòng ngự vững chắc của phương diện quân Xtalingrát ở sông Mưsơcốp, quân Đức buộc phải từ bỏ ý đồ cứu nguy cho lực lượng đang bị bao vây của chúng và chuyển sang phòng ngự.
Ngày 24-12, phương diện quân Xtalingrát mở cuộc tiến công quyết định tiêu diệt lực lượng đối phương ở Côtennhicôvô, buộc chúng rút về phía nam. Ngày 29-12, Hồng quân chiếm được Côtennhicôvô. Vòng vây phía ngoài đã vững chắc bởi những cuộc tiến công, phản kích đánh quân tiếp viện Đức một cách hiệu quả.
Ngày 8-1-1943, để tránh đổ máu vô ích, quân đội Xôviết kêu gọi quân Đức đang bị bao vây chặt ra hàng, nhưng tư lệnh tập đoàn quân 6 Đức (lực lượng bị vây) là thống chế Vôn Pauluýt đã cự tuyệt.
Sáng ngày 10-1, sau đợt pháo và “Cachiusa” bắn chuẩn bị mãnh liệt, các lực lượng của phương diện quân Sông Đông bắt đầu tấn công. Đến cuối tháng 1, lực lượng trong vòng vây của quân Đức bị chia cắt thành hai bộ phận. Trước những đòn đột kích mạnh của Hồng quân, tình thế quân Đức bị vây trở nên vô vọng, ngày 31-1, bộ phận phía nam trong đó có Pauluýt, đầu hàng và ngày 2-2, bộ phận phía bắc cũng hạ vũ khí. Trận đánh lớn Xtalingrát đến đây kết thúc và đi vào lịch sử như một khúc ca nặng trĩu u uất cho thân phận con người nhưng cũng thật hùng tráng trong thiên anh hùng ca “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại” mà quân dân Liên Xô đã phải viết bằng máu, xương, nỗi bất hạnh thấm ngập lệ của mình và của cả binh lính Đức.
Sau này, Giucốp viết: “ Trận đánh trong vùng Xtalingrát cực kỳ ác liệt. Riêng tôi, tôi chỉ có thể so sánh nó với trận Mátxcơva…”.
Công lao của Giucốp trong cuộc phản công thắng lợi của Hồng quân ở mặt trận Xtalingrát cũng như trong những trận đánh trước đó mà ông tham dự là tấm huân chương Suvôrốp hạng nhất. Tấm huân chương đó được đánh số 1.
Sáng ngày 3-2-1943, đài phát thanh ở nước Đức quốc xã loan tin về việc để tang toàn quốc. Giọng phát thanh viên trầm buồn: “Chiến dịch Xtalingrát đã kết thúc. Trung thành với lời thề của mình cho đến hơi thở cuối cùng, quân đoàn 6, dưới sự chỉ huy gương mẫu của thống chế Pauluýt, đã ngã gục trước lực lượng áp đảo của kẻ thù và trước những hoàn cảnh bất lợi. Trận đánh cuối cùng đã diễn ra dưới nếp gấp của lá cờ có chữ thập ngoặc cắm ở nơi cao nhất của đống hoang tàn Xtalingrát. Các tướng lĩnh, sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ của chúng ta đã kề vai sát cánh chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.”
Trong mọi cuộc chiến tranh, không thiếu gì những lời dối trá “dễ tin” như thế ở cả hai phía đối địch. “Thật thà là cha đứa dại”, ai cũng nghĩ thế nên chẳng ai thấy xấu hổ trước sự dối trá được cho là có lợi. Nhưng hậu thế lại chẳng thích bị mắc lừa tý nào!
Sự đầu hàng để chọn lấy sống còn của quân đoàn 6 Đức và tư lệnh của nó là có thật. Panluýt đã từng là tù binh của Hồng quân, có mặt tại tòa án xét xử tội phạm chiến tranh Nurembe như một nhân chứng và còn sống đến tận năm 1957 cũng là những sự thật.
Chúng ta tin vào câu chuyện kể về Pauluýt của giáo sư tiến sĩ Alêchxăng Blăng, người đã từng phục vụ trong một trại giam tù binh Đức với tư cách là phiên dịch:
Pauluýt sử dụng phần lớn thời gian của mình trong trại giam để đọc sách. Ông ta đọc cả “Tư bản” của Mác, “Biện chứng của Tự nhiên” và “Chống Đuyrinh” của Ăngghen. Có lần Pauluýt nói:
- Nghĩ cũng lạ! Tôi, một người Đức mà lại ngồi ở nước Nga để đọc những triết gia lớn người Đức là Mác và Ăngghen, trong một trại tù binh.
Cuối tháng 6-1943, Pauluýt được nghe dịch lại bản thông cáo tổng kết 2 năm chiến tranh của Cục thông tin Liên Xô. Ông ta thừa nhận rằng phần lớn những kết luận trong bản thông cáo ấy là tương ứng với hiện thực. Riêng về tính trầm trọng của khủng hoảng ở nước Đức quốc xã và tình hình phát triển của phong trào phản kháng ở đó thì ông ta còn nghi ngờ. Pauluýt nói:
- Đó là sự thổi phồng trong việc tuyên truyền của riêng những nước đang tiến hành chiến tranh. Tôi khẳng định rằng nhân dân Đức tiếp tục đi theo quốc trưởng, rằng chẳng có kẻ nào dám đánh lại quốc trưởng, vì Đức là một dân tộc có kỷ luật.
Khi Pansép, bí thư đảng ủy vùng Ivanôvô hỏi Pauluýt một cách phẫn nộ:
- Tại sao ông đã hành động tàn bạo như vậy chống lại thường dân trong cuộc chiến này?
Pauluýt khô khan trả lời:
- Tôi không hề biết tý gì về việc đó. Quân đội không quan tâm tới những hoạt động loại này.
Tuy nhiên một thời gian sau, khi nghe đọc dịch lại bài phóng sự nhan đề “Hận thù” đăng trên báo “Sự thật” (Pravđa) viết về một công nhân ở Xtalingrát trở thành xạ thủ ưu tú sau khi quân Đức tàn sát hết toàn bộ gia đình, trong đó có bốn người con trai cuả người này, Pauluýt đã lặng yên hồi lâu rồi nói:
- Cần phải biết bao thời gian để làm dịu nỗi đau khủng khiếp mà chúng tôi đã mang đến đất nước này. Không, chẳng thể nào làm dịu được, vì chẳng có ai có thể làm sống lại những đứa trẻ đã bị tàn sát. Chỉ có một điều mà người ta có thể làm được là phấn đấu để không bao giờ làm cho chuyện đó xảy ra nữa. Đó là nghĩa vụ của nhiều thế hệ tương lai.
Theo nhận xét của Blăng thì trong khoảng thời gian đầu ở trại tù binh, nội tâm Pauluýt đã phải chịu những day dứt, giằng xé trong một xung đột dữ dội, dẫn đến sự biến đổi tư tưởng dần dần nhưng rõ ràng của ông ta.
Cũng khoảng cuối tháng 6-1943, Vinhem Pich (Wilhelm Piek, 1876 - 1960, là một trong những người thành lập đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức, sau này là chủ tịch đầu tiên của nước Cộng hòa dân chủ Đức) đã gặp Pauluýt, tự xưng là đại biểu quốc hội Đức, đề nghị Pauluýt có ý kiến về số phận nước Đức và nhân dân Đức, đồng thời thông báo cho Pauluýt việc thành lập phong trào chống phát xít có tên gọi là “Nước Đức tự do” có sự tham gia của nhiều binh lính, sĩ qaun Đức đang là tù binh.
Lúc đầu Pauluýt tuyên bố:
- Tôi là một người lính được giáo dục theo những nguyên tắc của danh dự nhà binh, và rồi nếu tôi không thể chiến đấu bên cạnh các chiến hữu của tôi, thì với tư cách tù binh, tôi phải giữ im lặng. Đó là nghĩa vụ của tôi đối với tổ quốc, đối với quân đội.
Nhưng Vinhem Pich đã nói những lời chí lý:
- Có nhiều điều ngăn cách chúng ta và hẳn rằng chẳng bao giờ chúng ta hiểu và nhìn nhận những sự kiện bằng cùng một cách. Tuy nhiên, có một điểm hội tụ chúng ta lại. Cả hai ta đều là người Đức và cùng yêu nước Đức. Ai yêu nước mình thì phải làm tất cả những gì có thể làm để cứu nước và để cứu nước Đức, chỉ còn một con đường: lật đổ Hítle và ngừng chiến không thời hạn.
Về sau, Pauluýt nhớ lại:
“Cuộc hội đàm đó đã là một động lực đầu tiên đẩy tôi ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của cái lôgic quân sự nghiêm cách và bắt đầu lò dò quan tâm đến những vấn đề chính trị”.
Tháng 8-1943, trong một lần đi dạo, Pauluýt có nói với Blăng:
- Nếu không có những thèm muốn của quốc trưởng thì số phận tôi đã ngoặt khác đi…
Trong một lần đi dạo khác, bàn về con người Hítle, Pauluýt đã bộc bạch:
- Tôi trông thấy Hítle thường xuyên nên tôi nghĩ rằng tôi hiểu ông ta. Đó là một con bệnh suy nhượng thần kinh bẩm sinh: là “hiện tượng” nhớ dai. Ông ta thuộc lòng số hiệu của tất cả các sư đoàn và cả số hiệu của nhiều trung đoàn ở nhiều tiểu khu trên mặt trận, nhớ cả tên của hầu hết các tướng lĩnh. Trước mắt ông ta hình như bao giờ cũng có một bản đồ chiến cuộc. Song tất cả cái đó là phục vụ cho mục đích tội ác. Toàn bộ năng lực của ông ta, toàn bộ ý chí của ông ta đều hướng về việc chống lại quốc gia mình. Hítle có tính bảo thủ đến cùng trong những đánh giá của mình. Ông ta từ chối mọi lời khuyên, trong đó không thiếu những lời khuyên có lý. Ông ta là một người cuồng tín, cứ như người nửa điên nửa tỉnh, tính khí kỳ cục. Ông ta đánh giá sức mạnh của Liên Xô chỉ bằng một nửa so với thực tế, và cả chúng tôi nữa, bị ảnh hưởng của ông ta, cũng bị lừa bịp một cách tàn bạo. Ngay cả những ai biết rõ thực tế và nhìn thấy cái thực tế ấy cũng sợ không dám thú nhận. Hítle không muốn nghe ngay cả những cái khách quan dè dặt nhất. Tất cả những ai phản đối hoặc nghi ngờ, sẽ rơi vào sự ghét bỏ, bất hạnh…
Có nhiều yếu tố dẫn đến sự chuyển biến tư tưởng và quyềt định tham gia vào phong trào chống phát xít “Nước Đức tự do” của Pauluýt, trong đó ắt hẳn tin tức về cuộc tiến công thắng lợi của Hồng quân trong những năm 1943 - 1944 đã là một yếu tố quan trọng. Khi đó Pauluýt đã viết: “Sự diễn biến chiến cuộc cho đến mùa hè năm 1944 giúp cho tôi hiều được rằng Hítle đã khước từ việc rút ra những bài học do tình hình mất hy vọng đặt ra. Ông ta vẫn thúc ép nhân dân Đức lâm vào một thảm họa không thể hình dung nổi. Ngoài ra tôi còn có thể có một khái niệm đầy đủ hơn về những tàn bạo có hệ thống và những biện pháp hủy diệt dân chúng được thực hiện theo lệnh của Hítle ở những lãnh thổ bị Đức chiếm đóng. Đối với tôi, đã rõ ràng là Hítle không những không thắng, mà còn không được thắng cuộc lần này”, và: “Tôi đau buồn không chịu nổi khi nghĩ rằng những hy sinh của quân đoàn 6 trong chiếc dịch Xtalingrát, đánh dấu bước ngoặt chiến tranh, là ngu xuẩn đến mức nào! Những hy sinh đó chỉ là để đóng góp cho việc kéo dài chiến tranh và gia tăng tổn thất cho nhân dân Đức”
Ngày 8-8-1944, cùng cái ngày mà ở Béclin, Hitle ra lệnh treo cổ thống chế Witzleben, một trong những người cầm đầu nhóm sĩ quan Đức âm mưu ám sát Hitle, thống chế Pauluýt loan báo không úp mở việc ông ta tham gia phong trào chống phát xít, trên đài phát thanh “Nước Đức tự do”.
Nhiều năm sau này, Pauluýt viết: “Tôi đã đi đến kết luận rằng điều quan trọng tuyệt nhiên không phải là hoàn thành cuộc chiến trong những điều kiện có thể chịu đựng được, mà chính là cổ vũ những lực lượng hận thù với chủ nghĩa Quốc Xã, làm tan rã mặt trận để ngừng các cuộc xung đột và như vậy là để tránh khỏi một thảm họa có tính định mệnh”.
***
Cuộc phản công và bao vây tiêu diệt ở Xtalingrát đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho quân đội Xôviết tổ chức những chiến dịch tiến công thắng lợi ở các khu vực khác trên mặt trận Xô - Đức. Cánh nam của quân Đức đã bị bẻ gãy, phá vỡ cuộc bao vây phong tỏa Lêningrát, mặt trận đã lùi xa Mátxcơva thêm 150 km…
Sau chiến thắng ở Xtalingrát, Hồng quân Liên Xô đã giành lại quyền chủ động trên khắp chiến trường và liên tục tiến công, phát triển được theo chiều sâu là 600 - 700 km trên một chính diện rộng. Trong thời gian bốn tháng rưỡi liên tục tiến công, Hồng quân đã đập tan trên 100 sư đoàn địch, cụ thể là làm chúng mất: 1,7 triệu sĩ quan và binh lính, 24 ngàn khẩu pháo, trên 3.500 xe tăng và 4.300 máy bay. Uy tín sức mạnh quân sự Đức trước con mắt thế giới đã bị sụp đổ!
Ngay từ mùa xuân năm 1943, nước Đức phát xít đã khẩn trương sản xuất hàng loạt xe tăng hạng trung và hạng nặng (là “Con báo”, “Con hổ”), pháo tự hành “Phécđinăng”; đẩy mạnh sản xuất các loại vũ khí khác cũng như máy bay chiến đấu với nhịp điệu nhanh hơn so với năm 1942. Nhờ ban hành tổng động viên, Đức đã hầu như bổ sung được những thiệt hại về quân số cho lực lượng vũ trang.
Để giành lại quyền chủ động chiến lược, Tổng hành dinh của phát xít Đức quyết định tiến hành một chiến dịch tiến công lớn vào mùa hè năm 1943 lấy tên là “Xitađen”.
Quân Đức sẽ tiến công, nhưng chúng sẽ hành động ra sao? Câu hỏi đó được đặt ra tại Đại bản doanh từ khá sớm và đòi hỏi phải trả lời đúng để đề ra được phương án đối phó tối ưu. Đã có những ý kiến khác nhau. Người ta ra sức thuyết phục Xtalin rằng giáng một đòn tiến công ngăn ngừa trước trên trục Bengôrốt - Kháccốp là tốt hơn cả. Với cương vị là đại diện Đại bản doanh tại mặt trận, Giucốp nắm được tin tức cũng như các tư lệnh phương diện quân. chỉ có điều ông đã rút ra một kết luận hoàn toàn khác.
Giucốp chủ trương chưa chuyển sang tiến công ngay mà làm cho quân Đức bị kiệt sức trên trận địa phòng ngự của Hồng quân; tiêu diệt các xe tăng của chúng rồi sau đó mới sử dụng những lực lượng dự bị còn nguyên vẹn chuyển sang tiến công toàn diện đánh tan binh đoàn chủ lực của chúng. Theo ông, quân Đức, với tiềm lực đã bị hạn chế, chỉ có khả năng mở cuộc tiến công trên một mặt trận thu hẹp, có thể chúng sẽ tổ chức đánh chủ yếu vào 3 phương diện quân Hồng quân là Trung Tâm, Vôrônegiơ và Tây - Nam. Trong báo cáo gửi cho Xtalin, ông nêu rõ:
“- Có thể trong đợt đầu, quân địch sẽ tiến đánh và tràn ngập Cuốcxcơ từ phía đông - bắc và phía tây - nam…
- Địch có thể tung 15 hoặc 16 sư đoàn cơ giới và khoảng tối đa 2.500 xe tăng để tiến công binh đoàn Cuốcxcơ…
- Để làm cho quân địch bị tan vỡ trước hệ thống phòng ngự của chúng ta, ngoài những biện pháp về phòng ngự chống tăng… cần phải bố trí khối chủ yếu của các lực lượng dự bị chiến dịch trong vùng Elétxơ - Vôrônegiơ…”
Tóm lại, ngày 8-4-1943, Giucốp đã quyết đoán được địa điểm của trận đánh lớn sắp xảy ra, lực lượng mà quân Đức sẽ sử dụng và nêu ra những biện pháp đối phó cụ thể. Ngày 12-4, Đại bản doanh đã thông qua phương án của ông.
Trong khi đó, ngày 15-4-1943, tại Tổng hành dinh Đức, Hitle ban bố mệnh lệnh số 6: “Bằng một đòn tập trung kiên quyết và nhanh chóng do tập đoàn quân xung kích tiến hành từ khu vực Bengôrốt và bằng một đòn khác từ khu vực phía nam Ôriôn, dựa vào tiến công tập trung, thực hiện bao vây bộ đội địch trong khu vực Cuốcxcơ và tiêu diệt chúng…”.
Hitle không thể ngờ rằng trước đó một tuần lễ, nguyên soái Giucốp đã tiên đoán tình hình, chính xác đến kỳ lạ không chỉ hướng tiến công của các mũi đột kích mà cả về lực lượng tham gia chiến dịch của quân Đức. Thực tế Bộ chỉ huy Đức đã huy động vào chiến dịch Xitađen, 50 sư đoàn, trong đó có 16 sư đoàn xe tăng và cơ giới, cụ thể là khoảng 900 ngàn người, 10 ngàn pháo và súng cối, gần 2.700 xe tăng và trên 2.000 máy bay.
Ngày 15-7-1943, phát xít Đức tấn công mở màn chiến dịch Xitađen nhưng chỉ trong vòng một tuần lễ, chiến dịch đó đã hoàn toàn thất bại. Lúc đầu Hồng quân tổ chức phòng ngự chặt chẽ. Quân Đức đã phải trả giá rất đắt mới chọc thủng được vài chỗ ở tuyến phòng ngự đầu. Hai hướng chúng tiến được sâu nhất cũng chỉ là 12 km (ở hướng Ôriôn - Cuốcxcơ) và 35 km (ở hướng Bengôrốt - Cuốcxcơ). Bộ đội Hồng quân của các phương diện quân Trung Tâm, Vôrônegiơ phối hợp với một bộ phận Hồng quân của phương diện quân Thảo Nguyên đã đánh cho các lực lượng đột kích Đức bị suy yếu, kiệt quệ, tạo điều kiện thuận lợi để chuyển sang phản công. Trước sự phòng thủ kiên cường và những đòn phản đột kích mãnh liệt của Hồng quân, cuộc tiến công của quân Đức đã bộc lộ ngày một rõ ràng sự khủng hoảng.
Sáng ngày 12-7, phương diện quân Vôrônegiơ tổ chức phản đột kích. Một trận đánh gặp gỡ rất lớn bằng xe tăng đã xảy ra tại vùng Prôkhôrốpxki và kéo dài đến tận khuya. Quân Đức tổn thất nặng nề buộc phải chuyển sang phòng ngự. Đây có thể là trận đánh gặp gỡ xe tăng lớn nhất trong chiến tranh thế giới thứ hai. Cũng ngày này, phương diện quân Brianxcơ và Miền Tây, theo lệnh Đại bản doanh đã chuyển sang tiến công trên hướng Ôriôn. Có thể nói ngày 12-7 là ngày đánh dấu bước ngoặt trên chiến trường lớn ở vòng cung Cuốcxcơ.
Ngày 3-8, Hồng quân mở chiến dịch tiến công Bengôrốt - Kháccốp. Trong chiến dịch này cũng có một trận đánh gặp gỡ xe tăng lớn, xảy ra tại Bôgôđukhốp.
Cả hai chiến dịch đều hoàn toàn thắng lợi. Quân Đức đã bị tổn thất không thể bù đắp được, ngay cả ý đồ muốn giữ vững bàn đạp chiến dịch Ôriôn - Kháccốp của chúng cũng bị phá vỡ.
Kết quả thắng lợi của trận đánh lớn Cuốcxcơ thuộc về Hồng quân, đã bẻ gãy xương sống của quân Đức, buộc chúng phải chuyển sang phòng ngự chiến lược vĩnh viễn trên mặt trận Xô - Đức. Cuộc tổng tiến công của Hồng quân trên toàn mặt trận đã đến giai đoạn chín muồi.
Thua trận ở Cuốcxcơ đã buộc Bộ chỉ huy phát xít Đức phải rút khỏi chiến trường Địa Trung Hải mọi hoạt động quân sự của các binh đoàn lớn và không quân, tạo điều kiện cho quân Mỹ - Anh chiến thắng trong cuộc chiến tranh Bắc - Phi để rồi tiến hành chiến dịch thắng lợi ở Ý.
Tháng 10-1943, Hội nghị các ngoại trưởng ba nước Xô - Mỹ - Anh đã họp ở Mátxcơva, thông qua nhiều quyết định quan trọng về việc tổ chức thế giới sau chiến tranh cũng như chuẩn bị điều kiện cho cuộc gặp gỡ những người đứng đầu ba nước lớn đó.
Ngày 23-11-1943, tại Têhêran (thủ đô của Iran), Hội nghị những người đứng đầu 3 cường quốc Xô - Mỹ - Anh lúc đó là Xtalin, Rudơven và Sơcsin khai mạc. Trong hội nghị này, Mỹ và Anh đồng ý mở mặt trận thứ hai, đổ bộ lên châu Âu qua miền Bắc và Nam nước Pháp, trước ngày 1-5-1944. Hội nghị cũng đã thỏa thuận nhiều vấn đề liên quan đến Đức, Ba Lan, Iran… sau chiến tranh. Hội nghị này đã làm cho những hy vọng chia rẽ liên minh chống phát xít tan vỡ và âm mưu ký hòa ước riêng rẽ với Mỹ, Anh của một số tướng lĩnh phát xít Đức nhằm tránh một sự đầu hàng nhục nhã và cũng nhằm chạy tội đã thất bại.
Trên mặt trận Xô - Đức, bước sang năm 1944, các đơn vị tác chiến của Hồng quân đã có tới 6,1 triệu người, 88,9 ngàn khẩu pháo và súng cối, 2.167 dàn pháo phản lực (Cachiusa), gần 4,9 ngàn xe tăng và pháo tự hành, 8,5 ngàn máy bay chiến đấu. Xét tương quan số lượng thì Hồng quân hơn quân Đức 1,2 lần về quân số, 1,6 lần về pháo binh, 2,8 lần về máy bay. Quân Đức có ưu thế về xe tăng hơn Hồng quân một chút. Tuy nhiên Hồng quân còn có thêm ưu thế từ việc chất lượng vũ khí được nâng lên, tinh thần chiến đấu đầy khí thế, các cấp chỉ huy đã dày dạn kinh nghiệm trong việc tổ chức, điều phối chiến dịch và trình độ về nghệ thuật quân sự đã được nâng cao lên nhiều.
Ngày 24-12-1943, Hồng quân phát động tiến công ở Hữu ngạn Ucraina, mở ra giai đoạn tấn công vũ bão, ào ạt trên cả ba hướng chiến lược của mặt trận Xô - Đức.
Tại khu vực mặt trận Ucraina, Hồng quân đã tiến hành hàng loạt chiến dịch đánh tiêu diệt. Kết quả: 66 sư đoàn Đức bị loại khỏi vòng chiến đấu, Ucraina được hoàn toàn giải phóng, từ tháng 3 đến tháng 5-1944, Ôđétxa và Crưm cũng lần lượt thoát khỏi tay quân Đức.
Ở vùng bắc mặt trận Xô - Đức, từ tháng 1-1944, Hồng quân tiến đánh giải phóng Lêningrát, Nốpgôrốt và tiến tới sát biên giới Extônia. Hè năm 1944, Hồng quân tiến vào giải phóng các nước vùng Ban tích, đánh đuổi quân Phần Lan ra khỏi lãnh thổ Liên Xô, buộc nước này phải ký hiệp ước đình chiến với Liên Xô ngày 19-9-1944 (đây là một hành động mã thượng, đậm nét nhân văn của Nhà nước Xô Viết!).
Hướng tây là hướng ngắn nhất để tiến đến biên giới nước Đức. Nhận thấy tầm quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với sinh mạng nước Đức của khu vực lãnh thổ Bêlarút, Tổng hành dinh Đức đã cho xây dựng ở đây một trận địa phòng thủ mạnh, có chiều sâu lên đến 250 - 270 km. Cụm tập đoàn quân Trung Tâm và các binh đoàn của các cánh thuộc cụm tập đoàn quân bạn chịu trách nhiệm chống giữ ở đây, với lực lượng tổng cộng là 1,2 triệu người, 9,5 ngàn pháo và súng cối, 900 xe tăng và pháo cường kích, gần 1.300 máy bay.
Chiến dịch giải phóng Bêlarút (có mật danh là “Bagrachion”, tên một hoàng thân Nga và cũng là một vị tướng mà Napôlêông cho rằng giỏi nhất của quân Nga trong chiến dịch nước Nga năm 1812, chết ở trận Bôrôđinô) là một trong những trận đánh lớn nhất của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Để tiến hành chiến dịch này, Bộ chỉ huy tối cao Xô Viết đã huy động 4 phương diện quân, không quân tầm xa, hạm đội sông Đơnhiép và các binh đoàn du kích bêlarút. Lực lượng của 4 phương diện quân gồm 1,4 triệu người, 31 ngàn pháo và súng cối, 5.200 xe tăng và pháo tự hành, gần 5.000 máy bay.
Chiến dịch được bắt đầu từ ngày 23-6 đến ngày 29-8-1944 thì coi như kết thúc, bước vào giai đoạn phát triển tiến công mới. Kết quả của chiến dịch là Hồng quân đã tiêu diệt những lực lượng chủ yếu của cụm tập đoàn quân Trung Tâm, giải phóng phần lớn lãnh thổ Bêlarút và thủ đô của nó là Minxcơ, giải phóng một phần Litva, giải phóng phần lớn Ba Lan.
Sau khi giải phóng hoàn toàn đất nước Liên bang Xô Viết, Hồng quân Liên Xô tiến vào giải phóng hoàn toàn Ba Lan, Rumani, Bungari, Nam Tư, Anbani và một phần đáng kể lãnh thổ Tiệp Khắc, Hungari và Áo. Ngày 19-1-1945, những đơn vị Hồng quân đầu tiên đã vượt qua đường biên giới cũ giữa Ba Lan và Đức, tiếp tục tiến tới sông Ôđe.
Ngay từ đầu mùa hè năm 1944, cuộc tổng tiến công vũ bão liên tiếp xuất hiện những thắng lợi vang dội của Hồng quân Liên Xô đã cho cả thế giới thấy rõ rằng sự diệt vong của phát xít Đức trong một tương lai gần là không thể đảo ngược được và hơn nữa là Hồng quân Liên Xô đã có thừa khả năng giải phóng cả châu Âu bị nô dịch mà không cần đến lực lượng vũ trang Đồng Minh. Chính điều đó đã buộc Anh - Mỹ không thể chây ì để vụ lợi ích kỷ được nữa mà phải vội vàng mở mặt trận thứ hai (nhằm mục đích cũng chỉ là… vụ lợi ích kỷ nốt!) ở châu Âu.
Mặt trận thứ hai ở châu Âu chính thức được mở ra vào ngày 6-6-1944 với cuộc đổ bộ bằng đường biển lớn nhất chiến tranh thế giới thứ hai, thường gọi là cuộc đổ bộ Noócmăngđi.
Kế hoạch chung của Bộ chỉ huy quân sự Đồng Minh là trong khi tiếp tục tiến công ở Ý nhằm tiến vào đồng bằng sông Pô, sẽ mở hai cuộc đổ bộ vào châu Âu bằng đường biển, nhanh chóng tiến về nước Đức và chiếm những mục tiêu quan trọng nhất ở châu Âu trước khi Hồng quân đến. Chính Sớcsin, thủ tướng Anh lúc đó, đã viết trong hồi ký của mình: “Tôi muốn rằng chúng ta sẽ đến trước người Nga ở một số khu vực Trung tâm châu Âu”.
Trong hai cuộc đổ bộ thì cuộc đổ bộ Noócmăngđi đóng vai trò chính và xảy ra trước. Có nhiều yếu tố chủ quan và khách quan tạo nên thành công cho cuộc đổ bộ Noócmăngđi. Về mặt chủ quan, là do công tác tình báo hiệu quả, hoạt động nghi binh đánh lạc hướng rất tốt, khâu tổ chức chuẩn bị chu đáo, trình độ trang bị kỹ thuật cao… của quân Đồng Minh. Về mặt khách quan là do Bộ chỉ huy Đức mắc sai lầm nghiêm trọng: phán đoán sai địa điểm đổ bộ để rồi tập trung những lực lượng chính ở chỗ khác, trên bờ biển Pađờ - Calé. Nhưng đây là nguyên nhân chủ yếu: cuộc đổ bộ xảy ra khi mà đại bộ phận lực lượng vũ trang của phát xít Đức đã bị thu hút và giam chân ở chiến trường Xô - Đức. Lúc đó lực lượng quân Đức tập trung ở phía Đông để chống đỡ áp lực tiến công mãnh liệt của Hồng quân là 228 sư đoàn và 23 lữ đoàn. Ở phía Tây chỉ còn vỏn vẹn 61 sư đoàn, trong số đó nhiều sư đoàn đã bị đánh tơi tả trên mặt trận Xô - Đức được ném về đây. 22 sư đoàn toàn người già và thiếu niên 17 tuổi chưa kịp được huấn luyện quân sự đầy đủ. Với lực lượng quân Đức như vậy, về mặt so sánh số lượng thôi, quân Đồng Minh đã trội hơn là: 2,1 lần về người, 2,2 về máy bay chiến đấu, 2,2 lần về xe tăng, hơn hoàn toàn áp đảo về tàu chiến, ngoài ra còn một lực lượng du kích đáng kể của phong trào kháng chiến do Đảng Cộng Sản Pháp lãnh đạo đang hoạt động giam chân không ít lực lượng quân Đức.
Mờ sáng ngày 6-6, suốt 8 tiếng đồng hồ, không quân Đồng Minh đã ném 9.400 tấn bom, trong đó có 4.200 tấn bom cỡ lớn xuống phòng tuyến Đức ở khu vực vịnh Xen. Đến 6 giờ 30, dưới sự chi viện của xe tăng lội nước, các tốp xung kích bắt đầu đổ bộ, đánh chiếm các bàn đạp. Trong ngày đầu, 5 sư đoàn bộ binh đã họp quân được với lực lượng đổ bộ đường không. Ngày 24-7, một bàn đạp rộng 100 km vào sâu từ 30 đến 40 km đã hình thành với sự tập trung của 37 sư đoàn và 13 lữ đoàn quân Đồng Minh. Ngày 25-7, quân Đồng Minh bắt đầu tiến công vào các khu vực nước Pháp, Bỉ và Hà Lan. Đối diện với lực lượng đó là 29 sư đoàn Đức đã rệu rã.
Tập đoàn quân số 1 của Mỹ đánh đòn đột kích chính ở phía tây Xenlô trên một địa đoạn 8 km, chọc thủng được tuyến phòng ngự của quân Đức, tiến đến sông Xêlium, tạo ra điều kiện thuận lợi cho cuộc tiến công lên bán đảo Brơtanhơ (ở đây, sau lưng quân Đức có 45 ngàn du kích Pháp đang hoạt động) và cho việc đánh vu hồi cánh trái tập đoàn quân 7 của Đức. Ngày 1-8, tập đoàn quân số 3 của Mỹ bước vào chiến đấu và ngày 6-8 thì chiếm được thành phố Lavan.
Sự phát triển tiến công có phần chậm chạp của quân Đồng Minh đã làm cho Bộ chỉ huy Đức tập trung được ở phía Đông các thành phố Vitơ và Moócten một lực lượng gồm 12 sư đoàn và mờ sáng ngày 17-8 tổ chức cuộc phản đột kích vào Avơrăngxơ, nhằm tiến ra phía biển, chia cắt tập đoàn quân số 3 của Mỹ. Tuy nhiên, cuộc phản đột kích đó do không được yểm trợ bằng không quân đầy đủ nên không thu được kết quả.
Ngày 10-8 tập đoàn quân số 3 Mỹ và tập đoàn quân số 1 Canađa nhận lệnh bao vây tập đoàn quân Phalesơ của Đức. Do lực lượng quá ít và cũng một phần do sai lầm chiến thuật mà cuộc bao vây không kịp thời: mãi tới ngày 19-8, khi các sư đoàn xe tăng Đức còn khả năng chiến đấu rút về Xen rồi thì vòng vây mới được khép kín. Ba ngày sau đó, thêm một lực lượng khoảng 30 - 35 ngàn người nữa của quân Đức cũng thoát được vây.
Sau thất bại ở Phaledơ, quân Đức bắt đầu rút lui chung trên toàn tuyến. Quân Đồng Minh truy kích hối hả đến ngày 16-8 thì đến được dải Loarơ và Xen.
Nhân dân lao động Pari nổi lên khởi nghĩa vào giữa tháng 8 và đến ngày 19-8 thì giải phóng thủ đô. Ngày 25-8, quân Đồng Minh tiến vào Pari.
Ngày 15-8, quân Đồng Minh tổ chức cuộc đổ bộ thứ hai lên bờ biển phía đông Tulông, miền Nam nước Pháp. Sau khi đổ bộ, với ưu thế tuyệt đối về lực lượng và phương tiện, tập đoàn quân số 7 của Mỹ tiếp tục truy kích quân Đức đang rút lui, đến giữa tháng 9 thì hợp quân được với tập đoàn quân số 3 của Mỹ. Một mặt trận dày đặc quân Đồng Minh đã hình thành từ Pađờcale đến Địa Trung Hải.
Trong lúc đó, các tập đoàn quân Mỹ - Anh từ Xen đã tiến đến Díchphơridơ nhưng không đột phá được nó trong hành tiến. Quân Đức, sau khi rút lui về phía nam Hà Lan và đường ranh giới Díchphơridơ, đã tổ chức phòng thủ quyết liệt. Một chiến dịch đột phá phòng ngự quân Đức ở đây của quân Đồng Minh đã xảy ra từ ngày 17 đến ngày 26-9-1944. Quân Đồng Minh đã tổ chức đổ bộ đường không xuống khu vực tổ chức phòng ngự của quân Đức trên một chiều sâu từ 30 đến 90 km, nhằm đánh chiếm các bến phà, đánh phá hậu phương quân Đức, hỗ trợ cho lực lượng tiến công ở hướng chính diện. Trong khi các sư đoàn đổ bộ ở chiều sâu 30 đến 60 km về cơ bản hoàn thành nhiệm vụ thì sư đoàn đổ bộ đường không số 1 của Anh và lữ đoàn dù của Ba Lan đổ bộ xuống vùng Ácnem, cách mặt trận 90 km đã bị quân Đức đánh tan tác. Ở hướng chính diện, quân Đồng Minh đã để các lực lượng đột kích bị yếu sườn và quân Đức ngay trong ngày đầu đã điều lực lượng từ các địa đoạn khác đánh vào sườn quân Đồng Minh khi đã lọt vào trận địa phòng ngự. Nhìn chung, chiến dịch này của quân Đồng Minh đã là một thất bại.
Dù sao thì sau chiến dịch đó, với ưu thế quân sự của mình, quân Đồng Minh đã tiến được đến biên giới nước Đức trên địa đoạn từ Straxơbuốc đến Ácnem.
Ở Ý, quân Đồng Minh đạt được kết quả ít hơn. Suốt năm 1944, lực lượng Đồng Minh không tiến được đến đồng bằng sông Pô. Ngày 4-6, họ đánh chiếm được Rôm và cuối năm thì tiến đến tuyến Raven, Pietrasăng và bị quân Đức chặn lại ở đó suốt mùa đông.
Cuối năm 1944, quân Đức đã tương đối ổn định được mặt trận phía Tây.
Với mục đích đánh tan quân Đồng Minh ở Bỉ và Hà Lan, buộc Anh - Mỹ phải ký kết một hiệp ước riêng lẻ hoặc làm cho tình hình ở đó ổn định một thời gian dài, tạo điều kiện tăng cường lực lượng cho mặt trận Xô - Đức nóng bỏng, Bộ chỉ huy Đức đã bí mật tập trung tại khu vực đồi núi Ácđen một lực lượng gồm 22 sư đoàn và 2 lữ đoàn để tổ chức một chiến dịch đột kích mạnh. Đòn đột kích được tiến hành ngày 16-12-1944. Trong những ngày đầu, quân Đức chọc thủng tuyến phòng ngự Mỹ, tiến sâu được 30 - 40 km. Quân Đồng Minh cấp tốc tổ chức lại lực lượng, tăng cường phòng thủ những cứ điểm quan trọng, đánh phá trục giao thông bằng không quân oanh tạc, đột kích quyết liệt. Hành động tích cực của quân Đồng Minh đã làm chậm được bước tiến của quân Đức ở Ácđen. Tuy nhiên tình hình vẫn căng thẳng. Một tập đoàn lớn quân Đức trên một địa đoạn 80 km đã thọc sâu được tới 100 km. Theo số liệu phía Đức, số tù binh Mỹ bị  bắt lên tới 30 ngàn người. Thêm nữa, mờ sáng ngày 1-1-1945, quân Đức đã tiến hành các trận đột kích mạnh mẽ vào các cánh sườn của tập đoàn quân số 7 Mỹ ở Angiátsơ và tiến được 30 km. Tình hình đã nghiêm trọng đến nỗi tướng Mỹ là Đ. Páttơn (D. Patton) đã viết vào nhật ký của ông ta ngày 4-1-1945: “Thậm chí chúng ta có thể thua cuộc chiến tranh”. Ngay Aixenhao, khi điện về Oasintơn cũng nói rằng nếu không có sự giúp đỡ của quân đội Liên Xô thì quân đội Mỹ có thể lâm vào một tình thế cực kỳ khó khăn.
Trước tình hình đó, ngày 6-1-1945, thủ tướng Anh là Sơớcxin đã gửi công hàm cho Xtalin, đề nghị: “Ở phía tây đã diễn ra những trận đánh rất ác liệt và vào bất kỳ lúc nào Bộ tổng chỉ huy cũng có thể yêu cầu có những giải pháp quan trọng. Với kinh nghiệm của mình hẳn là Ngài hiểu rõ tính chất nguy hiểm của tình hình khi cần phải bảo vệ một mặt trận rộng lớn sau khi đã mất thế chủ động trong một thời gian… Tôi rất biết ơn nếu tôi được Ngài cho biết là liệu chúng tôi có thể trông cậy được không vào một cuộc tiến công lớn của Nga ở mặt trận Vixtuyn hoặc tại một nơi nào đó trong tháng 1 (1945) hoặc vào những ngày khác mà Ngài có thể cho biết”.
Ngày 7-1, Xtalin đã trả lời Sơớcsin: “Chúng tôi đang chuẩn bị một cuộc tiến công, nhưng thời cơ chưa thuận lợi cho cuộc tiến công đó. Tuy nhiên, lưu ý với tình thế Đồng Minh của chúng tôi tại mặt trận phía Tây, Bộ tổng chỉ huy đã quyết định tăng nhanh tốc độ chuẩn bị và, bất chấp vấn đề thời cơ, mở những cuộc tiến công to lớn trên toàn mặt trận trung tâm không chậm quá nửa cuối tháng 1. Mong Ngài có thể tin chắc rằng chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để giúp cho quân đội Đồng Minh quang vinh của chúng tôi”.
Ngày 12-1-1945, như Xtalin đã hứa, Hồng quân Liên Xô mở chiến dịch tiến công lớn Vixtuyn (Vistule) - Ôđe sớm hơn kế hoạch 8 ngày, buộc phát xít Đức phải tung tập đoàn quân xe tăng SS (lực lượng tinh nhuệ) số 6 về phía Đông rồi sau đó tung thêm 16 sư đoàn nữa. Trong vòng 23 ngày, Hồng quân đã đánh tan một lực lượng phòng ngự to lớn của quân Đức, tiến sâu vào nước Đức 500 km, đến sông Ôđe. Nhờ kết quả này, Bộ chỉ huy Đức buộc phải thừa nhận rằng không còn khả năng duy trì tiến công ở phía Tây đánh vào Đồng Minh. Ngày 20-1, quân Đức phải ngừng tấn công. Ngày 28-1, những đơn vị quân Đức cuối cùng đã rút về vị trí xuất phát cũ và chuyển sang phòng ngự.
Sau thất bại ở Ácđen, mãi tới tháng 2-1945, quân Đồng Minh mới có thể bắt đầu tổ chức tiến công và tiến được đến bờ phía tây sông Ranh. Sau khi vượt sông Ranh thắng lợi, quân Đồng Minh tiến công hối hả về trung tâm nước Đức. Ngày 1-4, tại Ruarơ, một tập đoàn quân Đức gồm 325 ngàn người đã bị quân Đồng Minh bao vây, buộc phải đầu hàng. Sau đó quân Đồng Minh nhanh chóng tiến đến bờ sông Enbơ mà không gặp phải sự kháng cự nào của quân Đức. Ngày 25-4, các đơn vị đi trước của tập đoàn quân số 1 Mỹ đã gặp bộ đội của phương diện quân Ucraina 1 của Hồng quân ở vùng Tôrôgau.
Ngày 4-5, với sự giúp đỡ tích cực của nhân dân Ý, miền bắc Ý được giải phóng, cả nước Ý đến đây thoát khỏi ách phát xít Ý - Đức. Phát xít Ý bị tiêu diệt.
Sau khi Ba Lan đã hoàn toàn giải phóng thì nhiệm vụ chủ yếu và cuối cùng của Hồng quân Liên Xô là đánh chiếm Béclin, sào huyệt của Đức quốc xã. Trong hội nghị Yanta đang diễn ra (từ ngày 4 đến ngày 12-2-1945 giữa ba nước Liên Xô, Mỹ, Anh nhằm xác định kế hoạch chung trong việc đánh bại chủ nghĩa phát xít, thỏa thuận những vấn đề thế giới sau chiến tranh, thành lập tổ chức Liên Hiệp Quốc…), Hồng quân đã ở cách Béclin 60 km, còn quân Anh - Mỹ cách 500 km. Tướng Đônôvan, trùm tình báo chiến lược Mỹ, đã liên hệ với các chỉ huy cấp cao Đức, thỏa thuận về việc quân Đức bỏ ngỏ mặt trận phía Tây để quân Anh - Mỹ tiến nhanh về phía Đông, hy vọng chiếm Béclin trước Liên Xô. Đọc những tin tức do lực lượng tình báo Xôviết gửi về mà Xtalin trao cho, Giucốp đã nhận xét: “Không loại trừ bọn Hitle mở đường cho quân đội Đồng Minh đến Béclin”.
Ngày 2-4-2945, Xtalin ký lệnh cho phương diện quân Bêlarút 1 do Giucốp chỉ huy, đánh chiếm Béclin và tiến đến bờ sông Enbơ trong vòng 12 đến 15 ngày.
Chiến dịch Béclin là một chiến dịch tấn công binh chủng hợp thành vĩ đại. Để tiến hành chiến dịch, Đại bản doanh Xôviết đã điều động bộ đội của các phương diện quân Bêlarút 1 và 2, phương diện quân Ucraina 1, tập đoàn không quân tầm xa 18, hạm đội sông Đơnhiép, một bộ phận hạm đội Bantích, tập đoàn quân 1 và 2 của Ba Lan. Tổng cộng có tới 2,5 triệu người, trên 42 ngàn pháo và súng cối, 6.250 xe tăng và pháo tự hành, 7.500 máy bay chiến đấu. So với quân Đức, Hồng quân chiếm ưu thế gấp 2,5 lần về người, gấp 4,2 lần về pháo, gấp 4,1 lần về xe tăng và pháo tự hành, gấp 2,3 lần về máy bay.
Ngày 16-4-1945, Hồng quân Liên Xô bắt đầu đột phá tuyến phòng ngự Ôđe - Nâyxe, mở màn chiến dịch lớn Béclin. Sau 30 phút pháo cấp tập và máy bay oanh tạc dữ dội vào trận địa phòng ngự của đối phương, bật 140 đèn pha cực mạnh đặt cách nhau 200 m với tổng công suất lên tới 100 tỷ oát làm lóa mắt quân Đức, bộ binh và xe tăng Hồng quân xông lên, vượt qua dải phòng ngự thứ nhất không gặp sự kháng cự đáng kể nào. Quân Đức đã rút về dải phòng ngự thứ hai (các cao điểm Dêêlốp). Tại đây đã xảy ra những trận đánh dữ dội. Quân Đức bổ sung thêm 4 sư đoàn làm cho cuộc chiến đấu thêm ác liệt. Tuy nhiên, trong vòng một ngày, dải phòng ngự thứ hai đã bị chọc thủng.
Ngày 18-4, Hồng quân chọc thủng hai trận địa trung gian sau giải phòng ngự thứ hai và đến cuối ngày 19-4 thì hoàn thành việc đột phá dải thứ 3 của tuyến phòng ngự Ôđe. Trên cánh phải tập đoàn quân 47 và 3 đã tiến quân thắng lợi, chuẩn bị điều kiện vu hồi Béclin từ phía bắc và tây - bắc. Trên cánh trái, đã tạo điều kiện thuận lợi để đánh vu hồi tập đoàn Phơrăngphua Guben của Đức từ phía bắc và chia cắt tập đoàn ra khỏi Béclin. Ngày 22-4, tất cả các tập đoàn quân của cụm đôt kích thuộc phương diện quân Bêlarút 1 đã bắt đầu chiến đấu trong thành phố.
Phát xít Đức quyết tâm phòng thủ Béclin đến khả năng cuối cùng với khẩu hiện kích động của Hítle: “Trao Béclin cho quân Mỹ - Anh tốt hơn là để nó lọt vào tay quân Nga”; “các sĩ quan Đức phải dốc mọi cố gắng làm cho quân Nga không chiếm nổi Béclin”. Cũng trong ngày 22-4, Hítle ra lệnh cho tập đoàn quân số 12 (gồm 10 sư đoàn) đang hoạt động chống quân đội Mỹ phải quay về mặt trận phía đông, hợp quân với tập đoàn quân số 9 để tiến hành một cuộc đột kích gặp gỡ; đồng thời cụm tập đoàn quân của Xđâynerơ (gồm 5 sư đoàn) phải tập kích vào bộ đội Hồng quân đang bao vây thành phố từ phía bắc. Nhưng tất cả những ý đồ quân sự đó của quân Đức đều bị đánh ngăn chặn mạnh mẽ và không thực hiện được.
Ngày 24-4 bộ đội phương diện quân Bêlarút 1 và Ucraina 1 đã hợp quân với nhau ở đông - nam Béclin; kết thúc việc bao vây tập đoàn Phơrăngphua Guben của Đức. Ngày 25-4, bộ đội của hai phương diện quân đó cũng đã hội quân với nhau ở tây Béclin, kết thúc việc bao vây toàn bộ quân Đức phòng thủ ở Béclin.
Cuộc chiến đấu trong thành phố đã xảy ra rất khốc liệt. Tiêu biểu là cuộc đánh chiếm tòa nhà Quốc hội Đức. Cuộc chiến đấu đó xảy ra vào ngày 30-4 với hàng loạt cuộc xung phong của Hồng quân không đạt kết quả. Đến 18 giờ cùng ngày Hồng quân mới đột nhập được vào bên trong tòa nhà nhưng phải chiến đấu ác liệt để giành giật từng căn phòng, từng hành lang. Tối hôm đó, sau khi kết thúc trận đánh đẫm máu, lá cờ chiến thắng của Hồng quân Liên Xô đã phấp phới bay trên nóc tòa nhà Quốc hội Đức. Hitle và Gơben (Bộ trưởng bộ tuyên truyền của Đức quốc xã) đã tuyệt vọng, tự sát từ buổi chiều.
Ngày 2-5, lực lượng phòng thủ còn lại của quân Đức ở Béclin (khoảng 70 ngàn người) hạ vũ khí.
Ngày 9-5-1945, tại thị trấn Cácxơkhoóctơ, ngoại ô Béclin, thống chế Tổng tư lệnh quân đội Đức là Câyten đã ký vào văn bản đầu hàng vô điều kiện. Phát xít Đức nát bét đầu, trở thành hồn ma lởn vởn đến tận ngày nay. Sau chiến thắng Béclin, nguyên soái Giucốp được tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô lần thứ ba. Về sau, ông lại được phong danh hiệu Anh hùng Liên Xô một lần nữa. Không biết ở Liên Xô, có còn ai được tặng danh hiệu cao quý này tới bốn lần hay không?
***
Chỉ riêng trận công phá Béclin lực lượng Hồng quân đã có đến gần 300 ngàn người thương vong và mất tích. Hầu hết trong số họ đã là vô danh trước lịch sử. Đó phải chăng là mặt trái phi nghĩa của mặt phải chiến thắng? Nếu không có những mất mát hy sinh to lớn như thế thì làm sao có được chiến thắng lừng lẫy? Hay đừng chiến đấu và mưu cầu chiến thắng trước bạo ngược, hung tàn? Nhưng nếu xử sự như thế thì đương thời ít mất mát hy sinh hơn hay nhiều mất mát hy sinh hơn và hậu thế nhân loại sẽ đi về đâu, có về được miền cực lạc trong niềm tin tôn giáo? Và Đức Huyền Diệu - được cho là lẽ phải, là sự ưu tiên lựa chọn của nhân loại để sống còn, có còn được thể hiện ra như là một sức mạnh vô địch nữa không?
Trận đánh Béclin đã có thể được coi là trận cuối cùng của chiến trường Xô - Đức, kết thúc “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại”. Tuy nhiên, cuộc tạo dựng nên núi xương sông máu của quân dân Liên Xô nói riêng và của cả nhân loại nói chung vẫn chưa ngừng lại mà còn đang chờ bồi đắp thành khổng lồ hơn nữa, đổ chảy tràn trề hơn nữa vì chiến tranh thế giới thứ hai vẫn chưa kết thúc dù chiến sự ở Bắc - Phi đã chấm dứt (vào ngày 12-5-1943 với sự hạ vũ khí của quân Đức trước quân Mỹ - Anh) và chiến trường châu Âu đã im tiếng súng.
Trên chiến trường châu Á - Thái Bình Dương, kể từ đầu năm 1944, phát xít Nhật đã phải tính tới việc phòng ngự chiến lược, cố thủ trên các đảo đã chiếm được, đồng thời triển khai một cuộc tiến công lớn ở Trung Quốc nhằm đánh chiếm các căn cứ không quân Mỹ ở Hoa Trung và Hoa Nam, thiết lập các đường giao thông trên bộ với các nước Đông Nam Á để qua đó cố gắng ổn định chiến trường, tiếp tục chiến tranh.
Tuy nhiên đã tập trung các lực lượng chính của lục quân và không quân ở Trung Quốc, Mãn Châu, Triều Tiên và ở ngay trên đất Nhật, phát xít Nhật không thể thực hiện được trọn vẹn kế hoạch xâm chiếm Hoa Trung, Hoa Nam. Và chính việc tập trung đó lại làm cho lực lượng tổ chức phòng ngự trong không gian rộng lớn ở Thái Bình Dương trở nên quá ít. Lúc này ở Thái Bình Dương, quân Đồng Minh đã có ưu thế lực lượng hơn nhiều, nhất là về không quân và hải quân so với Nhật. Cụ thể, quân Nhật có: 3 thiết giáp hạm, 4 tàu sân bay, 16 tàu tuần dương, 2 liên đội tàu ngầm và một số khu trục hạm, 13 sư đoàn, khoảng 600 máy bay. Trong khi đó, quân Đồng Minh có: 16 thiết giáp hạm, 33 tuần dương hạm, 35 tàu sân bay, 220 khu trục hạm, khoảng 24 sư đoàn và 4.150 máy bay. Ở trung tâm Thái Bình Dương, quân Đồng Minh có cụm chiến dịch do đô đốc Nimít chỉ huy và ở tây - nam Thái Bình Dương có cụm chiến dịch do tướng Mác Áctua chỉ huy đang hoạt động.
Các hoạt động quân sự của quân Đồng Minh ở trung tâm Thái Bình Dương lại trở nên tích cực từ ngày 1-2-1944. Quân Đồng Minh đã đánh chiếm các đảo MácXam trong tháng 2, đến ngày 10-8 thì chiếm hoàn toàn các đảo Marian và trong tháng 9 đã chiếm được các đảo Palau và Uluchi rồi bao vây quân Nhật ở các đảo Carôli. Bom napan (bom cháy) lần đầu tiên được không quân Mỹ sử dụng vào ngày 15-6-1944 ở vùng này.
Tại vùng tây - nam Thái Bình Dương, trong suốt hạ tuần tháng 2 và tháng 3-1944, quân Đồng Minh đã chiếm được các đảo Átmiran. Sau khi tiến vào bờ biển phía tây Tân - Ghinê, ngày 15-9 quân Đồng Minh đã đánh chiếm đảo Môrơtai, chuẩn bị điều kiện cho việc đánh chiếm quần đảo Philippin, bức tường ngăn cuối cùng bảo vệ cửa ngõ đi vào lục địa châu Á.
Ngày 20-10-1944, quân đội Đồng Minh tiến công đảo Lâytơ để lấy đó làm bàn đạp đánh chiếm các đảo còn lại. Cuộc đổ bộ của quân Đồng Minh được thực hiện dưới sự yểm trợ của pháo binh trên các tàu chiến và các cuộc tập kích bắn phá của không quân. Trong một nỗ lực khôi phục lại tình hình, quân Nhật đã quyết định dùng các lực lượng chính của hạm đội (gồm 9 thiết giáp hạm, 4 tàu sân bay, 19 tuần dương hạm và 33 khu trục hạm) bí mật tiến vào khu vực Philippin và bất ngờ tập kích vào hạm đội Đồng Minh. Nhưng tình báo Mỹ đã phát hiện được kế hoạch này.
Từ ngày 23 đến ngày 25-11-1944, trận đánh lớn của hai hạm đội diễn ra ở phía đông mũi Enganô, gần đảo Xamarơ và trong vịnh Xungao. Đó là trận thủy chiến lớn nhất trong chiến tranh thế giới thứ hai. Kém hơn quân Đồng Minh rất nhiều về tàu sân bay, quân Nhật dự tính sử dụng tối đa hỏa lực của các thiết giáp hạm và tuần dương hạm. Muốn thế quân Nhật phải tiến áp sát được hạm đội Đồng Minh trong khu vực đổ bộ. Nhưng do tính bất ngờ của chiến dịch không còn và trước một hạm đội Đồng Minh quá áp đảo, hạm đội Nhật đã bị đánh tan. Sau ba ngày tác chiến, Nhật mất 4 tàu sân bay, 3 thiết giáp hạm, 10 tuần dương hạm và 11 khu trục hạm. Ngày 22-10, quân Nhật trên đảo Lâytơ đầu hàng. Mãi đến ngày 5-7-1945, quân Đồng Minh mới quét sạch được quân Nhật khỏi quần đảo Philippin.
Ivôgima và Ôkinaoa là hai đảo án ngữ cửa ngõ đi vào Nhật Bản. Sau khi đánh chiếm được Ivôgima trong tháng 3-1945, quân Mỹ với sự phối hợp của một lực lượng đặc nhiệm của hải quân Anh, mở chiến dịch tiến công Ôkinaoa. Đây là chiến dịch lớn, mang ý nghĩa thuần túy quân sự cuối cùng của Đồng Minh và - theo nhận định thống nhất của các nhà viết sử Mỹ - là chiến dịch kéo dài nhất, đẫm máu nhất trong lịch sử chiến tranh Thái Bình Dương.
Ôkinaoa nằm trấn thủ ở phía tây - nam và chỉ cách bờ biển Nhật Bản 300 hải lý. Chiếm được nó, quân Mỹ sẽ có được bàn đạp lý tưởng đánh thẳng vào nội địa nước Nhật. Tầm quan trọng chiến lược của nó đòi hỏi quân Nhật phải cố thủ ở đó đến cùng một khi xảy ra chiến sự. Từ cuối năm 1944, sau khi bị đánh bật khỏi các vị trí chiến lược ở Philippin, phát xít Nhật thấy Ôkinaoa bị uy hiếp cho nên đã rút một phần lực lượng ở Trung Quốc về đó tăng cường phòng thủ.
Toàn bộ lực lượng tiến công Ôkinaoa của Mỹ gồm 548 ngàn quân, đặt dưới sự chỉ huy của Trung tướng Bớcnơ, tư lệnh tập đoàn quân 10. Số tàu chiến Mỹ được huy động vào trận đánh có tới 1320 chiến, trong đó có 33 tàu sân bay, 22 thiết giáp hạm, 50 tuần dương hạm, 430 tàu đổ bộ, tàu vận tải và nhiều hạm tàu khác (chưa kể lực lượng hỗ trợ của quân Anh). Từ khi bùng nổ chiến tranh Thái Bình Dương, chưa bao giờ Mỹ - Anh huy động được một lực lượng lớn hạm tàu như vậy vào một chiến dịch. Về lực lượng không quân, vào lúc cao trào, Mỹ đã huy động tới 1650 chiếc máy bay, kể cả “siêu pháo đài bay” (Super Flying Fortress) B29. Nếu so sánh lực lượng hai bên thì trước chiến dịch, Anh - Mỹ hơn Nhật 6 lần về quân số, hơn từ 4 đến 8 lần về số tàu chiến và máy bay.
Tờ mờ sáng ngày 26-3-1945, giữa lúc trận đánh trên đảo Ivôgima bước vào giai đoạn cuối thì quân Mỹ bất ngờ đổ bộ lên hòn đảo nhỏ Kêrama chỉ cách Ôkinaoa 30 hải lý, do 2 tiểu đoàn quân Nhật phòng giữ. Bị đánh bất thình lình bởi một lực lượng áp đảo, quân Nhật ở đây nhanh chóng bị tiêu diệt. Quân Mỹ khẩn trương tổ chức đảo Xêrama thành bàn đạp tấn công đảo lớn Ôkinaoa. Ngày 1-4-1945, chủ nhật và cũng là ngày lễ Phục Sinh, quân Mỹ lại một lần nữa tạo được bất ngờ khi đổ bộ lên Ôkinaoa.
Mũi đổ bộ chủ yếu của Mỹ nhằm vào Hagusi, khoảng giữa đảo và là nơi hẹp nhất của đảo. Sau khi nhanh chóng tạo lập được đầu cầu ở đây, hai sư đoàn Mỹ lập tức tiến tới Isicava, cắt ngang Ôkinaoa ra làm đôi. Thêm hai sư đoàn nữa tiếp tục đổ bộ, một sư đoàn đánh lên phía bắc, một sư đoàn đánh xuống phía nam, mở đường cho đại quân đánh chiếm toàn bộ đảo Ôkinaoa theo chiều dọc.
Trong 3 ngày đầu của cuộc tiến công, hơn 50 ngàn quân Mỹ đã triển khai trên một bàn đạp khá rộng ở miền trung đảo. Hai sân bay Yontan và Cadêna của Nhật bị chiếm. Số thương vong của quân Mỹ sau 3 ngày này không đáng kể, chỉ có 28 người chết, 27 người mất tích và 104 người bị thương.
Bước sang ngày 4-4, tình hình vụt thay đổi. Khi tiến xa hơn về phía nam và bắc đảo Ôkinaoa, cả hai mũi tiến công của quân Mỹ bắt đầu vấp phải sự chống cự rất quyết liệt của quân Nhật với những công trình phòng ngự vững chắc được xây dựng ở những triền núi đá.
Ngày 6-4, quân Nhật bất thình lình tung ra 355 chiếc máy bay “Thần phong” (Kamikadê), mỗi chiếc mang 1 tấn thuốc nổ do các phi công cảm tử lái, tìm cách đâm bổ xuống các tàu chiến của hải quân Mỹ đang đậu nhan nhản quanh đảo Ôkinaoa. Cùng lúc, hạm đội của Nhật do phó đô đốc Itô chỉ huy từ căn cứ Tôcưyama tiến xuống, giao chiến với hạm đội 5 của Mỹ.
Ngay trong ngày đầu tiên đã có 3 tàu sân bay, 9 tàu khu trục, 4 tàu đổ bộ và 5 tàu quét mìn của Mỹ bị loại khỏi vòng chiến.
Ngày 7-4, hạm đội Nhật bị đánh bại, phải rút chạy lên phía bắc. Máy bay “Thần phong” cảm tử vẫn là mối đe dọa nghiêm trọng đối với các tàu chiến Mỹ. Còn máy bay B29 của Mỹ cũng ra sức thả bom hủy diệt xuống đảo.
Trên bộ, trước sự kháng cự dữ dội của quân Nhật, quân Mỹ tiến rất khó khăn, nhích từng bước, chiếm từng ổ đề kháng với cái giá phải trả rất đắt. Cho tới ngày 26-4, quân Mỹ mới chiếm được bán đảo Môtôba do hơn 2 ngàn quân Nhật trấn giữ.
Cuộc chiến cứ thế kéo dài đến 83 ngày mới kết thúc. Đến ngày 22-6-1945, quân Mỹ mới hoàn toàn chiếm được đảo Ôkinaoa.
Thiệt hại trong chiến dịch này, về phía Mỹ có tổng cộng 49145 quân thương vong, 768 máy bay bị bắn rơi, 404 tàu chiến bị đánh chìm và phá hỏng; về phía Nhật có 72000 quân thương vong, chưa kể tàu chiến và máy bay.
Chịu một tổn thất nặng nề như thế nên sau chiến dịch Ôkinaoa, quân Mỹ hầu như dẫm chân tại chỗ, không tổ chức được một chiến dịch lớn nào tiếp theo.
Ngày 11-4-1945, vào khoảng thời gian đầu của chiến dịch Ôkinaoa, Liên Xô đã công bố hủy bỏ “Hiệp ước trung lập” ký với Nhật ngày 13-4-1941 vì trong chiến tranh Nhật đã vi phạm hiệp ước đó.
Ngày 26-7-1945, Hội nghị Pốtxđam ra tuyên cáo chung của 3 nước Liên Xô, Mỹ, Anh, yêu cầu Nhật phải đầu hàng nhưng Nhật đã khước từ với tuyên bố: “Nước Nhật sẽ tiến hành chiến tranh đến cùng theo đúng với chính sách đã đề ra”. Lúc này, dù các lực lượng vũ trang Anh - Mỹ đã gây cho quân Nhật một loạt thất bại, nhưng Nhật vẫn còn duy trì được một đội quân mạnh, gồm trên 7 triệu binh lính và sĩ quan, trên 10 ngàn máy bay, gần 500 tàu chiến, và còn các nguồn dự trữ to lớn về vật tư, nguyên liệu chiếm đoạt được ở lục địa (trước hết là ở Mãn Châu và Triều Tiên).
Giữ đúng cam kết tại Hội nghị Yanta, ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Tiếp theo, ngày 10-8, Mông Cổ cũng tuyên chiến với Nhật.
Lực lượng vũ trang của Nhật đóng ở Mãn Châu, Triều Tiên, Nam - Xakhalin, quần đảo Curin có tổng quân số (kể cả quân ngụy) là trên 1,2 triệu người. Trong đó riêng đội quân chủ lực nòng cốt của Quan Đông có gần 1 triệu người, 1155 xe tăng, 5360 khẩu pháo và 1800 máy bay. Để đánh lại lực lượng này, Hồng quân Liên Xô đã triển khai 3 phương diện quân với ưu thế so với quân Nhật về người là hơn 1,2 lần, về đại bác là 4,8 lần, về xe tăng là 4,8 lần và về máy bay là 1,9 lần.
Ngày 9-8-1945, Hồng quân Liên Xô mở chiến dịch Mãn Châu. Cũng ngày hôm đó, không quân Mỹ đã thả quả bom nguyên tử thứ hai (quả thứ nhất được thả vào ngày 6-8 xuống thành phố Hirôsima) xuống thành phố Nagasaki, nước Nhật.
Sáng ngày 10-8, chính phủ Nhật gửi cho phe Đồng Minh bản đề nghị xin chấp nhận đầu hàng theo tuyên cáo Pốtxđam. Liên Xô, Mỹ, Anh, Trung Quốc buộc Nhật phải đầu hàng vô điều kiện. Tuy nhiên bộ tư lệnh đạo quân Quan Đông không chịu hạ vũ khí, vẫn tiếp tục chống cự lại Hồng quân một cách quyết liệt.
Ngày 11-8, Hồng quân mở tiếp chiến dịch tiến công Nam - Xakhalin và ngày 15-8 mở thêm chiến dịch đổ bộ quần đảo Curin.
Đến ngày 17-8, đạo quân Quan Đông bị đánh bại. Bộ tư lệnh của nó buộc phải ra lệnh ngừng chiến đấu, chấp nhận đầu hàng. Tuy vậy ở một số nơi, quân Nhật vẫn ngoan cố chống cự. Nhưng nhìn chung thì các chiến dịch của Hồng quân đều phát triển thắng lợi và đến 1-9 thì chiến trường Viễn Đông coi như được giải quyết.
Ngày 2-9-1945, chính phủ của nước Nhật phát xít đã phải ký văn bản đầu hàng vô điều kiện. Đến đây, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc.
Cuộc chiến tranh này có hậu quả: thiệt hại về vật chất là 4600 tỷ đôla, số người chết là 60 triệu, số người bị thương và tàn tật là 90 triệu. Riêng quân dân Liên Xô có 27 triệu người chết (bằng 16,2% dân số năm 1939). Đó là một cuộc chiến lớn nhất, khốc liệt nhất, tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử loài người (bằng tất cả các cuộc chiến tranh trong 1000 năm trước đó cộng lại!). Và nó cũng có nhân tính nhất (hiểu theo nghĩa độc ác nhất, vô cảm nhất và man rợ nhất!).


Mời xem:

LỜI PHÂN TRẦN

PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

PHẦN II: NỀN TẢNG

PHẦN III: NGUỒN CỘI