| 
 
 
| 
Lời tòa soạn: Từ ngày 29-6
 đến ngày 5-7-2009 Báo SGGP đã đăng loạt bài viết “Học thuyết Mác – 
Lênin và chủ nghĩa xã hội: Trào lưu hay quy luật tất yếu?” của các học 
giả, các nhà nghiên cứu khoa học xã hội. Đây là những bài viết có tính 
chất tham luận, trao đổi về một đề tài rất quan trọng nhưng cũng khá 
“nhạy cảm” - luận bàn về một học thuyết đã làm “đảo lộn” cả thế giới và 
vẫn đang tiếp tục thu hút sự quan tâm của các ý thức hệ chính trị ở tất 
cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Sau
 khi đăng báo, loạt bài viết đã nhận được nhiều ý kiến của bạn đọc gửi 
đến bày tỏ quan điểm của mình, có đồng tình hưởng ứng và có cả hoài 
nghi, phản ứng… Đặc biệt, có không ít học giả, giáo sư tiến sĩ, các nhà 
nghiên cứu chính trị - xã hội đã gửi bài viết tham gia, góp phần tiếp 
tục làm sáng tỏ chủ đề trên. Tuy nhiên, như đã thông tin, do khuôn khổ 
tờ báo có hạn, chúng tôi xin tạm dừng và hẹn sẽ tiếp tục vào thời điểm 
thích hợp… Để thực hiện lời hứa, đáp ứng yêu cầu 
của bạn đọc, bắt đầu từ số báo hôm nay, ngày 6-10-2009, Báo Sài Gòn Giải
 Phóng tiếp tục trở lại chủ đề trên. Mặc dù còn có nhiều ý kiến khác 
nhau nhưng loạt bài viết mà chúng tôi tập hợp đăng tải sau đây nhằm tiến
 tới một khẳng định: Học thuyết Mác - Lênin và CNXH - Xu thế phát triển 
tất yếu!
 |  
 
Bắt đầu từ cuối những năm 80 
của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu đi 
vào thời kỳ khủng hoảng. Từ tháng 4-1989 đến tháng 9-1991, chế độ XHCN ở
 Đông Âu và Liên Xô lần lượt sụp đổ, tạo nên  “cơn chấn động” chính trị 
lớn nhất trong lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Vấn đề 
đặt ra là vì sao chế độ XHCN lại bị thất bại ở Liên Xô và Đông Âu? Cho 
đến nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình 
nghiên cứu về hiện tượng lịch sử này, đưa ra nhiều nguyên nhân cả sâu xa
 và trực tiếp, cả bên trong và bên ngoài để cắt nghĩa, lý giải về sự sụp
 đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu…  
Nguyên nhân chủ quan: Quan niệm giáo điều về CNXH 
Trước hết, là do quan niệm giản 
đơn, phiến diện quy luật về mối quan hệ giữa sản xuất và lực lượng sản 
xuất; cho rằng, có thể dùng ý chí cách mạng để xây dựng nhanh quan hệ 
sản xuất tiên tiến trên cái nền lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém và 
lạc hậu, và cho rằng, quan hệ sản xuất tiên tiến tự nó mở đường cho lực 
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.  
Sau khi V.I.Lênin qua đời ở Liên 
Xô, chính sách kinh tế mới không được tiếp tục thực hiện mà chuyển sang 
kế hoạch hóa tập trung cao độ. Thời gian đầu, kế hoạch hóa tập trung đã 
phát huy tác dụng mạnh mẽ, song đã biến dạng thành kế hoạch hóa tập 
trung quan liêu, bao cấp. Sau chiến tranh thế giới lần 2, Liên Xô vẫn 
tiếp tục duy trì mô hình này. Trong mô hình này đã tuyệt đối hóa, từ bỏ 
hay gần như từ bỏ một cách chủ quan duy ý chí nền kinh tế hàng hóa, cơ 
chế thị trường, thực hiện bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, 
sáng tạo của người lao động. 
Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
 nhân dân, xây dựng năng lực cầm quyền của một chính đảng cách mạng sau 
khi giành được chính quyền chưa thực hiện đầy đủ, khiến Đảng không phát 
huy được vai trò của người lãnh đạo, người tổ chức nhân dân; vừa không 
phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội..., dẫn đến tình trạng quan 
liêu, tham nhũng, xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn. 
Một nguyên nhân chủ quan khác là 
đánh giá quá cao CNXH hiện thực và đánh giá quá thấp chủ nghĩa tư bản, 
chủ nghĩa đế quốc; chủ quan nóng vội, đốt cháy giai đoạn trong việc 
hoạch định các bước đi của tiến trình xây dựng CNXH (như quan điểm của 
Liên Xô về “CNXH đã hoàn toàn thắng lợi”, “xây dựng xã hội cộng sản chủ 
nghĩa”, “CNXH phát triển”...), không thấy hết tính chất lâu dài, quanh 
co, phức tạp của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. 
Những sai lầm chủ quan nghiêm 
trọng kéo dài trên cản trở sự cải tổ, cải cách, đổi mới đúng đắn là 
nguyên nhân sâu xa làm chế độ XHCN suy yếu, rơi vào khủng hoảng. Đó 
không phải những sai lầm khuyết tật do bản chất của chế độ XHCN, mà do 
quan niệm giáo điều về CNXH. 
Nguyên nhân trực tiếp: Lệch lạc về hệ tư tưởng XHCN và sự can thiệp từ bên ngoài 
Một là, trong cải tổ, Đảng Cộng 
sản Liên Xô đã mắc sai lầm rất nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư 
tưởng và tổ chức. Đó là đường lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại, thể 
hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất. Những tuyên bố ban đầu: 
“cải tổ để có nhiều dân chủ hơn, nhiều CNXH hơn”, “chúng ta sẽ đi tới 
CNXH tốt đẹp hơn chứ không đi ra ngoài nó”, “chúng ta tìm trong khuôn 
khổ của CNXH chứ không phải ở ngoài giới hạn của nó những câu trả lời 
cho các vấn đề do cuộc sống đặt ra”..., rốt cuộc chỉ là những tuyên bố 
suông ngụy trang cho ý đồ phản bội. 
Những người lãnh đạo cải tổ lùi 
dần từng bước, từng bước, thậm chí ngày càng công khai tuyên bố từ bỏ 
những mục tiêu XHCN mà họ từng hứa hẹn, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ 
bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. 
Bằng phát súng lệnh “công khai”, 
“dân chủ”, “không vùng cấm”, cải tổ đã nhanh chóng tạo ra làn sóng phê 
phán, công kích, bôi đen tất cả những gì gắn với lịch sử 70 năm xây dựng
 CNXH, phủ định sạch trơn mọi thành tựu của CNXH. Nó gây hoang mang, xáo
 động đến cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng 
đối với những giá trị của CNXH. Người ta sử dụng toàn bộ phương tiện 
thông tin đại chúng để làm việc này và chiến dịch tuyên truyền, đào bới,
 phủ định quá khứ được các đài, báo phương Tây tiếp sức mạnh mẽ và lái 
theo những ý đồ, mục đích của phương Tây.  
Hai là, chủ nghĩa đế quốc đã can 
thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện được “diễn biến 
hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu. Các chiến lược gia 
phương Tây sớm nhận ra “gót chân Asin” của cải tổ: đó là đường lối xét 
lại, là hệ tư tưởng tư sản, là chính sách thỏa hiệp, nhân nhượng vô 
nguyên tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện tập trung ở “tư duy chính trị 
mới”. Hứa hẹn viện trợ kinh tế được dùng làm một thứ vũ khí rất lợi hại 
để lái cuộc cải tổ theo quỹ đạo mà phương Tây mong muốn. Chủ nghĩa đế 
quốc đã đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và 
Đông Âu. 
 Trong cuốn sách Chiến thắng không cần chiến tranh, Tổng
 thống Mỹ Níchxơn cho rằng “mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định 
nhất”. Ông ta viết: “Toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hiệp định mậu 
dịch, viện trợ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên 
mặt trận tư tưởng”. Chiến lược của Mỹ trước sau như một là đưa bất ổn 
vào bên trong “bức màn sắt”.
 
Tóm lại, sự phá hoại của chủ nghĩa
 đế quốc cùng với sự phản bội từ bên trong và từ trên chóp bu của cơ 
quan lãnh đạo cao nhất là nguyên nhân trực tiếp làm cho Liên Xô sụp đổ.  
Trong tình hình CNXH trì trệ và 
khủng hoảng do những sai lầm của mô hình cũ thì cải tổ, cải cách mở cửa,
 đổi mới là tất yếu. Vì chỉ có một cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới sâu 
sắc, toàn diện mới đưa CNXH thoát khỏi khủng hoảng để bước vào thời kỳ 
phát triển mới. Cải tổ, cải cách, mở cửa, đổi mới là tất yếu nhưng sụp 
đổ thì không là tất yếu. Vấn đề ở chỗ: cải tổ, cải cách, mở cửa, đổi mới
 thế nào, nhằm mục đích gì, theo đường lối nào. 
Một số đảng cộng sản các nước trên
 thế giới đã nhận định nguyên nhân của sự sụp đổ này là: Sự lệch lạc về 
hệ tư tưởng của những người lãnh đạo đảng và sự thiếu hiểu biết về hệ tư
 tưởng XHCN của nhân dân; sự thiếu dân chủ trong xã hội và trong đảng; 
tình trạng quan liêu trong đảng, tham nhũng và sự xa lánh nhân dân của 
lãnh đạo đảng; một số sai lầm trong chính sách kinh tế của đảng cộng sản
 cầm quyền; và sự phá hoại tinh vi của chủ nghĩa đế quốc… 
TS Nguyễn Viết Thông 
| Học thuyết Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội: Trào lưu hay quy luật tất yếu? |  | Bài 2: CNXH ở Việt Nam trước đổi mới |  | Thứ tư, 07/10/2009, 00:28 (GMT+7) |  | 
Trước
 đổi mới, tức là trước Đại hội VI (năm 1986) trở về trước, quan niệm về 
CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta chịu ảnh hưởng của mô hình Xô 
Viết. Đây cũng là tình hình chung trong tất cả các nước trong hệ thống 
XHCN. Vậy quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta trước đổi
 mới là gì?  
Độc lập dân tộc và CNXH  
Trong Đường cách mệnh và tiếp đó 
là những văn kiện do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo được thông qua 
tại Hội nghị thành lập Đảng đã thể hiện rõ đường lối chiến lược của cách
 mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Làm
 cách mạng tư sản dân quyền kiểu mới, do giai cấp công nhân lãnh đạo để 
thực hiện giải phóng dân tộc, giành lấy độc lập dân tộc và dân chủ để 
tiến tới cách mạng vô sản, không phải kinh qua chế độ tư bản chủ nghĩa, 
để xây dựng CNXH và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.  
Từ đó đến nay, Đảng ta đã kiên trì
 với sự lựa chọn lịch sử đó. CNXH vẫn là mục tiêu, lý tưởng không thay 
đổi của cách mạng Việt Nam. Đó là một nhận thức khoa học và thể hiện rõ 
lập trường cách mạng triệt để, kiên định của Đảng ta.  
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH,
 đó là điểm nổi bật, xuyên suốt và chủ đạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh. 
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ 
sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.  
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 
năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tiếp theo
 là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc 
bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách
 mạng dân tộc dân chủ, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên 
CNXH đã khẳng định lựa chọn này là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với điều 
kiện Việt Nam.  
Tiếp theo đó là thắng lợi của sự 
nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên CNXH. Kế thừa những 
thành tựu và những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng CNXH ở 
miền Bắc và trong những năm đầu khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều 
tìm tòi, khảo nghiệm sáng kiến của nhân dân, Đảng ta đã đề ra và lãnh 
đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt 
Nam XHCN phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.  
Quá trình nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH  
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được giải phóng và đi lên CNXH, miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối cách mạng XHCN đã bước đầu hình thành.  
Đại hội III của Đảng (năm 1960) 
đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng: vạch ra con đường tiến lên CNXH ở 
miền Bắc và con đường giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.  
Đại hội đã xác định đường lối 
chung của Đảng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở miền Bắc: Đoàn kết toàn 
dân, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống phấn đấu anh dũng và lao 
động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước 
XHCN anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, 
tiến vững chắc lên CNXH, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc 
và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện 
hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường sức mạnh khối XHCN, 
bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới…  
Đến Đại hội IV của Đảng (năm 
1976), với khí thế của người chiến thắng, Đảng ta đã đề ra đường lối đẩy
 nhanh quá trình đi lên CNXH trên phạm vi cả nước.  
Đại hội IV cũng xác định đường lối
 chung cách mạng XHCN ở nước ta là: nắm vững chuyên chính vô sản, phát 
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách
 mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, 
cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là
 then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm của thời
 kỳ quá độ lên CNXH; xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN, xây dựng nền 
sản xuất lớn XHCN, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới XHCN; xóa bỏ 
chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu…; xây dựng thành 
công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và XHCN; góp phần 
tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập 
dân tộc, dân chủ và CNXH.  
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, 
thời kỳ trước đổi mới, nhận thức của Đảng ta về mục tiêu, bản chất của 
CNXH và sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta là đúng đắn - giải phóng dân 
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Điều này phù hợp với chủ
 nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.  
Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng khuyết điểm, sai lầm  
Vấn đề đặt ra là, vì sao bên cạnh 
những thành tựu đã đạt được nhưng việc thực hiện đường lối đó, chỉ ít 
lâu sau Đại hội IV của Đảng nền kinh tế có chiều hướng đi xuống, đời 
sống nhân dân ngày một khó khăn và từ cuối những năm 1970 nước ta lâm 
vào cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội.  
Đại hội VI của Đảng với phương 
châm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng với sự thật, nói rõ sự thật 
đã khẳng định những thành tựu đạt được, đồng thời chỉ rõ những khuyết 
điểm, sai lầm. Đại hội chỉ rõ chúng ta đã mắc 
những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai
 lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.  
Về mặt lý luận, đó là sự lạc hậu 
về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời 
kỳ quá độ; đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí, giản đơn hóa, muốn thực hiện 
nhanh chóng nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới ở chặng 
đường đầu tiên.  
Chúng ta đã có thành kiến không 
đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất 
hàng hóa đang tồn tại khách quan; do đó không chú ý vận dụng chúng vào 
việc định chế các chủ trương, chính sách kinh tế. Chưa chú ý đầy đủ việc
 tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của mình và nghiên cứu kinh nghiệm của 
các nước anh em.  
Từ thực tiễn cách mạng, cả thành 
công và khuyết điểm sai lầm, Đại hội VI đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm,
 trong đó có bài học “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn 
trọng và hành động theo quy luật khách quan”.  
Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng 
đúng đắn các quy luật thông qua chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà 
nước là sản xuất, phát triển lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và 
văn hóa của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, con người mới 
XHCN ngày càng được hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế 
độ XHCN được củng cố. Mọi chủ trương, chính sách gây tác động ngược lại 
là biểu hiện sự vận dụng không đúng quy luật khách quan, phải được sửa 
đổi hoặc bãi bỏ…  
 
NGUYỄN VIẾT THÁI |  
| Học thuyết Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội: Trào lưu hay quy luật tất yếu? |  | Bài 3: Thành tựu thời kỳ đổi mới ở Việt Nam: Con đường đi lên CNXH hình thành những nét cơ bản |  | Thứ năm, 08/10/2009, 00:25 (GMT+7) |  | 
Đại
 hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đưa ra 
đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là đổi mới tư duy, trước 
hết là tư duy kinh tế; nắm vững quy luật khách quan, lấy dân làm gốc… 
Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương, chính sách,
 sản xuất trong nước ngày càng phát triển, lưu thông ngày càng thông 
suốt, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân từng bước được ổn định 
và nâng cao, xã hội ngày càng lành mạnh, qua đó, chế độ XHCN ngày càng 
được củng cố…  
Kinh tế thị trường định hướng XHCN 
Có thể nói, đây là thành quả to 
lớn và quan trọng của nghiên cứu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN là mô hình kinh tế mới mẻ chưa
 từng có trong lịch sử nhân loại. Tư duy lý luận và nhận thức về KTTT 
định hướng XHCN là một quá trình lâu dài, thường xuyên và qua nhiều bước
 với mục tiêu không thay đổi là xây dựng thành công CNXH ở nước ta. 
KTTT là một kiểu tổ chức kinh tế -
 xã hội; trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng 
đều được thực hiện thông qua thị trường. Vì thế KTTT không chỉ là “công 
nghệ”, là “phương tiện” để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là những 
quan hệ kinh tế - xã hội, nó không chỉ gồm lực lượng sản xuất, mà còn cả
 một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy rõ ràng là không thể có một nền 
KTTT chung chung, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, 
tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội của một nước. 
KTTT định hướng XHCN là nền kinh 
tế vừa tuân theo quy luật của KTTT, vừa chịu sự chi phối của các nhân tố
 định hướng XHCN. Vì thế KTTT ở nước ta vừa có những đặc trưng chung, 
phổ biến của mọi nền KTTT, vừa có những đặc trưng mang tính đặc thù - 
định hướng XHCN. Theo tinh thần của các đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam 
từ lần thứ VI đến lần thứ X định hướng XHCN nền KTTT thể hiện ở các nội 
dung sau đây: Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, 
dân chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản 
xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, đồng thời
 khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng và giúp đỡ, tạo điều kiện để
 người khác thoát khỏi nghèo, từng bước khá giả hơn; phát triển kinh tế 
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà 
nước giữ vai trò chủ đạo; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay 
trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi 
đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề 
xã hội vì mục tiêu phát triển con người; thực hiện chế độ phân phối chủ 
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp
 vốn cùng với nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội; phát huy 
quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết 
nền kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
 Sự
 khác nhau về bản chất của nhà nước pháp quyền XHCN và vai trò lãnh đạo 
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình phát triển là điều kiện, là 
một “tiêu thức” quy định đặc trưng bản chất của nền KTTT nước ta.
 
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
 Nam và sự quản lý của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhân tố hàng 
đầu quyết định thành công sự phát triển rút ngắn, bền vững nền KTTT định
 hướng XHCN ở Việt Nam và công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã 
hội, KTTT... mới không bị chệch định hướng XHCN.  
Những thành tựu về kinh tế, xã hội 
Hơn
 20 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình KTTT định 
hướng XHCN, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu 
đáng kể, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. 
 
Về tốc độ tăng trưởng, trong những
 năm khởi đầu công cuộc đổi mới (1986-1991) tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
 tăng trưởng tương đối chậm. Nhưng khi quá trình đổi mới diễn ra rộng 
khắp và đi vào thực chất thì tốc độ tăng trưởng GDP luôn đạt mức cao và 
ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm sút do dự báo chủ quan và ảnh 
hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
 Do tốc độ tăng GDP 
cao nên GDP/người/năm cũng tăng lên đáng kể, từ 289 USD (năm 1995) lên 
1.024 USD (năm 2008), cho thấy Việt Nam đang từng bước vượt qua ranh 
giới của quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp và đang vươn lên nước
 đang phát triển có thu nhập trung bình thấp (theo quy ước chung của 
quốc tế và xếp loại các nước theo trình độ phát triển thì nước đang phát
 triển có thu nhập trung bình thấp là những nước có GDP/người từ 765 đến
 3.385 USD).
 
 Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo 
hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều 
hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế nhà nước được tổ chức lại, đổi mới và 
chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, 
hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp 
quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và cải 
thiện đời sống nhân dân; kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển khá đa
 dạng (đóng góp 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ 
tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với 
thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế .
 
Thành tựu đổi mới trong nước kết 
hợp với thực hiện chính sách mở cửa, tích vực và chủ động hội nhập kinh 
tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam 
và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế mới. Từ một quốc gia bị 
phong tỏa, cấm vận; từ một nền kinh tế kém phát triển và “đóng cửa”, sau
 hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới. Đến nay Việt Nam
 đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh thổ; mở rộng 
quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài ra, 
Việt Nam còn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế 
và khu vực, và điều đáng nói nhất là năm 2007 Việt Nam đã trở thành 
thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). 
Phúc lợi xã hội và đời sống vật 
chất, tinh thần của người dân cũng được cải thiện rõ rệt. Theo đánh giá 
của Liên hiệp quốc, Việt Nam về đích trước 10 năm với mục tiêu xóa đói 
giảm nghèo trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ. 
Đánh giá về thành công của quá 
trình đổi mới, Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Những thành 
tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù
 hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH 
ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận và công cuộc đổi mới, 
về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên 
những nét cơ bản”  
GS-TS CHU VĂN CẤPHọc viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
 
Tổng thư ký Hội đồng lý luận Trung ương  |  
 Giới thiệu: bài viết này giải thích ngắn gọn và dễ 
hiểu vì sao Chủ Nghĩa Xã Hội (CNXH) lại thất bại trong việc đạt tới mục 
đích tối cao của nó. Không phải vì CNXH xấu, hoặc những con người tin 
vào nó thiếu tâm trí hoặc tinh thần. Cũng không phải vì điều kiện tài 
nguyên hay vì chất xám con người. CNXH thất bại, hoặc có thể nói là CNXH
 không thể nào hoạt động được và bất khả thi, đơn giản vì nó thiếu vắng 
và kìm nén những động cơ kinh tế và động lực để con người phát triển.
 Bài viết được dựa theo cuốn sách tên ‘Socialism‘ (Chủ Nghĩa 
Xã Hội) của Ludwig von Mises, một trong những nhà kinh tế học hàng đầu 
của trường phái kinh tế học Áo (Austrian Economics). Đối với riêng tôi, 
đây là tác phẩm phân tích về nền kinh tế CNXH hay nhất cho đến nay.
 Lưu ý: Nếu các đọc giả muốn đọc thêm thì xin vào đây, Mises Institute.
 
 
 Sau đây là 8 lý do vì sao nền kinh tế CNXH không thể hoạt động và phát triển được:
 
 
Không cho phép quyền sở hữu cá nhân.Sự tham gia tự nguyện và tham gia bắt buộc.Sự công bằng và bất công bằng.Thiếu vắng giá cả.Không có động lực cá nhân, lòng tham.Thiếu vắng Lời và Lỗ.Quyết định tập trung thay vì quyết định linh hoạt.Dùng tiền của người khác cho người khác. 
Lý do số 1: Không cho phép quyền sở hữu cá nhânTrong nền kinh tế CNXH, hoàn toàn không có quyền và sự tư hữu. Tất cả
 các tài sản đều được đồng sở hữu, nghĩa là tất cả mọi thứ đều sở hữu 
bởi chính phủ thay cho mọi người. Đây là một lý tưởng không có gì sai 
trên lý thuyết. Nhưng khi áp dụng thì nó đi ngược lại tâm lý và lịch sử 
con người. Nếu một cá nhân không có quyền sở hữu thì cá nhân đó có động 
lực để quan tâm và duy trì những tài sản tạm thời của cá nhân đó không?Hãy tự hỏi bản thân bạn. Bạn là một nông dân, bạn làm việc nhưng bạn 
lại không có quyền sở hữu những thành quả của bạn làm ra, cũng như trang
 trại của bạn. Bạn có chịu thức khuya dậy sớm để làm việc không? Dĩ 
nhiên là không. Vì tại sao bạn phải làm việc khi những thành quả của bạn
 sẽ không bao giờ thuộc về bạn? Vậy còn gì là động lực để con người phấn
 đấu và phát triển?
 
 
Lý do số 2: Sự tham gia tự nguyện và tham gia bắt buộcKhi con người làm việc với con người một cách tự nguyện, điều đó chỉ 
xảy ra khi cả hai bên đều có lợi. Nhưng điều đó không xảy ra với chính 
phủ, đơn giản vì chính phủ là bắt buộc, là bạo lực. Bạn phải tuân theo 
cho dù không nhận được giá trị gì. Vậy bạn thích làm theo cách nào: tự 
nguyện hay bắt buộc? Và bạn nghĩ cách nào sẽ có lợi hơn có bạn, cho cả 
hai bên và cho xã hội?
 
Lý do số 3: Sự công bằng và bất công bằngCNXH dựa trên nền tảng là mọi người đều công bằng, mọi người đều như 
nhau. Theo CNXH, ai cũng phải làm việc như nhau, không hơn và không kém.Nhưng thực tế là gì? Hãy quan sát, mọi người quanh bạn có như nhau 
không? Hoàn toàn không. Mỗi cá nhân trong xã hội đều khác nhau. Tôi 
thích làm việc 12 tiếng 1 ngày, người kia thích làm việc 8 tiếng. Người 
kia thích mạo hiểm kinh doanh, người kia thì thích ăn lương tháng. Người
 kia muốn làm trong ngành dầu khí, trong khi người nọ thích làm nhạc sĩ.
 Mỗi người đều khác nhau hoàn toàn và không thể gom chung lại với nhau.
 Vì mỗi người khác nhau nên giá trị lao động cũng khác nhau, đồng 
nghĩa với việc lương mỗi người cũng khác nhau. Thị trường quyết định giá
 trị của từng người chứ không phải là chính phủ.
 Mượn câu nói của Milton Friedman:
 
 
“Một xã hội ưu tiên sự công bằng trước tự do sẽ không có 
công bằng và tự do. Nhưng một xã hội mà ưu tiên tự do trước sự công bằng
 sẽ có được một mức độ cao của cả hai.” 
Lý do số 4: Thiếu vắng giá cảMột trong những thứ căn bản của nền kinh tế là giá cả. Giá cả là gì? 
Nó không đơn thuần chỉ là một con số. Nó là một sự phản ảnh của sự cung 
cầu của một và mọi thứ hàng hóa và dịch vụ. Nó cho con người biết món 
hàng đó phải tốn bao nhiêu công sức để sản xuất ra, tiền lời là bao 
nhiêu, và sự khang hiếm của vật liệu cần thiết để làm ra nó.Các doanh nhân dựa vào giá cả để đánh giá mức độ cần thiết của nó và 
dựa theo nó để phân phối và sử dụng tài nguyên. Giá tăng có nghĩa là 
người mua sẵn lòng trả thêm để có nó, cũng đồng nghĩa với việc là doanh 
nhân sẽ có thêm lời và động lực, cũng đồng nghĩa với việc để làm ra 
một món hàng thì phải tốn nhiều thời gian và công sức hơn. Giá cả là sự 
phản ảnh cuối cùng của thị trường về nhu cầu và sự khang hiếm của một 
món hàng.
 CNXH thì không cho phép giả cả linh hoạt và phản ảnh thực trạng. 
Trong thị trường, giá cả được quyết định bởi tất cả thành viên tham gia.
 Nhưng trong nền kinh tế CNXH thì nó được quyết định bởi một nhóm quan 
chức làm việc trong một tòa nhà đâu đó xa xôi. Vấn đề là gì? Vấn đề là 
một nhóm người đó thì làm sao thấy và phản ứng linh hoạt bằng tất cả mọi
 người?
 CNXH dựa trên nền tảng một nhóm người có sự hiểu biết nhiều hơn cả 
trăm triệu người đang hoạt động linh hoạt với nhau. Một nền tảng phi lý.
 Chính phủ không thể nào định giá linh hoạt và chính xác bằng thị trường
 được.
 Để ví dụ. 1 kg cà phê được thị trường định giá là 100 VND. Không ai 
có thể giải thích được vì sao lại là 100 VND nhưng mọi người đều chấp 
nhận giao dịch với giá đó vì mọi người cảm thấy hài lòng. Mọi người đều 
tìm được giá trị riêng từ 1 kg cà phê với giá 100 VND đó. Còn chính phủ 
sẽ định giá bao nhiêu? 90 VND? 150 VND? Sẽ mất bao lâu để các quan chức 
đưa ra quyết định đó, và khi họ đưa ra quyết định rồi giá đó còn phản 
ứng thực trạng của thị trường không? Rất khó, gần như bất khả thi. Sự 
thất bại của ‘Kinh tế mới’ năm 1976-1986 ở Việt Nam là ví dụ điển hình.
 
 
Lý do số 5: Không có động lực cá nhân, lòng thamTrong nền kinh tế CNXH, mọi thứ đều được đồng sở hữu, ai cũng nhu ai.
 Không ai được giàu hơn và không ai được nghèo hơn, mọi người đều như 
nhau. Nếu bạn không được quyền sở hữu những thành quả của bạn thì bạn có
 chịu làm việc không?Ở trong cái làng kia có 10 người, mỗi người một sào ruộng. Quy luật 
là không cần biết và không phân biệt ai làm bao nhiêu giờ, ai làm nhiều 
hay ít. Cứ cuối mùa thu hoạch là mọi người gom chung lại và chia đều 
nhau. Khi áp dụng ngoài đời thì nếu một người siêng năng chịu làm hơn 
nhưng vẫn phải chia đều cho những người còn lại mặc dù họ không chịu 
làm, thì tại sao người siêng năng đó phải làm và phải siêng năng hơn?
 Ai cũng có tâm lý thụ động, ai cũng muốn hưởng chứ không muốn làm. 1 
người làm còn 9 người kia không muốn làm thì chẳng có lý do gì để phát 
triển. Làm việc và phát triển làm gì khi mình không được sở hữu thành 
quả của mình và phải chia đều cho những người không siêng năng như mình?
 Đó là tại sao mô hình Hợp Tác Xã lại thất bại, vì nó tiêu diệt động lực
 và lòng tham trong từng cá nhân. Làm cho họ lười biếng và thụ động. Chỉ
 khi nào những cá nhân đó được sở hữu thành quả của mình, hưởng lợi theo
 sức lao động của mình thì họ mới có động lực để cạnh tranh và phát 
triển.
 Mô hình làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu là một triết lý rất lý 
tưởng và khả thi nếu mọi người đều siêng năng như nhau. Nhưng thực tế 
thì không. Xã hội có người lười người siêng. Tại sao người siêng phải 
chia đều công lao của mình cho người làm biếng? Bạn làm bài được 10 
điểm, bạn có chịu và chấp nhận chia điểm cho người được 5 điểm không? 
Thật bất công phải không? Nhưng đó chính là nền tảng của CNXH.
 
 
Lý do số 6: Thiếu vắng Lời và LỗTrong nền kinh tế thị trường, Lời & Lỗ là tín hiệu, như đèn giao 
thông. Lời là đèn xanh, hãy đi tiếp. Lỗ là đèn đỏ, hãy ngưng lại. Khi 
một doanh nhân làm việc có lời, điều đó nghĩa là lĩnh vực đó có tiềm 
năng, khách hàng có nhu cầu sử dụng món hàng đó. Doanh nhân đó sẽ dựa 
theo mức lời để tái đầu tư và báo hiệu cho các doanh nhân khác cùng tham
 gia. Nhưng nếu là lỗ thì có nghĩa là lĩnh vực đó hay anh ta đã làm gì 
đó sai, hoặc khách hàng không có nhu cầu, lỗ ra tín hiệu cho các doanh 
nhân đầu tư vào chỗ khác, tránh việc tiếp tục đầu tư vào một việc không 
tạo ra giá trị.Nền kinh tế XHCN thì không có chuyện lời lỗ. Phải nói chính xác hơn 
là không có chuyện lỗ, vì doanh nghiệp nhà nước thì không lỗ được. Bởi 
vì không có Lời & Lỗ nên các quan chức không biết phải phân phối tài
 nguyên như thế nào, Không biết nên đầu tư vào lĩnh vực gì, với kinh phí
 bao nhiêu và quan trọng hơn là nên ngừng lại ở điểm nào. Nếu không có 
Lời & Lỗ thì làm sao một nền kinh tế và các thành viên trong nền 
kinh tế đó có thể đưa ra quyết định được?
 
 
Lý do số 7: Quyết định tập trung thay vì quyết định linh hoạtTrong nền kinh tế thị trường, mỗi người sẽ có một quyết định riêng và
 khác nhau. Sự quyết định này linh hoạt và thay đổi theo từng năm, từng 
tháng, từng ngày, từng giờ. Vì sao? Vì khi một ai đó thay đổi thì sẽ ảnh
 hưởng lớn nhỏ đến sự quyết định của người khác. Hôm nay người ta thích 
dùng Blackberry, ngày mai lại thích iPhone. Nền kinh tế phát triển dựa 
trên sự linh hoạt này.Nhưng trong nền kinh tết CNXH, mọi quyết định đều do một nhóm người 
ban hành. Vì sao đây lại là vấn đề? Vì tại sao một nhóm người này lại có
 sự hiểu biết để đưa ra quyết định thay cho những người còn lại trong xã
 hội? Ai là người đã bầu họ để họ ra quyết định? Nếu họ quyết định đúng 
thì không sao, nhưng rất hiếm và rất khó. Nếu họ quyết định sai thì mọi 
người đều bị ảnh hưởng. Tư duy này được FA Hayek gọi là sự ‘lừa dối hoặc ngạo mạn của trí thức‘.
 Làm sao một nhóm người nào đó ở một nơi xa xôi nào đó có thể có đủ 
kiến thức và sự linh động để đưa ra quyết định thay cho hàng trăm triệu 
người được? Nếu họ nghĩ họ có đủ khả năng đó thì sao không cho người 
khác suy nghĩ và đưa ra quyết định thay cho họ? Đây là tư duy ngạo mạn, 
phi lý.
 Nền kinh tế và xã hội chỉ phát triển được khi mỗi con người có tự do tự quyết.
 
 
Lý do số 8: Dùng tiền của người khác cho người khác (nền tảng của các cơ quan chính phủ)Khi bạn dùng tiền của người khác cho người khác, bạn sẽ không quan 
tâm và không có động lực để tối đa hóa giá trị. Vì sao? Đơn giản vì đó 
đâu phải tiền của bạn, bạn không cảm thấy xót và vì thế bạn không quan 
tâm. Bạn không quan tâm số tiền đó là bao nhiêu, cũng như số tiền đó sẽ 
được chi tiêu ra sao, giá trị đổi lại có đáng giá không. Bạn cũng không 
phí thời gian cân nhắc, trả giá, phấn đấu hoặc thương lượng khi dùng nó 
như lúc bạn dùng tiền bản thân cho bản thân.Đây chính là nền tảng của các cơ quan chính phủ, từ các cơ quan xã 
hội cho đến các công ty quốc doanh. Nếu các nhân viên chính phủ dùng 
tiền không hiệu quả cũng không có ai trừng phạt, họ cũng không cần phải 
cạnh tranh vì doanh nghiệp nhà nước thì không có chuyện lỗ, vì luôn được
 ngân sách bù đắp. Họ cũng không thấy xót khi nhìn số tiền này bị tham 
nhũng, lạm dụng hay ăn cắp, vì đâu phải tiền có họ nên chẳng có lý do gì
 chính đáng để họ quan tâm.
 Bạn hãy so sánh tác phong làm việc giữa các doanh nghiệp hoặc tổ chức
 tư nhân và nhà nước. Vì sao cũng con người đó mà lại 2 tác phong và 2 
kết quả hoàn toàn khác nhau? Vì một bên dùng tiền của mình, phải cân 
nhắc và cạnh tranh, vì họ cảm thấy xót. Còn một bên thì dùng tiền người 
khác cho người khác, nên chẳng có gì để xót. Đây là nguyên nhân vì sao 
các cơ quan chính phủ lại hoạt động kém và tham nhũng.
 Ku Búa
 | 
1 comments:
Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)
- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>