THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 12/e
Thứ Sáu, tháng 2 21, 2014CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI (Tiếp theo TT&HĐ 12/d)
“Nhân loại không có sự đòi hỏi nào cao hơn là làm sao đạt tới cái chí thiện, chí mỹ và chính vì giải quyết vấn đề ấy mà nó đã cố gắng...”
Vidhusekharsastri
Ý niệm khoái lạc chắc chắn đã xuất hiện từ rất lâu trước khi hình thành lối sống quần cư xã hội. Còn ý niệm đạo đức chỉ có thể xuất hiện trong quá trình phân liệt dân cư xã hội thành những bộ phận, tầng lớp mâu thuẫn nhau về quyền lợi (ở đây, tạm hiểu mâu thuẫn là sự tương phản có tính đối kháng "gay gắt", hàm chứa sự bất công) dẫn đến những hiện tượng tranh chấp, "đấu đá", cưỡng đoạt, giết chóc lẫn nhau xảy ra ngày một phổ biến, với qui mô ngày càng lớn. Nói cách khác, khái niệm và chuẩn mực đạo đức được hình thành và xác lập như một tồn tại tinh thần sinh động trong tiến trình xuất hiện và vận động xã hội về phương diện làm phân liệt và phân liệt ngày một sâu sắc nội tại xã hội. Bắt đầu là lối sống quần cư "rời rạc", lấy trồng trọt-chăn nuôi mang tính đa canh nông nghiệp nhằm tự cung tự cấp làm phương kế mưu sinh chủ yếu, rồi sau đó, sự tăng tiến về trình độ sống (chủ yếu là trình độ tiêu dùng, trong đó có qui mô nhu cầu tiêu dùng cả về chất và lượng, cả về vật chất lẫn tinh thần, cả về thực phẩm lẫn phi thực phẩm) "vấp phải" những tác động nảy sinh một cách khách quan lẫn chủ quan, gây cản trở, ngăn chặn sự tăng tiến ấy, đã tạo tiền đề cho lối sống quần cư xã hội - tức là sự quần cư mà trong nội tại nó đã thể hiện ở mức độ rõ rệt nhất định sự gắn kết, liên kết, ràng buộc, ảnh hưởng một cách tương đối phụ thuộc lẫn nhau trong hoạt động sống giữa các cá thể, các bộ phận nhân sinh hợp thành quần cư - ra đời (mà trong hiện thực, có thể thấy đây cũng là quá trình làm sự trao đổi vật phẩm có được từ thành quả lao động trở nên phổ biến, dẫn đến xuất hiện nền kinh tế hàng hóa). Sự xuất hiện những mối quan hệ tương tác giữa các cá thể, bộ phận hợp thành theo hướng thống nhất hóa, đồng bộ hóa vận động nội tại trong lối sống quần cư sinh vật là có tính tự nhiên, được "hối thúc" bởi "đòi hỏi" đảm bảo cũng như tăng cường khả năng sống còn, và nếu có thể gọi lối sống quần cư ở những giống loài không có tư duy trừu tượng là "quần cư cộng sinh thụ động, thuần bản năng" thì cũng có thể gọi lối sống quần cư ở loài có tư duy trừu tượng, tức loài người, là "quần cư cộng sinh chủ động, có ý chí" hay gọn hơn: "quần cư xã hội". Như vậy, mục đích đầu tiên và cũng hoàn toàn tự nhiên của lối sống xã hội là tạo điều kiện cho mọi cá nhân, mọi thực thể nhân sinh hợp thành xã hội có thể quan hệ với nhau theo định hướng hợp tác, tương trợ, liên kết, phối hợp hành động...ở những mức độ nhất định, tùy thuộc vào hiện thực xã hội trong quá trình vận động tiến triển của nó, qua đó mà (coi như) ở mỗi cá nhân, mỗi thực thể nhân sinh tự thân củng cố được năng lực mưu sinh, không những đảm bảo được sống còn, mà còn có khả năng đạt được sống còn trong no đủ, sung túc, an vui, cũng có nghĩa là được sống một cuộc sống làm ăn yên ổn, thỏa mãn, hưởng lạc, và như thế, ở tầm rộng lớn nhất, đồng thời cũng làm cho xã hội hướng tới thành một thực thể quần tụ dân cư đoàn kết nhất trí, đồng tâm hiệp lực, chủ động chống lại những tác động bất lợi có tính "ngoại xâm" đến từ môi trường (thiên tai, địch họa) trong vận động sinh tồn, duy trì tồn tại của nó. Tuy nhiên, như đã trình bày, vận động xã hội một cách tự nhiên (dù có sự "góp phần" của nhân tạo thì cũng vẫn là tự nhiên!!!) theo tiến trình kế tiếp nhau giữa hai trạng thái thịnh và suy, nhất là trong suốt thời kỳ mà loài người chưa nhận thức sáng tỏ được thân phận mình, cũng đồng thời làm xuất hiện ngay "trong lòng" xã hội những tác động trái ngược có nguyên nhân từ cả khách quan lẫn chủ quan (cũng tự nhiên nốt!), mà trong hiện thực thì "được thấy" chính là sự xuất hiện "thằng cha" tham-sân-si và những "thành quả" trực tiếp có từ sự kích động, hối thúc, "xúi dục" của "thằng cha" có tính thèm muốn "ác nghiệt" này (chân dung của "nó" giống như mặt trái của tấm huân chương "tư duy trừu tượng", có vẻ xấu xí, thấp hèn bởi bị "vòng kim cô" mê quáng đượm nét điên rồ chế ngự!), luôn cản trở, "phá hoại" việc thực hiện đạt tới mục đích tự nhiên (hồn nhiên) đầu tiên ấy của sự tồn tại xã hội... Đến đây, đã có thể tạm kết luận rằng, sự "có mặt" và "góp phần" thường trực của tư duy trừu tượng trong suốt tiến trình trường kỳ thịnh-suy xã hội, cùng với sự đồng thời tác dụng trở lại tư duy trừu tượng của tiến trình ấy, đã làm cho cuộc vận động nội tại xã hội mang thêm tính thi đua, cạnh tranh, đấu tranh nội bộ, nghĩa là "bên cạnh" những tác động gắn kết, thống nhất xã hội nhằm đạt đến mục đích tự nhiên đầu tiên, gọi là "thuận", cũng tồn tại những tác động chia rẽ, phân ly xã hội, tương phản với "thuận", gọi là "nghịch". Điều "thú vị" và cũng nên nhấn mạnh ở đây: vì duy trì sống còn bản thân là mục đích đầu tiên cũng như tối hậu đối với hoạt động tự nhiên của mọi sinh vật, cho nên, dù những tác động nghịch có chiều hướng "chống phá" sự đoàn kết, thống nhất của nội tại xã hội thì đó không phải là chủ đích thực sự của những chủ thể tạo ra những tác động nghịch, và mặt khác, sự "chống phá" gây phân rã xã hội (một cách vô ý thức) của họ cũng không thể vượt quá mức độ hạn định nào đó để có thể làm tiêu vong xã hội - cái thực thể mà sự tồn tại của nó đều tối cần thiết cho việc sống còn của cả hai "phe" tác động thuận và nghịch. Như vậy, và lịch sử thời tiền sử-cổ đại của xã hội loài người cũng cho thấy, vận động nội tại của một xã hội, nói chung là quá trình tương tác cả về mặt vật chất lẫn mặt tinh thần giữa hai "lực lượng" tương phản thuận-nghịch. Quá trình tương tác ấy là tự nhiên (nghĩa là dù có mặt của "nhân tạo" thì xét cho cùng vẫn hàm chứa sự tất yếu, và thể hiện rõ ràng nhất vào "thuở ban đầu" của lịch sử xã hội, khi nhận thức của loài người về tự nhiên-xã hội-nhân sinh còn rất mù mờ với nhiều lầm lạc), không phải nhằm "giải tán" xã hội mà vẫn nhằm gắn kết xã hội, nhưng trong tình thế nội tại bị kích thích "lên" trạng thái phân liệt của nó, nghĩa là làm cho nội tại xã hội hoạt động vừa gắn kết vừa phân ly trên nền tảng ưu tiên và tích cực duy trì sự thống nhất trên bình diện toàn xã hội. Một cách khái quát, "chính thống" hơn và cũng súc tích hơn, có lẽ nên nói rằng, quá trình tương tác thuận-nghịch ấy cũng chính là cuộc đấu tranh sinh tồn thể hiện ra dưới dạng đặc thù, mang tính riêng có, (chỉ) xảy ra trong xã hội, (chỉ) trong nội bộ loài người (loài có tư duy trừu tượng!), giữa người với người, mà chúng ta (tạm) gọi là "cuộc cạnh tranh quyền lợi nhằm sống còn và hưởng thụ". Tùy thuộc vào mức độ thịnh-suy xã hội, vào định hướng nhận thức thị phi trong xã hội mà cạnh tranh quyền lợi cũng có những mức độ căng thẳng khác nhau. Lúc đầu, nảy sinh ra chỉ là sự chênh lệch tương đối về mức sống do gặp thuận lợi hơn hay bất lợi hơn trong lao động kiếm "miếng ăn cái mặc"(hiểu rộng ra là tất cả những hoạt động mưu sinh mang tính tự nhiên, chính đáng có thể có từ trực tiếp tạo ra lương thực, của cải cho đến thực hiện những công việc trao đổi thành quả lao động-"tiền thân" của mua bán hàng hóa). Sự tồn tại chênh lệch ấy, nhất là trong những thời kỳ xã hội suy vi về của cải vật chất, đã kích thích nảy sinh trong tư duy trừu tượng những đòi hỏi theo hướng dần dần làm xuất hiện cuộc tranh đua quyền lợi, và đến lượt sự tồn tại của cuộc tranh đua này với mức độ ngày một gay gắt đã đóng vai trò quyết định làm nội tại xã hội "thực sự" phân hóa (trong thống nhất!), phân định tương đối lực lượng dân cư trong đó thành những tầng lớp theo qui ước, nhưng cơ bản là thành hai tầng lớp tương phản nhau rõ rệt mà chủ yếu về mặt hưởng thụ quyền lợi, tạm gọi là "hạ tầng bị trị" và "thượng tầng cai trị". Về mặt tinh thần, đồng thời và cũng gắn liền với quá trình hình thành và tồn tại trong giai đoạn đầu của cuộc cạnh tranh quyền lợi, là quá trình hình thành khái niệm "đạo đức" cũng như sự định ước (đầu tiên!) về đạo đức (sự tốt-xấu), với bắt đầu là sự xuất hiện những ý niệm hợp thành cặp ý niệm tương phản trong não người như giàu-nghèo, sướng-khổ, thừa-thiếu..., rồi đến hiền-ác, tự do-lệ thuộc, công bằng-bất công, cưỡng bức-phục tùng, thống trị-bị trị..., từ đó mà có thị phi và "cãi cọ" về thị phi (quan niệm đúng-sai, tình cảm yêu-ghét) trong xã hội - tác nhân đóng vai trò "khai hoa nở nhụy" cho sự ra đời của chuẩn mực đạo đức.
Đại khái, chuẩn mực đạo đức trong một xã hội là "thước đo định tính", được dân cư nói chung của xã hội đó thừa nhận, về mức độ tốt-xấu của tính cách một con người (nhân cách), một tập thể người, một nhà nước, một chế độ... (Trong thực tế đời sống, thường khi nghe nói ai đó có nhân cách, chúng ta hiểu rằng kẻ đó có đạo đức. Đó chỉ là sự hiểu ngầm đã thành như một mặc định mà thực ra xét trên phương diện nhận thức triết học là hoàn toàn sai lầm, vì bắt nguồn từ quan niệm thiển cận đầy "tự tôn hợm hĩnh" cho rằng con người "tính tốt" hơn con vật. Hỡi đồ thú vật, ối lộn, hỡi đồ...vô tri, lại lộn nữa, thành thật xin lỗi giới vạn vật muông thú (!}, hỡi đồ...con-người, đừng mơ lâu quá nhé!!!). Vì được hun đúc "sau" một quá trình tương tác thuận-nghịch cụ thể, được con người xây dựng trên cơ sở nhận thức thực tiễn đời sống xã hội, nên chuẩn mực đạo đức, một cách trực tiếp, là kết quả của nhân tạo, và do đó nó có tính chủ quan, nghĩa là có tính qui ước, tính khu vực, tính thời đại, tóm lại là có tính tương đối. Nhưng nếu xét ở tầm mức cội nguồn sâu xa, cơ bản nhất mà cũng bao trùm nhất thì chuẩn mực đạo đức lại là kết quả mang tính tự nhiên, khách quan, nghĩa là có tính mặc định (tất yếu), tính phổ quát xã hội về không gian và thời gian. Sự phân liệt tầng lớp dân cư xã hội (mà cơ bản, có thể qui thành hai lực lượng tương phản nhau, nếu xét về mặt "lợi" là giàu (thiểu số) và nghèo (đại đa số), còn nếu xét về mặt "quyền" là (thiểu số) tập thể lãnh đạo và (đại đa số) quần chúng phục tùng), cũng như sự tồn tại những yếu tố mầm mống gây ra những hiện tượng bất công trong xã hội, "kéo theo" sự xuất hiện và tồn tại cuộc tương tác thuận-nghịch nhằm khắc phục, xóa bỏ mâu thuẫn về quyền lợi giữa hai lực lượng tương phản (tức là nhằm đảm bảo quyền sống chính đáng một cách công bằng đối với mọi con người trong xã hội) nhiều khi đạt đến độ quyết liệt, phải giải quyết bằng chiến tranh, giết chóc, triệt hạ đồng loại nhằm khuất phục lẫn nhau, dù quan sát ở góc độ nhất thời và trực diện rõ ràng là có tác dụng ngược với nguyện vọng sống còn mang tính tự nhiên ở mỗi con người, và hơn nữa, trên bình diện rộng lớn hơn là có tác dụng ngược với yêu cầu tự nhiên về thống nhất xã hội nhằm bảo đảm khả năng sinh tồn (nghĩa là có tác dụng phá vỡ sự gắn bó, bình ổn xã hội, uy hiếp sự tồn tại xã hội), thì về toàn cục, vẫn phải trong vòng khống chế của xu thế tự nhiên là ưu tiên lựa chọn sống còn. Nghĩa là đối với lực lượng nào (hiền hay ác, chính nghĩa hay phi nghĩa) cũng vậy, đều luôn cố gắng hướng tới mục đích tự nhiên đầu tiên và tối hậu là tồn sinh bản thân, mà muốn thế, đồng thời cũng phải (tự nhiên) hướng tới duy trì, đảm bảo sự tồn tại xã hội dù tùy thuộc vào ý chí, có thể theo hình thức này hay hình thức khác, ở trang thái còn bất công hay không còn bất công. (Cuồng sát như phát xít Đức cũng chỉ đến độ quyết tâm tiêu diệt triệt để dân tộc Do Thái, chinh phục và nô dịch thế giới chứ không thể nghĩ đến mục tiêu làm cho thế giới diệt vong. Điên rồ bậc nhất cổ kim là Khơ Me Đỏ, trong thực tế đã thậm ngu xuẩn khi hành động giết chóc mang tính diệt chủng chính dân tộc mình, nhưng cũng không phải nhằm mục tiêu "xóa sổ" xã hội Cămpuchia, vì dù có mất hết tình người thì nó cũng không dám suy tính tới điều đó, chưa cần nói rằng dứt khoát nó không thể thực hiện được điều đó! Hai trường hợp vừa nêu còn bộc lộ một điều lớn lao hơn cần nói thêm cho rõ, đó là trên bước đường giết chóc lẫn nhau của mình, con người dù có thể gây ra sự thống khổ đau thương tang tóc cho đồng loại với qui mô to lớn và mức độ khủng khiếp đến cỡ nào chăng nữa, thì cũng chỉ phơi bày hơn nữa đến cùng cực mặt mê muội điên rồ của loài người và tội ác ngút trời mà loài người tạo ra đối với chính nó, thế thôi, chứ không thể làm tiêu vong xã hội loài người, hay nói khác đi, một xã hội có thể tự thân làm nó tăng tiến lên hoặc suy vi đi nhưng không thể tự thân hủy diệt nó, mà chỉ có môi trường "bên ngoài" (thiên nhiên, ngoại xâm) mới có khả năng làm nó tiêu vong!).
Như vậy, dù vào thời nào, trong trạng thái nào của xã hội thì cái định hướng tự nhiên ưu tiên lựa chọn sống còn làm nảy sinh nỗ lực tồn sinh cũng tồn tại vừa ở trong tinh thần từng cá thể con người, vừa bao trùm tinh thần xã hội. Theo định hướng tự nhiên khách quan đó, cùng với quá trình phân liệt, tương tác thuận-nghịch làm xuất hiện bất công đồng thời cũng giải quyết bất công trong xã hội, sự nhận thức cuộc sống của tư duy trừu tượng ở mỗi cá nhân, thế hệ nối tiếp thế hệ trong thời kỳ đầu của lịch sử xã hội (thời kỳ tiền sử-cổ đại), dần đạt đến sự đồng thuận chung nhất, cơ bản nhất, cốt yếu nhất, mang tính chân lý về thị phi (về đúng-sai, tốt-xấu) trong đời sống xã hội, và đó chính là cơ sở tự nhiên làm hình thành nên nội dung cơ bản mang tính khách quan của chuẩn mực đạo đức xã hội. Vậy, nội dung đó là gì? Dù chưa biết cụ thể là gì thì chúng ta vẫn biết chắc là nó phải đứng về phía ưu tiên, bênh vực cho tồn sinh và hơn nữa là cho sự tồn sinh trong ấm no hạnh phúc đối với từng cá nhân cũng như đối với toàn xã hội. Bây giờ, nếu hỏi bất cứ người nào rằng trong quan hệ ứng xử xã hội, "đúng" và "tốt" là thể hiện của đạo đức hay vô đạo đức (?), thì "chắc như bắp", ai cũng khẳng định là của đạo đức (!). Nhưng cụ thể, như thế nào thì một suy nghĩ, một hành động trong đời sống xã hội, trong ứng xử giữa người với người được ai cũng cho là "đúng" và "tốt" (thực ra, về mặt quan niệm thì "đúng" và "tốt" có mối quan hệ biện chứng mật thiết với nhau, trong cái này có cái kia và ngược lại), nghĩa là đúng-tốt một cách khách quan? Đó là...mà thôi, chúng ta không trả lời nữa, vì sự "lải nhải" ở trên đã là câu trả lời quá lê thê mà cũng đến tận "chân tơ kẽ tóc" rồi còn gì! Thế còn mặt chủ quan của chuẩn mực đạo đức thể hiện ra sao và như thế nào? Trả lời tỉ mỉ thì khó chứ về đại thể thì...dễ ẹc! Đây này: nếu sự đồng thuận có tính tuyệt đối (được mọi xã hội trong mọi giai đoạn lịch sử thừa nhận!) về đúng-tốt là biểu hiện mặt khách quan của chuẩn mực đạo đức, thì sự đồng thuận có tính tương đối (không nhất trí hoàn toàn, có khác biệt trong nhận định, đánh giá những hiện tượng xã hội cụ thể, tùy thuộc vào tập quán đặc thù của khu vực dân cư, vào quan niệm và lối sống thời đại, và đặc biệt là tùy thuộc vào trình độ nhận thức cũng như lập trường tư tưởng ở mỗi con người, ở mỗi tầng lớp xã hội, thậm chí còn phải tính đến cả sự ảnh hưởng của tình trạng thịnh-suy xã hội đối với tinh thần con người nữa) về đúng-tốt là biểu hiện mặt chủ quan của chuẩn mực đạo đức. Quan niệm tổng quát của chúng ta về đạo đức và căn nguyên tồn tại chuẩn mực đạo đức là như vậy. Đến đây, chúng ta càng "thấm thía" rằng Đạo Đức Kinh là một kiệt tác triết học và quan niệm cách nay hơn 2500 năm trước của Lão Tử về đạo đức cũng như về thị phi (thiện-ác, tốt-xấu...) thật thâm hậu biết chừng nào! Ôi, nhớ Lão quá đi! Thôi thì xin nhắc lại vài giáo huấn của Lão cho đỡ nhớ vậy:
"Sinh và dưỡng vạn vật, sinh mà không chiếm cho mình, làm mà không cậy công, để cho vạn vật tự lớn lên mà không làm chủ, như vậy gọi là huyền đức (đức cao nhất-Đức Huyền Diệu)".
"Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa, trí xảo xuất hiện rồi mới có trá ngụy, gia đình bất hòa rồi mới sinh ra hiếu từ, nước nhà rối loạn rồi mới có tôi trung".
"Người có đức cao thì (thuận theo tự nhiên) không có ý cầu đức, cho nên có đức, người có đức thấp thì có ý cầu đức (thành ra đạo đức giả) cho nên không có đức. (...). Cho nên, đạo mất rồi (tạm hiểu là xã hội phân liệt, rối loạn) sau mới có đức (tạm hiểu là chuẩn mực đạo đức), đức mất rồi (tạm hiểu là suy vi đạo đức) sau mới có nhân (tạm hiểu là kêu gọi lương tâm, lòng nhân hậu), nhân mất rồi (tạm hiểu là đã lẫn lộn hiền-ác) sau mới có nghĩa (tạm hiểu "thoát" là đề ra định ước về thị phi, luật lệ), nghĩa mất rồi (không tự giác tuân thủ) sau mới có lễ (tạm hiểu là luật pháp, hành pháp, sự thưởng-phạt). Lễ là biểu hiện suy vi của sự trung hậu thành tín, là đầu mối của sự hỗn loạn. Dùng trí tuệ để tính toán trước (trong mưu cầu quyền lợi), thì (mất cái chất phác) chỉ là cái lòe loẹt (cái hình thức) của đạo và là nguồn gốc của ngu muội. Cho nên bậc đại trượng phu (người hiểu đạo) giữ trung hậu thành tín mà không trọng lễ nghi, giữ đạo mà không dùng trí xảo, bỏ cái này mà giữ cái kia. (Đoạn luận này là một tuyệt bút triết học, thể hiện nhận thức quá trình vận động xã hội-nhân sinh cao sâu và chí lý của Lão Tử, và như một sự "vạch trần" cái quan niệm đạo đức không những đầy gượng ép, khiên cưỡng, hình thức, mà còn "ngược ngạo", do đó cũng ẩn chứa "bất nhân" của Khổng Tử)".
"Danh tiếng với sinh mệnh cái nào quí? Sinh mệnh với của cải cái nào trọng? Được danh lợi mà mất sinh mệnh, cái nào hại? Cho nên ham danh quá thì phải hao tổn nhiều, chứa của cải nhiều thì mất nhiều. Biết thế nào là đủ (tri túc) thì không nhục, biết lúc nào nên dừng thì không nguy mà có thể sống lâu được"
"Họa không gì lớn bằng không biết thế nào là đủ, hại không gì bằng tham muốn cho được nhiều. Biết thế nào là đủ và thỏa mãn về cái đủ đó thì mới luôn luôn thấy đủ (cũng có nghĩa là hạnh phúc vì không thấy buồn khổ nữa!)".
"Lấy đạo mà tu thân thì đức sẽ đủ, lấy đạo mà lo việc nhà thì đức sẽ có dư, lấy đạo mà lo việc làng xóm thì đức sẽ lớn ra, lấy đạo mà lo việc nước thì đức sẽ thịnh, lấy đạo mà lo việc thiên hạ thì đức sẽ phổ cập. Lấy thân mình mà xét thân người, nhà mình xét nhà người, làng mình xét làng khác, thiên hạ ngày nay xét thiên hạ thời xưa và thời sau. Làm sao ta biết được thiên hạ thế này hay thế khác? Là do lẽ đó"
"Lời nói chân thực thì không hoa mỹ, lời nói hoa mỹ thì không chân thực. Người "thiện" thì không cần phải biện giải (vì hành vi tốt rồi), người phải biện giải cho mình là người "không thiện". Người sáng suốt hiểu đạo thì tri thức không cần rộng (vì cảm nhận được chân lý (lẽ tự nhiên) là đủ rồi), người nào tri thức rộng thì không sáng suốt, chưa hiểu đạo (vì tìm ngọn mà quên gốc). (Đây là nhận định cực sâu sắc vì dễ thấy là trong thực tế xã hội nói chung, số trí thức mê muội, xảo trá, thất đức "nổi lên" phong phú đủ kiểu và mặt khác, có hiện tượng phổ biến là tấm lòng của người "nhà quê", "thất phu", ít học, thiếu hiểu biết lại thường chân hơn, hiền hơn, rộng lượng hơn, nhân ái hơn của "kẻ chợ", "sĩ phu" học rộng biết nhiều (!), và không thể chối cãi được, trong xã hội Việt Nam hiện nay, những hiện tượng phá hoại của cải vật chất xã hội, làm tăng bất công xã hội, làm rối loạn tinh thần xã hội dẫn đến suy giảm đạo đức cũng như sự đoàn kết xã hội, chủ yếu (nếu không muốn nói hoàn toàn) là do các "bè phái" trong tầng lớp trí thức, nhất là bộ phận trí thức "tham quyền cố vị" hoặc ngược lại là "uất ức trong mê muội", vừa "đầu têu" vừa trực tiếp gây ra, cả vô tình lẫn cố ý!!! Có người "đánh đồng" trí thức với hiền tài, chúng ta cho rằng trí thức là lực lượng "có học" của xã hội, mưu sinh và hoạt động xã hội trực tiếp và chủ yếu bằng trí não trên cơ sở học vấn mà bản thân đã tích lũy được, còn hiền tài là tinh hoa tài-đức của giới trí thức nói riêng và của cả xã hội nói chung, cũng vì thế mà đồng thời hiền tài cũng được đại chúng thượng tôn là "nguyên khí quốc gia". Như vậy, không những "tiến sĩ giấy" không phải hiền tài mà cả "tiến sĩ thật" nhưng thất đức cũng không phải hiền tài)".
Tiếp theo, chúng ta sẽ trích lược vài ba ý kiến mà chúng ta cho rằng đã "hô khẩu hiệu" được quan niệm chung nhất hiện nay về đạo đức, để qua đó "ôn cố tri tân" nhằm soi rọi lại...bản thân mình...cho vui thôi (!), vì chỉ có thể "ừ" được đôi điều trong đó chứ phần lớn là không...nhất trí.
Theo từ điển mở Wikipedia:
"Đạo đức là một hiện tượng xã hội phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ bản thân cuộc sống của con người. Đạo đức là tập hợp những quan điểm của một xã hội, của một tầng lớp xã hội, của một tập hợp người nhất định về thế giới, về cách sống. Nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng xã hội".
"Trong tâm lý học, đạo đức có thể được định nghĩa theo các khía cạnh sau:
Nghĩa hẹp: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội.
Nghĩa rộng hơn: Đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự nhiên.
Nghĩa rộng: Đạo đức là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với cả bản thân mình"
"Một số phạm trù cơ bản của đạo đức:
Nghĩa vụ của đạo đức thể hiện ở chỗ khi con người tham gia vào hoạt động sản xuất và hoạt động sống, anh ta ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với người khác và đối với cộng đồng.Nghĩa vụ đạo đức đã xuất hiện rất sớm và nó tồn tại với thời gian, tồn tại qua các giai đoạn phát triển của lịch sử loài người. Điều đáng chú ý là việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức bao giờ cũng mang tính tự giác và do chính bản thân đã nhận thức rõ vấn đề. Do vậy, khi thực hiện nghĩa vụ đạo đức con người luôn có cảm giác hạnh phúc, hài lòng vì tình cảm cao thượng, vì lòng tự trọng và phẩm giá của con người. Nghĩa vụ đạo đức của con người có mối liên hệ chặt chẽ với nghĩa vụ pháp lý. Nghĩa vụ đạo đức và nghĩa vụ pháp lý của con người đều có chung mục đích là nhằm điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với qui tắc, chuẩn mực chung của xã hội.
Nghĩa vụ không hình thành một cách tự nhiên, nhất thời mà nó được hình thành và hoàn thiện trong cả quá trình giáo dục, tự giáo dục, rèn luyện trong hoạt động thực tiễn của mỗi cá nhân, thậm chí qua quá trình đấu tranh, thử thách của cuộc sống.
Lương tâm có thể được hiểu như tiếng nói bên trong đầy quyền uy chỉ dẫn, thôi thúc con người ta làm những điều tốt, ngăn cản, chỉ trích làm những điều xấu.
Theo quan điểm biện chứng của đạo đức học thì lương tâm là ý thức trách nhiệm và tình cảm đạo đức của cá nhân về sự tự đánh giá những hành vi, cách cư xử của mình trong đời sống xã hội. Sự hình thành lương tâm là quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao trong quá trình lao động sản xuất và giao tiếp xã hội. Có thể nêu ra các mức độ phát triển của lương tâm như sau:
Ý thức về cái cần phải làm do sự sợ hãi bị trừng phạt bởi thiết chế xã hội hoặc ý niệm tâm linh.
Ý thức về cái cần phải làm, cần phải tránh vì xấu hổ trước người khác và trước dư luận xã hội.
Ý thức về cái cần phải làm vì xấu hổ với bản thân. Khi cá nhân xấu hổ với bản thân, với những hành vi của mình là bước đầu của cảm giác lương tâm. Từ cảm giác đó đến sự phán xét các suy nghĩ, hành vi của mình thì đó chính là lương tâm. Vì thế lương tâm có quan hệ chặt chẽ với ý thức nghĩa vụ của con người.
Khi con người làm những điều xấu, độc ác thì lương tâm cắn rứt. Trái lại khi cá nhân làm những điều tốt, cao thượng thì lương tâm thanh thản. Do vậy, trong cấu trúc của lương tâm tồn tại khái niệm xấu hổ, hối hận. Giữ cho lương tâm trong sạch là một tiêu chí hạnh phúc và tiêu chí sống của con người.
Thiện và Ác là cặp phạm trù đối lập nhau trong mọi thời đại, là thước đo đời sống đạo đức của mọi cá nhân. Thiện và Ác cũng là phạm trù cơ bản làm thước đo đời sống đạo đức của con người.
Cái Thiện là cái tốt đẹp biểu hiện lòng nhân ái của con người trong cuộc sống hàng ngày. Đó chính là hành vi thể hiện lợi ích của cá nhân phù hợp với yêu cầu và sự tiến bộ xã hội. Cái thiện phải được thể hiện qua việc góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, đem lại lợi ích cho mọi người trong xã hội. Hồ Chí Minh đã nói: “Việc thiện thì dù nhỏ đến mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ đến mấy cũng tránh” (Hồ Chí Minh, Về vấn đề giáo dục, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1990, tr. 55). Là cái thiện là phấn đấu cho cuộc sống của con người ngày càng trở nên cao thượng hơn, tốt đẹp hơn và giàu tính nhân văn hơn.
Cái Ác là cái đáng ghét, ghê tởm, cái cần phải gạt bỏ trong đời sống cá nhân và xã hội. Cái ác làm mất đi cái văn minh, cao thượng của cuộc sống con người. Quan điểm về thiện và ác mang tính lịch sử và có thể hoán đổi cho nhau. Cái thiện và ác được chúng ta đánh giá tuỳ vào nó có thúc đẩy hay cản trở sự phát triển của xã hội, hạnh phúc của con người".
"Đạo: Đường đi, hướng đi, lối làm việc, ăn ở.
Đức: Theo Khổng Tử, sống đúng luân thường là có Đức. Theo Đạo (Lão Tử) tu thân tới mức hiệp nhất với trời đất, an hoà với mọi người là có Đức".
"Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó thuộc về vấn đề tốt-xấu, hơn nữa xem như là đúng-sai, được sử dụng trong 3 phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt đôi lúc còn được gọi giá trị đạo đức; nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo, chủ nghĩa nhân văn, triết học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử từ hệ thống này.
Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã hội,với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Đạo đức là một hiện tượng lịch sử và xét cho cùng, là sự phản ánh của các quan hệ xã hội. Có đạo đức của xã hội nguyên thuỷ, đạo đức của chế độ chủ nô, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức cộng sản. Lợi ích của giai cấp thống trị là duy trì và củng cố những quan hệ xã hội đang có; trái lại, giai cấp bị bóc lột tuỳ theo nhận thức về tính bất công của những quan hệ ấy mà đứng lên đấu tranh chống lại và đề ra quan niệm đạo đức riêng của mình. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức có tính giai cấp. Đồng thời, đạo đức cũng có tính kế thừa nhất định. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau, nhưng xã hội vẫn giữ lại những điều kiện sinh hoạt, những hình thức cộng đồng chung. Tính kế thừa của đạo đức phản ánh "những luật lệ đơn giản và cơ bản của bất kì cộng đồng người nào" (Lênin). Đó là những yêu cầu đạo đức liên quan đến những hình thức liên hệ đơn giản nhất giữa người với người. Mọi thời đại đều lên án cái ác, tính tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản bội... và biểu dương cái thiện, sự dũng cảm, chính trực, độ lượng, khiêm tốn... "không ai nghi ngờ được rằng nói chung đã có một sự tiến bộ về mặt đạo đức cũng như về tất cả các ngành tri thức khác của nhân loại" (Enghen). Quan hệ giữa người với người ngày càng mang tính nhân đạo cao hơn. Ngay trong xã hội nguyên thuỷ đã có những hình thức đơn giản của sự tương trợ và không còn tục ăn thịt người. Với sự xuất hiện của liên minh bộ lạc và nhà nước, tục báo thù của thị tộc dần dần mất đi. Xã hội chủ nô coi việc giết nô lệ là việc riêng của chủ nô, đến xã hội phong kiến, việc giết nông nô bị lên án. Đạo đức phong kiến bóp nghẹt cá nhân dưới uy quyền của tôn giáo và quý tộc; đạo đức tư sản giải phóng cá nhân, coi trọng nhân cách. "Nhưng chúng ta vẫn chưa vượt được khuôn khổ của đạo đức giai cấp. Một nền đạo đức thực sự có tính nhân đạo, đặt lên trên sự đối lập giai cấp và mọi hồi ức về sự đối lập ấy chỉ có thể có được khi nào xã hội đã tới một trình độ mà trong thực tiễn của đời sống, người ta không những thắng được mà còn quên đi sự đối lập giai cấp" (Enghen). Đó là trình độ của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa".
"Đạo đức vừa có tính đa dạng và uyển chuyển, vừa có tính bất biến tương đối"
"Một số quan điểm về đạo đức:
- Khi đạo Bàlamôn ở Ấn Độ đang thống trị với sự phân chia đẳng cấp sâu sắc trong xã hội, nỗi bất bình của thái tử Tất Đạt Đa về sự phân chia đẳng cấp, kì thị màu da và đồng cảm với nỗi khổ của muôn dân đã dẫn đến sự hình thành một tôn giáo mới. Sau này, khi môn đệ của Phật Thích Ca thắc mắc tại sao các pháp sư Bàlamôn tự xưng là cao cấp và khinh rẻ đẳng cấp mà Đức Phật xuất thân, ngài trả lời (Trường Bộ Kinh):
Trong mối quan hệ vô cùng phong phú và phức tạp với thế giới xung quanh con người phải luôn luôn giao tiếp. Nếu thái độ, hành vi của họ phù hợp với yêu cầu, lợi ích chung của cộng đồng; phù hợp với hạnh phúc và tiến bộ chung của xã hội thì con người đó được đánh giá là có đạo đức. Ngược lại, hành vi thái độ của họ không phù hợp, gây tổn hại tới lợi ích người khác thì bị xã hội lên án, chê trách và bị coi là thiếu đạo đức.
Chuẩn mực đạo đức của một thế hệ phản ánh thế giới tinh thần, trình độ văn minh của thế hệ đó. Tiêu chuẩn đạo đức chính là sự kết tinh những gì tinh tuý nhất, giá trị nhất mà con người đã tích luỹ được trong quá trình phát triển nền văn hoá nhân loại.
Chuẩn mực đạo đức giúp con người điều chỉnh những mối quan hệ hiện hữu giữa con người với thế giới xung quanh, những mối quan hệ đó phụ thuộc vào đặc điểm của chế độ xã hội nên đạo đức luôn mang tính giai cấp. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nó quan hệ mật thiết với các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị, hệ thống quan điểm, tư tưởng, thể hiện lợi ích căn bản của một giai cấp nhất định.
Đạo đức cũng gắn bó với pháp luật, nó cùng có mục đích, nhiệm vụ nhằm điều chỉnh đánh giá các mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh.
Đạo đức và pháp luật cùng chống lại cái ác, làm điều thiện, xây dựng cuộc sống bình yên, tươi đẹp.
Các giá trị đạo đức truyền thống tồn tại và phát triển trong xã hội dưới dạng đối lập sau: Thiện và ác; Có lương tâm và bất lương; Có trách nhiệm và vô trách nhiệm; Có hiếu và bất hiếu; Có nghĩa và bất nghĩa…
Các giá trị đạo đức kế thừa và phát triển các đức tính tốt đẹp: Tính ngay thẳng và lòng trung thực; Tính nguyên tắc và sự kiên tâm; Tính khiêm tốn và sự lễ độ; Tính hào hiệp và sự tế nhị; Tính tiết kiệm và sự giản dị; Lòng dũng cảm và phẩm chất anh hùng…
Khái niệm đạo đức XHCN (xã hội chủ nghĩa) được thể hiện trong những nguyên tắc, yêu cầu chuẩn mực sau: Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; Yêu lao động; Có tinh thần tập thể, ý thức cộng đồng, đoàn kết; Có tính kỷ luật cao; Có tinh thần quốc tế XHCN trong thời đại mới; Nếp sống văn minh…
Đạo đức là tổng hợp các qui tắc, tiêu chuẩn chỉ đạo mối quan hệ giữa con người với con người trong một cộng đồng, một xã hội nói chung. Cho dù ở giai đoạn nào của lịch sử thì nét chung của đạo đức vẫn là hướng tới cái thiện, chống lại cái ác, hướng tới quan hệ đẹp đẽ giữa con người với con người, con người với tự nhiên và xã hội; đồng thời cũng là khẳng định sự tự tu dưỡng giáo dục của mỗi cá nhân. Từ xa xưa ông cha ta đã rất coi trọng và đề cao giáo dục đạo đức của con người. Bác Hồ của chúng ta cũng đã từng nói: “Có Đức mà không có Tài thì làm việc gì cũng khó, có Tài mà không có Đức là người vô dụng”. Bác còn chỉ rõ: “Dạy cũng như học phải chú trọng cả Đức lẫn Tài. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng”. Công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường là một bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục trong nhà trường XHCN".
Sau đây là chuẩn mực đạo đức của Thiên Chúa Giáo, đã được đúc kết lại thành mười điều răn:
"1-Thờ phượng Đức Chúa Trời và kính mến Ngài trên mọi sự
2-Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ
3-Giữ gìn ngày Chúa Nhật
4-Thảo kính cha mẹ
5-Chớ giết người
6-Chớ làm sự dâm dục
7-Chớ lấy của người
8-Chớ làm chứng dối
9-Chớ muốn vợ (hay chồng) người
10-Chớ tham của người".
Trên trang mạng "sangdaotrongdoi.vn" có bài viết "Giới luật là nền tảng đạo đức Phật Giáo" của Tuệ Giác, chúng ta trích đoạn:
(Xin nhấn mạnh, về mặt tình cảm, chúng ta tôn trọng các niềm tin tôn giáo và hơn nữa rất mến mộ những tôn giáo luôn thành tâm "giương cao ngọn cờ" yêu thương đồng loại, răn dạy những điều cao cả, thánh thiện trước đại chúng nhân quần, nhưng về mặt lý trí, chúng ta coi bất cứ tôn giáo nào, triết thuyết nào cũng là đối tượng bình đẳng trên "bàn tròn biện luận triết học", vì mục đích duy nhất của chúng ta (những kẻ nhà quê ít học nhưng tò mò "dễ sợ") là cố gắng hết trí lực để cầu may (biết đâu đấy!) tiếp cận được chân lý tối thượng-căn nguyên đích thực của Tự Nhiên Tồn Tại. Đại Chúng ơi, hãy thông cảm cho...Thầy Cãi nhé!!!).
Quan niệm nói chung về đạo đức hiện nay (mở rộng ra, gồm của mọi "triết", mọi "đạo", kể cả đạo Phật-đạo được bá tánh phương Đông thừa nhận là giàu tình thương nhất, cái đạo "ngời ngời" là "giáo" mà cứ "khăng khăng" tự gắn nhãn mác cho mình là "thuần triết"!), rõ ràng là còn "vòng vo", chưa đích đáng, chưa chỉ ra được một cách rạch ròi và dứt khoát căn nguyên tự nhiên khách quan phát sinh ra chuẩn mực đạo đức, do đó mà có sự "kêu gọi" tình yêu thương "hơi bị" tràn lan nhưng vẫn ở mức độ còn "lỏng lẻo", "nhạt nhòa" (đôi khi dễ bị đàm tếu như "lao động là vinh quang", "yêu CNXH", "kính Chúa yêu nước", "yêu vạn vật sinh linh", hay theo lời Phật: “Hãy phấn đấu vì hạnh phúc và an lạc của những người khác”, “Phục vụ là hạnh phúc và hạnh phúc chính là phục vụ”,...), gây ra sự "ú ớ" cho đại chúng trong việc nhận thức chuẩn mực đạo đức, nhất là vẫn còn nhiều lẫn lộn khi đặt nó trong mối liên quan tới hai khái niệm "văn hóa" và "văn minh". Nếu xét đến tận cùng khách quan, loài người chỉ có duy nhất một chuẩn mực đạo đức mà theo chúng ta, Lão Tử được coi như là người đầu tiên của nhân loại chính thức nêu ra nội dung cốt lõi, giản dị của nó. Nhưng thể hiện cô đọng nhất, thâm thúy nhất mà cũng dễ "thấy" nhất (nghĩa là ngàn đời nay, nếu nói ra thì ai cũng "gật đầu", "ngộ" được ngay!), không hề có tính "rao giảng", "lên dây cót não trạng" về quan niệm đạo đức, chắc phải là câu này của nhà triết học S. Radhakrishnan: "Hãy sống và hãy để người khác sống với". Và từ đó cũng có thể rút ra được nội dung "căn cốt" của chuẩn mực "muôn đời" về đạo đức xã hội, mà nếu xét ở góc độ "vô cảm", thì chắc là "Biết hòa hợp với cuộc sống đồng loại trong sự gìn giữ cuộc sống mình", còn nếu xét ở góc độ "hữu tình", thì chắc là "Biết cảm thông cuộc đời đồng loại cũng như cảm thông cuộc đời mình". Trong thực tiễn vận động xã hội, trong những lĩnh vực, trường hợp cụ thể của đời sống, nội dung đó được cảm nhận và được thi triển ở những cung bậc "nông-sâu" khác nhau, với những ít nhiều "biến thái" lệch nhau, thậm chí là mâu thuẫn nhau, tùy thuộc vào trình độ nhận thức cũng như mức độ từng trải cuộc sống, tùy thuộc vào tập quán, tín ngưỡng cũng như lập trường tư tưởng về thị phi xã hội, và cả tùy thuộc ít nhiều vào trạng thái thịnh-suy vật chất lẫn tinh thần của thời cuộc của chủ thể quan niệm (cá nhân, tầng lớp, đảng phái, quần thể...)...
"Chơi bời" vòng vo nãy giờ kể cũng "quá đã" rồi, chúng ta nên quay lại "kết" cho xong câu chuyện về "ông" Charvaka.
Tóm lại, dù sinh ra để rồi lại chết đi như chưa hề được sinh ra thì sự sinh ra ấy cũng vẫn là nỗ lực vì sự sống, hun đúc nên sự "cố gắng" tìm ăn, sự "ra sức" tự vệ nhằm duy trì sống còn ở mỗi sinh thể, mà đối với con người, sống và hơn nữa được sống trong ấm no vui sướng đã trở thành mục đích ưu tiên tối thượng của ý chí. Nguyện vọng trước hết và tha thiết nhất ở mỗi con người bình dân nói riêng và toàn thể tầng lớp bình dân (đóng vai trò nền tảng xã hội) nói chung là được sống trong an lành, được thừa hưởng một cách thích đáng trong công bằng thành quả lao động mà bản thân mình tạo ra. Vào thời Ấn Độ cổ đại giai đoạn Upanishad, sự phân liệt xã hội theo hướng bất công về quyền lợi ngày một sâu sắc giữa hai tầng lớp thống trị và bị trị, sự duy trì và tăng cường một cách có ý chí tình trạng "kẻ ăn không hết, người lần không ra" bằng bạo lực của giới hiệp sĩ quí tộc và phủ dụ của giới tăng lữ Bàlamôn, đã tất yếu làm nảy sinh tinh thần bất mãn, phản kháng ngày một tăng trong tầng lớp bị trị (tầng lớp, chủ yếu gồm đại chúng bình dân, rõ ràng là hứng chịu hầu như mọi bất công về quyền lợi trong xã hội, mà đã gọi là bất công thì mặc nhiên phải hàm chứa trong nó sự vô luân, thất đức rồi!). Đó là nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh ra những nghi vấn từ đại chúng bình dân đối với định ước chân lý của giáo thuyết Bàlamôn. Nếu sự bất mãn cuộc sống đã làm xuất hiện những nhân tố hình thành tư tưởng vô thần, thì việc tìm kiếm lời giải đáp trong hiện thực về sự tồn tại bất công xã hội đã làm xuất hiện những nhân tố hình thành chủ nghĩa duy vật Charvaka. Có thể nói hệ tư tưởng Charvaka trước hết là con đẻ của đại chúng bình dân Ấn Độ thời Upanishad, được sinh ra từ tinh thần bất mãn, phản kháng cũng như nguyện vọng chính đáng của họ nên về đại ý cũng hợp đạo và đức (nghĩa là hợp lẽ tự nhiên), sau đó là sự kết tinh lý luận lại cái tinh thần (hướng tới) duy vật của tín ngưỡng phồn thực ẩn chứa tiềm tàng trong thánh kinh Vêđa theo cách nhìn nhận được định hình từ thực tiễn xã hội sinh động của thời đại mới, của con người mới. Chính vì vậy mà chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại, một mặt, nếu quan sát dưới góc độ như một chủ trương chính trị xã hội, theo quan điểm còn định kiến khinh thị giai cấp, và hơn nữa đã ít nhiều bị xuyên tạc bởi hệ thống giáo lý Bàlamôn đang thống trị tinh thần xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ, thì hầu như chỉ thấy ở nó cái vẻ ngây ngô, thực dụng tầm thường kiểu "phàm phu tục tử", nhưng mặt khác, nếu quan sát trên bình diện một học thuyết triết học xã hội, một cách công tâm nhất, trên cơ sở quan niệm đạo đức bình dị nhất, do đó mà cũng khách quan nhất (và đó cũng chính là quan niệm đạo đức của đại chúng cần lao!), thì sẽ thấy được ở nó nổi bật lên một tầm vóc suy lý trác việt hàm chứa trong cái quan niệm đầy hợp lý và thấm đẫm nhân đạo về đời sống xã hội-nhân sinh của nó, hơn nữa là trong cái quan niệm xuất sắc về sự nhận thức, tiếp cận chân lý khách quan của nó (mà thậm chí đến tận hôm nay, không ít điều trong đó vẫn còn nét thâm hậu, chưa một ai thấu tỏ thực sự được!), với vai trò có ý nghĩa như bước đi tiên phong, sơ phác của nhân loại trên con đường dẫn tới chủ nghĩa thực chứng sau này trong nhận thức khoa học. Đúng là trên bàn tròn "công khai" tranh biện xã hội, sự hiển hiện như một "thực thể tư tưởng" của chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại có tính "bạo phát bạo tàn", nhưng không phải như thế có nghĩa là nó đã bị "khai tử" trong đời sống tinh thần xã hội, mà trái lại, không những nó vẫn tồn tại hồn nhiên, bền bỉ dù bàng bạc, chân thực dù vô hình trong tâm tưởng đại chúng Ấn Độ, mà còn có tác động thực sự tích cực, vừa trực tiếp, vừa như một "xúc tác" làm chuyển biến nhận thức triết học về xã hội-nhân sinh theo hướng bớt mê muội hơn, bớt cuồng tín hơn, cũng có nghĩa là xác đáng hơn, phù hợp với thực tại cuộc sống hơn. Không thể nói khác được, dù nhận thức còn không ít thiển cận dẫn đến những biểu hiện cực đoan, bế tắc, (nhất là việc thẳng thừng phủ nhận sự tồn tại vong hồn, hiện tượng tinh thần cực kỳ huyền bí đối với suy lý và niềm tin duy vật từ quan sát trực giác nhưng cũng khó bài bác nó cho ra lẽ được, trước sự tồn tại đầy hư-thực của nó mà đại chúng đã chiêm nghiệm được từ lâu trong rất nhiều trường hợp, thuộc lĩnh vực tâm linh, lĩnh vực mà đến tận ngày nay vẫn không có cách nào thực sự sáng tỏ để chối bỏ hay xác nhận được và vì thế vẫn là "thử thách vàng đá" đối với triết học duy vật cũng như đối với khoa học thực nghiệm) do bị khống chế bởi trình độ hiểu biết hạn định mang tính thời đại (nhất là trong bối cảnh khoa học tự nhiên hầu như còn "trắng tay"), thì chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại (có vẻ thực dụng và hướng tới thực chứng), dù không thể sánh được với Đạo của Lão Tử về sự cao diệu, cứ vẫn là thành quả đột khởi mang tính cách mạng về nhận thức tự nhiên-xã hội của nhân dân Ấn Độ nói riêng và của loài người nói chung.
(Nói thêm ngoài lề, chúng ta hiểu tâm linh là hiện tượng tinh thần xảy ra trong hiện thực, có thực nhưng huyền bí trước nhận thức khoa học. Thời xa xưa, tâm linh là lĩnh vực rất rộng, bao gồm ngoại cảm (hiện hồn, gọi hồn, thấu thị, thấu thính, thần giao cách cảm...), rồi thiền ngộ, tác dụng từ xa của khí công..., cho đến thôi miên, báo mộng..., thậm chí cả mộng du, giấc mơ... Ngày nay, nhờ tiến bộ khoa học-kỹ thuật đã giải tỏa được phần nào, dù chưa cơ bản, thì lĩnh vực tâm linh cũng đã bị thu hẹp lại. Chính điều này đã gợi ý cho chúng ta rằng dù có thể là lâu nhưng trước sau gì loài người cũng sẽ "nuốt trôi" được "cục xương" tâm linh (và cả "cục xương" UFO- vật thể không xác định được) trên cơ sở khoa học. Và không ngành khoa học nào khác mà chính vật lý học sẽ đi tiên phong để thực hiện sứ mạng đó, nhưng muốn như thế, tiên quyết nó phải thực hiện được bước tiến cách mạng trong nhận thức của chính bản thân nó, triệt để hơn cả thời "Tai biến tử ngoại" - thời làm hình thành nên thuyết Tương đối và Cơ học lượng tử. Nếu đúng thế thì chừng nào triết học duy vật vẫn còn "khăng khăng" không thừa nhận hiện tượng tâm linh là một sự thật thì chừng đó nó vẫn cực đoan, chưa biện chứng, nghĩa là còn lầm lạc. Ngược lại, cứ cố giải thích hiện tượng tâm linh trên cơ sở niềm tin về sự tồn tại thực sự khách quan của Phật-Chúa-Thánh cùng với năng lực "dẫn dắt" siêu nhiên của "họ", thì cũng cực đoan tương tự, nghĩa là lầm lạc nốt!).
Đại khái, chuẩn mực đạo đức trong một xã hội là "thước đo định tính", được dân cư nói chung của xã hội đó thừa nhận, về mức độ tốt-xấu của tính cách một con người (nhân cách), một tập thể người, một nhà nước, một chế độ... (Trong thực tế đời sống, thường khi nghe nói ai đó có nhân cách, chúng ta hiểu rằng kẻ đó có đạo đức. Đó chỉ là sự hiểu ngầm đã thành như một mặc định mà thực ra xét trên phương diện nhận thức triết học là hoàn toàn sai lầm, vì bắt nguồn từ quan niệm thiển cận đầy "tự tôn hợm hĩnh" cho rằng con người "tính tốt" hơn con vật. Hỡi đồ thú vật, ối lộn, hỡi đồ...vô tri, lại lộn nữa, thành thật xin lỗi giới vạn vật muông thú (!}, hỡi đồ...con-người, đừng mơ lâu quá nhé!!!). Vì được hun đúc "sau" một quá trình tương tác thuận-nghịch cụ thể, được con người xây dựng trên cơ sở nhận thức thực tiễn đời sống xã hội, nên chuẩn mực đạo đức, một cách trực tiếp, là kết quả của nhân tạo, và do đó nó có tính chủ quan, nghĩa là có tính qui ước, tính khu vực, tính thời đại, tóm lại là có tính tương đối. Nhưng nếu xét ở tầm mức cội nguồn sâu xa, cơ bản nhất mà cũng bao trùm nhất thì chuẩn mực đạo đức lại là kết quả mang tính tự nhiên, khách quan, nghĩa là có tính mặc định (tất yếu), tính phổ quát xã hội về không gian và thời gian. Sự phân liệt tầng lớp dân cư xã hội (mà cơ bản, có thể qui thành hai lực lượng tương phản nhau, nếu xét về mặt "lợi" là giàu (thiểu số) và nghèo (đại đa số), còn nếu xét về mặt "quyền" là (thiểu số) tập thể lãnh đạo và (đại đa số) quần chúng phục tùng), cũng như sự tồn tại những yếu tố mầm mống gây ra những hiện tượng bất công trong xã hội, "kéo theo" sự xuất hiện và tồn tại cuộc tương tác thuận-nghịch nhằm khắc phục, xóa bỏ mâu thuẫn về quyền lợi giữa hai lực lượng tương phản (tức là nhằm đảm bảo quyền sống chính đáng một cách công bằng đối với mọi con người trong xã hội) nhiều khi đạt đến độ quyết liệt, phải giải quyết bằng chiến tranh, giết chóc, triệt hạ đồng loại nhằm khuất phục lẫn nhau, dù quan sát ở góc độ nhất thời và trực diện rõ ràng là có tác dụng ngược với nguyện vọng sống còn mang tính tự nhiên ở mỗi con người, và hơn nữa, trên bình diện rộng lớn hơn là có tác dụng ngược với yêu cầu tự nhiên về thống nhất xã hội nhằm bảo đảm khả năng sinh tồn (nghĩa là có tác dụng phá vỡ sự gắn bó, bình ổn xã hội, uy hiếp sự tồn tại xã hội), thì về toàn cục, vẫn phải trong vòng khống chế của xu thế tự nhiên là ưu tiên lựa chọn sống còn. Nghĩa là đối với lực lượng nào (hiền hay ác, chính nghĩa hay phi nghĩa) cũng vậy, đều luôn cố gắng hướng tới mục đích tự nhiên đầu tiên và tối hậu là tồn sinh bản thân, mà muốn thế, đồng thời cũng phải (tự nhiên) hướng tới duy trì, đảm bảo sự tồn tại xã hội dù tùy thuộc vào ý chí, có thể theo hình thức này hay hình thức khác, ở trang thái còn bất công hay không còn bất công. (Cuồng sát như phát xít Đức cũng chỉ đến độ quyết tâm tiêu diệt triệt để dân tộc Do Thái, chinh phục và nô dịch thế giới chứ không thể nghĩ đến mục tiêu làm cho thế giới diệt vong. Điên rồ bậc nhất cổ kim là Khơ Me Đỏ, trong thực tế đã thậm ngu xuẩn khi hành động giết chóc mang tính diệt chủng chính dân tộc mình, nhưng cũng không phải nhằm mục tiêu "xóa sổ" xã hội Cămpuchia, vì dù có mất hết tình người thì nó cũng không dám suy tính tới điều đó, chưa cần nói rằng dứt khoát nó không thể thực hiện được điều đó! Hai trường hợp vừa nêu còn bộc lộ một điều lớn lao hơn cần nói thêm cho rõ, đó là trên bước đường giết chóc lẫn nhau của mình, con người dù có thể gây ra sự thống khổ đau thương tang tóc cho đồng loại với qui mô to lớn và mức độ khủng khiếp đến cỡ nào chăng nữa, thì cũng chỉ phơi bày hơn nữa đến cùng cực mặt mê muội điên rồ của loài người và tội ác ngút trời mà loài người tạo ra đối với chính nó, thế thôi, chứ không thể làm tiêu vong xã hội loài người, hay nói khác đi, một xã hội có thể tự thân làm nó tăng tiến lên hoặc suy vi đi nhưng không thể tự thân hủy diệt nó, mà chỉ có môi trường "bên ngoài" (thiên nhiên, ngoại xâm) mới có khả năng làm nó tiêu vong!).
Như vậy, dù vào thời nào, trong trạng thái nào của xã hội thì cái định hướng tự nhiên ưu tiên lựa chọn sống còn làm nảy sinh nỗ lực tồn sinh cũng tồn tại vừa ở trong tinh thần từng cá thể con người, vừa bao trùm tinh thần xã hội. Theo định hướng tự nhiên khách quan đó, cùng với quá trình phân liệt, tương tác thuận-nghịch làm xuất hiện bất công đồng thời cũng giải quyết bất công trong xã hội, sự nhận thức cuộc sống của tư duy trừu tượng ở mỗi cá nhân, thế hệ nối tiếp thế hệ trong thời kỳ đầu của lịch sử xã hội (thời kỳ tiền sử-cổ đại), dần đạt đến sự đồng thuận chung nhất, cơ bản nhất, cốt yếu nhất, mang tính chân lý về thị phi (về đúng-sai, tốt-xấu) trong đời sống xã hội, và đó chính là cơ sở tự nhiên làm hình thành nên nội dung cơ bản mang tính khách quan của chuẩn mực đạo đức xã hội. Vậy, nội dung đó là gì? Dù chưa biết cụ thể là gì thì chúng ta vẫn biết chắc là nó phải đứng về phía ưu tiên, bênh vực cho tồn sinh và hơn nữa là cho sự tồn sinh trong ấm no hạnh phúc đối với từng cá nhân cũng như đối với toàn xã hội. Bây giờ, nếu hỏi bất cứ người nào rằng trong quan hệ ứng xử xã hội, "đúng" và "tốt" là thể hiện của đạo đức hay vô đạo đức (?), thì "chắc như bắp", ai cũng khẳng định là của đạo đức (!). Nhưng cụ thể, như thế nào thì một suy nghĩ, một hành động trong đời sống xã hội, trong ứng xử giữa người với người được ai cũng cho là "đúng" và "tốt" (thực ra, về mặt quan niệm thì "đúng" và "tốt" có mối quan hệ biện chứng mật thiết với nhau, trong cái này có cái kia và ngược lại), nghĩa là đúng-tốt một cách khách quan? Đó là...mà thôi, chúng ta không trả lời nữa, vì sự "lải nhải" ở trên đã là câu trả lời quá lê thê mà cũng đến tận "chân tơ kẽ tóc" rồi còn gì! Thế còn mặt chủ quan của chuẩn mực đạo đức thể hiện ra sao và như thế nào? Trả lời tỉ mỉ thì khó chứ về đại thể thì...dễ ẹc! Đây này: nếu sự đồng thuận có tính tuyệt đối (được mọi xã hội trong mọi giai đoạn lịch sử thừa nhận!) về đúng-tốt là biểu hiện mặt khách quan của chuẩn mực đạo đức, thì sự đồng thuận có tính tương đối (không nhất trí hoàn toàn, có khác biệt trong nhận định, đánh giá những hiện tượng xã hội cụ thể, tùy thuộc vào tập quán đặc thù của khu vực dân cư, vào quan niệm và lối sống thời đại, và đặc biệt là tùy thuộc vào trình độ nhận thức cũng như lập trường tư tưởng ở mỗi con người, ở mỗi tầng lớp xã hội, thậm chí còn phải tính đến cả sự ảnh hưởng của tình trạng thịnh-suy xã hội đối với tinh thần con người nữa) về đúng-tốt là biểu hiện mặt chủ quan của chuẩn mực đạo đức. Quan niệm tổng quát của chúng ta về đạo đức và căn nguyên tồn tại chuẩn mực đạo đức là như vậy. Đến đây, chúng ta càng "thấm thía" rằng Đạo Đức Kinh là một kiệt tác triết học và quan niệm cách nay hơn 2500 năm trước của Lão Tử về đạo đức cũng như về thị phi (thiện-ác, tốt-xấu...) thật thâm hậu biết chừng nào! Ôi, nhớ Lão quá đi! Thôi thì xin nhắc lại vài giáo huấn của Lão cho đỡ nhớ vậy:
"Sinh và dưỡng vạn vật, sinh mà không chiếm cho mình, làm mà không cậy công, để cho vạn vật tự lớn lên mà không làm chủ, như vậy gọi là huyền đức (đức cao nhất-Đức Huyền Diệu)".
"Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa, trí xảo xuất hiện rồi mới có trá ngụy, gia đình bất hòa rồi mới sinh ra hiếu từ, nước nhà rối loạn rồi mới có tôi trung".
"Người có đức cao thì (thuận theo tự nhiên) không có ý cầu đức, cho nên có đức, người có đức thấp thì có ý cầu đức (thành ra đạo đức giả) cho nên không có đức. (...). Cho nên, đạo mất rồi (tạm hiểu là xã hội phân liệt, rối loạn) sau mới có đức (tạm hiểu là chuẩn mực đạo đức), đức mất rồi (tạm hiểu là suy vi đạo đức) sau mới có nhân (tạm hiểu là kêu gọi lương tâm, lòng nhân hậu), nhân mất rồi (tạm hiểu là đã lẫn lộn hiền-ác) sau mới có nghĩa (tạm hiểu "thoát" là đề ra định ước về thị phi, luật lệ), nghĩa mất rồi (không tự giác tuân thủ) sau mới có lễ (tạm hiểu là luật pháp, hành pháp, sự thưởng-phạt). Lễ là biểu hiện suy vi của sự trung hậu thành tín, là đầu mối của sự hỗn loạn. Dùng trí tuệ để tính toán trước (trong mưu cầu quyền lợi), thì (mất cái chất phác) chỉ là cái lòe loẹt (cái hình thức) của đạo và là nguồn gốc của ngu muội. Cho nên bậc đại trượng phu (người hiểu đạo) giữ trung hậu thành tín mà không trọng lễ nghi, giữ đạo mà không dùng trí xảo, bỏ cái này mà giữ cái kia. (Đoạn luận này là một tuyệt bút triết học, thể hiện nhận thức quá trình vận động xã hội-nhân sinh cao sâu và chí lý của Lão Tử, và như một sự "vạch trần" cái quan niệm đạo đức không những đầy gượng ép, khiên cưỡng, hình thức, mà còn "ngược ngạo", do đó cũng ẩn chứa "bất nhân" của Khổng Tử)".
"Danh tiếng với sinh mệnh cái nào quí? Sinh mệnh với của cải cái nào trọng? Được danh lợi mà mất sinh mệnh, cái nào hại? Cho nên ham danh quá thì phải hao tổn nhiều, chứa của cải nhiều thì mất nhiều. Biết thế nào là đủ (tri túc) thì không nhục, biết lúc nào nên dừng thì không nguy mà có thể sống lâu được"
"Họa không gì lớn bằng không biết thế nào là đủ, hại không gì bằng tham muốn cho được nhiều. Biết thế nào là đủ và thỏa mãn về cái đủ đó thì mới luôn luôn thấy đủ (cũng có nghĩa là hạnh phúc vì không thấy buồn khổ nữa!)".
"Lấy đạo mà tu thân thì đức sẽ đủ, lấy đạo mà lo việc nhà thì đức sẽ có dư, lấy đạo mà lo việc làng xóm thì đức sẽ lớn ra, lấy đạo mà lo việc nước thì đức sẽ thịnh, lấy đạo mà lo việc thiên hạ thì đức sẽ phổ cập. Lấy thân mình mà xét thân người, nhà mình xét nhà người, làng mình xét làng khác, thiên hạ ngày nay xét thiên hạ thời xưa và thời sau. Làm sao ta biết được thiên hạ thế này hay thế khác? Là do lẽ đó"
"Lời nói chân thực thì không hoa mỹ, lời nói hoa mỹ thì không chân thực. Người "thiện" thì không cần phải biện giải (vì hành vi tốt rồi), người phải biện giải cho mình là người "không thiện". Người sáng suốt hiểu đạo thì tri thức không cần rộng (vì cảm nhận được chân lý (lẽ tự nhiên) là đủ rồi), người nào tri thức rộng thì không sáng suốt, chưa hiểu đạo (vì tìm ngọn mà quên gốc). (Đây là nhận định cực sâu sắc vì dễ thấy là trong thực tế xã hội nói chung, số trí thức mê muội, xảo trá, thất đức "nổi lên" phong phú đủ kiểu và mặt khác, có hiện tượng phổ biến là tấm lòng của người "nhà quê", "thất phu", ít học, thiếu hiểu biết lại thường chân hơn, hiền hơn, rộng lượng hơn, nhân ái hơn của "kẻ chợ", "sĩ phu" học rộng biết nhiều (!), và không thể chối cãi được, trong xã hội Việt Nam hiện nay, những hiện tượng phá hoại của cải vật chất xã hội, làm tăng bất công xã hội, làm rối loạn tinh thần xã hội dẫn đến suy giảm đạo đức cũng như sự đoàn kết xã hội, chủ yếu (nếu không muốn nói hoàn toàn) là do các "bè phái" trong tầng lớp trí thức, nhất là bộ phận trí thức "tham quyền cố vị" hoặc ngược lại là "uất ức trong mê muội", vừa "đầu têu" vừa trực tiếp gây ra, cả vô tình lẫn cố ý!!! Có người "đánh đồng" trí thức với hiền tài, chúng ta cho rằng trí thức là lực lượng "có học" của xã hội, mưu sinh và hoạt động xã hội trực tiếp và chủ yếu bằng trí não trên cơ sở học vấn mà bản thân đã tích lũy được, còn hiền tài là tinh hoa tài-đức của giới trí thức nói riêng và của cả xã hội nói chung, cũng vì thế mà đồng thời hiền tài cũng được đại chúng thượng tôn là "nguyên khí quốc gia". Như vậy, không những "tiến sĩ giấy" không phải hiền tài mà cả "tiến sĩ thật" nhưng thất đức cũng không phải hiền tài)".
Tiếp theo, chúng ta sẽ trích lược vài ba ý kiến mà chúng ta cho rằng đã "hô khẩu hiệu" được quan niệm chung nhất hiện nay về đạo đức, để qua đó "ôn cố tri tân" nhằm soi rọi lại...bản thân mình...cho vui thôi (!), vì chỉ có thể "ừ" được đôi điều trong đó chứ phần lớn là không...nhất trí.
Theo từ điển mở Wikipedia:
"Đạo đức là một hiện tượng xã hội phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ bản thân cuộc sống của con người. Đạo đức là tập hợp những quan điểm của một xã hội, của một tầng lớp xã hội, của một tập hợp người nhất định về thế giới, về cách sống. Nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng xã hội".
"Trong tâm lý học, đạo đức có thể được định nghĩa theo các khía cạnh sau:
Nghĩa hẹp: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội.
Nghĩa rộng hơn: Đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự nhiên.
Nghĩa rộng: Đạo đức là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với cả bản thân mình"
"Một số phạm trù cơ bản của đạo đức:
Nghĩa vụ của đạo đức thể hiện ở chỗ khi con người tham gia vào hoạt động sản xuất và hoạt động sống, anh ta ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với người khác và đối với cộng đồng.Nghĩa vụ đạo đức đã xuất hiện rất sớm và nó tồn tại với thời gian, tồn tại qua các giai đoạn phát triển của lịch sử loài người. Điều đáng chú ý là việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức bao giờ cũng mang tính tự giác và do chính bản thân đã nhận thức rõ vấn đề. Do vậy, khi thực hiện nghĩa vụ đạo đức con người luôn có cảm giác hạnh phúc, hài lòng vì tình cảm cao thượng, vì lòng tự trọng và phẩm giá của con người. Nghĩa vụ đạo đức của con người có mối liên hệ chặt chẽ với nghĩa vụ pháp lý. Nghĩa vụ đạo đức và nghĩa vụ pháp lý của con người đều có chung mục đích là nhằm điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với qui tắc, chuẩn mực chung của xã hội.
Nghĩa vụ không hình thành một cách tự nhiên, nhất thời mà nó được hình thành và hoàn thiện trong cả quá trình giáo dục, tự giáo dục, rèn luyện trong hoạt động thực tiễn của mỗi cá nhân, thậm chí qua quá trình đấu tranh, thử thách của cuộc sống.
Lương tâm có thể được hiểu như tiếng nói bên trong đầy quyền uy chỉ dẫn, thôi thúc con người ta làm những điều tốt, ngăn cản, chỉ trích làm những điều xấu.
Theo quan điểm biện chứng của đạo đức học thì lương tâm là ý thức trách nhiệm và tình cảm đạo đức của cá nhân về sự tự đánh giá những hành vi, cách cư xử của mình trong đời sống xã hội. Sự hình thành lương tâm là quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao trong quá trình lao động sản xuất và giao tiếp xã hội. Có thể nêu ra các mức độ phát triển của lương tâm như sau:
Ý thức về cái cần phải làm do sự sợ hãi bị trừng phạt bởi thiết chế xã hội hoặc ý niệm tâm linh.
Ý thức về cái cần phải làm, cần phải tránh vì xấu hổ trước người khác và trước dư luận xã hội.
Ý thức về cái cần phải làm vì xấu hổ với bản thân. Khi cá nhân xấu hổ với bản thân, với những hành vi của mình là bước đầu của cảm giác lương tâm. Từ cảm giác đó đến sự phán xét các suy nghĩ, hành vi của mình thì đó chính là lương tâm. Vì thế lương tâm có quan hệ chặt chẽ với ý thức nghĩa vụ của con người.
Khi con người làm những điều xấu, độc ác thì lương tâm cắn rứt. Trái lại khi cá nhân làm những điều tốt, cao thượng thì lương tâm thanh thản. Do vậy, trong cấu trúc của lương tâm tồn tại khái niệm xấu hổ, hối hận. Giữ cho lương tâm trong sạch là một tiêu chí hạnh phúc và tiêu chí sống của con người.
Thiện và Ác là cặp phạm trù đối lập nhau trong mọi thời đại, là thước đo đời sống đạo đức của mọi cá nhân. Thiện và Ác cũng là phạm trù cơ bản làm thước đo đời sống đạo đức của con người.
Cái Thiện là cái tốt đẹp biểu hiện lòng nhân ái của con người trong cuộc sống hàng ngày. Đó chính là hành vi thể hiện lợi ích của cá nhân phù hợp với yêu cầu và sự tiến bộ xã hội. Cái thiện phải được thể hiện qua việc góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, đem lại lợi ích cho mọi người trong xã hội. Hồ Chí Minh đã nói: “Việc thiện thì dù nhỏ đến mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ đến mấy cũng tránh” (Hồ Chí Minh, Về vấn đề giáo dục, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1990, tr. 55). Là cái thiện là phấn đấu cho cuộc sống của con người ngày càng trở nên cao thượng hơn, tốt đẹp hơn và giàu tính nhân văn hơn.
Cái Ác là cái đáng ghét, ghê tởm, cái cần phải gạt bỏ trong đời sống cá nhân và xã hội. Cái ác làm mất đi cái văn minh, cao thượng của cuộc sống con người. Quan điểm về thiện và ác mang tính lịch sử và có thể hoán đổi cho nhau. Cái thiện và ác được chúng ta đánh giá tuỳ vào nó có thúc đẩy hay cản trở sự phát triển của xã hội, hạnh phúc của con người".
"Đạo: Đường đi, hướng đi, lối làm việc, ăn ở.
Đức: Theo Khổng Tử, sống đúng luân thường là có Đức. Theo Đạo (Lão Tử) tu thân tới mức hiệp nhất với trời đất, an hoà với mọi người là có Đức".
"Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó thuộc về vấn đề tốt-xấu, hơn nữa xem như là đúng-sai, được sử dụng trong 3 phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt đôi lúc còn được gọi giá trị đạo đức; nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo, chủ nghĩa nhân văn, triết học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử từ hệ thống này.
Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã hội,với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Đạo đức là một hiện tượng lịch sử và xét cho cùng, là sự phản ánh của các quan hệ xã hội. Có đạo đức của xã hội nguyên thuỷ, đạo đức của chế độ chủ nô, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức cộng sản. Lợi ích của giai cấp thống trị là duy trì và củng cố những quan hệ xã hội đang có; trái lại, giai cấp bị bóc lột tuỳ theo nhận thức về tính bất công của những quan hệ ấy mà đứng lên đấu tranh chống lại và đề ra quan niệm đạo đức riêng của mình. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức có tính giai cấp. Đồng thời, đạo đức cũng có tính kế thừa nhất định. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau, nhưng xã hội vẫn giữ lại những điều kiện sinh hoạt, những hình thức cộng đồng chung. Tính kế thừa của đạo đức phản ánh "những luật lệ đơn giản và cơ bản của bất kì cộng đồng người nào" (Lênin). Đó là những yêu cầu đạo đức liên quan đến những hình thức liên hệ đơn giản nhất giữa người với người. Mọi thời đại đều lên án cái ác, tính tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản bội... và biểu dương cái thiện, sự dũng cảm, chính trực, độ lượng, khiêm tốn... "không ai nghi ngờ được rằng nói chung đã có một sự tiến bộ về mặt đạo đức cũng như về tất cả các ngành tri thức khác của nhân loại" (Enghen). Quan hệ giữa người với người ngày càng mang tính nhân đạo cao hơn. Ngay trong xã hội nguyên thuỷ đã có những hình thức đơn giản của sự tương trợ và không còn tục ăn thịt người. Với sự xuất hiện của liên minh bộ lạc và nhà nước, tục báo thù của thị tộc dần dần mất đi. Xã hội chủ nô coi việc giết nô lệ là việc riêng của chủ nô, đến xã hội phong kiến, việc giết nông nô bị lên án. Đạo đức phong kiến bóp nghẹt cá nhân dưới uy quyền của tôn giáo và quý tộc; đạo đức tư sản giải phóng cá nhân, coi trọng nhân cách. "Nhưng chúng ta vẫn chưa vượt được khuôn khổ của đạo đức giai cấp. Một nền đạo đức thực sự có tính nhân đạo, đặt lên trên sự đối lập giai cấp và mọi hồi ức về sự đối lập ấy chỉ có thể có được khi nào xã hội đã tới một trình độ mà trong thực tiễn của đời sống, người ta không những thắng được mà còn quên đi sự đối lập giai cấp" (Enghen). Đó là trình độ của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa".
"Đạo đức vừa có tính đa dạng và uyển chuyển, vừa có tính bất biến tương đối"
"Một số quan điểm về đạo đức:
- Khi đạo Bàlamôn ở Ấn Độ đang thống trị với sự phân chia đẳng cấp sâu sắc trong xã hội, nỗi bất bình của thái tử Tất Đạt Đa về sự phân chia đẳng cấp, kì thị màu da và đồng cảm với nỗi khổ của muôn dân đã dẫn đến sự hình thành một tôn giáo mới. Sau này, khi môn đệ của Phật Thích Ca thắc mắc tại sao các pháp sư Bàlamôn tự xưng là cao cấp và khinh rẻ đẳng cấp mà Đức Phật xuất thân, ngài trả lời (Trường Bộ Kinh):
"Các vị Bàlamôn sinh ra từ cửa miệng Phạm Thiên chăng? Đâu có...,làm gì mà các vị ấy cao cấp được? Chỉ những ai có đủ đạo đức lương thiện là cao cấp, còn lại là ti tiện".- Theo Trang Tử:
"Cả những bậc đạo đức cao siêu không hẳn rõ tài hay bất tài, lúc lên lúc xuống, chỉ cốt lấy được hòa làm mức phiên việt cả muôn vật...Những bậc như thế thì không gì lụy đến thân được! Còn thói đời thường thì tính nào có thể? Hợp với người thì có lúc hòa tan, làm nên việc thì có người nghị luận, ngay thẳng thì bị đè nén, tôn trọng thì bị chê bai, làm thì có kẻ phá, giỏi thì có kẻ ghen, không ra gì thì thiên hạ lại khinh bỉ...Nhân tình như thế, làm thế nào được! Thương ôi! Các ngươi nên ghi lòng, chỉ có đạo đức mới khỏi lụy mà thôi".- Theo Hồ Chí Minh:
"Một dân tộc, một đảng và mỗi một con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Cho nên trong khi ta kiên trì và đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, làm cho văn minh chiến thắng bạo tàn thì đồng thời phải loại trừ những cái xấu xa do chế độ cũ để lại trong xã hội và trong mỗi con người". "Muốn hướng dẫn nhân dân mình thì cán bộ, đảng viên phải làm mực thước trước cho người khác làm theo. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương đạo đức"".Trên trang mạng Internet "http://bacninh.edu.vn", trong bài "Khái niệm về đạo đức" của Nguyễn Thị Cảnh Dương có viết:
"Chuẩn mực đạo đức của một thế hệ phản ánh thế giới tinh thần, trình độ văn minh của thế hệ đó. Tiêu chuẩn đạo đức chính là sự kết tinh những gì tinh tuý nhất, giá trị nhất mà con người đã tích luỹ được trong quá trình phát triển nền văn hoá nhân loại".Theo từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng 2002:
“Đạo đức là những nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, qui định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội”, “là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những chuẩn mực đạo đức mà có”.Theo Phạm Khắc Chương, Hà Nhật Thăng
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó mà con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và với tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội”.
Trong mối quan hệ vô cùng phong phú và phức tạp với thế giới xung quanh con người phải luôn luôn giao tiếp. Nếu thái độ, hành vi của họ phù hợp với yêu cầu, lợi ích chung của cộng đồng; phù hợp với hạnh phúc và tiến bộ chung của xã hội thì con người đó được đánh giá là có đạo đức. Ngược lại, hành vi thái độ của họ không phù hợp, gây tổn hại tới lợi ích người khác thì bị xã hội lên án, chê trách và bị coi là thiếu đạo đức.
Chuẩn mực đạo đức của một thế hệ phản ánh thế giới tinh thần, trình độ văn minh của thế hệ đó. Tiêu chuẩn đạo đức chính là sự kết tinh những gì tinh tuý nhất, giá trị nhất mà con người đã tích luỹ được trong quá trình phát triển nền văn hoá nhân loại.
Chuẩn mực đạo đức giúp con người điều chỉnh những mối quan hệ hiện hữu giữa con người với thế giới xung quanh, những mối quan hệ đó phụ thuộc vào đặc điểm của chế độ xã hội nên đạo đức luôn mang tính giai cấp. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nó quan hệ mật thiết với các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị, hệ thống quan điểm, tư tưởng, thể hiện lợi ích căn bản của một giai cấp nhất định.
Đạo đức cũng gắn bó với pháp luật, nó cùng có mục đích, nhiệm vụ nhằm điều chỉnh đánh giá các mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh.
Đạo đức và pháp luật cùng chống lại cái ác, làm điều thiện, xây dựng cuộc sống bình yên, tươi đẹp.
Các giá trị đạo đức truyền thống tồn tại và phát triển trong xã hội dưới dạng đối lập sau: Thiện và ác; Có lương tâm và bất lương; Có trách nhiệm và vô trách nhiệm; Có hiếu và bất hiếu; Có nghĩa và bất nghĩa…
Các giá trị đạo đức kế thừa và phát triển các đức tính tốt đẹp: Tính ngay thẳng và lòng trung thực; Tính nguyên tắc và sự kiên tâm; Tính khiêm tốn và sự lễ độ; Tính hào hiệp và sự tế nhị; Tính tiết kiệm và sự giản dị; Lòng dũng cảm và phẩm chất anh hùng…
Khái niệm đạo đức XHCN (xã hội chủ nghĩa) được thể hiện trong những nguyên tắc, yêu cầu chuẩn mực sau: Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; Yêu lao động; Có tinh thần tập thể, ý thức cộng đồng, đoàn kết; Có tính kỷ luật cao; Có tinh thần quốc tế XHCN trong thời đại mới; Nếp sống văn minh…
Đạo đức là tổng hợp các qui tắc, tiêu chuẩn chỉ đạo mối quan hệ giữa con người với con người trong một cộng đồng, một xã hội nói chung. Cho dù ở giai đoạn nào của lịch sử thì nét chung của đạo đức vẫn là hướng tới cái thiện, chống lại cái ác, hướng tới quan hệ đẹp đẽ giữa con người với con người, con người với tự nhiên và xã hội; đồng thời cũng là khẳng định sự tự tu dưỡng giáo dục của mỗi cá nhân. Từ xa xưa ông cha ta đã rất coi trọng và đề cao giáo dục đạo đức của con người. Bác Hồ của chúng ta cũng đã từng nói: “Có Đức mà không có Tài thì làm việc gì cũng khó, có Tài mà không có Đức là người vô dụng”. Bác còn chỉ rõ: “Dạy cũng như học phải chú trọng cả Đức lẫn Tài. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng”. Công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường là một bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục trong nhà trường XHCN".
Sau đây là chuẩn mực đạo đức của Thiên Chúa Giáo, đã được đúc kết lại thành mười điều răn:
"1-Thờ phượng Đức Chúa Trời và kính mến Ngài trên mọi sự
2-Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ
3-Giữ gìn ngày Chúa Nhật
4-Thảo kính cha mẹ
5-Chớ giết người
6-Chớ làm sự dâm dục
7-Chớ lấy của người
8-Chớ làm chứng dối
9-Chớ muốn vợ (hay chồng) người
10-Chớ tham của người".
Trên trang mạng "sangdaotrongdoi.vn" có bài viết "Giới luật là nền tảng đạo đức Phật Giáo" của Tuệ Giác, chúng ta trích đoạn:
'Trong xã hội ngày nay, mọi giá trị về khoa học kĩ thuật, văn hóa, chính trị, các học thuyết tôn giáo đều chịu ảnh hưởng tương tác, Phật giáo lại càng không ngoại lệ. Phật giáo xuất hiện và tồn tại trên thế gian vì muốn làm vơi bớt nỗi đau thương của nhân loại và hơn thế nữa là hướng dẫn mọi người trong việc kiến tạo đời sống an lạc căn cứ trên nền tảng đạo đức, trí tuệ và từ bi.Trong trích đoạn vừa nêu, nếu thay một số thuật ngữ chuyên dùng của Nhà Phật bằng những thuật ngữ thông dụng, thì...bất kỳ nhà rao giảng đạo đức chân chính "ngoại giáo" nào cũng nói ra được "những lời có cánh" đại loại... như thế!
Lật lại sách sử, hình ảnh các vị Thiền sư, nhất là vào thời Lý, Trần luôn sống đúng lời dạy của Đức Phật: “Này các Tỳ -kheo! Hãy du hành vì lợi ích và hạnh phúc của chư thiên và loài người”, và hành động theo chuẩn mực đạo đức được xây dựng trên nền tảng giới luật. Trong đó, năm giới là nền tảng đạo đức vững chãi nhất để bảo vệ hòa bình, an lạc và đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đây là lối sống thiết thực, thể hiện sự bình đẳng, nhân bản, dân chủ và cũng là nền đạo đức chuẩn mực của con người sống trên hành tinh này. Giá trị toàn cầu của nó đã được các nhà đạo đức học, xã hội học, triết học trên thế giới công nhận. Ông Albert Schweitzer, nhà triết học người Đức viết “Đức Phật đã sáng tạo ra nền đạo đức nội tâm hoàn thiện qua năm điều răn cấm đầu tiên của Ngài và là một trong những nhà đạo đức học vĩ đại kỳ tài nhất mà thế giới có được”. (Chúng ta hỏi: suốt hơn 2000 năm nay, Nhà Phật "sống thong thả" được là hầu như nhờ vào sự "nuôi dưỡng" của bá tánh, nhưng đã "xả thân", "góp công" một cách thiết thực đến mức nào trong việc ngăn chặn chiến tranh, "biến" nguyện vọng được sống trong hòa bình, ấm no, hạnh phúc của bá tánh thế giới thành hiện thực, hay cũng chỉ là "kêu gọi", "rao giảng" một cách "mông lung" như mọi tôn giáo khác?).
Thật vậy, không sát sanh là nuôi dưỡng lòng từ bi, tôn trọng lẽ công bằng nhân đạo đối với đồng loại và tất cả chúng sanh, nhờ đó mà xua tan bóng tối sân hận và ganh ghét. Trong tâm thức mỗi người nếu thiếu căn bản đạo đức này, dù có nói đạo đức cao siêu đến đâu cũng chỉ là lời nói suông, là người mất nhân tính và hủy hoại lương tri. Bởi vì “Ai cũng sợ gươm đao, ai cũng thích sống còn.” Bởi vì, khổ đau do sự sát hại gây ra, nếu chúng ta biết phát triển lòng từ bi, lấy đó làm nguồn năng lượng để bảo vệ con người, cỏ cây, cầm thú, và đất đá, thì khả năng làm vơi nhẹ và chuyển hóa khổ đau rất lớn. Khi thấy được nỗi khổ thì tâm Bi phát sinh trong ta. Với tình thương, năng lượng của chúng ta được sinh ra từ tuệ giác. Khi chúng ta không có sự hiểu biết đúng đắn về một hoàn cảnh hay một con người, suy nghĩ của ta có thể lầm lạc và gây ra hoang mang, tuyệt vọng, giận hờn, hay thù hận. Vì thế, chúng ta luôn nuôi dưỡng chánh niệm mỗi ngày và tưới tẩm những hạt giống bình an trong ta và trong những người xung quanh, ta sẽ trở nên sống động, và có thể giúp cho chính mình cũng như những người khác đạt đến sự bình an. Sự sống thật quý giá, vậy mà trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường bị cuốn theo những quên lãng, giận hờn, và lo lắng, đắm chìm trong quá khứ, và không có khả năng tiếp xúc với sự sống trong giờ phút hiện tại.(Chúng ta hỏi: không sẵn có ăn, nếu không lo lắng đến công ăn chuyện làm thì...làm sao sống?).
(...).
Khi chúng ta biết trân quý cái đẹp của sự sống, chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì trong khả năng mình để bảo vệ cả cuộc đời. (Chúng ta hỏi: cố như vậy có phạm vào khẩu hiệu "vô chấp bầt cầu" không?).
Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp, và bất công xã hội gây ra, chúng ta thực hành hạnh đại Từ để đem lại niềm vui, sống an lạc cho mọi người và mọi loài. Chúng ta cần phải học nhìn sâu để biết cách biểu lộ lòng Từ ấy. Nếu mỗi người, mỗi nhà đều giữ giới thanh tịnh thì chiến tranh nào xảy ra và hận thù nào sanh khởi. Đó chính là thể hiện cách sống hài hòa với tha nhân, biết chia sẻ niềm vui và nỗi khổ cho nhau. Khi giới “Đạo” được tuân giữ thì thành tựu được lòng tin và mối giao hảo đối với người khác không còn vướng bận nỗi sợ hãi. Hành vi trộm cắp như buôn lậu, tham nhũng, việc khai thác tài nguyên bừa bãi, giết hại loài động vật quí hiếm, là những việc làm phi nhân bản. Cho nên Phật dạy mỗi người cần phải sống trung thực, lương thiện, tuyệt đối không xâm phạm của cải và làm giàu bằng mồ hôi nước mắt của kẻ khác, bằng sự lừa lọc, thiếu đạo đức, bởi chính tác hại của trộm cướp, tham nhũng làm bại hoại đạo đức của con người.
Ngoài quan hệ vợ chồng chính thức, tất cả những quan hệ nam nữ luyến ái khác không xâm phạm gọi là không tà dâm. Không tà dâm là bảo vệ nhân cách của mình, bảo vệ thuần phong mỹ tục, tạo đời sống ổn định về tinh thần.
(...)
Không nói dối tức là không nói những lời trái với sự thật để mưu cầu lợi mình hoặc hại người. Nói dối khiến mất lòng tin, thường lo sợ ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội. Nếu mọi người sống chung đều nói dối lẫn nhau, đó là dấu hiệu của sự tan rã, gia đình ly tán, giá trị đạo đức sẽ không tồn tại. Ngược lại, tất cả mọi người đều sống chân thật, thì xã hội sẽ bớt đi những tệ nạn trộm cắp, tham ô, dối gạt và hạnh phúc luôn ngự trị trong mỗi gia đình, xã hội từ đó sẽ được an bình thịnh vượng.
Không uống rượu, giới này ta không thấy ở các tôn giáo khác. Tuy nghe có vẻ như bình thường, nhưng thực chất nó rất quan trọng. Bởi vì, giới này không những làm cháy gan, thui phổi mà còn là nguyên nhân sanh ra các tội lỗi và làm mất giống trí tuệ. Thuốc độc chỉ giết người trong một đời còn rượu giết người trong hiện tại và tương lai. Thực tế cho thấy, say rượu là nguyên nhân làm tan nhà nát cửa, gây gỗ, đánh chém, tai nạn giao thông, v.v...
(...)
Năm giới của Phật giáo không mâu thuẫn với luật pháp của bất kỳ quốc gia nào. Bởi vì, mục đích của nó là đào tạo con người toàn diện xây dựng thế giới an lạc, hạnh phúc. Năm giới không những là căn bản phạm hạnh mà còn là căn bản cho sự thăng tiến tâm linh, là phương tiện để người tu tập đạt được tâm an lạc, giải thoát mọi khổ đau. Vì vậy, tác dụng của nó vô cùng to lớn đối với tha nhân và xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho cả thế gian và xuất thế gian. Ngày nay, lễ truyền thọ Tam quy, Ngũ giới được tổ chức nhiều lần trong năm, làm nền tảng cho việc giáo hóa nhân sinh. Đây cũng chính là tinh thần nhập thế của đạo Phật.
Như thế, các tôn giáo đều chịu ảnh hưởng tương tác trong xã hội. Nếu đem Ngũ giới của Phật giáo so với Ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) của Nho giáo ta thấy có chỗ tương đồng. Với nền tảng trên, Khổng Tử nhằm mục đích xây dựng, đào tạo nên mẫu người nhân nghĩa, có phẩm hạnh tốt, có kiến thức rộng rãi và sự tín nhiệm của người khác, trên tinh thần đó sẽ đạt đến mức chí thiện, hoàn thành nhân cách con người. Rồi lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc trong việc ứng xử với những người chung quanh trong quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, tạo nên một mối giao hảo, góp phần xây dựng xã hội thái bình thịnh trị. Nền tảng ấy xây dựng theo một khuôn mẫu ước lệ, chỉ vì hạnh phúc và đời sống của cá nhân là phần lớn, nên có tính cách không phổ quát. Kim chỉ nam của đạo đức Nho giáo là tích cực vào đời để truyền bá đạo mang lại an vui và hạnh phúc chỉ trong phạm vi giới hạn. Cũng vậy, Nho giáo với phương châm: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Bình thiên hạ để làm chủ thiên hạ, trị quốc để cứu nước được an bình, tề gia để nhà được yên vui hạnh phúc và tu thân để thực hiện các mục đích trên và cá nhân mình được lợi lạc. Tất cả nhằm phục vụ xã hội để xã hội phục vụ lại cho chính mình. Từ đó ta thấy nó mang nặng tính thế gian, không chú trọng về mặt tâm linh, do vậy không thể đưa con người đến giác ngộ giải thoát. (Chúng ta nói: trong hiện thực, hoạt động nói chung của Phật Giáo... cũng thế thôi, thậm chí đôi chỗ, đôi khi có phần...tệ hơn!).
(...)
Như vậy, trong giáo lý Phật Giáo, việc giáo dục là hướng dẫn mọi người sống đời sống đạo đức đúng với chánh pháp. Đó là cách sống mô phạm để người khác tu tập theo. Cũng thế, trong lĩnh vực tâm linh, giới luật là một dấu hiệu của sự chứng đắc tâm thức. Nó không những là phương tiện để cho bản thân người tu tập đạt được tâm hỷ lạc, và tác dụng của nó cũng vô cùng lớn lao đối với tha nhân và xã hội. Lại nữa, Phật Giáo xây dựng đạo đức trên nền tảng trí huệ, mà muốn đạt được trí huệ phải lấy giới làm gốc để trau dồi thân tâm. Thiết nghĩ, giới luật căn bản năm giới không chỉ áp dụng đem lại kết quả tốt đẹp cho tăng chúng và hàng cư sĩ tại gia mà còn có thể áp dụng thích hợp cho bất cứ cá nhân nào trong xã hội. Đối với hàng tăng ni trẻ ngày nay, nên phương tiện đưa giới luật vào cuộc đời bằng khí thở đạo đức, bằng thức ăn phạm hạnh và lấy việc tu dưỡng thân tâm làm hành trang để kiến tạo một xã hội an bình và hạnh phúc".
(Xin nhấn mạnh, về mặt tình cảm, chúng ta tôn trọng các niềm tin tôn giáo và hơn nữa rất mến mộ những tôn giáo luôn thành tâm "giương cao ngọn cờ" yêu thương đồng loại, răn dạy những điều cao cả, thánh thiện trước đại chúng nhân quần, nhưng về mặt lý trí, chúng ta coi bất cứ tôn giáo nào, triết thuyết nào cũng là đối tượng bình đẳng trên "bàn tròn biện luận triết học", vì mục đích duy nhất của chúng ta (những kẻ nhà quê ít học nhưng tò mò "dễ sợ") là cố gắng hết trí lực để cầu may (biết đâu đấy!) tiếp cận được chân lý tối thượng-căn nguyên đích thực của Tự Nhiên Tồn Tại. Đại Chúng ơi, hãy thông cảm cho...Thầy Cãi nhé!!!).
Quan niệm nói chung về đạo đức hiện nay (mở rộng ra, gồm của mọi "triết", mọi "đạo", kể cả đạo Phật-đạo được bá tánh phương Đông thừa nhận là giàu tình thương nhất, cái đạo "ngời ngời" là "giáo" mà cứ "khăng khăng" tự gắn nhãn mác cho mình là "thuần triết"!), rõ ràng là còn "vòng vo", chưa đích đáng, chưa chỉ ra được một cách rạch ròi và dứt khoát căn nguyên tự nhiên khách quan phát sinh ra chuẩn mực đạo đức, do đó mà có sự "kêu gọi" tình yêu thương "hơi bị" tràn lan nhưng vẫn ở mức độ còn "lỏng lẻo", "nhạt nhòa" (đôi khi dễ bị đàm tếu như "lao động là vinh quang", "yêu CNXH", "kính Chúa yêu nước", "yêu vạn vật sinh linh", hay theo lời Phật: “Hãy phấn đấu vì hạnh phúc và an lạc của những người khác”, “Phục vụ là hạnh phúc và hạnh phúc chính là phục vụ”,...), gây ra sự "ú ớ" cho đại chúng trong việc nhận thức chuẩn mực đạo đức, nhất là vẫn còn nhiều lẫn lộn khi đặt nó trong mối liên quan tới hai khái niệm "văn hóa" và "văn minh". Nếu xét đến tận cùng khách quan, loài người chỉ có duy nhất một chuẩn mực đạo đức mà theo chúng ta, Lão Tử được coi như là người đầu tiên của nhân loại chính thức nêu ra nội dung cốt lõi, giản dị của nó. Nhưng thể hiện cô đọng nhất, thâm thúy nhất mà cũng dễ "thấy" nhất (nghĩa là ngàn đời nay, nếu nói ra thì ai cũng "gật đầu", "ngộ" được ngay!), không hề có tính "rao giảng", "lên dây cót não trạng" về quan niệm đạo đức, chắc phải là câu này của nhà triết học S. Radhakrishnan: "Hãy sống và hãy để người khác sống với". Và từ đó cũng có thể rút ra được nội dung "căn cốt" của chuẩn mực "muôn đời" về đạo đức xã hội, mà nếu xét ở góc độ "vô cảm", thì chắc là "Biết hòa hợp với cuộc sống đồng loại trong sự gìn giữ cuộc sống mình", còn nếu xét ở góc độ "hữu tình", thì chắc là "Biết cảm thông cuộc đời đồng loại cũng như cảm thông cuộc đời mình". Trong thực tiễn vận động xã hội, trong những lĩnh vực, trường hợp cụ thể của đời sống, nội dung đó được cảm nhận và được thi triển ở những cung bậc "nông-sâu" khác nhau, với những ít nhiều "biến thái" lệch nhau, thậm chí là mâu thuẫn nhau, tùy thuộc vào trình độ nhận thức cũng như mức độ từng trải cuộc sống, tùy thuộc vào tập quán, tín ngưỡng cũng như lập trường tư tưởng về thị phi xã hội, và cả tùy thuộc ít nhiều vào trạng thái thịnh-suy vật chất lẫn tinh thần của thời cuộc của chủ thể quan niệm (cá nhân, tầng lớp, đảng phái, quần thể...)...
"Chơi bời" vòng vo nãy giờ kể cũng "quá đã" rồi, chúng ta nên quay lại "kết" cho xong câu chuyện về "ông" Charvaka.
Tóm lại, dù sinh ra để rồi lại chết đi như chưa hề được sinh ra thì sự sinh ra ấy cũng vẫn là nỗ lực vì sự sống, hun đúc nên sự "cố gắng" tìm ăn, sự "ra sức" tự vệ nhằm duy trì sống còn ở mỗi sinh thể, mà đối với con người, sống và hơn nữa được sống trong ấm no vui sướng đã trở thành mục đích ưu tiên tối thượng của ý chí. Nguyện vọng trước hết và tha thiết nhất ở mỗi con người bình dân nói riêng và toàn thể tầng lớp bình dân (đóng vai trò nền tảng xã hội) nói chung là được sống trong an lành, được thừa hưởng một cách thích đáng trong công bằng thành quả lao động mà bản thân mình tạo ra. Vào thời Ấn Độ cổ đại giai đoạn Upanishad, sự phân liệt xã hội theo hướng bất công về quyền lợi ngày một sâu sắc giữa hai tầng lớp thống trị và bị trị, sự duy trì và tăng cường một cách có ý chí tình trạng "kẻ ăn không hết, người lần không ra" bằng bạo lực của giới hiệp sĩ quí tộc và phủ dụ của giới tăng lữ Bàlamôn, đã tất yếu làm nảy sinh tinh thần bất mãn, phản kháng ngày một tăng trong tầng lớp bị trị (tầng lớp, chủ yếu gồm đại chúng bình dân, rõ ràng là hứng chịu hầu như mọi bất công về quyền lợi trong xã hội, mà đã gọi là bất công thì mặc nhiên phải hàm chứa trong nó sự vô luân, thất đức rồi!). Đó là nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh ra những nghi vấn từ đại chúng bình dân đối với định ước chân lý của giáo thuyết Bàlamôn. Nếu sự bất mãn cuộc sống đã làm xuất hiện những nhân tố hình thành tư tưởng vô thần, thì việc tìm kiếm lời giải đáp trong hiện thực về sự tồn tại bất công xã hội đã làm xuất hiện những nhân tố hình thành chủ nghĩa duy vật Charvaka. Có thể nói hệ tư tưởng Charvaka trước hết là con đẻ của đại chúng bình dân Ấn Độ thời Upanishad, được sinh ra từ tinh thần bất mãn, phản kháng cũng như nguyện vọng chính đáng của họ nên về đại ý cũng hợp đạo và đức (nghĩa là hợp lẽ tự nhiên), sau đó là sự kết tinh lý luận lại cái tinh thần (hướng tới) duy vật của tín ngưỡng phồn thực ẩn chứa tiềm tàng trong thánh kinh Vêđa theo cách nhìn nhận được định hình từ thực tiễn xã hội sinh động của thời đại mới, của con người mới. Chính vì vậy mà chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại, một mặt, nếu quan sát dưới góc độ như một chủ trương chính trị xã hội, theo quan điểm còn định kiến khinh thị giai cấp, và hơn nữa đã ít nhiều bị xuyên tạc bởi hệ thống giáo lý Bàlamôn đang thống trị tinh thần xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ, thì hầu như chỉ thấy ở nó cái vẻ ngây ngô, thực dụng tầm thường kiểu "phàm phu tục tử", nhưng mặt khác, nếu quan sát trên bình diện một học thuyết triết học xã hội, một cách công tâm nhất, trên cơ sở quan niệm đạo đức bình dị nhất, do đó mà cũng khách quan nhất (và đó cũng chính là quan niệm đạo đức của đại chúng cần lao!), thì sẽ thấy được ở nó nổi bật lên một tầm vóc suy lý trác việt hàm chứa trong cái quan niệm đầy hợp lý và thấm đẫm nhân đạo về đời sống xã hội-nhân sinh của nó, hơn nữa là trong cái quan niệm xuất sắc về sự nhận thức, tiếp cận chân lý khách quan của nó (mà thậm chí đến tận hôm nay, không ít điều trong đó vẫn còn nét thâm hậu, chưa một ai thấu tỏ thực sự được!), với vai trò có ý nghĩa như bước đi tiên phong, sơ phác của nhân loại trên con đường dẫn tới chủ nghĩa thực chứng sau này trong nhận thức khoa học. Đúng là trên bàn tròn "công khai" tranh biện xã hội, sự hiển hiện như một "thực thể tư tưởng" của chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại có tính "bạo phát bạo tàn", nhưng không phải như thế có nghĩa là nó đã bị "khai tử" trong đời sống tinh thần xã hội, mà trái lại, không những nó vẫn tồn tại hồn nhiên, bền bỉ dù bàng bạc, chân thực dù vô hình trong tâm tưởng đại chúng Ấn Độ, mà còn có tác động thực sự tích cực, vừa trực tiếp, vừa như một "xúc tác" làm chuyển biến nhận thức triết học về xã hội-nhân sinh theo hướng bớt mê muội hơn, bớt cuồng tín hơn, cũng có nghĩa là xác đáng hơn, phù hợp với thực tại cuộc sống hơn. Không thể nói khác được, dù nhận thức còn không ít thiển cận dẫn đến những biểu hiện cực đoan, bế tắc, (nhất là việc thẳng thừng phủ nhận sự tồn tại vong hồn, hiện tượng tinh thần cực kỳ huyền bí đối với suy lý và niềm tin duy vật từ quan sát trực giác nhưng cũng khó bài bác nó cho ra lẽ được, trước sự tồn tại đầy hư-thực của nó mà đại chúng đã chiêm nghiệm được từ lâu trong rất nhiều trường hợp, thuộc lĩnh vực tâm linh, lĩnh vực mà đến tận ngày nay vẫn không có cách nào thực sự sáng tỏ để chối bỏ hay xác nhận được và vì thế vẫn là "thử thách vàng đá" đối với triết học duy vật cũng như đối với khoa học thực nghiệm) do bị khống chế bởi trình độ hiểu biết hạn định mang tính thời đại (nhất là trong bối cảnh khoa học tự nhiên hầu như còn "trắng tay"), thì chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại (có vẻ thực dụng và hướng tới thực chứng), dù không thể sánh được với Đạo của Lão Tử về sự cao diệu, cứ vẫn là thành quả đột khởi mang tính cách mạng về nhận thức tự nhiên-xã hội của nhân dân Ấn Độ nói riêng và của loài người nói chung.
(Nói thêm ngoài lề, chúng ta hiểu tâm linh là hiện tượng tinh thần xảy ra trong hiện thực, có thực nhưng huyền bí trước nhận thức khoa học. Thời xa xưa, tâm linh là lĩnh vực rất rộng, bao gồm ngoại cảm (hiện hồn, gọi hồn, thấu thị, thấu thính, thần giao cách cảm...), rồi thiền ngộ, tác dụng từ xa của khí công..., cho đến thôi miên, báo mộng..., thậm chí cả mộng du, giấc mơ... Ngày nay, nhờ tiến bộ khoa học-kỹ thuật đã giải tỏa được phần nào, dù chưa cơ bản, thì lĩnh vực tâm linh cũng đã bị thu hẹp lại. Chính điều này đã gợi ý cho chúng ta rằng dù có thể là lâu nhưng trước sau gì loài người cũng sẽ "nuốt trôi" được "cục xương" tâm linh (và cả "cục xương" UFO- vật thể không xác định được) trên cơ sở khoa học. Và không ngành khoa học nào khác mà chính vật lý học sẽ đi tiên phong để thực hiện sứ mạng đó, nhưng muốn như thế, tiên quyết nó phải thực hiện được bước tiến cách mạng trong nhận thức của chính bản thân nó, triệt để hơn cả thời "Tai biến tử ngoại" - thời làm hình thành nên thuyết Tương đối và Cơ học lượng tử. Nếu đúng thế thì chừng nào triết học duy vật vẫn còn "khăng khăng" không thừa nhận hiện tượng tâm linh là một sự thật thì chừng đó nó vẫn cực đoan, chưa biện chứng, nghĩa là còn lầm lạc. Ngược lại, cứ cố giải thích hiện tượng tâm linh trên cơ sở niềm tin về sự tồn tại thực sự khách quan của Phật-Chúa-Thánh cùng với năng lực "dẫn dắt" siêu nhiên của "họ", thì cũng cực đoan tương tự, nghĩa là lầm lạc nốt!).
(Còn tiếp)
Mời xem:
0 comments:
Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)
- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>