THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 12/d


CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI (Tiếp theo TT&HĐ 12/c)

“Nhân loại không có sự đòi hỏi nào cao hơn là làm sao đạt tới cái chí thiện, chí mỹ và chính vì giải quyết vấn đề ấy mà nó đã cố gắng...”
Vidhusekharsastri

Nói chung, thời Upanishad (được cho là trong khoảng từ thế kỷ VIII TCN đến thế kỷ V TCN) là thời thần quyền thống trị xã hội Ấn Độ cổ đại, mà xét ở góc độ cụ thể hơn là quần chúng (gồm tầng lớp bình dân và nô lệ) chịu sự cai trị trực tiếp của quốc vương, lãnh chúa...(gọi chung là giới hiệp sĩ quí tộc nhằm nêu bật tính phổ biến của hiện tượng tranh đoạt quyền lợi trong giai đoạn xã hội chiếm hữu nô lệ-phong kiến phân quyền) dưới sự lãnh đạo tinh thần ( thần phục) bởi giới tăng lữ-đạo sĩ Bàlamôn bằng giáo lý nhận Upanishad làm tư tưởng nền tảng.

Vận động tự thân (tương đối thôi!) của một thực thể nhằm cân bằng tương tác giữa nó với môi trường "chứa" nó, hay nói cách khác là nhằm duy trì, có được trạng thái cân bằng động nội tại phù hợp cho nó và do đó, một cách hình thức, cũng làm như nhằm "cố gắng" tự bảo toàn, duy trì sự tồn tại của bản thân nó, là một mặc định tự nhiên trong Vũ Trụ, mang bản chất tất yếu và có nguồn gốc sâu xa từ nguyên lý tiền đề duy nhất, có tính tiên đề- nguyên lý giềng mối của mọi nguyên lý, mọi qui luật mà chúng ta đã từng đề cập tới và cũng đã tạm gọi là "Nguyên Lý Tự Nhiên" dù vẫn chưa tìm được lời phát biểu "đẹp nhất" cho nó. Mặc định này, trong thế giới sinh vật (vì bị "đóng khung" trong một thiên nhiên mang tính hữu hạn, khép kín, có chừng mực nhất định nên cũng) thể hiện ra dưới dạng tương đối "gay gắt", gọi là "đấu tranh sinh tồn". Như vậy, có thể nói, cố gắng đảm bảo và duy trì sự sống còn cho bản thân là mục đích tự nhiên, nguyên thủy, tiên quyết và tối thượng của mọi cá thể sinh vật (ở trạng thái hóa-lý, tâm sinh lý thông thường). Cái "động lực" hướng tới sống còn có gốc xuất phát từ tự nhiên ấy cùng với nhiều yếu tố cũng có tính tự nhiên, theo qui luật hoặc (tương đối) không theo qui luật (sự ngẫu nhiên) khác nữa, như sự chuyển hóa về thời tiết, khí hậu vừa lặp lại vừa không lặp lại của thiên nhiên, những đột biến có lợi hoặc bất lợi về điều kiện sống của môi trường sinh thái (do khách quan và cả chủ quan gây ra!) làm bộc phát hiện tượng tăng-giảm lạm phát số lượng cá thể ở mỗi giống loài..., hợp thành một tổng thể nguyên nhân thúc đẩy quá trình tiến hóa-thích nghi sinh vật, qua đó, một đàng mở rộng thế giới sinh vật - làm cho sinh vật lan tỏa khắp thiên nhiên đến tận cùng khả năng có thể của nó, đồng thời cũng làm cho thế giới sinh vật tiến triển theo hướng từ "dưỡng sinh" chỉ bằng cách hấp thụ trực tiếp các chất vô sinh (vô cơ, hữu cơ) thuở ban đầu đến thêm cả "dưỡng sinh" bằng cách "ăn thịt lẫn nhau" (và nổi bật đến nỗi trong tầm quan sát của con người, tưởng chừng như chỉ bằng cách này!) giữa các giống loài với xu thế chung là những giống loài năng động hơn, "thiện nghệ" hơn, "khôn" hơn "xơi tái" những giống loài thụ động hơn, khả năng tự vệ yếu hơn, "ngu" hơn (nghĩa là làm xuất hiện cách đảm bảo sống còn bằng bạo lực giết chóc- hình thức "phôi thai" có tính chừng mực, và cũng chính là yếu tố tự nhiên hợp thành nguyên nhân làm xảy ra chiến tranh - hình thức mưu sinh bằng giết chóc có mức độ quá đáng, tàn khốc ở loài người!!!). Đó cũng là quá trình "giao phối" giữa "ông bố" môi trường thiên nhiên và "bà mẹ" thế giới sinh vật để rồi "bà mẹ" thế giới sinh vật trường kỳ "mang nặng đẻ đau" hoài thai ra "đứa con" ngỗ nghịch nhất, khôn nhất mà cũng điên rồ nhất của mình, đó là loài người! Vì loài người "khôn quá" nên mới biết chế tác công cụ hỗ trợ cho việc kiếm ăn, và từ đó cũng phát hiện thêm chức năng thứ hai ở dạng tiềm ẩn của công cụ là...vũ khí, thứ có thể tăng cường sức mạnh bạo lực cho nó trong đấu tranh sinh tồn lên gấp nhiều lần (mà ngày nay chúng ta biết là hầu như...vô hạn!!!). Lúc đầu loài người "khổ quá", nhưng nhờ đã có vừa "khôn quá" vừa "mạnh quá" nên nó cũng kiếm được miếng ăn "nhiều quá", dẫn đến chơi bời "lắm quá" mà không ngờ rằng vì thế mà mở rộng, tăng cường nhu cầu tiêu dùng lương thực và cả phi lương thực, hơn nữa, làm tăng trưởng lạm phát số lượng cá thể lên "đông quá" để rồi dần dần lại hầu như trở về thời kỳ "khổ quá" giống như xưa, và thậm chí là lâm vào tình trạng khổ hơn nữa tạm gọi là "đói quá". Đói thì "đầu gối phải bò", đó là "mệnh lệnh" phải sống còn của tự nhiên! Để giải quyết nạn "khổ quá", "đói quá" có khi do thiên tai gây ra, nhưng chủ yếu là do cái "khôn quá" mà...vẫn chưa đủ khôn của chính mình gây ra cho mình "một cách có tính trường kỳ", loài người, vì là loài vật mà cũng không còn là loài vật nữa (!), nên đã thực hiện những hành vi cũng giống những hành vi của loài vật, nhưng "hầu như" chỉ còn ở mức độ hình thức, mà xét về bản chất thì đã có những nét khác biệt và "về sau" ngày càng khác biệt một cách cơ bản theo tiến trình "người hóa", "xã hội hóa", "văn minh hóa" của bản thân loài người. Dễ dàng nhận biết được sự khác nhau về hành vi giữa con vật và con người dựa trên sự đánh giá trong mối quan hệ tương phản thụ động-chủ động, bản năng-trí năng, thiên tạo-nhân tạo (sáng tạo)...Nói "đùng một phát" cho thật gọn thì thế này: nếu ở loài vật, hoạt động mưu cầu sống còn là thụ động, bản năng, chừng mực, lành tính, thể hiện ra gồm các cách thức chủ yếu như tăng cường tìm kiếm và mở rộng chủng loại thức ăn, đồng thời mở rộng địa bàn sinh sống bằng thiên di, lan tỏa dân cư..., thì ở loài người, thuở ban đầu (người-vượn cổ) cũng tương tự như vậy, nhưng dần dần, do bị chi phối ngày một mạnh mẽ bởi sự chuyển hóa về lối sống trong những tình trạng nói chung là ngày càng căng thẳng hơn, theo "yêu cầu sáng tạo" của bộ não biết tư duy trừu tượng trên nền tảng "đòi hỏi phải giải quyết" của tự nhiên, đồng thời bởi cả sự chuyển biến (có tính tiến hóa-thích nghi, tính "tiềm thức hóa"!!!) về cách cảm cách nghĩ của bộ não theo chiều hướng sâu sắc hơn (nên cũng cực đoan hơn, "duy ý chí" hơn!) do chính ngay tiến trình chuyển hóa lối sống "xoay vần, đi lên" vượt qua biết bao nhiêu thách thức tồn-vong to lớn, trải qua biết bao nhiêu thời đoạn khổ ải gian lao, và ngày càng phức tạp hơn của bản thân loài người (nhất là trong suốt thời gian vận động tiến triển gồm các giai đoạn thịnh và suy kế tiếp xen kẽ nhau của xã hội loài người) không ngừng tác động trở lại, nên "sau đó" nổi bật lên về mức độ cũng như trình độ, trở thành hoạt động mưu cầu sống còn với đặc trưng là chủ động, ý chí, vô độ, dữ tính, dù về hình thức cũng gồm những cách thức cơ bản ấy. Đến đây chúng ta đã dễ dàng thấy rằng, chính sự vô minh (sự chưa nhận thức được hoặc nhận thức còn hoàn toàn mù mờ, kể cả sai lầm về cõi nhân sinh) của con người ở thời kỳ đầu thuộc quá trình phải nỗ lực hoạt động và cố gắng tìm tòi sáng tạo nhằm trước hết là đảm bảo sống còn rồi thêm nữa là tăng cường trình độ đảm bảo sống còn cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống, trong tình trạng "khuynh đảo", "chực chờ" thời cơ gây ra đói khổ của nạn nhân mãn, cũng như thảm cảnh đói khổ đã trở thành nỗi ám ảnh có tính thường trực, truyền đời, đã là yếu tố (tạm gọi là) "chủ quan hồn nhiên" (vì chủ quan không hẳn chủ quan, chủ quan mà cũng khách quan!!!), đóng vai trò cơ bản trong nguyên nhân hợp thành, trong việc "trui rèn" làm xuất hiện sự tham-sân-si trong tâm trí ở mỗi con người như một bản tính có mầm mống từ vô thức và có cội rễ bám rất chặt vào sâu thẳm tiềm thức, để rồi chính sự tham-sân-si ấy chứ không phải cái gì khác đã "lũng đoạn" lý trí con người, không những cản trở mạnh mẽ con người vượt thoát khỏi vô minh trong lối sống, mà còn làm cho con người sa vào "vũng lầy" mê quáng trong suy nghĩ và hành động thực tiễn nhằm mưu sinh của nó. Không cần nêu thí dụ chứng minh "xa xôi" gì, ngay cái quan niệm mà ngày nay chúng ta vẫn "đang dùng" một cách phổ biến, cho rằng loài người là tuyệt tác của thiên nhiên, là "sản phẩm" tinh hoa của thế giới sinh vật, đồng thời là chúa tể của muôn loài, cũng đã là một biểu hiện hơi bị "tổ chảng" về sự mê quáng mang nét điên rồ rồi! Mặt khác, có thể nhận định, thời cổ đại đã là thời "khổ luyện" của loài người, không những định hình tham-sân-si mà còn làm cho nó tồn tại chắc chắn giống như một mặc định trong tâm trí con người (ở đây, triết lý của Đạo Gia về xã hội-nhân sinh cho chúng ta cảm nhận không phải Đức Phật Thích Ca mà chính Lão Tử mới là người đầu tiên phát hiện ra tác hại của tham-sân-si đối với tâm trí con người, gây ra khổ đau cho con người, hơn nữa, đã là người đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người chỉ ra đích xác con đường tiêu trừ khổ đau ở mỗi con người, và theo thiển ý của chúng ta, Đức Phật chỉ là người kế thừa, khai triển cụ thể hơn đồng thời với sáng tạo theo cảm thức riêng tư theo hướng huyền bí hóa (rõ nhất là đưa ra ý niệm niết bàn và phải chăng nhằm cố gắng "ôm đồm" giải quyết luôn cả vấn đề tâm linh-vấn đề mà trên nền tãng khoa học tiên tiến ngày nay, loài người vẫn chưa "dứt điểm" được?) nên có phần sai lạc, mức độ chân chính thấp hơn!). Như vậy, có thể suy ra, tiến trình vận động của xã hội loài người làm xuất hiện trong lòng nó sự phân định tương phản về giàu nghèo, về quyền lợi, và tùy thuộc vào trạng thái vật chất cũng như tinh thần xã hội mà mức độ những tương phản ấy "đậm, nhạt" khác nhau, hơn nữa có thể trở thành mâu thuẫn căng thẳng, gay gắt, thâm chí là đối kháng một mất một còn, để từ đó cũng xuất hiện nổi trội những hành vi tranh giành quyền hoặc lợi (gọi chung là quyền lợi, vì có quyền sẽ dẫn đến mục đích tối hậu là có lợi!) bằng bạo lực (mà mức độ cực đoan, quyết liệt nhất là chiến tranh), là một quá trình mang tính...tự nhiên, được định đoạt bởi sự tác động "chủ quan hồn nhiên" của con người, của chính bản thân loài người, và qua đó cũng thấy chiến tranh xảy ra "dày đặc" và liên tục trên khắp thế giới suốt thời cổ-trung-cận đại cũng là một hiện tượng hàm chứa tính tất yếu. (Và đau đớn thay mà cũng lạ lùng thay, hình như không hề ngẫu nhiên, chiến tranh - sự giết chóc nhau hàng loạt một cách chủ động, có ý chí (lý trí mù quáng!) trong nội bộ loài người - cũng đã như một cách thức "góp phần" đáng kể trong việc giải quyết nạn nhân mãn!!!).

Nếu lấy "mớ ní nuận" trên làm cơ sở để "ní nuận" tiếp, và thêm nữa, nếu quan niệm rằng văn minh là khái niệm tương đối hàm chứa tính so sánh giữa một xã hội hay một thời đại nào đó với (những) xã hội khác hay thời đại khác về trình độ nhận thức tự nhiên-xã hội-nhân sinh (đúng hơn, sâu rộng hơn, có văn hóa phong phú hơn, được "chủ quan" đánh giá là tốt đẹp hơn hoặc ngược lại, thế thôi, chứ sự thật khách quan thì...chưa hẳn chắc chắn hoàn toàn đâu đấy nhé!!!), về năng lực thực hành sáng tạo, về cái tạm gọi là "mức độ hiện đại hóa và đa tạp hóa" đối với công cụ, trang thiết bị hỗ trợ, phục vụ đời sống con người và xã hội, thì như lịch sử xã hội loài người đã " vạch trần và tố cáo đanh thép", ít ra thì cũng đến giữa thế kỷ XX, loài người hầu như vẫn chưa hiểu gì hoặc hiểu sai lầm lớn về thân phận mình, vì thế mà cũng chưa thấy được rằng, nó là giống loài "đệ nhất thông minh" đồng thời cũng là "đệ nhất mê quáng" và "đệ nhất tác tệ" trong muôn loài sinh vật, càng tiến lên văn minh thì lại càng trở nên tàn bạo một cách điên rồ (ông bà ta đã cực chí lý khi nói: "Sướng quá hóa rồ"!), không những triệt phá tan nát môi trường thiên nhiên - cái nôi dung dưỡng sự sống còn của nó, một cách vô tội vạ, mà còn "kinh thiên động địa" hơn gấp bội là giết chóc lẫn nhau giữa các cá thể trong nội bộ loài của mình một cách không hề gớm tay, thậm chí thích thú, đến mức độ cứ như nhằm "quyết tâm tự sát" cho bằng được vậy (!). Tuy nhiên, hình như hiện nay , xu thế tiến triển đầy đau thương khốn khổ đó đã bắt đầu có những dấu hiệu "dịu bớt" và "chậm dần" lại. Một mặt, mức độ kinh hoàng, khủng khiếp về tàn phá thiên nhiên, về hủy hoại của cải vật chất và nhất là về giết chóc đồng loại của các cuộc chiến tranh hiện đại trong thế kỷ XX đã, đang và sẽ còn gây ra nỗi ám ảnh sâu sắc và nặng nề lên tâm trí con người, mặt khác, những thành tựu to lớn trong nghiên cứu khoa học các ngành đã nhanh chóng nâng tầm hiểu biết của loài người lên rầt nhiều, giúp cho nó dần dần tỉnh ngộ, nhận thức ngày càng sâu rộng hơn, rõ ràng hơn và cũng đúng đắn hơn về thực tại khách quan, đồng thời qua đó mà cũng thấu tỏ hơn về thân phận của nó để tự thấy được sự điên rồ ghê gớm của bản thân nó và hơn nữa là hiểu rõ cái nguyên nhân làm cho nó phát điên rồ cũng như trả lời cặn kẽ được tại sao lịch sử phát triển lên văn minh của nó lại đẫm máu của chính nó đến thế, và tác động tổng hợp của hai mặt đó chắc rằng sẽ đóng vai trò quyết định đến việc đảo chiều chuyển biến (có tính tiến hóa-thích nghi, tính "tiềm thức hóa") về cách cảm cách nghĩ của bộ não người, làm cho nó trở lại trạng thái chân phác, hiền lành tương tự như "xưa kia", khi chưa bị tham-sân-si "cương lên" lũng đoạn. Dù ngày nay cuộc chạy đua vũ trang giữa các nước lớn vẫn đang tiếp diễn, nhưng những yếu tố kìm hãm, ngăn chặn chiến tranh qui mô lớn cũng đã xuất hiện và phát huy tác dụng, chẳng hạn như chủ trương đã mang tầm vóc quốc tế: lấy "đối thoại" thay cho "đối đầu" (tuy còn nặng tính hình thức!). Chúng ta cho rằng, quá trình đảo chiều chuyển biến trí não con người nói trên đã bắt đầu manh nha hình thành và trong hiện thực, có thể lấy thời điểm kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai làm thời điểm xuất phát cho quá trình ấy, cũng như lấy thế kỷ XXI làm thời gian "trung chuyển" cho sự ra đời của quá trình "tẩy não". Và dù còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa như cường độ phá hoại của thiên tai "ngẫu nhiên", tốc độ phát triển khoa học-kỹ thuật nhằm nâng cao trình độ và năng lực sản xuất đáp ứng thỏa mãn mưu sinh theo hướng "tái tạo vô hại", tính hiệu quả trong việc khống chế nạn nhân mãn một cách nhân đạo, trong việc giải thích, tuyên truyền, vận động hướng thiện, tiết chế mức độ tiêu dùng hàng hóa "phi thực phẩm" nhằm bảo tồn thiên nhiên, gìn giữ môi trường sinh thái trên phạm vi toàn thế giới (mà rồi đây, chắc chắn mạng INTERNET, một kiệt tác sáng tạo dẫn đến sự "tiến hóa" như một cuộc cách mạng triệt để nhất, toàn diện nhất về lưu trữ và truyền thụ thông tin của loài người, như một lẽ tự nhiên (!), sẽ đóng vai trò truyền thông, giáo huấn khách quan nhất, chủ yếu và cũng hiệu quả nhất trong việc "mặc định hóa" lối tư duy hướng thiện đích thực đối với trí não con người!)...,làm cho tiến trình phát triển xã hội loài người dù có thể còn phải trải qua vài giai đoạn tương đối gay gắt gây ra buồn thương nữa (nhưng ngắn thôi!), thì sớm muộn gì loài người cũng đạt đến thời đại xã hội đại đồng và an bình. Chúng ta tin tưởng mãnh liệt như một...tín đồ vào sự hiện thực của viễn cảnh ấy, và trong trạng thái phấn khích "quá trời", chúng ta tuyên bố rằng, xác suất xảy ra chiến tranh thế giới lần thứ ba là rất thấp và nếu chiến tranh thế giới lần thứ ba không xảy ra vào thế kỷ XXI vì một biến cố (quá) rủi ro nào đó thì cũng vĩnh viễn không bao giờ xảy ra nữa! Xin các nước lớn cũng như nhỏ đừng tiếp tục tốn những khoản tiền khổng lồ của dân chúng nước mình nói riêng và của cả loài người nói chung vào việc đua nhau chế tạo những thứ vũ khí tàn sát con người hàng loạt có tính diệt chủng hòng "chờ cơ hội" giải quyết nạn nhân mãn (?!) một cách mù quáng nhất, ngu xuẩn nhất, tội lỗi nhất (như đã từng!) nữa, chỉ vô ích thôi, lại còn rất "vô duyên" vì mai mốt "ế", không biết "xài" vào đâu, tồn kho "hùng vĩ" như núi chỉ để "ngó cho vui" thì...thôi, hết nói nổi! Ha, ha...ha...!!!...

Ái chà chà, bô lô ba la "tự sướng" sơ sơ thế cũng làm cho bộ não đang ở đỉnh cao về...sự hóa rồ của chính chúng ta "hạ hỏa" nhiều rồi! Chúng ta quay lại tiếp tục cho xong câu chuyện còn dở danh về Ấn Độ cổ đại.

Khi chúng ta nói giáo lý Bàlamôn độc tôn "ngự trị" về tư tưởng trong xã hội Ấn Độ cổ đại thời Upanishad thì không có nghĩa là trong xã hội thời đó chỉ duy nhất tồn tại quan niệm xã hội-nhân sinh duy tâm theo định hướng "đã bị ràng buộc" bởi giáo lý Bàlamôn. Do "cố tình tự vệ" nên "đành phải" bênh vực cho tầng lớp thống trị, trong đó có đẳng cấp của mình trong việc giải thích các hiện tượng xã hội-nhân sinh, mà nói chung, các nhà lý luận Bàlamôn đã dần làm mất đi tính hồn nhiên khách quan trong suy tư triết học của thời đại trước (thời Vêđa) và thay vào đó là lối suy lý đã bị "lũng đoạn" bởi ý chí thiên kiến chính trị. Sự tư biện "trong tầm khống chế của ý chí thống trị" thiếu trong sáng ấy tất nhiên phải dẫn đến sự ra đời một hệ thống triết lý giáo điều hàm chứa mâu thuẫn logic trong lòng nó (nghĩa là có tính "gán ghép" khiên cưỡng, phủ dụ bất công, một đằng, đối với đại chúng cần lao thì hô hào đừng tạo nghiệp, đừng vọng động mà hãy bình tâm, sống "an phận thủ thường" trong cực khổ theo định mệnh đã an bài, đằng khác, đối với vua chúa, hiệp sĩ quí tộc thì lại "ngầm bảo" rằng cứ "chiến đấu, giết chóc" bảo vệ danh dự và quyền lợi đi vì đó là điều "không thể tránh khỏi" và như thế, cũng không tội lỗi, không hề tạo nghiệp), còn những kẻ tạo lập và thao túng nó (tức hệ thống triết lý giáo điều) thì biến thành giới tăng lữ Bàlamôn, thành giáo hội "ăn trên ngồi trốc", tạo lập nên "thứ" thực thể-tinh thần gọi là Đạo Bàlamôn. Chính quá trình phủ dụ mang tính áp chế trong vai trò "ngự trị" xã hội về mặt tư tưởng của giáo lý Bàlamôn đã kích thích không ít luồng tư tưởng khác nhau ra đời "trong lòng" đại chúng bị trị nhằm phê phán, phản biện và cả bài bác nó, tạo nên một bầu không khí tranh biện sôi nổi, hao hao giống thời "Bách gia chư tử" ở Trung Quốc. Có thể mượn sự mô tả của Will Durant trong tác phẩm nổi tiếng "Lịch sử văn minh Ấn Độ" của ông, để phần nào thấy được hoạt cảnh ấy: "...Có cả một thời ngụy biện lang thang - bọn Paribbajaka, tức bọn lữ hành - già nửa năm đi khắp làng này tới làng khác, thành thị này tới thành thị khác để tìm tín đồ hoặc phản kháng những người chống lại họ. Có vài nhà dạy thuật lý luận để chứng minh bất kỳ một điều gì, họ thật xứng đáng với danh hiệu "Bọn chẻ cái tóc ra làm tư" hoặc "Loài lươn trơn tuột" (ý nói: họ biện thuyết xuôi ngược gì cũng được cả), có nhà lại chứng minh rằng không có Thượng Đế, và đạo đức là hoàn toàn vô ích. Dân chúng bu lại nghe họ thuyết hoặc tranh luận, người ta còn xây cất cả những phòng rất rộng làm chỗ hội họp cho họ trổ tài và các vị vua chúa còn tặng giải thưởng cho những triết gia thắng trong những cuộc đấu khẩu đó nữa. A, cái thời đại đó thật lạ lùng, đúng là trăm hoa đua nở bên cái dòng tư tưởng tự do chảy tràn bờ". Tuy nhiên, nếu chọn quan niệm xã hội-nhân sinh Bàlamôn làm "chuẩn mốc" so sánh thì theo thời gian, sự tương tác trong vận động tự nhiên giữa những luồng tư tưởng "đồng sàng dị mộng" ấy làm cho chúng "nhanh chóng" hòa hợp-phân định lại thành hai luồng tư tưởng chính, phát triển thành hai hệ thống tư tưởng nổi trội, có quan niệm nói chung là tương phản nhau, mà như lịch sử đã lưu lại, một hệ thống được gọi là "chủ nghĩa duy vật Ấn Độ" (đúng hơn phải gọi đầy đủ là "chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại"!) và hệ thống kia được gọi là "giáo lý Kỳna" (nếu xét cả về mặt thực thể thì chính là một tôn giáo với tên gọi: Đạo Kỳna, Kỳna Giáo hay Đạo Jên).

Trong xã hội cổ đại, lòng tham vị kỷ vô lối của những kẻ có quyền hành cai trị là nguyên nhân sâu xa không những làm cho sự cai trị (với chức năng tự nhiên, thuần túy thuở ban đầu là điều phối, duy trì trật tự xã hội một cách "dân chủ", bất vụ lợi cá nhân) biến tướng thành sự thống trị (nghĩa là sự cai trị đã "nặng" tính độc đoán, chuyên quyền, bạo ngược...), mà còn (thông qua sự thống trị) "góp phần xứng đáng" làm tăng mức độ suy vi của đời sống xã hội, cả về mặt vật chất lẫn mặt tinh thần (nói thật vắn tắt, sự bất chính và mức độ phân liệt quá đáng trong thu nhập và hưởng thụ của cải xã hội là "chất xúc tác mạnh" kích thích phổ biến những nhận thức thiếu lành mạnh dẫn đến những hành vi mù quáng nhằm thỏa mãn thèm muốn một cách thấp hèn cả ở "thượng tầng kiến trúc" lẫn ở "hạ tầng cơ sở" theo trình tự diễn tiến "trên bất chính - dưới tắc loạn", thể hiện ra trên bình diện đánh giá tổng quan là suy đồi đạo đức xã hội). Xã hội trong tình trạng càng suy vi thì sự áp bức bóc lột của tầng lớp thống trị đối với nhân dân Ấn Độ cổ đại càng "nổi bật" và sự "nổi bật" (do tính bảo thủ "tự phát" từ ý chí bảo toàn quyền lợi một cách ích kỷ mà có) ấy lại có tác dụng "hỗ trợ" xã hội thêm suy vi hơn nữa, không những làm cho những mâu thuẫn về quyền lợi, trong đó, cơ bản là mâu thuẫn giữa quần chúng bị trị và tầng lớp thống trị, cũng càng trở nên gay gắt, nhiều lúc đến mức đối kháng, mà còn dần dần làm lộ rõ tính giả dối, mị dân, phi lý trong những phủ dụ của giáo lý Bàlamôn. Sự thể đó tất nhiên làm xuất hiện những mầm mống tư tưởng bất mãn, bài bác, đả phá ở những người cấp tiến, ít nhiều có học trong hàng ngũ đại chúng đối với hệ thống giáo lý Bàlamôn. Có thể đến khoảng giữa thế kỷ VI TCN, những mầm mống tư tưởng ấy đã kết hợp lại thành một trào lưu tư tưởng thống nhất (gọi là trường phái duy vật), thực sự có sức sống, có sức lan tỏa rộng rãi trong giới bình dân Ấn Độ, với tên gọi vào thời đó: Charvaka. Will Durant cho rằng đó là tên của một người trong trào lưu, và nếu thế thì người đó phải là một triết gia tài giỏi, có khả năng đại diện được về mặt tư tưởng của trào lưu hoặc là một trong vài người sáng lập nên chủ thuyết duy vật Ấn Độ cổ đại. Cụ thể hơn, cũng theo Will Durant và cả Chandradhar Sharma thì nhân vật đóng vai trò tiền bối, làm phát sinh ra trường phái duy vật này có tên Brihaspati và Charvaka là môn đồ lỗi lạc của ông, kế tục ông lãnh đạo trường phái. Nhưng theo quan điểm khác, Charvaka không phải là tên riêng mà là tên chung gọi những nhà lý luận theo trường phái duy vật. Vì từ gốc "charv" có nghĩa là "ăn" nên có lẽ thế mà người ta suy ra Charvaka hàm chứa nhiều nghĩa như: biểu thị một người thích "ăn uống và vui vẻ", người nuốt lời, người "ăn sạch" mọi thứ, người "có giọng điệu ngọt ngào" (theo từ charavaka), người tầm thường (bình dân?) mà đồng nghĩa là từ lokayata. Chúng ta cho rằng nhận định về Charvaka theo quan điểm đầu có phần đúng hơn. Những hàm nghĩa vừa nêu có lẽ phải lâu về sau mới được gán cho nó bởi các đối thủ của trường phái duy vật trong cuộc đấu tranh tư tưởng. Nhất là những hàm nghĩa có ý miệt thị thì nhiều khả năng bị gán từ các giáo sĩ Bàlamôn. Chẳng hạn, những người theo trường phái duy vật còn bị gọi với cái tên Nasticashiromani (có nghĩa: người dị giáo tinh quái!), hay rõ ràng hơn, trong Ramayana nói họ là "những kẻ ngu dốt tự cho mình là thông thái và là những chuyên gia trong việc dẫn dụ con người đến sự bất hạnh và diệt vong"...Nhưng, như ông bà ta nói, không có lửa thì làm sao có khói? Vậy, đó là "lửa" gì và "âm ỉ" ở đâu trong nội dung tư tưởng của Charvaka? Khốn nỗi, về mặt sự kiện lịch sử, vẫn biết trường phái tư tưởng Charvaka thực sự đã từng tồn tại, nhưng không một ai sau này có được nội dung chính xác của chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại dưới dạng văn bản hay chí ít cũng dưới dạng truyền khẩu nhưng đáng tin cậy. Đơn giản vì không hề có một tác phẩm nào khả dĩ được gọi là tài liệu gốc, do chính các nhà lý luận Charvaka viết về tư tưởng của họ còn lưu truyền đến ngày nay. Có thể sau khi trường phái Charvaka thoái trào và đi dần đến tan rã thì các tác phẩm của nó trở thành vô giá trị, thậm chí là "độc hại" nên đã bị loại bỏ khỏi "bàn tròn học thuật xã hội" hoặc bị tiêu hủy đi một cách cố ý. Nhưng nhiều khả năng hơn hết có thể là những tác phẩm đó...chưa bao giờ được bất cứ ai trong số những nhà lý luận Charvaka chấp bút, trước tác ra cả (?!), vì đơn giản, chúng chỉ là những luận thuyết truyền khẩu.

Vì không có tài liệu gốc nào nên các nhà nghiên cứu thời hiện đại, để tìm hiểu chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại, đều phải dựa vào những thông tin về nó còn lưu giữ "rải rác" trong những tác phẩm của các trường phái đã từng là đối thủ của trường phái Charvaka trong cuộc đấu tranh tư tưởng. Sở dĩ những thông tin về Charvaka còn tồn tại được ở những nơi "lạc lõng" như thế là do người ta cần đến chúng để làm bằng chứng phê phán, thậm chí là đả phá chủ nghĩa duy vật. Do có sự thiên kiến (bởi niềm tin riêng!) trong nhận định theo quan niệm chủ quan của trường phái mình mà (những) đối thủ của Charvaka đã ghi chép lại những ý kiến của các nhà Charvaka một cách phiến diện, theo lối "nhấn mạnh yếu điểm", và như thế, đã làm cho những thông tin phản ánh về chủ nghĩa duy vật Ấn Độ còn lưu trong các tác phẩm của họ trở nên ít nhiều bị què quặt, méo mó, sai lệch, không còn "đủ độ" chân thực nữa.

Lịch sử Ấn Độ cho thấy, trường phái Charvaka đã từng có giai đoạn hoạt động nổi bật, tư tưởng của nó lan truyền khá nhanh và tương đối rộng rãi trong tầng lớp đại chúng bình dân, có những lúc tưởng chừng như có phần lấn át, áp đảo trong nhiều cuộc tranh biện. Ấy vậy mà thời gian tồn tại với tư cách "gần như" một thực thể tinh thần xã hội lại không được lâu dài, kiểu như "sớm nở tối tàn". Tại sao lại xảy ra hiện tượng lạ lùng đó?

Theo thiển ý chúng ta, có thể quan niệm duy tâm về thực tại khách quan xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới như một chỉnh thể lý luận là kinh Vêđa, và quan niệm duy vật, với vai trò tương tự như thế, có thể là hệ tư tưởng Charvaka (nếu nó xuất hiện trước Đạo Lão, còn không thì phải là Đạo Lão!). Cứ đà đó tiếp tục, cũng có thể phỏng đoán thêm rằng cái tinh thần khát vọng được an cư, được vui chơi thỏa niềm lạc thú ẩn chứa "dồi dào" trong ý niệm tôn sùng sự sung túc của tín ngưỡng phồn thực tồn tại "bàng bạc" trong kinh Vêđa (nhất là trong quan niệm cho rằng Thực Phẩm là bảo toàn, dưới những dạng vật chất cụ thể là của chung, "ai" cũng được hưởng như nhau), đã là một gợi ý xa, gián tiếp, nhưng đầy hứng khởi và có tầm quan trọng đặc biệt trong khâu biện luận nhằm định hướng xây dựng nền tảng lý luận cho chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại. Tuy nhiên, cần thấy rằng hệ tư tưởng vô thần-duy vật Charvaka không phải là kết quả "ngay từ đầu" của suy lý mang tính (tạm gọi là) "hàn lâm thuần túy", hay cũng có thể nói, không phải (chỉ) nhờ "nghiền ngẫm" kinh Vêđa mà rút ra được. Nghĩa là tập hợp những ý tưởng tự phát "khai mào", đóng vai trò tư tưởng "tiền thân" của trường phái Charvaka đã hình thành trước khi có sự định hướng triết học để từ một hệ tư tưởng thiên về chính trị (phản kháng sự bất công, phi lý trong xã hội) phát triển thành một học thuyết triết học thực sự (giải thích thuần lý, căn cơ trên tinh thần tự giác khách quan nguyên nhân xuất hiện những bất công, phi lý ấy). Nói cách khác, hệ tư tưởng Charvaka nảy sinh trực tiếp từ thực trạng bất công kéo dài, từ sự mâu thuẫn ngày càng gay gắt về quyền lợi giữa tầng lớp chóp bu thống trị và đại chúng bị trị trong xã hội Ấn Độ cổ đại, và vì là con đẻ của tầng lớp bình dân nên cũng mang trong lòng nó tinh thần bất mãn, phản kháng, hơn nữa là đả phá gay gắt sự phủ dụ có tính áp đặt của giáo lý Bàlamôn nói riêng cũng như sự "hợp pháp hóa bóc lột" của chế độ đương thời nói chung. Cụ thể hơn, trước tình cảnh ai oán cùng với những rên xiết, ca thán khắp nơi của đại chúng bị trị, nhiều người có trình độ học vấn khác nhau, có tinh thần cấp tiến, thấy được sự bất công bất bình của thời cuộc, đồng cảm với nỗi niềm của giới bình dân, nên đã đứng về phía họ, lên tiếng bênh vực họ. Từ sự suy xét trên cơ sở quan sát trực giác những hiện tượng bất cập đã trở thành phổ biến trong xã hội, những người cấp tiến ấy đã nêu ra được những ý kiến có tầm lý luận, hợp thành những ý tưởng, luận điểm sơ khai cho tư tưởng Charvaka, và trên cơ sở đó cùng với sự nghiên cứu lý luận chuyên sâu hơn nữa mà xây dựng nên chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại.

Nếu Brihaspati thực sự có sáng tác ra những sutra (kinh, luận thuyết), thì cho đến nay chúng đều đã thất lạc, chỉ còn lưu truyền lại duy nhất một bài thơ của ông, nhưng qua bài thơ này cũng có thể nắm bắt khái quát nội dung trong chủ thuyết về xã hội-nhân sinh của trường phái Charvaka, đó là:
"Không có thiên đường, không có sự giải thoát cuối cùng, không có linh hồn ở thế giới khác (không có thế giới vị lai), cũng không có những nghi thức (tạm hiểu là sự phân biệt hằng định, cố hữu) của những (bốn) đẳng cấp xã hội...Ba kinh Vêđa, ba cách tự chủ (ba nấc khổ hạnh) và tất cả những tro bụi của sự hối hận, đều chỉ là những mánh khóe sinh nhai của một bọn người thiếu trí tuệ và thiếu hùng dũng. Làm sao cơ thể chúng ta này, sau khi thành cát bụi còn có thể trở về trái đất được nữa? Và nếu một bóng ma nào có thể qua các thế giới khác, thì sao nó không nhớ nhung thương tiếc những người thân nó để lại phía sau, mà không quay về với họ? Nếu một con dã thú (làm vật hiến tế) trong nghi lễ Jyotistoma tự nó sẽ lên thiên đường, thì tại sao người cúng tế không đưa cha mình ra ngay? Nếu những người sống trên thiên đường do phụng sự Shraddha, thì tại sao không đem thức ăn xuống cho những người đang đứng trên mái nhà? Những nghi lễ tốn kém là do bọn tu sĩ quỉ quyệt tưởng tượng ra nhằm hưởng lợi, thế thôi. Ba vị thần của Vêđa là thằng hề, kẻ bất lương và ma quỉ. (Vậy thì) khi cuộc sống vẫn đang tiếp diễn, hãy hưởng đời đi, hãy để cho con người được no đủ ngay cả khi đang ngập trong nợ nần".
Cũng trong "Lịch sử văn minh Ấn Độ", Will Durant viết theo nhận định của ông, thế này:
"Sự thực, các học giả càng khảo cứu, phát hiện được một số nhân vật không đáng tôn trọng tí nào (?) trong triết học Ấn Độ trước thời Phật Giáo, thì lại càng thấy bên cạnh các vị thánh đức (?) trầm tư về Brahman, có vô số người miệt thị các tu sĩ, hoài nghi về các thần linh, và thản nhiên nhận cái danh dự là Nastic, tức bọn theo thuyết hư vô. Sangaya, người theo thuyết bất khả tri, không chấp nhận mà cũng không phủ nhận rằng chết rồi, linh hồn còn không, ông ta ngờ rằng con người không thể biết được gì cả, nên chỉ chủ trương tìm sự an ổn thôi. Purana Kashyapa không chịu nhận các giá trị tinh thần và bảo linh hồn là tên nô lệ tiêu cực của ngẫu nhiên. Maskarin Gosala bảo kẻ thiện hay người ác thì cũng bị số mạng chỉ huy hết, không phải cứ làm thiện thì được hưởng phúc, làm ác thì phải chịu họa. Ajita Kasakambalin thì bi đát hơn nữa, cho con người chỉ gồm đất, nước, lửa, gió và bão: "Kẻ điên khùng cũng như người hiền triết, chết rồi thì thây đều rã ra thành cát bụi, tiêu diệt hết chẳng còn gì cả". Tác giả tập anh hùng ca Ramayana tả Jabali, con người hoài nghi tuyệt đối, chế nhạo Rama đã từ chối một vương quốc để thực hiện một ước nguyện: "...Này Rama, tại sao lại để những lời cách ngôn tai hại đó làm mờ ám lương tâm méo mó trí óc như vậy. Những cách ngôn đó đã làm cho bao nhiêu kẻ chất phác không suy nghĩ phải lầm lạc?...Ôi, ta thương hại những kẻ lầm lạc đó cứ mải miết đi tìm một bổn phận hão huyền, phí phạm dâng đồ cúng cho các thần linh tổ tiên. Thật là phí thức ăn! Thần và tổ tiên đâu có nhận tế lễ của ta! Và thức ăn một khi phân phát đi rồi còn nuôi ai được nữa đâu. Thức ăn dâng cho một tu sĩ Bàlamôn, tổ tiên ta làm sao dùng được nữa? Chính bọn tu sĩ quỷ quyệt đó đã đặt ra lệ đó, chúng ích kỷ bảo ta: dâng đồ cúng và sống khổ hạnh đi, từ bỏ hết của cải đi mà cầu nguyện! Nhưng làm gì có thế giới vị lai. Rama này, các hy vọng và tín ngưỡng của con người toàn là hão cả đấy. Nên cứ hưởng lạc trên cõi trần này và từ bỏ các ảo tưởng vớ vẩn vô ích đó đi"".

"Họ (tức phái Charvaka) chế nhạo thuyết cho rằng các kinh Vêđa là chân lý được thiên khải. Họ bảo, chân lý không thể nào biết được nếu không dùng tới giác quan. Cũng không thể hoàn toàn tin lý trí được vì giá trị của một qui kết không những tùy thuộc vào cách nhận xét đầu tiên có đúng hay không, cách lý luận có đúng không, mà còn giả thiết (về tính qui luật) này nữa: sự việc trong dĩ vãng xảy ra cách nào thì trong tương lai cũng xảy ra như vậy, nhưng giả thiết đó, như Hume sau này nói, có gì là chắc chắn đâu. Phái Charvaka bảo: cái gì mà giác quan không nhận thấy thì là không có, vậy linh hồn chỉ là một ảo tưởng và Atman chỉ là một câu chuyện đùa. Xét kinh nghiệm bản thân và xét lịch sử, đâu có thấy năng lực siêu nhiên nào chỉ huy Vũ Trụ đâu. Hiện tượng nào cũng tự nhiên hết, chỉ những kẻ ngu ngốc mới cho là tại ma quỉ hay thần linh. Chỉ có vật chất là thực thể, cơ thể gồm các nguyên tử (phần tử tế vi), bộ óc chỉ gồm các tế bào (phần tử tế vi) suy tư. (...). Không có sự bất diệt và không ai có thể tái sinh được. Tín ngưỡng là một sự sai lầm, mê hoặc, một thứ bệnh hoặc một thuật lừa gạt, không cần đặt ra giả thiết có một Thượng Đế để giảng thế giới hoặc hiểu thế giới. Sở dĩ có những người cho tín ngưỡng là cần thiết chỉ vì họ quen tín ngưỡng quá rồi đến nỗi thấy lạc lõng, bơ vơ. Luân lý có căn bản tự nhiên, nó dựa trên những mặc ước và nhu cầu xã hội chứ không dựa trên một mệnh lệnh thần linh. Thiên nhiên thản nhiên không phân biệt thiện ác, không khen thưởng đạo đức, không trừng phạt tội ác, và mặt trời chiếu cho mọi người, cho các tên bợm cũng như cho các vị thánh đức(...). Không cần phải diệt bản năng cùng thị dục vì những cái đó tự nhiên sinh ra. Đạo đức là một sự lầm lẫn, mục đích của đời sống là sống và sự minh triết chân chính là tìm hạnh phúc"
.
Tiếp theo là nhận định và cả đánh giá có phần sâu sắc hơn về chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại theo quan điểm của Chandradhar Sharma, tiến sĩ triết học-văn chương người Ấn Độ:
"Một số lời thuyết giảng quan trọng của Brihaspati trích từ các tác phẩm triết học khác nhau, có thể thu thập được như sau:
  1. Đất, nước, lửa và không khí là những thành tố (cấu tạo nên vật chất)
  2. Thể xác, cảm xúc và đối tượng (khách thể) là kết quả của sự kết hợp khác nhau giữa các thành tố đó
  3. Ý thức xuất phát từ vật chất, như đặc tính say của rượu xuất phát từ sự lên men
  4. Linh hồn không là gì khác, mà là thể xác chứa ý thức
  5. Niềm vui là mục đích duy nhất của cuộc sống
  6. Bản thân cái chết là sự giải thoát"
"Học thuyết nhận thức của trường phái Charvaka cho rằng chỉ có cảm nhận (pratyaksa - hiểu là nhận thức cảm tính, trực giác, trực tiếp, không thông qua suy tư logic) là phương tiện của tri thức bền vững, giá trị của suy luận bị bác bỏ vì bị coi là hành động phiêu lưu, mạo hiểm. Ở đây, chúng ta lần tìm từ điều đã biết đến điều chưa biết và chưa có điều gì chắc chắn mặc dù một số suy luận có thể là đúng một cách ngẫu nhiên. Một định đề chung chung có thể đúng trong trường hợp cảm nhận được, nhưng không chắc nó còn đúng trong trường hợp không cảm nhận được. Phép suy luận theo lối suy diễn là không thể thực hiện được (...). Nó chỉ là cái vòng luẩn quẩn vì kết luận đã có sẵn trong tiền đề chính, mà giá trị của nó chưa được chứng minh. Phép suy luận qui nạp làm công việc chứng minh giá trị của tiền đề chính trong phép suy luận diễn dịch, nhưng nó cũng không chắc chắn, bởi vì đó là sụ tiếp diễn một cách tùy tiện từ cái biết đến cái chưa biết. Để phân biệt phép qui nạp đúng đắn từ thống kê đơn giản, cần chỉ ra rằng qui nạp đúng đắn không giống phép thống kê đơn giản ở chỗ nó dựa trên mối quan hệ nhân quả, tức là dựa trên sự liên kết không đổi, hay Vyapti (lý luận chính thống (?) - hiểu là tiên đề, định đề mặc nhiên, vốn dĩ đúng đắn, không cần chứng minh, mà cũng không thể chứng minh được). Vì vậy Vyapti là đầu não (hiểu là cội nguồn xuất phát) của mọi suy luận. Nhưng các nhà Charvaka cũng không thừa nhận cả mối quan hệ mang tính bất biến và phổ quát này, và chỉ xem nó là một sự đoán mò. Không thể chứng minh Vyapti bằng suy luận, vì bản thân suy luận được xem là để giả định giá trị của nó. Chứng cớ cũng không thể xác minh được nó, vì trước tiên bản thân chứng cớ không phải là phương tiện hữu hiệu của tri thức (chưa phải cảm thức?). Còn nếu (giả sử) chứng cớ xác minh được Vyapti, thì suy luận sẽ phải phụ thuộc vào chứng cớ (nghĩa là suy luận mất đi tính độc lập khách quan của nó?). Như vậy, không ai có thể tự suy luận được điều gì và suy luận không thể được xem như là một suối nguồn có giá trị của tri thức. (...).
(...)
(...). Từ chối giá trị của suy luận theo quan điểm kinh nghiệm là từ chối suy nghĩ và tranh luận. Mọi suy nghĩ, mọi tranh luận, mọi học thuyết, mọi khẳng định và phủ nhận, mọi bằng chứng và phản chứng đều nhờ vào suy luận mới có. Quan niệm của Charvaka cho rằng cảm nhận (nhận thức trực giác, cảm tính!) có giá trị và suy luận vô giá trị, thì bản thân nhận định đó cũng đã là kết quả của suy luận rồi! Những nhà Charvaka có thể hiểu được người khác và làm cho người khác hiểu mình được, cũng phải bằng suy luận. Tư tưởng và ý tưởng không phải là những đối tượng vật chất. Do đó, không thể đánh giá bằng cảm thức mà chỉ bằng suy luận. (...). Bản thân cảm thức, vốn được Charvaka xem là có giá trị, hợp lý, nhiều khi là trái với sự thật. Chúng ta cảm thức Trái Đất phẳng, nhưng thực ra nó tròn, tưởng nó đứng yên nhưng thực ra nó quay quanh Mặt Trời. (...)
(...)
Về mặt đạo đức, những người theo trường phái Charvaka xem khoái lạc, nhục dục là đỉnh cao của cuộc sống. Hãy cứ ăn, uống và vui vẻ, bởi vì một khi thể xác biến thành tro bụi, sẽ không còn cơ hội trở lại nơi này nữa. Không có thế giới bên kia, không có chuyện linh hồn tồn tại sau khi chết. Tôn giáo là phương tiện kiếm sống của các tu sĩ. Mọi giá trị đạo đức chỉ là những ảo giác do đầu óc bệnh hoạn nghĩ ra. Đạo đức theo Charvaka là chủ nghĩa khoái lạc cá nhân thô thiển, khoái cảm trong cuộc sống, đồng thời là mục đích duy nhất của cá nhân. (...).
Sự bác bỏ từ những người ủng hộ tư tưởng Vêđa và sự phản đối kịch liệt của các tu sĩ Bàlamôn đã dẫn đến sự sụp đổ của trường phái Charvaka. Nhưng đó không phải là nguyên nhân duy nhất (...). Việc không chấp nhận Thượng Đế không phải là nguyên nhân của sự sụp đổ này. (...). Việc xem tư duy là một hình thái vật chất, cũng không phải là nguyên nhân chính dẫn đến việc Charvaka bị mọi người coi thường. Chủ nghĩa khoái lạc cá nhân có sự cuốn hút từ phần "thú tính" trong con người và thực tế khoái lạc là điều ai cũng khao khát. Do đó, nguyên nhân chủ yếu làm cho Charvaka sụp đổ chính là trường phái này đã phủ nhận những giá trị nhân bản, cái khiến cuộc sống đáng để sống. Cuộc sống không có giá trị nhân bản là cuộc sống của thú vật chứ không phải của con người. Khoái cảm chỉ là bóng mờ nhạt của khoái lạc tột đỉnh. Ở đây, có sự khác biệt về chất trong khoái lạc. Khoái lạc của một con heo chắc chắn không giống như khoái lạc của một nhà triết học. (...). Không nên bỏ qua, phủ nhận hay xem thường giá trị nào cả. Vì nói cho cùng, con người cũng chỉ là một loài động vật, sự thỏa mãn dục vọng là tự nhiên, cũng như thỏa mãn cơn đói hay khát. Tuy nhiên, con người không chỉ đơn thuần là một động vật mà còn là một thực thể có lý trí. Một người có lý trí sẽ tự ý thức khả năng nhận ra những giá trị này. Vì vậy, thay vì rơi xuống vị trí của một con dã thú, anh ta nên chuyển khoái lạc súc vật thành khoái lạc con người, bằng sự tao nhã, tự kiềm chế, giáo dục, văn hóa và chuẩn mực đạo đức".
Nhận định và đánh giá của Chandradhar Sharma về chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại là chưa hẳn thỏa đáng, có phần còn hời hợt, đôi chỗ còn thiếu sót, thậm chí là phạm sai lầm trong luận giải. Có như thế là do ông đã dựa trên quan niệm về đạo đức và khoái lạc chưa đạt "độ chín", nghĩa là chưa chuẩn bởi còn bị hạn chế trong nhận thức triết học về tự nhiên-xã hội-nhân sinh. Muốn có cơ may đạt đến chân lý đích thực trong nhận thức xã hội thì tiên quyết phải đứng về phía tự nhiên khách quan (hay nói cách khác là cố "quên mình" đi càng nhiều càng tốt!!!) chứ không được đứng trên bất cứ lập trường chính trị nào, không được "coi khinh" hay "thần tượng" bất cứ tầng lớp hay khu vực dân cư nào, và nhất là không được phân biệt theo lối "thượng đẳng-hạ đẳng" một cách đầy hợm hĩnh-khinh miệt giữa người và thú, dù vô tình hay hữu ý! Còn nếu không như thế thì...chết cha, tuyên bố hơi quá đà,... xin lỗi nhé (đã là con người, ai mà không có lần trong đời hứng chí lên, thích..."nổ")!


(Còn tiếp)

Mời xem:

LỜI PHÂN TRẦN

PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ