Tin tức vũ trụ


Xin nhấp chuột vào mục cần đọc để xem chi tiết










Xác định vũ trụ "già" hơn 80 triệu năm tuổi



Kết quả nghiên cứu vụ nổ Big Bang mới nhất cho thấy, vũ trụ nhiều tuổi hơn 80 triệu năm so với nhận định trước đây của giới thiên văn học.

Tuy nhiên các khái niệm cốt lõi của vũ trụ như làm thế nào khởi đầu, làm từ cái gì và đang đi tới đâu, vẫn là những câu hỏi cần được làm sáng tỏ.

Được công bố hôm 21/3, kết quả cuộc nghiên cứu mới nhất khẳng định thêm lý thuyết giãn nở, vốn cho rằng vũ trụ hình thành chỉ vài phần tỷ của 1 giây sau vụ nổ từ kích cỡ hạ nguyên tử và giãn nở cho tới không gian có thể quan sát như ngày nay.
Hình ảnh bản đồ vũ trụ do ESA công bố hôm 21/3 được coi là chi tiết nhất từ trước đến nay.
Hình ảnh bản đồ vũ trụ do ESA công bố hôm 21/3
được coi là chi tiết nhất từ trước đến nay. (Ảnh AP)
Vụ nổ Big Bang là lý thuyết bao hàm toàn diện nhất về khởi nguồn của vũ trụ, cho rằng kích thước ban đầu của vũ trụ nhỏ hơn 1 nguyên tử. Vài phần 1 giây sau vụ nổ, nhiệt độ giảm và vũ trụ giãn nở với tốc độ đều đặn, nhanh hơn nhiều tốc độ ánh sáng.
Planck, kính thiên văn của cơ quan vũ trụ châu Âu (ESA) được phóng vào vũ trụ, đã quan sát và nghiên cứu nguồn gốc vụ nổ Big Bang, và kết quả được công bố cho tới nay là vũ trụ nhiều hơn 80 triệu năm, có độ tuổi là 13,81 tỷ năm tuổi.
Kết quả cũng cho thấy vũ trụ giãn nở hơi chậm hơn, có ít hơn một chút vật chất tối bí ẩn như các kết quả đã được xác định trước đây, và các nhà khoa học cũng xác nhận chỉ có một chút thay đổi nhỏ về cách tính toán vũ trụ, chưa có sự đột phá.
Kính thiên văn Planck
Kính thiên văn  Planck
Người công bố kết quả thu được từ kính thiên văn Planck là George Esfthathiou, giám đốc Viện vũ trụ học Kavli tại đại học Cambridge, cho biết: “Chúng tôi vừa khám phá sự thật căn bản về vũ trụ, nhưng điều đó chỉ giúp chúng tôi hiểu thêm một chút về vũ trụ”.
Kính thiên văn Planck trị giá 900 triệu USD được đưa vào không gian trong năm 2009. Nó đã trải qua 15,5 tháng "vẽ bản đồ" không gian, nghiên cứu ánh sáng hóa thạch và âm thanh phát ra từ vụ nổ Big Bang bằng cách quan sát nền phóng xạ trong vũ trụ. Các nhà thiên văn học kỳ vọng Planck tiếp tục truyền dữ liệu về trái đất cho tới hết năm 2013, khi chất làm mát của kính cạn kiệt.
Một số quan chức tại NASA, cơ quan cũng tham gia dự án này, cho biết kết quả mới được công bố mang tới cái nhìn sâu hơn về khởi nguồn và cấu tạo phức tạp của vũ trụ.

Theo Tiền Phong





Thời gian có thể ngừng trôi

 


Vũ trụ sẽ ngừng giãn nở vào một ngày nào đó trong tương lai và khi ấy thời gian cũng ngừng trôi, các nhà khoa học Tây Ban Nha khẳng định.

Trên phương diện lý thuyết, tốc độ của ánh sáng là hằng số không đổi trong môi trường chân không. Song khi quan sát vụ nổ của những ngôi sao, các nhà thiên văn nhận thấy vụ nổ diễn ra càng gần trung tâm của vũ trụ thì ánh sáng phát ra từ chúng di chuyển càng chậm. Điều đó cho thấy tốc độ giãn nở của vũ trụ đang giảm dần, và tốc độ di chuyển của ánh sáng không phải là hằng số cố định.
Giới khoa học nhất trí rằng thời gian bắt đầu xuất hiện sau Vụ nổ lớn (Big Bang) - sự kiện khai sinh vũ trụ. Từ đó tới nay vũ trụ giãn nở với tốc độ ngày càng tăng do tác động của năng lượng tối, một dạng năng lượng chiếm đa số vũ trụ. Tuy nhiên, tới nay con người chưa có bằng chứng cụ thể về sự tồn tại của năng lượng tối.
Quá trình trôi chậm dần của thời gian là hiện tượng mà con người không thể cảm nhận.
Quá trình trôi chậm dần của thời gian là hiện tượng mà con người không thể cảm nhận.
Các nhà nghiên cứu của Đại học Basque Country và Đại học Salamanca tại Tây Ban Nha cho rằng năng lượng tối không hề tồn tại. Vì thế, theo họ, trên thực tế tốc độ giãn nở của vũ trụ đang giảm dần. Do vũ trụ giãn nở với nhịp độ chậm dần nên tốc độ trôi của thời gian cũng giảm. Tuy nhiên, đây là quá trình mà con người không thể cảm nhận được, Telegraph cho biết.
"Sự chậm lại cùa thời gian khiến con người cảm thấy mọi hiện tượng diễn ra nhanh hơn. Cuối cùng, tới một thời điểm nào đó, mọi hiện tượng xảy ra nhanh đến nỗi chúng ta không cảm nhận được nữa. Chúng biến mất trong nhận thức của con người. Đó là lúc vũ trụ ngừng giãn nở và thời gian dừng lại", nhóm nghiên cứu tuyên bố.
Giáo sư Jose Senovilla, một thành viên trong nhóm nghiên cứu, nói rằng nếu thời gian ngừng trôi, mọi thứ trong vũ trụ sẽ ngừng chuyển động và phát triển mãi mãi.
Gary Gibbons, một nhà thiên văn học của Đại học Cambridge tại Anh, nói với trang Russia Today rằng ý tưởng của các nhà khoa học Tây Ban Nha không hề hài hước như một số người tưởng. "Chúng tôi tin rằng thời gian bắt đầu xuất hiện sau Vụ nổ lớn. Nếu thời gian có thể xuất hiện thì đương nhiên nó cũng có thể biến mất", Gibbons nói

Sự im lặng chết chóc của mặt trời



Trước động thái im lặng bất thường trong mùa bão mặt trời, NASA cảnh báo “một điều gì đó hết sức kỳ lạ đang diễn ra” đối với ngôi sao trung tâm của chúng ta.

Năm nay lẽ ra là đỉnh điểm của chu kỳ hoạt động của mặt trời trong suốt 11 năm qua, tuy nhiên, theo như các hình ảnh do NASA cung cấp, mặt trời có vẻ im ắng bất thường.
Số vệt đen mặt trời rất thấp kể từ năm 2011, và hiếm khi có vết lóa mặt trời, theo Space.com dẫn thông báo từ NASA.
Vết đen xuất hiện ít ỏi trên bề mặt mặt trời
Vết đen xuất hiện ít ỏi trên bề mặt mặt trời - (Ảnh: NASA)
Trong hình là bề mặt đối diện với Trái đất của mặt trời vào ngày 28/2/2013, theo đài quan sát hoạt động mặt trời của NASA.
Nó cho thấy chỉ vài đốm nhỏ trên bề mặt trơn láng của mặt trời, trong giai đoạn đáng lẽ ra phải là đỉnh điểm của bão mặt trời.
Trước những đồn đoán cho rằng có thể NASA đã tính toán sai, nhà vật lý học chuyên về mặt trời Dean Pesnell của Trung tâm bay không gian Goddard thuộc NASA vẫn bảo lưu ý kiến rằng: “Đây là giai đoạn đỉnh điểm của mặt trời”.
Tuy nhiên, nó không giống như dự đoán của chúng ta vì chu kỳ này có 2 đỉnh điểm.
Theo chuyên gia Pesnell, 2 lần hoạt động cực đại của mặt trời trước đó, vào năm 1989 và 2001, đều có 2 đỉnh điểm. Theo đó, hoạt động của mặt trời tăng cao rồi giảm xuống, rồi lại tăng cao, giống như một chu kỳ mini kéo dài 2 năm.
Trong chu kỳ hiện tại, số vệt đen mặt trời tăng mạnh vào năm 2011 và sụt giảm vào năm 2012.
Dự đoán tình trạng này sẽ lặp lại vào năm 2013 đến 2014.

Theo Thanh Niên




Điều gì xảy ra khi vũ trụ giãn nở đến mức tới hạn?

 


Khoảng 100 tỷ năm tới, các nhà thiên văn sẽ phải đối mặt với một thời kỳ buồn tẻ, khi mà họ chỉ còn quan sát được 1.000 thiên hà, so với hàng tỷ thiên hà ngày nay. Đó là hệ quả của quá trình giãn nở cực nhanh của vũ trụ: Các ngôi sao ở biên sẽ biến mất sau "chân trời vũ trụ", khiến ta không bao giờ nhìn thấy ánh sáng của chúng nữa.
Nhà vũ trụ học Abraham Loeb, Trung tâm vật lý thiên văn Harvard-Smithsonian (Mỹ), nói rằng, vật thể càng ở xa, thì nó càng dễ biến mất khỏi tầm quan sát. Và có lẽ chỉ 50 tỷ năm sau, vũ trụ sẽ không giãn nở nữa.

Thuyết "Vũ trụ giãn nở" cho rằng, ngay sau vụ nổ Big Bang, vũ trụ đã có xu hướng mở rộng ra, và ngày càng rộng ra mãi. Tuy nhiên, đa số các nhà vũ trụ học đều cho rằng, quá trình giãn nở này bị chậm lại đáng kể do tác động của lực hấp dẫn giữa các thiên hà. Thậm chí lực hấp dẫn còn có thể tạo ra xu hướng co ngược lại, dẫn tới sự sụp lớn (Big Crunch), đưa vũ trụ về trạng thái ban đầu.

Tuy nhiên, những phát hiện mới về sự bùng nổ của những ngôi sao xa trong vài năm qua đã cho phép người ta giả định rằng, sự giãn nở này đang xảy ra rất nhanh, và đang đẩy mọi vật thể ngày càng ra xa nhau.

Các vật thể càng ở xa, thì quá trình giãn nở vũ trụ xảy ra càng nhanh. Lúc ấy, những thay đổi của vật thể đến với chúng ta càng chậm (So sánh tương đối: Khi vật thể ở gần, chúng ta thấy nó thay đổi nhanh. Còn khi nó ở xa, những thay đổi ấy sẽ được chúng ta nhận biết chậm hơn). Đến một lúc nào đó, chúng ta hầu như không còn cảm nhận được sự thay đổi của vũ trụ nữa, nghĩa là thời gian sẽ đứng im (sở dĩ chúng ta cảm nhận được thời gian là do có sự thay đổi của vật thể xung quanh).

Khi đó, vật thể đã chạm đến "chân trời vũ trụ" (event horizon - còn gọi là chân trời sự cố. Có thể hiểu nó là ranh giới của quá trình giãn nở, mà phía bên kia là cái không xác định). Hiện tượng này có thể được so sánh với việc một vật thể bị hút vào hố đen, khiến chúng ta không bao giờ thấy ánh sáng của nó nữa. Khi vật thể đã biến mất đằng sau chân trời sự cố, thì theo các nhà vật lý, nó đã vượt ra phạm vi nghiên cứu của khoa học, và đi vào thế giới huyền học.

Điều gì làm vũ trụ giãn nở? Câu hỏi này vẫn là thách thức lớn nhất trong ngành vật lý thiên văn. Có giả thuyết cho rằng, khoảng không vũ trụ được lấp bởi một lượng vật chất tối nhất định, và chính lượng vật chất tối này đã đẩy các thiên thể ra xa nhau. Còn theo giả thuyết khác, thì phải có một "cái gì đó" luôn thay đổi theo thời gian, ngầm chi phối quá trình này. Tuy nhiên, để chứng minh các giả thuyết, người ta cần bằng chứng, và những bằng chứng có được hiện nay chưa ủng hộ giả thuyết nào.

B.H. - Minh Hy (theo Nature)


 

Lý thuyết mới bác bỏ năng lượng tối

 


Năng lượng tối, nguồn lực bí ẩn được đưa ra hơn một thập kỷ trước để giải thích tại sao vũ trụ đang tách rời ra với tốc độ ngày càng nhanh, không còn cần thiết nữa.

Đó là kết luận của một lý thuyết gây tranh cãi mới cho rằng sự mở rộng ngày càng nhanh của vũ trụ chỉ là một ảo ảnh.
Trong nghiên cứu mới, hai nhà toán hóa đã trình bày giải pháp của họ đối với phương trình tương đối chung của Einstein. Phương trình này được sử dụng để mô tả mối liên hệ giữa trọng lực và vật chất.
Nghiên cứu này cho rằng thiên hà của chúng ta nằm bên trong một khu vực không gian rộng lớn mà độ đậm đặc của vật chất thấp một cách không bình thường do một đợt sóng tiền Big Bang chạy qua vũ trụ.
Từ góc nhìn của chúng ta, các thiên hà khác ngoài khu vực này có vẻ như đã di chuyển ra xa hơn những gì dự đoán, trong khi trên thực tế chúng vẫn nằm nguyên tại vị trí cũ.
“Nếu chính xác, những giải pháp này có thể giải thích cho sự mở rộng ngày cành nhanh của các thiên hà mà không cần đến năng lượng tối”, tác giả chính của nhóm nghiên cứu, Blake Temple thuộc Đại học California, Davis, cho biết.
Các chuyên gia khác đánh giá việc loại bỏ năng lượng tối khỏi các mô hình vũ trụ là đáng khen ngợi. Nhưng họ cũng nhấn mạnh rằng lý thuyết mới có thể phá vỡ nền tảng của vũ trụ học hiện đại và là một điều các nhà thiên văn học không thể chấp nhận.
Thay thế cho năng lượng tối
Cho đến năm 1998, các nhà thiên văn học cho rằng trọng lực sẽ làm chậm quá trình mở rộng vũ trụ do Big Bang tạo ra.
Năm đó hai nhóm nghiên cứu độc lập đã công bố dữ liệu cho thấy sự mở rộng của vũ trụ đang nhanh dần lên.
Cả hai nhóm nghiên cứu quan sát thấy ánh sáng từ những siêu tân tinh ở xa mờ hơn những gì trông đợi – cho thấy những vụ nổ hình thành sao này nằm xa hơn vị trí trước đây của chúng nếu vũ trụ chỉ bị tác động của riêng trọng lực.
Để giải thích quan sát này, các nhà thiên văn học bắt đầu sử dụng ý tưởng năng lượng tối, một lực đẩy vũ trụ đang mở rộng kết cấu không gian – thời gian.
Tuy nhiên, hơn 10 năm sau, vẫn chưa có ai dám khẳng định bản chất của năng lượng tối là gì – hoặc nó có thực sự tồn tại hay không.
Để tìm kiếm giải pháp thay thế cho năng lượng tối, các nhà khoa học khác đã đề xuất phiên bản của một lý thuyết mới rằng thiên hà của chúng ta nằm trong một đợt sóng mở rộng, dải không gian với độ đậm đặc thấp.
Tác động gợn sóng
Temple và đồng nghiệp, Joel Smoller thuộc Đại học Michigan, là những người đầu tiên cung cấp cơ chế có thể cho sự hình thành một đợt sóng như vậy.
Lý thuyết của họ, được công bố tuần này trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences, cho thấy làm thế nào big bang đã tạo ra một đợt sống quy mô lớn trong không gian – thời gian gọi là sóng mật độ.
Khi đợt sóng nguyên thủy này chạy trong vũ trụ, nó để lại những gợn mật độ thấp với động rộng hàng chục triệu năm ánh sáng, và hiện bao bọc lấy thiên hà Milky Way
Một trong những hình ảnh vũ trụ sâu nất của Kính viễn vọng không gian Hubble. (Ảnh: NASA/JPL/STScI Nhóm nghiên cứu Hubble)
Trong khi đó, vật chất bị kẹt đằng trước đợt sóng này bị đẩy ra ngoài, dịch chuyển gọi vị trí ban đầu của nó.
Chính điều này đã làm thay đổi vị trí của vật chất sau này hình thành nên các sao và thiên hà.
Khi ánh sáng của những vật thể này cuối cùng đến được Trái Đất, nó mờ hơn những dự đoán ban đầu, vì những vật thể này xa chúng ta hơn nếu đợt sóng mật độ không đi qua chúng.
Giả thuyết này giải thích tại sao siêu tân tinh được mô tả năm 1998 nằm cách chúng ta xa như vậy.
Kết hợp
Tuy nhiên, mô hình như vậy có thể xâm phạm lý thuyết rất phổ biến trong lĩnh vực vũ trụ học gọi là nguyên lý Côpecnich.
Lý thuyết này nhận định rằng vũ trụ là đồng nhất – khi quan sát một cách toàn diện những phần khác nhau của vũ trụ trông giống hệt nhau.
Nguyên lý Côpecnich là giả định xuất phát từ phương trình được chấp nhận rộng rãi của Einstein, gọi là không gian – thời gian Friedmann-Robertson-Walker
“Chúng tôi muốn sự đồng nhất trong phương trình, vì đó chính là những gì chúng tôi quan sát thấy trên bầu trời”, Dragan Huterer, một nhà vật lý học thiên thể tại Đại học Michigan nhưng không tham gia vào nghiên cứu mới, cho biết.
Ngược lại, Smoller và Temple không sử dụng nguyên lý Côpecnich vì vật chất bên trong lớp gợn có độ đâm đặc thấp hơn so với vật chất bên ngoài.
Các tác giả của nghiên cứu nhấn mạnh rằng có một cách mà lý thuyết của họ không đi ngược với nguyên lý Côpecnich: Nếu đợt sóng mật độ của vụ nổ big bang tạo ra nhiều lớp gợn.
Trong trường hợp này, không gian vẫn có vè ngoài tương tự nhau khi quan sát từ một điểm đủ xa.
Liều thuốc khó nuốt trôi
Đối với những nhà thiên văn học thực sự nghiêm túc về ý tưởng này, mô hình mới cần phải giải thích được số lượng quan sát ngày càng nhiều nghiêng về giả thuyết năng lượng tối.
Huterer cho biết: “Vẫn không rõ liệu mô hình này có phù hợp với dữ liệu hay không. Ở thời điểm hiện tại, tấ cả các tuyên bố chúng tôi đưa ra đều có từ “có thể””.
Nhưng kể cả khi lý thuyết về đợt sóng mật độ trải qua được những kiểm tra và thí nghiệm, việc loại bỏ ý tưởng về vũ trụ đồng nhất sẽ là một liều thuốc đắng khó nuốt trôi cho các nhà thiên văn học.
“Cái giá phải trả là việc vi phạm nguyên lý Côpecnich, và đồng thời cơ cấu rất đặc biệt của tình trạng ban đầu của vũ trụ”, Alexey Vikhlinin thuộc Trung tâm vật lý học thiên thể Havard-Smithsonian tại Massachusetts, cho biết.
“Do đó rất nhiều nhà vũ trụ học cho rằng những đề xuất như vậy rất khso để được chấp nhận”.
Ngoài ra, nghiên cứu mới cũng bị đặt nhiều câu hỏi nghi vấn giống như khái niệm về năng lượng tối.
Huterer nói: “Bạn sẽ phải tự hỏi tại sao chúng ta lại nằm giữa lớp gợn sóng này? Tại sao không phải là một nơi khác?”

G2V Star (Theo National Geographic)























Lịch sử vũ trụ sẽ phải viết lại?

 

Bổ sung những vấn đề khuyết thiếu trong lý thuyết về lực hấp dẫn của A. Eddington, hai nhà khoa học Maximo Banados và Pedro Ferreira đã phát hiện những kết luận ngoài sức tưởng tượng của con người về lịch sử hình thành vũ trụ.

Từ khi Georges Lemaitre lần đầu tiên đưa ra lý thuyết Vụ nổ lớn (Big Bang) vào năm 1927 đến nay, người ta vẫn coi đây là cơ sở để lý giải về sự hình thành của vũ trụ. Những kết quả thực nghiệm và quan sát mới nhất của các nhà khoa học đều đưa ra những bằng chứng củng cố cho sự tồn tại của lý thuyết này.

Thời biểu vũ trụ giãn nở kể từ vụ nổ lớn của NASA. Ảnh: Wikipedia.com.
Tuy nhiên, điều này hoàn toàn không có nghĩa rằng, các nhà khoa học từ bỏ tham vọng tìm những lý thuyết khác khả dĩ có thể giải thích sự hình thành vũ trụ.

Mới đây, hai nhà nhà vật lý học thiên thể Maximo Banados và Pedro Ferreira đã cho công bố thành quả nghiên cứu mới nhất trong lĩnh vực này. Sau khi bổ sung và sửa đổi lý thuyết về lực hấp dẫn của A. Eddington được xây dựng vào đầu thế kỷ XX, Maximo Banados và Pedro Ferreira phát hiện ra rằng, lý luận mới này sẽ mang đến cho con người những kết luận ngoài sức tưởng tượng về sự hình thành vũ trụ.

Eddington là nhà vật lý sống cùng thời với Albert Einstein. Ông được cả thế giới biết đến khi ông quan sát được rằng lực hấp dẫn của mặt trời đã làm cong ánh sáng sao. Chính phát hiện này của Eddington trở thành những bằng chứng đầu tiên cho thuyết tương đối rộng.

Vào năm 1924, Eddington đưa ra hàm tác dụng trường hấp dẫn mới, một lựa chọn thứ hai bên cạnh hàm tác dụng Einstein-Hilbert, có thể trở thành một điểm xuất phát khác của thuyết tương đối rộng.

Trong vật lý học thiên thể, hàm tác dụng trường hấp dẫn thể hiện cơ chế không thời gian hình thành lực hấp dẫn như thế nào khi bị năng lượng và vật chất bẻ cong. Tuy nhiên, lý thuyết của Eddington chỉ đúng trong điều kiện chân không, không hàm chứa bất cứ vật chất nào. Điều này khiến cho lý thuyết của Eddington cho đến nay vẫn chưa thể trở thành một lý luận hoàn chình được.

Sau khi Eddington đề ra lý luận này, nhiều nhà khoa học đã tìm nhiều cách khác nhau để chứng minh cho lý thuyết này trong điều kiện có vật chất song họ đã gặp phải rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, trong công trình nghiên cứu mới đây của mình, Maximo Banados và Pedro Ferreira đã nghĩ ra một biện pháp mới, tức đưa ra hàm tác dụng trường hấp dẫn mới được gọi là hàm tác dụng Born-Infeld. Hàm tác dụng này giúp cho lý thuyết của Eddington đúng cả trong trường hợp có sự hiện diện của vật chất.

Điều khiến mọi người chú ý hơn là, lý luận mới này có thể đưa ra một mô hình vũ trụ hoàn toàn mới mà không có sự tồn tại của Vụ nổ lớn.

Trong lý thuyết Vụ nổ lớn, trạng thái khởi đầu của vũ trụ là một điểm kỳ dị, điều này cũng có nghĩa là vũ trụ từng vô cùng nhỏ bé. Tuy nhiên, lý thuyết đã sửa đổi của Eddington yêu cầu kích thước không thời gian ở thời kỳ đầu hình thành phải có một trị số nhỏ nhất nào đó. Điều này cũng có nghĩa là khi đó vũ trụ không thể nào là điểm kỳ dị được.

Lý luận này cho rằng, trước khi vũ trụ giãn nở và tuân theo những phép tắc diễn biến của bản thân nó thì vũ trụ đã duy trì kích thước tương đối nhỏ trong một thời gian dài. Độ dài của khoảng thời gian này phụ thuộc vào mật độ vật chất của vũ trụ ở thời kỳ ban đầu. Một khả năng khác là vũ trụ có thể đã trải qua một lần đột biến do sự giãn nở của vũ trụ tạo thành. Trạng huống cụ thể của khả năng này phụ thuộc vào điều kiện ban đầu hình thành vũ trụ.

Nhưng bất cứ mô hình vũ trụ nào trong hai khả năng này đều không có sự hiện diện của điểm kỳ dị. Điều này có thể giúp các nhà khoa học giải quyết câu hỏi về điểm kỳ dị đang khiến họ đau đầu trong thuyết tương đối rộng. Vì rằng, cho đến nay, trong toán học, điểm kỳ dị vẫn là khái niệm chưa thể định nghĩa.

Hai nhà khoa học Maximo Banados và Pedro Ferreira cho biết họ sẽ tiếp tục phân tích một cách cụ thể hơn về hàm tác dụng trường hấp dẫn Born-Infeld để chứng minh cho giả thiết của mình. Mặc dù vậy, hai nhà khoa học này cũng chỉ ra rằng, lý thuyết này vẫn đang còn trong giai đoạn đầu của khái niệm hóa và họ hiểu rất rõ rằng để có thể chính xác hóa lý thuyết này vẫn còn một quãng đường rất dài phải vượt qua.

Kết quả nghiên cứu này của Maximo Banados và Pedro Ferreira, được đăng tải trên tạp chí Physical Review Letters.