18 vị La hán chùa Tây Phương - hameok6
Thứ Ba, tháng 10 06, 2009hameok6
Nguồn gốc 18 vị La hán thì thật là phức tạp. Có truyền thuyết nói rằng các vị vốn là tướng cướp cải tà quy chính làm “lực lượng vũ trang” cho nhà Phật. Lại có thuyết cho rằng đó chính là các vị Tổ nối giõi nhau thay mặt cho Phất tổ ở thế gian (có năm sinh năm mất đàng hoàng?). Có người coi La hán chỉ là loại “công chức quèn” trong thế giới cực lạc, lại có người nói La hán là hiện thân cao siêu của Phật .... Nhưng nói chung La hán được hiểu là người đã đạt cấp "vô học" (không cần phải học gì nữa, vì cái gì trên đời cũng biết) của Thánh đạo và được xem là người đã từ bỏ ô nhiễm, bỏ các gánh nặng, đã đạt mục đích và tâm thức đã được giải thoát.
Mỗi nơi một cách, song nếu ta đến chùa Tây phương thì sẽ thấy 18 bức tượng La hán thể hiện tất cả tính cách (tốt) mà mỗi người chúng ta đều có thể có. Các vị đều là người gốc Ấn Độ (xem hình bên trái tương ứng), song ở chùa Tây Phương tượng các vị đã được các nghệ nhân Việt Nam sáng tạo mang phong cách riêng của nghệ thuật truyền thống Việt Nam.1. Ma Ha Ca Diếp (Mahakasyapa) Thể hiện một người tuổi cao, ăn mặc nghiêm chỉnh, ánh mắt tinh tường, | 2. A Nan Đà (Aananda) Thể hiện một người có hình dáng và nội tâm đều sáng láng |
3. Thương Na Hòa Tu (Sanakavasa) Tượng tạo nên một ông già khắc khổ, sống bằng nội tâm | 4. Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta) Đây là một người độ lượng, ham học hỏi, ham giúp đời. |
Tại chùa Tây phương, trừ 2 vị đầu bày ở Phật điện chính (vì đó là 2 trong 10 đại đệ tử của Phật tổ), các vị khác đều được bày ở gian bên của toà chùa trong. Thì ra trong các vị cũng cũng chia nhau ghế. Mô Phật!
Gửi bởi hameok6 lúc 11:31 CH Thứ hai, tháng mười 05, 2009
Đăng lại bài sưu tầm của hameok6 (đã đăng tại Blog "Bạn Trường Trỗi”: Thứ hai, tháng mười 05, 2009)
Nặc danh Nặc danh nói...
aQT : năm 1960, ông Huy Cận đến chùa Tây Phương cũng đã nghi như anh nên đã có bài thơ sau :
Các vị La Hán chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về lòng vấn vương.
Há chẳng phải đây là xứ Phật,
Mà sao ai nấy mặt đau thương ?
Đây vị xương trần chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay.
Có vị mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.
Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe từa thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn....
Các vị ngồi đây trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổ trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen.
Mỗi người một vẻ, mặt con người
Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời
Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã
Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi.
Mặt cúi nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
Có thực trên đường tu đến Phật
Trần gian tìm cởi áo trầm luân
Bấy nhiêu quằn quại run lần chót
Các vị đau theo lòng chúng nhân ?
Nào đâu, bác thợ cả xưa đâu ?
Sống lại cho tôi hỏi một câu:
Bác tạc bấy nhiêu hình khô hạnh
Thật chăng chuyện Phật kể cho nhau ?
Hay bấy nhiêu hồn trong gió bão
Bấy nhiêu tâm sự, bấy nhiêu đời
Là cha ông đó bằng xương máu
Đã khổ, không yên cả đứng ngồi.
Cha ông năm tháng đè lưng nặng
Những bạn đương thời của Nguyễn Du
Nung nấu tâm can vò võ trán
Đau đời có cứu được đời đâu.
Đứt ruột cha ông trong cái thuở
Cuộc sống giậm chân hoài một chỗ
Bao nhiêu hi vọng thúc bên sườn
Héo tựa mầm non thiếu ánh dương.
Hoàng hôn thế kỷ phủ bao la
Sờ soạng, cha ông tìm lối ra
Có phải thế mà trên mặt tượng
Nửa như khói ám, nửa sương tà.
Các vị La Hán chùa Tây Phương!
Hôm nay xã hội đã lên đường
Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại
Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương.
Cha ông yêu mến thời xưa cũ
Trần trụi đau thương bỗng hoá gần!
Những bước mất đi trong thớ gỗ
Về đây, tươi vạn dặm đường xuân.
27-12-1960
Huy Cận
HMK6