Tướng Đinh Đức thiện làm thơ



         Tướng Đinh Đức Thiện làm thơ

Bác Đinh Đức Thiện, là phụ huynh của một trong các ACE Trỗi. Có nhiều giai thoại về bác, đặc biệt là tính nói thẳng, nói thật và nói...tục. Nhưng không thấy nói bác làm thơ bao giờ. Tình cờ đọc blog của Nguyễn Quang Lập, nhà văn có tiếng về " nói tục có duyên", thấy có bài về bác ĐĐT làm thơ.

Xin giới thiệu với ACE đọc để hiểu thêm về cha, anh ta.

Lê Trí Dũng K8.

Xem:
  1. Tướng Đinh Đức thiện làm thơ -16/5/2009 tại Blog "Bạn Trỗi K5"
Sưu tầm trên mạng:
  1. Đinh Đức Thiện - Wikipedia
  2. Thượng tướng Đinh Đức Thiện - Collector Trần Vương Việt
  3. Tướng Đinh Đức Thiện và cô dân quân lái đò sông Ghép - Nguyễn Khắc Thuần 28/7/2009 - Báo điện tử QĐND
  4. Nghiêm khắc nhưng tình nghĩa - Thiếu tướng ĐẶNG HUYỀN PHƯƠNG, 22/5/2008 - Báo điện tử Quân Đội Nhân Dân
  5. TÌNH YÊU CỦA THƯỢNG TƯỚNG - HUY BẢO, 10/9/2007 - Tạp chí Văn nghệ quân đội


Xin đăng lại bài của tác giả Nguyễn Quang Lập để lưu tại Blog K6 "...vì tất cả các entry không phải bọ viết hoặc không phải văn bọ thì bọ chỉ để một thời gian cho bà con đọc xong rồi del".

"Thượng tướng Đinh Đức Thiện nguyên là thành viên cơ quan đại diện Bộ quốc phòng trong chiến dịch Tây Nguyên tháng 3-1975, phó tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng năm 4-1975. Ông tên thật là Phan Đình Dinh (1913-1987) quê ở xã Nam Vân- huyện Nam Ninh- Nam Định. Ông tham gia cách mạng từ năm 1930, trải qua nhiều chức vụ, từ cục trưởng, thứ trưởng, đến bộ trưởng… ở đâu ông cũng nổi tiếng là người cương trực, năng động và rất nóng tính. Rất nhiều giai thoại về ông tướng hét ra lửa này.

Tình cờ bọ được anh Hoàng Việt Quân cho biết ông Thiện làm rất nhiều thơ, nhiều bài rất thú vị và cung cấp cho bọ một trang thơ của ông. Xin trân trọng giới thiệu thơ của vị tướng nổi tiếng này với một vài lời chú thú vị.



Tự trào

Ai về Nam Định đất nhà Trần
Nhớ ghé Nam Vân xã quê tôi
Hỏi lão Thiện già ngoài bẩy chục
Tuy già lão vẫn còn cứng gân


1984


Ngẫu tác

Rượu ngon cùng với bạn hiền
Phải mua dù có đắt tiền cũng mua
Câu thơ nghĩ đắn đo hãy viết
Viết cho ai ai biết làm thơ
Đàn kia có tự bao giờ
Giây kia rung những tiếng thơ tình người.


1985



Lại được phong…

Bốn lần làm tướng đã qua rồi
Cứ nghĩ yên thân đến mãn đời
Nghe nói phen này phong thượng tướng
Già rồi hết thượng tóe xin thôi



1985
Hỏi ông sao bốn lần ông cười giải thích:
1. Khi còn nhỏ mình rất nghịch ngợm nên người nhà gọi mình nghịch như tướng cướp
2. Lớn lên được giác ngộ đi hoạt động CM, địch gọi mình là tướng giặc
3. Năm 1972 nhà nước phong tướng cho mình
4. Bộ quần áo cấp tướng ít khi mặc nên vợ cứ phải mang phơi luôn. Bà ấy gọi mình là tướng mốc.




Tướng sợ

Giời sinh ra tướng để đánh giặc
Tướng sợ không còn quần đùi mặc
Ối giời ơi tướng ơi là tướng
Tướng không bằng cái củ cặc

Năm 1965, đại tướng Batop -Tổng tham mưu trưởng QĐXV- sang thăm và trao đổi với VN về kế hoạch chống Mỹ. Nghe phía VN trình bày xong, đại tướng Batop nói đại ý: “VN còn nghèo mà tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ tôi sợ các các đ/c sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Tôi nói thật nếu chống Mỹ các đ/c sẽ không còn quần đùi để mặc.” Ông Thiện tủm tỉm cười và giờ giải lao ông đọc bài thơ trên cho ông Lê Quang Đạo. Cả hai đều lắc đầu cười.



Khen

Hỏi ai đánh giặc đã bao phen
Chắc hẳn trong lòng rõ trắng đen
Đánh giặc bàn lùi mà vẫn thắng
Thế mà thiên hạ khối anh khen


1975


Đi qua sông Ghép

Hôm đi qua phà Ghép
Tới nơi chẳng thấy đò
Làm cách nào sang sông
Đang bực sẵn trong lòng
Mình văng ngay “củ kiệu”
Bỗng lái đò xuất hiện
Chắc chị đã nghe hết
Vẫn đưa đò cho sang
Chị lái đò mới nói
“Các ông là bộ đội
Hay cán bộ trung ương
Văng cái ấy với dân
Theo tôi là hơi bậy
Làm sai lời Bác dậy
Không có đúng chi mô
Với tôi người lái đò
Thấy răng tôi cứ nói
Các ông chớ mất lòng”

Sông Ghép rộng mênh mông
Chị lái đò “ca mãi”
Mình nghĩ mình biết dại
Thua cả chị lái đò.


Trung tá Lê Trung Hải BT phó BT150 Vinh đi cùng đoàn đã tặng ông Thiện bốn câu:
Tướng tàu ngạo mạn sang đất Việt
Đã phải chịu thua chị lái đò
Tướng Thiện qua sông đò chẳng lụy
Bị chị lái đò sửa gáy cho


Theo đ/c Huệ trung tá kỹ sư cục xăng dầu người đi cùng đoàn với tướng Thiện đã nhanh chóng ghi được cả 2 bài thơ trên vào sau tờ giấy giới thiệu có đóng dấu khống chỉ tại BT150. Vinh-Nghệ An vào ngày … tháng … năm 1971 khi đoàn vào nghỉ chân ăn cơm trưa.


Tâm tư …

Chém cha cái kiếp má đào
Cử ra rồi lại điều vào như chơi
Nhân tình bao nỗi đầy vơi
Nên chẳng kết thúc cuộc đời là đây

Theo ông Thiện nói lại: Trong phiên họp hội đồng chính phủ. Ông Thiện lúc này được điều từ Bộ trưởng phụ trách dầu khí sang Bộ giao thông nên được mời dự phiên họp. Trong khi cuộc họp chưa đủ thành phần, ông Trường Chinh có nói chuyện với ông Thiện và hỏi : “Nghe nói Anh Thiện hay làm thơ phải không? đọc một hai bài nghe nào”. Ông Thiện trả lời: “Thơ các anh mới gọi là thơ chứ thơ tôi mà đọc để các anh chém đầu à”. Nói xong ông đọc: "Chém cha…”
Nghe xong ông Trường Chinh cười.



Tự bạch

Người bảo ông làm bừa
Ông bảo làm vì cách mạng thôi
Chỉ còn một bước về hưu nữa
Tớ có sợ cái con buồi…

Bài này ông Thiện làm sau khi có cuộc kiểm tra phê bình mấy việc ông làm mà Quốc Hội cho là sai nguyên tắc
(1. Tự ý xuất kho vũ khí B40,41 chở vào B2 và các chiến trường. Theo quy định đây là vũ khí lợi hại nhất lúc bấy giờ. Xuất cho đâu phải có ý kiến của BTTM. 
2. Cấp cho Quảng Bình 40 xe Zil 130 đổi lấy 2 trung đoàn công binh để mở đường 103. Cấp dây và thiết bị thông tin cho BTL 559 và một số chiến trường).



Tặng ông quan liêu

Bệnh nào chẳng bệnh… bệnh quan liêu
Chẳng biết rằng dân cảnh đói nghèo
Có cái ông tường tận nhất
Ấy là bã xã , “cái ông yêu”



Nhân tình
Tặng ông H.M.T


Anh gặp tôi trong chiến tranh
Tôi gặp lại anh trong hoà bình
Gặp nhau nhớ lại chuyện nhân tình
Qua sông tới bến reo vào sống
Câu chuyên ngày xưa giống chuyện mình

Những tưởng không nên nói chuyện xưa
Nói ra đã để mấy ai ưa
Ngày nay còn biết bao nhiêu chuyện
Hoạ có tai voi chứa mới vừa

1985
Trong thời kỳ chống Mỹ khoảng năm 1966-1967 ông HMT, một chính ủy cấp sư ở khu 5 ra Hà Nội họp. Ông HMT nghe tiếng ông Thiện đã lâu có đề nghị xin được lại thăm. Trong buổi gặp ông Thiện, ông HMT đề xuất xin một số thứ cần thiết cho sư đoàn nhưng với số lượng chỉ đủ chở 2 xe tải. Nghe xong ông Thiện đã chỉ thị cho bộ TMHC nghiên cứu giải quyết không chỉ đủ chở 2 xe mà 20 xe mới chở hết. Nghe vậy ông HMT  một mực từ chối vì không có xe. Ông Thiện cười và bảo: “ Sao cậu dốt thế, mình cấp cho cậu mình sẽ cho xe chở đến tận nơi cho cậu. Nếu không cho cho xe thì mình đánh đố cậu à” Ai cũng thấy hết sự cảm động và vui mừng của ông HMT. Chuyện đời vật đổi sao dời là chuyện thường tình. Vào Đại Hội Đảng khóa V. ông Thiện xin rút. Ông HMT vào TƯ và lên phụ trách BTTU của một tỉnh. Nhân một chuyến công tác vào Nam, lúc này ông Thiện là thứ trưởng BQP có ghé vào TU tỉnh nọ trước là thăm các đ/c cũ, sau là trao đổi một số công việc liên quan đến QĐ. Trong buổi tiếp ông Thiện, ông HMT tỏ ra kênh kiệu từ kiểu ngồi, giọng nói thể hiện ông đang ở vị trí cao…Với sự nhạy cảm cao ông Thiện đứng dậy ra về ngay trước sự ngỡ ngàng của ông HMT.



CHÙM THƠ tặng anh Tố Hữu

1.
Nhà thơ kiêm nhà nông
Một hôm ra thăm đồng
Thấy một cô con gái
Đi cày con trâu cái
Nhà thơ bèn đứng lại
Phát hiện được ra ngay
Câu chuyện thật là hay
Trâu kia thì hướng hậu
Cô này thì hướng tiền
Nhà thơ đứng lặng yên
Tìm vần thơ minh hoạ
Ôi sao chuyện kỳ lạ
Nàng thơ đã biến thiên
Chỉ còn tiền và hậu

1971

2.
Bè bạn ta nay chẳng khác xưa
Nghĩa tình đâu phải chuyện nắng mưa
Những người cuốn chiếu nhân tình sạch
Xin nói ngay rằng tớ chẳng ưa

3. Tôi với anh
Tôi đến với anh đến lúc này
Với tình đồng chí bấy lâu nay
“NƯỚC NON NGÀN DẶM” cùng đi tới
Bom đạn tung trời chẳng đổi thay.

4.
Trông vời núi Ngự với sông Hương
Làng quê đi một bước đường một đau
Thù này mang nặng từ lâu
Nắng mưa đã gội mái đầu hoa râm

1973
Năm 1973 TƯ cử một đoàn cán bộ cao cấp do Tố Hữu, Đinh Đức Thiện thăm và làm việc với TƯ cục miền nam



5. Thoáng qua mấy nước
Tôi bước chân tới Bon
Trông mặt họ vẫn còn
Tự cho mình thượng đẳng
Họ quên mới ngày nào

Tôi đi sang Ba Lê
Máu thực dân nhà nghề
Khinh người và vênh váo
Quên bài học nặng nề

Tôi bước tới thành Rôm
Quê tượng đài thành quách
Nền nghệ thuật hiển hách
Tiếc: nhiều đĩ, ăn mày
Tôi sang Mạc Tư Khoa
Ngợp những người và hoa
Khệnh khạng mùi Vốt Ca
Cẩn thận chết bỏ cha

Tôi trở về Trung Hoa
Họ đang bàn Trường Sa
Mặt mày đầy gay gắt
Tôi nhớ chuyện ông cha

Tôi về tới nhà ga
Mẹ nó vội chạy ra
Ghé tai tôi hỏi nhỏ
Bố tối nay ngủ nhà


1977
Thơ xướng họa với ông Trần Thúc Linh
(Nguyên chánh toà thượng thẩm Sài Gòn)

XƯỚNG (của Trần Thúc Linh)
Cô hỏi làm chi tướng trẻ già
Ứ hự hay cô cũng muốn a
Tôi biết tướng này ngoài bảy chục
Món gì - món ấy tướng chẳng tha.

HỌA (của Đinh Đức Thiện)
Ứ hự ta nay gối đã mòn
Món gì món ấy tớ chẳng còn
Nhắn bảo cô em nên gìn giữ
Kẻo nữa không chồng lại có con

1976
Năm 1976 Luật sư Trần Thúc Linh là lớp trưởng lớp nghiên cứu chủ nghĩa Marx của 124 chức sắc cao cấp Sài Gòn ở lại. Ông Thiện được TƯ giao phụ trách lớp học. Học viên là các CCCC (công chức cao cấp): Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Văn Diệp BTKT, Nguyễn Anh Tuấn BT kế hoạch, Ngô Viết Thụ, Ngô Bá Thành, Vũ Quốc Thúc QVK, Trần Thúc Linh… Thường tiếp xúc với ông Thiện ở 6 Nguyễn Thông, có khi tại nhà một số vị. Những buổi gặp như vậy không khí cởi mở chân tình, Ông Thiện vui vẻ bảo Ông Thúc: “Tôi biết anh còn hai xe con loại xịn sao anh không đi. Cứ mang ra mà dùng, nếu xăng thiếu tôi sẽ can thiệp. Anh đi xe đạp không quen lỡ xảy ra tai nạn tôi mang tiếng”. Đôi khi có mắc mớ riêng tư riêng tư trong đời sống, trong quan hệ xã hôi hội họ cũng xin ý kiến ông. Một hôm ông Linh đến chơi với ông Thiện. Khi câu chuyện đã hoàn toàn cởi mở ông Linh rút túi ra tờ giấy có ghi bài thơ nói trên và bảo ông Thiện: "Này ông xem có người gửi ông bài thơ và nhờ tôi trao". Ông Thiện xem xong tủm tỉm. Được một lúc ông đọc bốn câu trả lời người gửi và lại nhờ ông Linh trao. Tiếp theo ông nói với ông Linh: "Riêng anh tôi cũng tặng mấy câu"
Giời sinh ra Thúc Sinh
Lại còn sinh Thúc Linh
Bán giời túi rỗng tuếch
Lại mang tiếng đa tình

Tới đây ông Linh cười vang và với dáng điệu chân tình ông đứng dậy xá ông Thiện một xá và nói: ”Thôi thôi, tôi xin ông tướng”.





CHÙM THƠ ĐÙA ANH LÊ QUANG ĐẠO

1.
Trong hàng tướng có anh Quang Đạo
Đeo lon vào diện mạo bảnh bao
Chỉ vì tướng thấp vợ cao
Tướng không dùng súng lấy sào tướng đâm.

1960

2.
Làm chính trị
Làm tướng
Làm thơ
Anh giỏi thật
Trên đời này “ba nhất” nào bằng L.*
Thơ anh chẳng cần gió cần trăng
Đọc thơ anh hẳn rụng răng vì cười
Xét xem thiên hạ mấy người
Làm vè âu cũng đồng thời làm thơ

Đọc thơ anh tôi chẳng ngờ
Cái gì so với lời thơ cho vừa

*Ca dao:
Trên đời đẹp nhất là L…
Nhất ngon là muối, nhất khôn là tiền.

3.
Trong làng chính trị có một anh
Người nhỏ con cứ tưởng lành
Người nhỏ nhưng mà tham vọng lớn
Ít tiền mà lại muốn hít cái L…thơm

4.
Ngày anh giảng đạo thành thần
Tối anh tẩn mẩn tần mần như ma
Ngày thời anh nói như cha
Đêm thời anh lại mày mò quá con



Tặng anh Nguyễn Cơ Thạch

Nhớ ông ngày tết đến thăm ông
Ông chúc Tết tôi chén rượu hồng
Ngước mắt trông ông đầu đã bạc
Ngó lại tôi còn bạc cả lông…


Ông Thiện và Thạch vừa là đồng hương đồng tuế, cùng tham gia cách mạng cùng bị tù với nhau. Nhân dịp tết ông Thiện đến nhà ông Thạch. Ông Thạch rót ly rượu cầm chúc ông Thiện. Ngồi một lúc ông Thiện tủm tỉm đọc bốn câu thơ trên. Ông Thạch trách: Tôi đã tốn rượu chúc ông, ông lại ví von lộn xộn. Ông Thiện thủng thẳng nói: cậu hay đi xuất ngoại, nộp đây hai tút thuốc lá ngoại mình sửa cho. Ông Thạch đồng ý ngay. Ông Thiện mới chữa câu thứ tư: ”Nhớ lại trong tù lúc trẻ không?” rồi cả hai cùng cười xoà vui vẻ.




Tặng anh Lê Thanh Nghị

Giời sinh ra anh Nghị
Lại sinh ra cái bị
Anh đi khắp năm châu
Kinh tế vẫn tắc tị


Tặng ông tổ chức

Can đảm thay ông tổ chức
Ông đi vào lĩnh vực
Thế giới của con người
Thế giới đầy uẩn khúc

Người ta đi vào khám phá không gian
Hoặc xuống đại dương, hay lòng đất
Chẳng qua là thế giới vật chất
Thế giới của con người
Thế giới của lý trí, của tâm hồn và tình cảm
Thế giới của cái sống, thế giới đầy biến động
Xin ông tránh cái chủ quan
Khó tránh điều oan ức
Ở đời mấy ai biết cho ông ?
Biết chăng chẳng biết chẳng nên bực
Như vậy mới sống lâu
Có thế mới thành cụ tổ chức


1980


Tặng Ông Lê Đức Thọ

Họ nhà tôi có ông tổ
Làm nghề tạc tượng gỗ
Tạc xong để lên bệ
Rồi ông ngồi ông sợ
Đời này họ nhà tôi
Có ông Lê Đức Thọ
Làm nghề nặn cán bộ
Đủ các cấp các ngành

Nặn xong đặt lên ghế
Người được bê lên bệ
Nhưng giữa bệ và ghế
Cũng nhiều lúc thay ngôi
Ai nghĩ ngợi lôi thôi
Chê tổ chức làm tồi
Ông cho ngồi xơi nước
Ông bảo rằng tổ chức
Là cơ quan tối nghiêm
Đến tôi cũng phải im
Khi nghe ông phán xét
Khi nghe ông xét nét
Nghe đến lạnh xương vai
Không phải là “người tài”
Đâu làm được tổ chức
Họ tôi đầy âm đức
Mới sinh sản ra ông
Chuyên làm nghề nặn tướng
Cũng đôi khi tôi ngượng
Thấy ông nặn hơi sai
Tôi chỉ biết thở dài
Vái các ngài tổ chức!

Từ câu 1 đến câu 7 theo trí nhớ của Ông Ngô Xuân Trúc chuyên viên cao cấp -nguyên chủ tịch Quảng Ninh nguyên Vụ Trưởng Vụ KT phủ TT.
Câu 7 trở đi theo đại tá Hông Kỳ chuyên viên cao cấp phủ TT - nguyên chủ nhiệm phòng CT bộ tư lệnh 559 (đã mất).