THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 45/a




PHẦN V:     THỐNG NHẤT

“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
A. Anhxtanh

“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
Upanishad

CHƯƠNG V: CHIÊM BÁI

“Bằng cách ở mỗi hiện tượng tự nhiên của cái riêng lẻ, cái qui ước và ngẫu nhiên, chúng ta hướng mắt đến cái phổ quát, cái khách quan và tất yếu, thì đó là chúng ta tìm cái độc lập đằng sau cái lệ thuộc, cái tuyệt đối đằng sau cái tương đối, cái vĩnh cửu đằng sau cái vô thường. Và như tôi nhìn thấy, cái khuynh hướng này biểu lộ không những trong vật lý học, mà còn trong mỗi ngành khoa học, vâng, không chỉ trên lĩnh vực khoa học, mà còn trên lĩnh vực của cái thiện và cái mỹ”.
Max Planck

“Cái huyền diệu là trong tất cả các hiện tượng của tự nhiên, có một tính qui luật phổ quát ngự trị mà ở mức độ nào đó, có thể nhận thức được đối với chúng ta”.
Max Planck



Có được vầng hồng khích lệ làm chúng ta thêm hăng hái, tăng tốc độ, tiếp tục tiến lên: bắt đầu từ đây, chúng ta không rảo bước một cách hùng hục nữa mà bay nhảy tung tăng như một chú bé trên con đường làng, trong một buổi sớm mai thanh khiết ngày tựu trường.
Nhiều người nói trong thinh không, nếu không lạnh cóng thì phải nóng hầm hập và luôn mờ mịt trong một trận mưa bức xạ có lúc “rào rào” nặng hạt, có lúc cũng chỉ lất phất giống mưa phùn tháng giêng nhưng không bao giờ dứt. Trong cái thinh không hỗn mang và hoang dại như thế, con người dứt khoát không thể sống sót được chỉ một giây nếu ăn mặc “phong phanh” và không có phương tiện che chắn bảo vệ hiệu quả.

Nhận đinh đó hình như không hoàn toàn đúng. Bằng chứng là chúng ta đã “ngâm mình” trong chân không biết bao nhiêu lâu rồi mà có sao đâu, và bây giờ đang ở đây với một cảm giác mát mẻ lạ  thường và trước mặt là một bầu không gian không những ráo hoảnh mà còn tươi sáng, trong vắt không một chút gợn.
Dù không biết đích xác tốc độ bay nhảy maratông của chúng ta là bao nhiêu thì chắc là cũng rất nhanh. Bởi vì cái vầng dương ở trước mặt chúng ta đã lớn hơn và sáng hơn ban nãy khá nhiều rồi. Cố lên anh em ơi! Sự cô đơn đằng đẵng bấy lâu sắp kết thúc, quang cảnh tuyệt trần và thiêng liêng nhất sắp tỏ tường trọn vẹn trước mắt chúng ta, và có lẽ quê cha đất tổ đang khẩn thiết gọi chúng ta về. Tập trung hết sức bình sinh, chúng ta “nhào lộn” về phía trước nhanh hơn nữa. Một ý nghĩ chợt lóe trong đầu chúng ta, nếu Tôn Ngộ Không mà có mặt ở đây thì cũng phải lắc đầu lè lưỡi vì phép “cân đẩu vân” đi mây về gió của lão ta nếu đem so với cái sự nhanh ấy là… quá chậm. Để đề phòng bị xa xẩm mặt mày, không thể chiêm ngưỡng được cảnh sắc có một không hai khi đặt chân lên đỉnh Tu Di, chúng ta nhắm mắt lại. Chắc chắn rằng làm như thế cũng không thể “nhào lộn” lạc sang hướng khác được vì chúng ta đã bắt đầu cảm nhận sức hút hấp dẫn của vầng thái dương đó. Tuy nhiên, cứ lâu lâu, chúng ta cũng hé mắt ra canh chừng vì đến một khoảng cách nhất định, chúng ta phải hãm dần tốc độ lại, kẻo đâm sầm vào Tu Di thì chỉ có mà toi mạng và toàn bộ cuộc hành trình vĩ đại đi tìm cái gì đó của chúng ta sẽ trở nên hoàn toàn… công cốc.
Cứ như thế, chúng ta “phi thân”. Một hồi lâu, đang “phi thân” ngon trớn thì bất chợt một thế lực cực kỳ mạnh mẽ ghì chúng ta lại. Chúng ta bừng mở to mắt ra một cách ngơ ngác thì thấy là đang nhìn ra phía sau. Vẫn là một màn đêm đầy sao lấp lánh quen thuộc, ngoài ra chẳng có một “ma” nào cả. Chúng ta vội quay nhìn ra phía trước thì thấy vầng dương đã lớn lắm rồi nhưng lúc này nó có vẻ kỳ lạ. Từng dải hình vành khuyên đồng tâm, đan xen nhau, biến hóa màu sắc liên tục, nhịp nhàng, lan truyền như những đợt sóng từ trong ra ngoài, rực rỡ một cách cực kỳ sinh động và huyền ảo đến rợn người. Khó lòng mà lột tả cho hết được thần thái lúc này của vầng dương. Cố lắm, chúng ta cũng chỉ nói được thế này: đó là đóa hoa vĩ đại, long lanh nhất, tươi thắm nhất, mê hoặc nhất mà Vũ Trụ có thể có. Những bông hoa đẹp nhất mà chúng ta từng may mắn được ngắm nghía khi còn ở Trái Đất cũng trở nên xấu xí tệ hại nếu đem khoe sắc, so kè với đóa hoa vĩ đại ấy, vì đóa hoa vĩ đại ấy là tuyệt mỹ của mọi tuyệt mỹ. Hay cũng có thể ví von: nếu chọn ra được một cảnh sắc cầu vồng huyền diệu nhất từ xưa tới nay ở Trái Đất và đem đặt nó cạnh cái vầng dương kia thì chỉ như một cô gái thô kệch, quá đỗi xấu xí bên cạnh tuyệt thế giai nhân, “hoa hậu hoàn vũ” của mọi “hoa hậu hoàn vũ”.
Hoàn toàn bị choáng ngợp trước hiện tượng kỳ vĩ, tuyệt vời có một không hai của tự nhiên, chúng ta chẳng còn tâm trí nghĩ đến điều gì khác mà cứ thế dương to mắt quan chiêm, trong khi thân xác thì , mềm oặt như bại liệt, bất động trong không gian. Toàn bộ cảm giác của chúng ta chỉ còn là sự mê mẩn, mãn nhãn.
Rất có thể chúng ta không bao giờ thoát được tình trạng thân xác thì bất động, tâm trí thì đờ đẫn đó nếu sự mê mẩn mãn nhãn đến tê người không nguôi ngoai. Chính sự nguôi ngoai đã kéo tâm thức trở về, làm cho tính tò mò cố hữu ở con người lên tiếng: sao không tiếp tục “xông tới” gần hơn nữa để biết đâu chừng còn có thể thưởng thức nhiều điều kỳ diệu hơn nữa mà quan sát từ đây chưa thể thấy được?
Lời thì thầm có tính thôi thúc ấy của sự tò mò làm chúng ta sực tỉnh và “kiên cường” trở lại. Chúng ta bắt đầu quẫy đạp, vung chân múa tay loạn xạ hòng lao về phía trước. Ô hay, trong tâm của chúng ta chẳng xê dịch dù chỉ một quãng bằng 10-28 cm. Tiến tới không được, lùi lại cũng không được, sang trái, phải hay lên xuống ngang như cua bò cũng không xong. Vùng vẫy điên cuồng đến bở hơi tai, sự thể vẫn vậy. Tại sao nhỉ? Chúng ta suy nghĩ và dần dà nhớ lại lúc đang ngon trớn lao vun vút về phía vầng dương thì đột ngột bị một thế lực nào đó chặn đứng lại và từ đó tới giờ, vẫn cứ bồng bềnh tại chỗ này. Chắc rằng sự xuất hiện của cái thế lực ấy là phi tự nhiên, có chủ đích và cũng đột ngột như sự dừng lại của chúng ta. Trước khi bị chặn lại, rõ ràng là chúng ta phi thân ngày càng nhanh về trung tâm của vầng dương nhờ một tổng lực gồm lực hút hấp dẫn của vầng dương và cái gọi là “nỗ lực” của chính chúng ta. Vậy thì cái thể lực đang giữ chúng ta tại đây phải trùng phương, ngược chiều với tổng lực ấy và có cường độ bằng cường độ của tổng lực ấy. Như thế, nó phải là một lực đẩy từ trung tâm vầng dương tác động đến chúng ta. Trong chân không, nếu giữa hai vật cách xa nhau, xuất hiện một lực đẩy nhau thì lực ấy chỉ có thể là lực điện từ. Nhưng chúng ta trung hòa về điện và cũng không phải là thỏi nam châm nên sự xuất hiện đột ngột lực đẩy đó là không tài nào hiểu được. Nếu lấy lực đẩy đó trừ đi lực hút của Vầng dương thì bằng “nỗ lực” của chúng ta. Nghĩa là lúc này Vầng dương không hút mà đẩy chúng ta và nếu chúng ta không có “nỗ lực” chống lại thì chắc là đang phải lùi dần ra xa nó. Thế nào cũng có kẻ cắc cớ hỏi: vậy thì cái “nỗ lực” ấy từ đâu mà có và nó tác động vào môi trường không gian ra sao để có thể có thể “tiến lên” được? Chính bản thân chúng ta cũng không biết gì về bản chất của cái “nỗ lực” ấy cũng như sự tác động của nó trong môi trường không gian nhưng tin chắc nó tồn tại vì nếu không có nó chúng ta đã không thể rời Trái Đất và hành trình cho tới tận đây được. Có lẽ rằng chính cái tinh thần quyết tâm cao độ chinh phục bằng được đỉnh Tu Di huyền thoại để thấy cho được toàn cảnh Vũ Trụ và niềm tin sắt đá, không gì lay chuyển nổi là sẽ diện kiến được Đấng Tạo Hóa thiêng liêng ở đó đã tạo ra một lực đẩy giữa chúng ta với Trái Đất, đồng thời kích hoạt một lực hút nhân tạo giữa chúng ta với đỉnh Tu Di và đó cũng chính là “nỗ lực” của chúng ta…
Đang hốt hốt hoảng hoảng, hoang mang, không biết nên nghĩ thế nào cho đúng về cái thế lực phi phàm ấy và làm cách nào để thoát khỏi nó mà tiếp tục cho xong cuộc hành trình thì bỗng nhiên từ đâu đó có lẽ rất gần, vang vọng rành rọt vào não của chúng ta:
- Chúc mừng quý khách không mời mà đến!
Thật ngạc nhiên quá đỗi! Ở tận đây, ngoài chúng ta ra mà cũng có người Trái Đất à? Không thể tưởng tượng được lại có một kẻ khác hoang tưởng bạt mạng và quyết tâm ghê gớm như chúng ta nhằm chinh phục đỉnh Tu Di. Hay là người ở hành tinh nào đó quanh đây? Chắc không phải, vì nếu người ở hành tinh khác nói chúng ta làm sao hiểu được? Hơn nữa ở chốn không hề có chút không khí nào mà nghe được rành rọt như thế thì chỉ có thể là thông qua tâm linh, bằng con đường thần giao cách cảm mà thôi. Chúng ta soi mói quan sát bốn bề nhưng không hề thấy một bóng hình nào cả. Phải chăng lời chào chúng ta phát ra từ một linh hồn người không có hình hài? Thế là trong sâu thẳm tư duy, chúng ta bật ra lời nói (tất nhiên là không cần mở miệng rồi!):
- Xin chào ngài! Ngài cho chúng tôi mạn phép hỏi: ngài là ai và chốn này là chốn nào ạ?
- Khà, khà,… khà! - Cái âm hưởng lúc trầm lúc bổng ban nãy lại vang vọng - Thế mà cũng không đoán ra, đúng là một kẻ khờ khạo! Ta là Tạo Hóa đây! Ta ở sờ sờ trước mặt mà còn phải hỏi! Còn chốn này là Cõi Vĩnh Hằng. Biết chưa hả lũ có thừa sự tò mò lì lợm nhưng còn dốt quá!
Thì ra là vậy! Chúng ta đã đến đích, đang đứng trên tột đỉnh của nỗi đam mê, của niềm mơ ước và trước mắt chúng ta, cái đóa hoa vĩ đại và vô thường kia hóa ra là Đấng Tạo Hóa thiêng liêng chứ không phải là hào quang tỏa ra từ đỉnh Tu Di như chúng ta lầm tưởng. Đáng lẽ tâm trạng chúng ta lúc này phải là vui mừng và tự hào khôn xiết nhưng thay vào đó, do câu đánh giá có phần khinh miệt chúng ta của Tạo Hóa, là tâm trạng bực bội và hờn dỗi. Thế là chúng ta đáp lại:
- Kính thưa Đấng Tạo Hóa thiêng liêng! Ngài biết chúng tôi là ai không? Chúng tôi thuộc dòng giống của loài người Trái Đất, một trong số ít loài có bộ não biết tư duy siêu việt nhất trong Vũ Trụ. Đúng là chúng tôi phải chịu ơn Ngài vì đã nhào nặn ra Trái Đất màu mỡ xanh tươi, đầy của ngon vật lạ và hun đúc nên loài người từ muôn loài trên đó, song chúng tôi không thể không trách Ngài đã bỏ mặc tổ tiên chúng tôi đắm chìm rất lâu trong hoang dã mông muội. Ngay từ những bước đi chập chững đầu tiên, tổ tiên chúng tôi đã không có cách nào khác là phải lần mò trong mù quáng mà tìm cách sinh nhai, lẽ sống. Vì không được Ngài dìu dắt, nâng đỡ nên đơn côi, phải tự thân tìm hiểu và học hỏi từ những thách đố của thiên nhiên để bảo đảm cuộc sống mà duy trì giống loài. Cũng vì thế mà loài người đã phải chịu bao cực khổ gian nan, vấp váp và lầm lạc trên con đường đi nhận thức sự thực khách quan. Phải nói rằng, không thể đếm được biết bao nhiêu lần tổ tiên ông cha của chúng tôi đã cúng tế van xin một cách thành khẩn nhất, nài nỉ Ngài gợi ý, mách bảo cho chút ít, ấy vậy mà Ngài nào có đoái hoài tới, đâu có chịu cứu xét. Có thể rằng chúng tôi vẫn còn là một lũ dốt trước mặt Ngài, nhưng xin thưa với Ngài rằng, ngày nay, loài người Trái Đất đã phấn đấu đến trình độ nhận thức và chinh phục thiên nhiên có thể là vô địch hoặc ở hàng vài vô địch trong số các giống loài hiện tồn trong Vũ Trụ. Xin khoe với Ngài rằng giờ đây ở Trái Đất, loài người đã gặt hái được biết bao nhiêu thành tựu rực rỡ về khoa học - kỹ thuật, đã chế tạo được biết bao nhiêu trang thiết bị tinh vi, cực kỳ lợi hại để phục vụ cho lợi ích của mình, thậm chí là còn chế tạo ra được cả người máy - giống loài mà có lẽ Ngài phải chịu bó tay, không sáng tác ra được. Không lâu nữa đâu, thưa Ngài, loài người sẽ phanh phui được toàn bộ những bí ẩn của Vũ Trụ mà Ngài cố tình che dấu. Chúng tôi không ca tụng loài người Trái Đất thái quá đâu! Bằng chứng là chúng tôi đã có cách chỉ “mình trần thần truồng” thôi cũng đã đến được đây, đứng trên đỉnh núi Tu Di huyền thoại, diện kiến Ngài!...
Đóa hoa vĩ đại rộ lên rực rỡ hơn rồi chuyển sang quang phổ có phần tím tái. Chắc Tạo Hóa giận! Và chúng ta lại nghe vang vang:
- Thôi đi! Câm mồm ngay lập tức hỡi cái lũ hợm hĩnh, nói năng bừa bãi, tự nịnh hót mình và dám xúc xiển đến Đấng Thiêng Liêng của mình! Để ta nói cho mà nghe! Các ngươi, thực ra, chưa là cái quái gì trong Vũ Trụ này cả đâu, cho nên cũng đừng hếch mũi lên Trời mà tự huyễn hoặc mình! (Ở đây, hoặc chúng ta nghe nhầm, hoặc Tạo Hóa giận quá nên… líu lưỡi, chứ ở Cõi Vĩnh hằng làm gì có… Trời!). Các ngươi tưởng đã tới được đích cùng của Vũ Trụ và quan chiêm được toàn thể Vũ Trụ rồi chắc? Thật là nực cười! Trong thực tế, loài người các ngươi đã đến được những đâu, đã thấy được những gì trong Vũ Trụ nào? Thực sự mới đặt được chân lên Mặt Trăng, cắm vội lá cờ rồi lập tức “chuồn” ngay khỏi đó trở về như bị ma đuổi chứ gì? Rồi đây, loài người cũng có thể đặt chân lên vài hành tinh nào đó “gần xịch” Trái Đất trong Thái Dương Hệ như Sao Hỏa chẳng hạn, và thế là cùng. Loài người vĩnh viễn không thể chu du ra ngoài Thái Dương Hệ dù là bằng tàu du hành Vũ Trụ được. Loài người không thể chế tạo ra con tàu Vũ Trụ có tốc độ xấp xỉ tốc độ Ánh sáng mà chỉ đạt đến tốc độ Vmax nào đó nhỏ hơn rất nhiều. Đó là điều ta dám khẳng định. Mặt khác, cho dù loài người đã có được những trang thiết bị tinh xảo hỗ trợ thì cũng chẳng thấy được gì nhiều một cách rõ ràng và chắc chắn cả. Toàn là những hình ảnh méo mó nhòe nhoẹt được sao chụp, cắt, ghép thông qua máy móc rồi điều chỉnh, tô điểm sắc màu theo sự phán đoán, tưởng tượng chủ quan có tính đặc thù ở loài người mà thôi. Ngay bản thân mấy ngươi đừng tưởng đến được đây là nhờ tự thân nỗ lực! Chính ta đã ra tay trợ giúp đấy, biết chưa?! Thấy mấy ngươi đam mê một cách khốn khổ, tự hành xác quả là vất vả tội nghiệp, nên ta đã tạo ra một đỉnh Tu Di ảo để mấy ngươi đứng trên đó, tự hóa thành đóa hoa vĩ đại cho mấy ngươi quan chiêm và như thế mà làm cho mấy ngươi được sung sướng, mãn nguyện. Chỉ cần ngay lúc này, không có một chút ôxy nào mà mấy ngươi vẫn sống nhăn răng ra đấy, mấy ngươi không thấy kỳ dị, phi tự nhiên sao?... Này, định nói gì đấy hả, lũ ngố kia? Câm ngay! Chưa được nói! Để ta nói cho hết cái đã!... Các ngươi thật là một lũ vô ơn, bạc nghĩa, không biết phải trái và chưa nên trò trống gì hết mà đã tưởng mình vĩ đại, đòi trách móc ta, đòi chê bai ta, và dù không nói ra thì cũng rất có thể, với thói hãnh tiến, hiếu chiến và thèm khát sở hữu các ngươi dám đang tưởng tượng ra cái viễn cảnh truất phế Tạo Hóa để chễm chệ ngồi vào ngai của Tạo Hóa. Liệu hồn! Đừng có mà mơ dại dột như thế nhé! Nghĩ về loài người mà ta thất vọng quá! Kể từ khi con người đầu tiên xuất hiện trên Trái Đất cho đến nay, là một khoảng thời gian khá dài, ấy vậy mà sao tâm thức loài người vẫn chưa tiến triển đủ khôn ngoan, vẫn chưa nhận thức đúng được chính bản thân mình, và phải cần bao nhiêu thời gian nữa để loài người thoát khỏi hẳn mê sảng, nhận chân được lối sống đạo đức đích thực để tự giác cải tạo, tu chỉnh bản thân mình? Các ngươi đâu biết rằng, ta chỉ gián tiếp tạo dựng ra loài người và chính thiên nhiên hoang dã của Trái Đất hoạt động theo những nguyên lý chung của tự nhiên nhưng biểu hiện ra một cách đặc thù, mới trực tiếp thực hiện sự tạo dựng ấy. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, mọi thực thể hay giống loài sinh vật, trong suốt quá trình hình thành và duy trì tồn tại của chúng, đều phải tích cực tự thân vận động và chuyển biến, tự thân phấn đấu, vì chỉ có như thế chúng may ra mới sống sót và ngày một tự hoàn thiện bản thân mình. Có thể nói, loài người được sinh ra là do sự kết hợp huyền diệu giữa tất yếu và ngẫu nhiên và hoàn toàn không bị ta ghét bỏ mà nhìn ở góc độ nhất định đã được ta ưu ái rất nhiều ngay từ buổi đầu tiên. Thế mà, thật tệ hại, trí khôn loài người phát triển chậm quá! Loài người đâu biết rằng có những loài người ở những hành tinh khác, xuất hiện cùng một thời điểm, nhưng trong những điều kiện khó khăn, khắc nghiệt hơn nhiều so với điều kiện ở Trái Đất, thế mà giờ đây, trình độ nhận thức tự nhiên của họ, tâm thức, lối sống của họ cao vời hơn của loài người Trái Đất quá nhiều. Ở họ bức tranh tự nhiên được tưởng tượng ra thật mạch lạc, đích đáng, ở họ, ai cũng vậy, đều có lòng nhân hậu thực sự, yêu mình và yêu mọi người, biết như thế nào là đủ và tự giác sống giản dị, chừng mực. Những loài người ấy đã khắc phục được mặt trái xấu xa trong tâm tính họ, như ích kỷ, đố kỵ, tham lam, hiếu chiến, cường bạo và do đó mà trong xã hội của họ, không bao giờ còn xảy ra chiến tranh giết chóc cũng như cướp bóc lẫn nhau nữa. Họ cũng đã cử đại diện, những con người ưu tú nhất của họ, đến diện kiến và cung kính nói những lời cảm tạ ta từ lâu rồi. Ta thực sự hài lòng về những loài người ấy. Rồi đây, có thể là còn lâu, nếu các ngươi không bị tuyệt diệt vì sự cuồng nộ của tự nhiên hoặc tệ hại hơn là do lầm lỗi của chính mình gây ra, thì các ngươi sẽ thấy và gặp họ, lúc đó các ngươi sẽ phải tâm phục khẩu phục tài năng và đức độ của họ. Một giống loài tự nhận là văn minh số một mà diện kiến Tạo Hóa một cách xấc xược, hỗn láo, coi Đấng Thiêng Liêng của mình chẳng ra cái quái gì thì đến ta đây - Đấng sáng tạo ra mọi nguyên lý vận động và tồn tại, Đấng khởi nguồn và xác lập nên những giá trị thực sự về chân - thiện - mỹ, cũng thấy… bất ngờ quá! Có lẽ nào là tại Trái Đất, bà mẹ hiền từ và giàu tình thương yêu của các ngươi, đã nuôi nấng chiều chuộng các ngươi một cách quá nhu nhược, vô tình làm cho các ngươi nhiễm thói hư hỏng tật xấu ngay từ thuở trứng nước? Ngay từ khi loài người mới chào đời, Trái Đất đã bày sẵn để cung phụng cho loài người những gì, các ngươi còn nhớ không? Đây này: một bầu khí quyển giàu ôxy và sạch sẽ, thơm tho, một mạng lưới sông ngòi dài chằng chịt, biển rộng mênh mông đầy ắp nước trong trẻo và mát lành, một thảm xanh bạt ngàn cây trái và hoa lá xinh tươi bao phủ mặt đất, một bầy đàn muông thú đa dạng về chủng loại và quá đỗi dồi dào về số lượng lan tỏa, hiện diện ở khắp mọi miền, đâu đâu cũng có… Đó là chưa kể đến những kho tàng khổng lồ chứa đầy ắp tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất. Vậy mà cho đến nay, sau khoảng thời gian mới độ 3 hay 4 triệu năm gì đó thôi (nếu đem so với hàng tỷ năm tồn tại của giới sinh vật trên Trái Đất thì thật chẳng nhằm nhò là mấy), nghĩa là kể từ khi thiên nhiên coi như đã bị loài người chiếm đoạt, Trái Đất còn lại những gì? Hầu như tan hoang hết cả! Thấy mà đau lòng: bầu khí quyển thì ngột ngạt, mịt mù khói bụi, sông ngòi hồ ao thì không những đục ngầu, bẩn thỉu, nhiễm độc mà còn bị ngăn chặn, chặt bẻ quặt quẹo, biển thì đầy rác, váng dầu khắp nơi, rừng chỉ còn lưa thưa vài đám còn được gọi là rừng, bầy đàn muông thú thì tan tác, tuyệt chủng hàng loạt, đất đai của cỏ cây thì bị hàng loạt khối bê tông khổng lồ, nghễu nghện chiếm chỗ, các kho tàng tài nguyên khoáng sản tưởng không bao giờ hết được thì đang ở tình trạng cạn kiệt. Tội nghiệp cho Trái Đất, từng là hoa khôi của cả dải Ngân Hà (ta nói không ngoa đâu!), chỉ vì sinh ra phải một lũ hồ đồ ưa phá phách, mà bây giờ, dù vẫn đang độ tuổi sung mãn của người đàn bà có nhan sắc (đến ta trước đây còn mê mẩn!), thì đã như một bà già kiệt quệ sức lực, lở loét, dơ dáy và xấu xí đến thảm hại…
Tạo Hóa nói liên tu kỳ tận. Và có thể vì thế mà Ngài đã nguôi dần cơn giận dữ. Chúng ta nghĩ vậy khi thấy quang phổ của đóa hoa vĩ đại không còn tím tái nữa mà đã dịch về phía đỏ. Thấy vậy, chúng ta định ngắt lời Tạo Hóa, cãi lại cho ra nhẽ vì thấy oan ức quá. Đành rằng chúng ta có phá phách thiên nhiên thật  nhưng đó là hành động vô ý thức do mê lầm mà ra chứ thử hỏi, ai ngu dại gì mà cố tình phá tan nhà cửa, vườn tược của mình. Phá tan rồi thì sống làm sao, tránh mưa, nắng, bão tố, giá rét ở chỗ nào? Mà đâu riêng gì loài người phá, muông thú cũng phá. Nhất là thiên tai. Chúng ta cho rằng thiên tai mới phá phách thiên nhiên dữ dội nhất và chính loài người đã rất nhiều lần bị điêu đứng, thiệt hại nặng nề về sinh mạng và của cải bởi thiên tai. Loài người, nghĩ cho cùng, cũng đáng được thương cảm lắm chứ, và đâu phải là duy nhất tội đồ như Tạo Hóa nói!
Suy đi nghĩ lại, thấy cãi nhau với Tạo Hóa đúng là hỗn thật và hơn nữa là cũng chẳng lợi lộc gì. Dù trước mắt Tạo Hóa, chúng ta bị coi là những thằng ngố nhưng đủ trí khôn để tỉnh ngộ ra rằng, ở đây mà chọc giận Ngài thì cực kỳ nguy hiểm vì khả năng trở về Trái Đất của chúng ta rất có thể sẽ không còn. Thế rồi chúng ta tuy cũng ngắt lời Tạo Hóa, nhưng không dám cãi nữa mà nói khác đi:
- Kính thưa Ngài! Ngàn lần cầu xin Ngài bớt giận và hãy tha thứ cho lời ăn tiếng nói hồ đồ ban nãy của chúng tôi. Chỉ vì được diện kiến Ngài làm chúng tôi vui sướng khôn xiết, nên có phần tếu táo và vô ý nói năng phạm thượng. Sự thiếu suy nghĩ nhất thời ấy dù sao cũng làm cho chúng tôi không còn là đại diện xứng đáng cho loài người Trái Đất nữa. Nhưng thực tâm mà nói, và cũng hết sức mong mỏi Ngài tin rằng, chúng tôi nói riêng cũng như loài người Trái Đất nói chung, luôn tạc dạ ghi lòng công ơn của Ngài, luôn kính cẩn nghiêng mình khi nghĩ đến Ngài, luôn hết mực tôn phục Ngài, coi Ngài là Đấng thiêng liêng nhất trong những Đấng thiêng liêng. Chỉ có Ngài là Đấng thiêng liêng tối cao, duy nhất tồn tại thực sự và vốn dĩ như một chân lý vĩ đại, bất di bất dịch. Còn lại, tất cả các Đấng thiêng liêng khác của loài người Trái Đất đều chỉ tồn tại ảo, mang tính khiên cưỡng, giả tạo vì đều được sáng tác ra từ trí não chưa đủ sáng suốt của con người. Đến đây, Ngài có thể vui lòng cho chúng tôi xin từ tạ để quay trở về Trái Đất được chưa ạ?!...
- Ê, vẫn chưa được phép về đâu mấy ông tướng ma mãnh kia! Phải ở đó mà nghe ta nói cho hết đã, biết không? Muốn được về sớm thì khi ta đang nói, đừng có nhảy vào mồm ta mà ngồi! Thế này, các ngươi lầm to rồi! Không phải vì giận mà ta nói đâu. Ta là hiện thân cao cả của Tự Nhiên Tồn Tại, làm sao mà biết nổi giận cơ chứ? Chỉ có loài người Trái Đất các ngươi mới có khái niệm ấy và trạng thái tinh thần thái quá ấy, cứ động một chút thôi là đã nổi cơn giận dữ đùng đùng và sẵn sàng gây hấn, kể cũng lạ! Ta tím tái không phải vì giận dữ mà vì bị sốc bởi thái độ và cách nói năng lúc đầu của các ngươi. Mà mỗi lần bị sốc là mỗi lần tâm trạng ta bị kích hoạt lên trạng thái kích thích và để trở về với tâm trạng bình yên thì ta phải nói, phải rao giảng có phần hơi hùng hổ và kéo dài một chút. Tuy nhiên, đúng là ta thèm nói nhưng điều quan trọng hơn là các ngươi cần phải nghe, cần phải tạc dạ ghi lòng, vì điều đó sẽ rất có lợi cho các ngươi về lâu về dài. Hiểu chưa? Hả?... Hiểu rồi chứ gì! Vậy thì hãy lắng nghe ta nói tiếp nhé! Loài người các người lúc nào cũng chê bai, dè bỉu, khinh bỉ muông thú, lúc nào cũng rêu rao chúng là những giống loài man rợ. Các người đâu có thấu hiểu được muông thú là những con vật đáng thương, sống thụ động trong vòng cương tỏa của bản năng mà luật lệ của thiên nhiên hoang dã đã qui định cho chúng. bất cứ một giống loài sinh vật nào cũng đều là sự hun đúc của môi trường thiên nhiên hoang dã, trở nên tương đối độc lập với môi trường ấy. Chính vì vậy mà giữa giống loài sinh vật và Thiên nhiên hoang dã có mối quan hệ hữu cơ, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau, trong đó khả năng phụ thuộc hoàn toàn vào tình trạng, xu thế và mức độ biến đổi của môi trường thiên nhiên chứa chúng. Nguyên nhân sâu xa nhất dẫn đến tính tích cực tương tác với môi trường để đảm bảo sống còn và duy trì nòi giống của mọi giống loài sinh vật chính là hiện tượng mà từ đó có thể rút ra được một nguyên lý có tính phổ quát của ta - Tạo hóa (hay các ngươi cho là của Tự Nhiên cũng chẳng sao!), đó là sự tự phát duy trì vận động nội tại một cách cân bằng của mọi thực thể trước sự tác động thường xuyên của môi trường chứa chúng. Tương đối thôi, xét ở góc độ rộng, môi trường thiên nhiên trên Trái Đất cũng như một thực thể vận động nội tại cân bằng, có qui mô về kích thước và lực lượng vật chất ỏn định, nghĩa là chỉ có ngần ấy thôi, xét ở góc độ hẹp thì nó tạm thời điều hòa trong thường xuyên biến động và bất ổn. Xét ở góc độ ảnh hưởng đến sự sống còn đối với một giống loài sinh vật nào đó thì môi trường thiên nhiên luôn chuyển hóa một cách giao động hoặc không giao động, thường biến và cũng nhiều khi đột biến, nhanh hoặc chậm, từ trạng thái được gọi là có điều kiện hoàn toàn bất lợi và (hoặc) ngược lại. Khi môi trường thiên nhiên tương đối ổn định, hài hòa, được cho là không bất lợi cũng không thuận lợi hoặc vừa bất lợi mà cũng vừa thuận lợi đối với sự sống còn của mọi giống loài sinh vật thì tình trạng đó được gọi “tình trạng cân bằng sinh thái”. Tình trạng cân bằng sinh thái của môi trường, một cách tuyệt đối là có tính lý tưởng, như là tiêu chuẩn tối ưu mà hoạt động môi trường luôn hướng tới, còn một cách tương đối thì coi như luôn được duy trì và đóng vai trò như là một động lực mạnh mẽ làm chuyển hóa, đổi mới toàn bộ thế giới sinh vật, vì, thứ nhất là, môi trường thiên nhiên của Trái Đất chỉ có qui mô là “ngần ấy thôi”, thứ hai là, để duy trì vận động nội tại, nghĩa là duy trì sự sống còn của bản thân thì mọi cá thể sinh vật để chỉ có cách duy nhất là tương tác và tích cực tương tác với môi trường thiên nhiên chứa chúng dưới nhiều hình thức mà hình thức cơ bản nhất, dễ thấy nhất là sự trao đổi chuyển hóa vật chất, hay nói gọn hơn là trao đổi chất. Có thể phân chia chất thành hai loại là vô sinh và hữu sinh. Chất vô sinh gồm hai thứ lá vô cơ và hữu cơ. Chất hữu sinh được hợp thành từ những đơn vị nhỏ nhất của nó là tế bào và bản thân nó là một phần, một bộ phận hợp thành cơ thể sống… Hả? Lại định nhảy vào mồm ta ngồi đấy à!?... Hả? Phân loại chất ra theo kiểu đó nghe kỳ quá à?... Ta phân ra thế đấy, còn mấy ngươi muốn phân ra như thế nào thì tùy. Điều đó không quan trọng. Thấu hiểu hay không mới là vấn đề! Thôi, để ta nói tiếp!... Có thể nôm na thế này: thế giới nguyên tử hun đúc nên chất vô cơ, thế giới vô cơ hun đúc nên chất hữu cơ, thế giới vô sinh hun đúc nên chất hữu sinh, thế giới hữu sinh tương tác hợp thành đa dạng cơ thể sống động. Cơ thể sống xuất hiện đầu tiên và đóng vai trò là đơn vị nhỏ nhất của mọi cơ thể sống xuất hiện sau này là tế bào. Chất đầu tiên mà cơ thể sống trao đổi với môi trường thiên nhiên là chất vô sinh. Gặp điều kiện thuận lợi thuở ban đầu mà sự sống đơn giản phát triển mạnh mẽ. Vì qui mô môi trường chỉ có ngần ấy thôi nên sự phát triển của sự sống bị hạn định về số lượng. Tính tích cực trao đổi chất vốn có để sống còn của cơ thể sống tạo ra mâu thuẫn giữa sự đòi hỏi phát triển số lượng của sự sống và sự hạn định của môi trường sống. Để giải quyết mâu thuẫn này, giới sinh vật chỉ còn cách tự phát thực hiện một công đôi việc là tăng cường đến tột bậc khả năng trao đổi chất, nghĩa là không những trao đổi chất vô sinh và cả chất hữu sinh có được từ cơ thể sống (nhớ rằng môi trường thiên nhiên của một cá thể sống bao gồm các thế giới sinh vật trừ nó). Đó là một hành động hoàn toàn tự nhiên, có tính tất yếu vì hợp lý và cũng thật tiện lợi: tăng khả năng sống còn của sinh vật đồng thời cũng hạn chế sinh vật nói chung phát triển về mặt số lượng…
- Vậy thì thưa Ngài, tuổi thọ trung bình được ấn định cho từng giống loài sinh vật cũng có nguyên nhân từ đó phải không ạ? - Sự tò mò cố hữu làm chúng ta buột miệng hỏi rồi ngay lập tức sững lại - Ấy chết!... Xin lỗi Ngài!
- Lại nhảy vào mồm ta ngồi rồi!... Chỉ cái thói nhỏ nhoi đó thôi mà còn không sửa được thì thử hỏi, còn tự cải tạo được cái gì của mặt trái nhân tính? Nhưng thôi, lần này ta không mắng mỏ nặng nề làm gì vì dù sao mấy người đã đặt ra một câu hỏi rất hay ho và không kém phần hóc búa, Ta không muốn trả lời cặn kẽ mà chỉ nói vắn tắt thế này cho các ngươi có cơ sở để tư nghiên cứu tìm hiểu: ta vốn dĩ cũng là Đấng công bằng nên phải tạo ra cái chết tự nhiên cho mọi thực thể để mọi thực thể đều được xuất hiện và vui chơi ít nhất là một lần trong cái công viên Vũ Trụ thênh thang, kỳ diệu này và hơn nữa, đối với những thực thể biết ao ước đến khắc khoải, có niềm tin thật mãnh liệt và hạ quyết tâm lên tột độ thì đều được diện kiến ta, được chiêm ngưỡng cái tuyệt mỹ của đóa hoa vô sinh, đều chỉ có thể hiện hữu với một tuổi thọ nào đó mà ta tùy nghi ấn định, và sự hiện hữu đó, nếu không bị thiên lôi xóa sổ giữa chừng thì buộc phải theo trình tự: được sinh ra, phát triển, suy tàn và bị tiêu vong. Thực lòng ta không muốn nhưng đành phải tạo ra cái sự sinh - tử cho vạn vật vì môi trường không gian là “chỉ có ngần ấy thôi”. Để ta trở lại, nói tiếp phần nội dung rao giảng còn dang dở. Sự tích cực một cách tự phát để sống còn dẫn đến sự tăng cường khả năng trao đổi chất hữu sinh và hai cái đó hợp lại tạo ra cuộc cạnh tranh sinh tồn không mệt mỏi trong thế giới sinh vật. Cuộc cạnh tranh sinh tồn đó có phần êm dịu hơn giữa các cá thể sống trong nội bộ giống loài và gay gắt hơn, giữa các giống loài với nhau, thậm chí là trong một phạm vi nào đó, sự gay gắt trở nên quyết liệt, một mất một còn và được gọi là đấu tranh, sinh tồn. Trong cuộc đấu tranh sinh tồn, mọi giống loài sinh vật đều phải tự phát cải tạo mình để tăng cường kỹ năng, kỹ xảo trước môi trường thiên nhiên biến đổi theo chiều hướng bất lợi, để tạo ưu thế hơn trước các giống loài sinh vật khác nhằm mưu cầu sự sống. Sự tự phát cải tạo bản thân ở các giống loài trước những hoàn cảnh bất lợi của môi trường ấy là có tính thường xuyên, liên tục, lâu dài và được gọi là quá trình tiến hóa thích nghi. Chính quá trình này là nguyên nhân trực tiếp làm cho thế giới sinh vật trở nên phong phú, muôn hình muôn vẻ và đa dạng giống loài, trong đó có muôn thú. Muông thú là những giống loài chuyên trao đổi chất hữu sinh bằng cách ăn sống nuốt tươi những cá thể sống khác, trong đó có một bộ phận săn bắt, cắn xé, ăn sống nuốt tươi các cơ thể sống của giống loài muông thú khác. Loài người thấy cảnh ăn sống nuốt tươi, tan xương nát thịt, máu chảy đầu lìa đó thỉ ghê tởm quá và lên án muông thú ăn thịt là man rợ. Có thật là man rợ không khi hành động ăn thịt lẫn nhau đó của muông thú có tính hoàn toàn bản năng, được mặc định bởi môi trường thiên nhiên hoang dã mà chính ta là người cho phép? Ta vô cùng ngạn nhiên vì không hiểu lòng dạ của loài người các ngươi nghĩ ra sao, dựa trên cơ sở nào và lấy quyền gì mà kết án muông thú ăn thịt như thế, trong khi ta lại thấy chích các ngươi mới là lũ cực kỳ man rợ, thậm chí là man rợ nhất trong Vũ Trụ này. Muông thú giết chóc và ăn thịt nhau là do bản năng sinh tồn thúc giục: đói thì đi tìm miếng ăn, phải giết chóc mà ăn, ăn no thì thôi, không thèm nữa, không giết chóc nữa. Do đó, sự giết chóc ở muông thú là có chừng mực, hạn độ và nhất là sự giết chóc ấy rất hiếm xảy ra và chỉ mang tính cá biệt trong nội bộ bầy đàn, đối với đồng loại. Còn ở loài người thì sao? Ối, thôi rồi! Đừng hòng mà chối cãi nhé! Vải thưa không hể che được mắt thánh! Đừng tưởng ta ở tít xa vời vợi là không thấy được hành vi của từng con người nói riêng và của loài người nói chung từ trước đến nay đâu nhé! Đây này: Khi loài người thoát được lốt vượn, biết sử dụng và chế tạo công cụ cũng như tạo ra lửa, thì nó coi như đã đủ trí khôn để nghĩ rằng nó không phải là muông thú mà là một giống loài siêu việt hơn muông thú, có quyền lực nhất định trong thế giới sinh vật. Lúc đó loài người tìm miếng ăn bằng cách nào? Bằng săn bắt hái lượm. Nghĩa là nó ăn cả thực vật lẫn động vật, ăn tạp, thứ gì ăn được là ăn (và sau này nó trở thành loài ăn tạp, ăn tham nhất thế gian). Nhưng nó thích ăn gì hơn cả? Ăn thịt chứ còn gì? Ăn như thế nào? Lúc đầu thì y hệt như muông thú, cũng săn bắt, giết chết, phanh thây, cắt xé con mồi rồi cứ thế ăn sống nuốt tươi. Sau đó thì có thêm món thịt nướng. Trước khi nướng thì cũng phanh thây, cắt xé con mồi ra, còn không thì cứ thế mà thiêu sống con vật cho đến chín, mặc cho nó giãy giụa, rống gào, chết dần trong tột cùng đau đớn. Hành động như thế dã man hơn muông thú chưa? Thiên nhiên đâu có mặc định là phải thiêu con vật khi nó còn sống đâu mà phải đành đoạn làm như vậy? Thôi cứ tạm cho là vẫn chưa man rợ hơn muông thú đi vì dù sao thì đó cũng là hành động trực tiếp đáp ứng nhu cầu ăn cho no. Một thời gian sau, loài người có thêm cách tạo ra miếng ăn nữa là trồng trọt - chăn nuôi. Trồng trọt - chăn nuôi làm cho loài người sống theo lối lang thang bầy đàn là chính, chuyển dần sang lấy lối sống định cư, quần tụ xã hội là chính. Lúc này, năng lực tác động vào môi trường thiên nhiên của loài người đã mạnh mẽ lên rất nhiều, và có thể tự cho rằng đã chiếm hữu được môi trường thiên nhiên hay ít ra thì cũng là chủ sở hữu duy nhất của thế giới sinh vật. Từ đây, loài người bắt đầu phát triển lên ngày một (cái mà nó tự gọi và tự nhận là) văn minh hơn. Thật lạ kỳ, cái mà ta thấy rõ rành rành thì loài người hình như mù mờ không thấy, đó là, càng văn minh thì loài người càng man rợ và cho đến ngày nay quá trình ngược đời ấy đã dừng lại chưa, mức độ man rợ vừa qua mà loài người gây ra đã đạt đến hết cung bậc ghê rợn của nó chưa? Có lẽ sự man rợ ấy đã đến tột cùng giới hạn vì chính ta đây còn bạt vía kinh hồn chứ nói gì đến ai! Ta thấy đến tận ngày nay dù loài người chủ yếu là ăn thịt, cả chín thì vẫn còn cảnh ăn sống nuốt tươi và những cảnh đó, oái oăm thay, lại thường xảy ra ở các nhà hàng, quán ăn mà thực khách là những người khá giả, văn minh lịch sự có thừa. Đặc biệt ở vùng Đông Nam Á vẫn còn món thịt sống như thế này: người ta trói một con khỉ còn sống, đút đầu nó lú một phần sọ lên mặt bàn qua một cái lỗ khoét sẵn. Anh bồi bàn hay có nơi là ông chủ quán cầm con dao sắc phạt ngang phần đỉnh đầu con khỉ như người ta phạt sọ dừa, làm lộ bộ óc khỉ ra. Thực khách lấy muỗng cứ thế thay nhau múc não ăn kèm gia vị và uống rượu trong khi con khỉ giãy giụa trong đau đớn đến chết ở bên dưới. Ăn xong bộ óc khỉ, người ta mới lấy xác khỉ xuống bếp nấu nướng thành món, mang lên tiếp tục ăn và uống rượu. Nếu thấy ngon miệng thì cứ ăn thịt sống cũng được. Đồng ý là muốn ăn thịt thì phải giết mổ xẻ rồi, không sao. Ăn óc sống mà bổ thì cũng tốt. Nhưng sao không giết con khỉ cho nó chết một cách nhanh nhất rồi ăn óc nó? Hay ăn như vậy không bổ và cả không thích thú à?! Cái man rợ trong ăn uống của loài người xưa nay có lẽ chỉ đến thế. Mức độ man rợ trong ăn uống của loài người xưa nay có lẽ chỉ đến thế. Mức độ man rợ đến kinh hoàng của loài người thể hiện ra ở những chỗ khác. Đòi hỏi chủ yếu của muông thú là có cái ăn, cái uống, có điều kiện thì ăn cho no, uống được nước trong cho hết khát, rồi thôi, không màng tới nữa. Chúng cũng thích ăn ngon và vui chơi. Nhưng sự thích ấy là hồn nhiên và có hạn độ. Loài người khác muông thú ở sự thèm khát đủ thứ một cách dai dẳng, cao độ và tham lam thì vô hạn độ. Loài người đủ no rồi thì thèm khát ăn ngon, yến tiệc linh đình phè phỡn, đủ ấm rồi thì thèm khát mặc đẹp và trang điểm lộng lẫy, vui chơi được rồi thì thèm khát vui chơi hơn nữa, thèm khát được tiêu khiển mọi lạc thú trên đời, có của ăn của để rồi thì thèm khát có nhiều hơn nữa, giàu, sang, phú quí đến bao nhiêu cũng chưa mãn nguyện, và còn nhiều thèm khát khác nữa. Có thể gói gọn thèm khát cả về vật chất lẫn tinh thần, cả mặt xấu lẫn mặt tốt của loài người trong một cái tên chung: thèm khát danh lợi. Vì khả năng suy nghĩ ở loài người vượt trội hơn hẳn, sâu sắc hơn rất nhiều so với những loài thú được cho là thông minh nhất nên loài người dần chiếm ưu thế tuyệt đối so với toàn bộ giới sinh vật còn lại trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Vì thiếu suy nghĩ nên sự thèm khát của muông thú chỉ hời hợt, nông cạn, gián đoạn và chừng mực. Dù con người có tự cho là đã tiến hóa vượt lên toàn bộ giới sinh vật và thoát hẳn khỏi giới ấy được và vẫn phải sinh sống bằng cái xác phàm còn nguyên xi những thôi thúc bản năng, vô thức của loài động vật. Như vậy, có thể định nghĩa: người là con vật có suy nghĩ sâu sắc, có tình cảm, hay: người là con vật có lý trí. Từ đây mà thấy sự thèm khát của muông thú khi có được sự suy nghĩ sâu sắc hỗ trợ sẽ vươn lên thành sự thèm khát danh lợi một cách cuồng nhiệt. Cần hiểu rằng khi nói sự suy nghĩ có tính liên tục, trình tự đạt mức trừu tượng hóa cao, biết hồi ức, nhớ lâu…, nghĩa là nói đến trình độ của suy nghĩ, chứ không phải ám chỉ về một suy nghĩ đúng đắn. Khi loài người còn chưa nhận thức được hoặc nhận thức sai lầm về bản chất của mình thì suy nghĩ của loài người về những vấn đề có liên quan đến nó không thể là hoàn toàn xác đáng được mà sẽ có đúng có sai, trong đó có tính bao trùm. Với sự suy nghĩ đã sâu sắc nhưng trên cơ sở nhận thức nền tảng còn phạm sai lầm về bản thân mình, đồng thời luôn có sự lũng đoạn thường xuyên của những thôi thúc bản năng sinh học ngấm ngầm nhưng mạnh mẽ, thì lý trí của loài người không thể sáng suốt hoàn toàn được mà chỉ có thể là sáng suốt trong mê lầm. Cần thấy rằng con người còn có một loại thôi thúc khác với thôi thúc bản năng sinh học (gọi tên khác là thôi thúc từ vô thức) nhưng gần giống như thế và tạm gọi là thôi thúc từ tiềm thức. Tiềm thức là một thể (ảo) nào đó “nằm giữa” vô thức và có ý thức, ý thức ở dưới dạng tiềm năng, mầm mống, chưa hoàn thiện. Nói nôm na thì tiềm thức là nơi chứa đựng những thèm khát danh lợi ở dạng phôi thai (thèm được học, thèm được yêu thương, thèm được gây hấn, thích đi tu, thích mạo hiểm…). Những thèm khát dưới dạng còn phôi thai và chưa được triển khai đó có được bằng con đường truyền thụ theo dòng dõi, di truyền huyết thống và cả bằng con đường cảm ứng kích thích tâm linh. Thôi thúc từ tiềm thức cũng có tính tự phát và tương đối yếu ớt nhưng cũng góp phần không nhỏ trong quá trình hình thành ý chí. Ngược lại khi ý chí đã hình thành và tương đối ổn định thì nó sẽ làm thui chột những thôi thúc từ tiềm thức nào mà nó cho là không phù hợp và củng cố những thôi thúc từ tiềm thức nào mà nó cho là phù hợp, hợp thành những ý thức thực sự. Tóm lại, một con người trưởng thành thì nói chung là sống và hành động theo ý chí trong sự chi phối mạnh mẽ của thôi thúc bản năng và cả phần thôi thúc từ tiềm năng đã chuyển biến thành ý thức lẫn ý thức có được từ quá trình trực tiếp học hỏi, thu nhận kiến thức và những quan niệm sống đang lưu truyền trong xã hội. Sống và hành động theo ý chí như thế sẽ dần tương đối ổn định (trong một khoảng thời gian tương đối dài hoặc có khi là suốt cả đời người), thể hiện ra cái quan niệm sống, như bản chất, thành nhân cách sống của con người cụ thể đó. Tùy vào sự suy nghĩ sâu sắc (cái trực tiếp tạo nên quan niệm sống) của một con người về nhân tình thế thái xác đáng (đúng đắn) hay không xác đáng (sai trái) đến mức độ nào mà ý chí của người đó mê lầm hay sáng suốt đến cỡ nào và từ đó mà có một nhân cách được đánh giá là xấu hay tốt. Một cách tuyệt đối thì không ai toàn xấu cũng như toàn tốt (chỉ có ta đây là vừa toàn xấu vừa toàn tốt, khống xấu mà cũng không tốt và cũng không phải cả hai!), bởi vì toàn xấu chỉ có thể là ác quỉ và toàn tốt chỉ có thể là đức thánh. Và đã là con người thì không thể là hai thứ ấy mà chỉ có thể ở đâu đó trong khoảng giữa hai thứ ấy (nhưng một cách tương đối thì cũng có thể gọi một kẻ quá đỗi xấu xa là “ác quỉ nhân dạng” và một người thực sự đức độ là “đức thánh nhân dạng”!). Hơn nữa, cần chú ý rằng sự đánh giá khách quan về cái xấu và cái tốt cũng như mức độ xấu - tốt của một con người luôn bị tính chủ quan vốn có, khó lòng loại trừ hết được, lũng đoạn, luôn bị chi phối bởi quan niệm chung có được từ nhận thức về nhân sinh (vừa mê lầm, vừa sáng suốt) ở mỗi thời đại, thậm chí là phụ thuộc vào sự đánh giá của mỗi tầng lớp quần chúng có trong xã hội. Một người thực sự tốt là một người có lối suy nghĩ và hành động thuần khiết lý trí (là ý chí đã chắt lọc sạch "bùn nhơ chủ quan"!)Tuy nhiên, bao giờ cũng vậy, sự đánh giá xấu - tốt của Đại Chúng là thỏa đáng hơn cả, ít bị chi phối bởi tính thời đại hơn cả… Ê! Mấy thằng kia, đang nghe hay đang ngủ đấy? Hả?!...
Âm hưởng vang vọng đang trầm bổng đều đều bỗng gầm lên làm chúng ta giật thót người, vội lên tiếng (trong khi vẫn kịp che miệng ngáp một cái suýt sái quai hàm!):
- Dạ, chúng tôi vẫn đang nghe rất chăm chú đây, thưa Ngài! Ngài rao giảng quá hay, chúng tôi rất thích, nhưng hình như bị lạc đề thì phải? Theo thiển ý của chúng tôi thì Ngài nên…
- “Nên” cái con khỉ! - Tạo Hóa ngắt lời - Mấy ngươi định lên giọng khuyên hay cãi lại ta đấy à? Đừng có mà dại dột! Thầy Cãi và cả NTT (Nhà Thông Thái) - sư phụ của mấy người ấy - còn phải coi ta là bậc chí tôn, là sư phụ của mọi sư phụ về “nghề cãi”, thì lũ mạt hạng mấy ngươi đối với ta chẳng là cái thá gì đâu! Dù mấy ngươi đã là những lão già so với tuổi thọ của loài người Trái Đất thì về mặt nhận thức vẫn chỉ như những đứa con nít chùi mũi chưa sạch, biết cái quái gì mà dám bảo ta lạc đề, hả?... Câm ngay! Không cần mấy người trả lời! Đừng có tưởng bở lợi dụng trả lời để lại nói lung tung đã nhé! Ta biết tỏng trong suốt thời gian đi từ Trái Đất đến đây, mấy ngươi đã nói bạt mạng đến cỡ nào rồi. Miệng lưỡi loài người Trái Đất thật không biết thế nào mà lường. Ghê quá!... Thôi, để ta nói tiếp!
- Thì Ngài vẫn đang nói đấy thôi, thưa Đấng Tạo Hóa!...
- Ơ hay mấy thằng này, sao cứ thích nói thế không biết! Ngứa mồm à?! Im ngay lập tức! Ta đã nói là lúc này không phải là lúc mấy ngươi được huyên thuyên mà phải chăm chú lắng nghe vì lợi ích sát sườn của chính bản thân mấy ngươi. Đây là dịp may hiếm có thậm chí là duy nhất có thể giúp cho những cái đầu nóng, thích gây hấn, gàn rỡ và lì lợm của mấy ngươi chuyển biến và phần nào mau chóng tỉnh ngộ. Nên nhớ rằng, Tạo Hóa mà đã rao giảng thì chỉ có đúng thôi chứ không thể sai, hoàn toàn đáng tin cậy nên cũng không cần phải kiểm chứng. Đến linh hồn của Pyrôn và Đềcác, hai nhà hoài nghi vĩ đại nhất của loài người Trái Đất, khi nghe ta nói cũng phải gật đầu lia lịa thừa nhận hoàn toàn, không thể hoài nghi được nữa… Ta rao giảng đến đâu nhỉ? À, phải rồi!... Biểu hiện lối sống tốt hay xấu (lành mạnh hay không lành mạnh) của một con người cụ thể được gọi là nhân cách (xấu hay tốt). Tập hợp tất cả các loại nhân cách lại thì gọi là nhân tính của loài người. Xét trên quan niệm tốt - xấu về mặt đạo đức, nếu loài người có nhân tính thì muông thú có thú tính. Nhờ có suy nghĩ sâu sắc mà thú tính chuyển biến thành nhân tính. Có thể tóm tắt quá trình chuyển biến đó bằng biểu diễn sau đây:
TT + TD = NT
(tuyệt đối không nên hiểu biểu diễn đó là:
Tiền tài + Tình dục = Nhận thức
mà phải hiểu là:
Thú tính + tư duy trừu tượng = Nhân tính!)
Như vậy, dễ dàng suy lý (và cũng có thể dễ dàng rút ra được từ hiện thực khách quan của loài người các ngươi!) rằng, vì muông thú không có hoặc rất thiếu tư duy và hầu như không có cái gọi là tình cảm, cho nên trong cuộc đấu tranh sinh tồn, chúng phân biệt lợi - hại hoàn toàn hoặc hầu như hoàn toàn là dựa vào bản năng (mà chính ta đây phú cho chúng!) và cũng vì thế, mà sự phân biệt tốt - xấu (về mặt đạo đức) nếu có ở chúng thì cũng mờ nhạt, vụn vặt, không đáng kể. Nghĩa là sự cảm nhận của bản thân con vật đối với những hành động được cho là xấu xa hay tốt đẹp về mặt đạo đức, chỉ ở mức nông cạn, nhạt nhòa, nhỏ hẹp. Khi thú tính được trang bị tư duy thì nó được kích hoạt mạnh mẽ để vút lên một trình độ “cao siêu” là nhân tính. Nếu ở thú tính, sự thèm khát hoàn toàn là do bản năng thúc giục và luôn có chừng mực thì ở nhân tính, sự thèm khát ấy vụt trở thành không lồ gọi là sự thèm khát danh lợi do sự thúc giục hết sức mãnh liệt và không còn chừng mực của bản năng đã tăng trưởng đột biến, đã tự giác hóa bởi tư duy. Sự thèm khát danh lợi ấy luôn gây ảnh hưởng lên tâm trí con người và đặc biệt là có tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành nên lý trí con người, đến việc làm xuất hiện một nhân cách con người. Hơn nữa khi sự thèm khát danh lợi đã hoàn toàn chế ngự được lý trí, làm cho lý trí bị che phủ bởi mê lầm và trở thành một lý trí mù quáng thì sự thèm khát danh lợi ấy coi như đã tạo được cơ hội tăng trưởng tiếp tục cho bản thân nó đến tột độ và đạt trạng thái gọi là “sự tham lam vị kỷ vô độ lượng”. Rõ ràng là trình độ tư duy ở mức hoàn thiện về kỹ năng đã làm cho loài người trở thành vô địch trong cuộc đấu tranh sinh tồn ở thế giới sinh vật, nhưng cũng chính tư duy với nhận thức còn lệch lạc về thân phận con người, đã từng và còn đang có những hành động mù quáng, rồ dại, thậm chí là hư hỏng, suy đồi. Nói tóm lại, khi thú tính bị tự duy thổi phổng lên thành nhân tính, nghĩa là khi con thú hóa thành con người, thì tình cảm của nó cũng trở nên sâu sắc, cảm nhận được rõ ràng và tinh tế những cung bậc khác nhau về sung sướng và buồn khổ, hạnh phúc và đau thương, yên lành và bất ổn, tốt đẹp và xấu xa, yêu thương và căm ghét… Vì bị nhận thức còn sai lạc, lý trí còn mê lầm chi phối mà ở mỗi con người có sự nhận định tốt - xấu về mặt đạo đức tương đối có sai biệt nhau, từ đó mà xuất hiện trong xã hội rất nhiều những nhân cách khác nhau hợp thành một nhân tính phân định thành hai mặt tương phản nhau gọi là mặt phải (đúng, tốt đẹp) nhân tính và mặt trái (sai, xấu xa) nhân tính. Chính các mặt trái nhân tính này đã là nguyên nhân làm xuất hiện những hành động tán tận lương tâm nhất, điên dại nhất, tàn bạo nhất, man rợ nhất mà chỉ loài người mới có, không những đối với môi trường thiên nhiên, đối với thế giới sinh vật, mà còn đối với ngay chính xã hội loài người… Này! Lại mấp máy môi định cãi chày cãi cối chứ gì, mấy thằng oắt kia? Không thể chối cãi được đâu! Lịch sử loài người các ngươi còn rành rành ra đó, còn trắng phếu xương và đỏ lòm máu ra kia kìa! Mai mốt mấy người về mà ôn lại đi, thử xem ta nói có chính xác không!? Mẹ hiền Trái Đất đã rộng lòng ban cho riêng loài người một nguồn sống phong phú và dồi dào tưởng chừng như không bao giờ cạn là môi trường thiên nhiên đủ đầy sông núi, bát ngát đất đai, bạt ngàn hoa trái và vô vàn muông thú. Chính cái tư duy dù sâu sắc nhưng còn mê lầm là nguyên nhân sâu xa nhất làm cho loài người chỉ trong khoảng thời gian ước chừng chục ngàn năm, nhất là từ thời trung đại đến nay, đã ngốn ngấu cái nguồn sống ấy đến tan hoang, đẩy nó đến bên bờ vực của sự suy thoái khó lòng mà khắc phục được. Loài người chưa bao giờ thấy được tác hại của mặt trái sự thèm  khát danh lợi nên đã ra sức tìm đủ mọi cách khai thác tài nguyên thiên nhiên với qui mô ngày càng tăng để đáp ứng cho nhu cầu sống cũng ngày càng tăng của mình. Có thể phân biệt tương đối cái nhu cầu sống đó của loài người ra làm hai loại là nhu cầu tự nhiên, có tính bức thiết, chừng mực và nhu cầu nhân tạo, có tính không bức thiết (hoặc chưa thực sự cần thiết), vô độ. Chẳng hạn, ăn cho no và ngon là nhu cầu tự nhiên, nhưng ăn đến mức ngày nào cũng mâm cao cỗ đầy thừa mứa, yến tiệc linh đình, tràn lan, hoang phí cho thỏa phè phỡn lại là nhu cầu nhân tạo. Hay mặc cho ấm, cho tươm tất và đẹp trong giản dị là nhu cầu tự nhiên, nhưng mặc cho thật lộng lẫy, diêm dúa, lòe loẹt để phô diễn sự cao sang, quyền quí thì lại là nhu cầu nhân tạo. Thêm một ví dụ nữa: có một ngôi nhà che mưa che nắng, đảm bảo cho sinh hoạt thông thường và ngôi nhà đó sạch sẽ, đẹp đẽ, phù hợp với thiên nhiên xung quanh là nhu cầu tự nhiên, trái lại sự đòi hỏi có cái nhà thật đồ sộ, lộng lẫy, nguy nga tráng lệ và thênh thang, vượt quá mức cần thiết của nhu cầu tự nhiên, như lâu đài, cung điện,… lại là nhu cầu nhân tạo. Giữa hai loại nhu cầu ấy, có thể thấy nhu cầu tự nhiên thường ổn định, hạn độ và nếu có tăng trưởng thì cũng chậm chạp một cách phù hợp với từng thời đại, trong khi đó nhu cầu nhân tạo luôn bất ổn, dễ bị kích hoạt đến vô độ, luôn luôn tăng nhanh theo thời gian và nhiều khi ở mức đột phát. Thực ra giữa hai loại nhu cầu ấy không hề có ranh giới rõ ràng. Sự xuất hiện một nhu cầu nhân tạo nào đó được toàn xã hội thừa nhận là có lợi cho đời sống thì được coi là cũng có nguồn gốc tự nhiên và sau một thời gian tồn tại nhất định thì chuyển hóa thành nhu cầu tự nhiên. Điều đó có nghĩa là sự tăng nhanh về qui mô của nhu cầu nhân tạo sẽ kéo theo sự tăng trưởng về qui mô của nhu cầu tự nhiên và một khi tư duy loài người còn mê lầm, chưa thấy được mặt trái tai hại của quá trình đó thì nó hoàn toàn bị chi phối bởi sự thèm khát danh lợi và không thể kìm chế được một cách tự giác (mà chỉ có thiên tai vô tình hoặc chính hậu quả của quá trình đó tự phát điều chỉnh, hủy hoại, phá vỡ mâu thuẫn của bản thân nó một cách mù quáng, đồng thời qua đó mà làm xuất hiện những biến động, xáo trộn gây bất lợi, khó khăn cho đời sống nói chung trong xã hội loài người). Có thể thấy rất rõ hiện tượng đó trong hoạt động của nền kinh tế sản xuất hàng hóa và cạnh tranh tự do kiểu tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ tạm gọi là vô chính phủ (coi như không có sự khống chế, hoạch định, điều tiết của nhà nước ở tầm vĩ mô đối với nền sản xuất hàng hóa). Do ở mỗi con người đều chứa đựng một sự thèm khát danh lợi với mức độ nhất định nào đó mà phần nhiều, sự thèm khát của cải vật chất, giàu sang phú quý, vinh hoa đã ở mức cao độ, thậm chí là vô độ, cho nên sản xuất hàng hóa của loài người ngày càng được chuyên môn hóa và mở rộng, từ tình trạng tản mạn, thủ công lên trình độ tập trung công nghiệp hóa. Đi liền với quá trình phát triển ấy đương nhiên là quá trình ngày càng tăng cường khai thác tài nguyên thiên nhiên cả về mặt số lượng lẫn chủng loại. Khi sản xuất hàng hóa bước vào thời kỳ cơ giới hóa - điện khí hóa thì nó vụt biến thành một con quái vật khổng lồ, cắn xé, nhai nuốt đủ thứ tài nguyên thiên nhiên với những lượng ngày càng to lớn để thải ra ngày một nhiều các vật phẩm tiêu dùng cho nhu cầu (tự nhiên thì ít mà nhân tạo thì quá nhiều!) của loài người (và đồng thời cũng thải ra cơ man là rác gây ô nhiễm môi trường, làm biến thái môi trường theo chiều hướng bất lợi cho sự sống sinh vật). Sự thèm khát danh lợi kết hợp với cạnh tranh tự do làm cho hàng tiêu dùng ngày một tăng cao về sản lượng, mở rộng về chủng loại, mẫu mã, đến độ vượt quá nhu cầu cần thiết (cả tự nhiên lẫn nhân tạo) hiện có trong thực tế của đời sống xã hội và đồng thời quá trình đó cũng làm xuất hiện hàng loạt sản phẩm tiêu dùng mới, chưa từng có trên thị trường (mở đầu cho một nhu cầu nhân tạo mới ra đời). Hàng hóa sản xuất ra mà không tiêu thụ có lãi được là điều tối kỵ của sản xuất hàng hóa vì nó đe dọa đến sự sống còn của sản xuất, gây bức xúc, đau thương đến sự thèm khát danh lợi. Vì thế mà sự thèm khát danh lợi có lượng hàng hóa đứng trước nguy cơ dư thừa đó không còn cách nào khác là phải dùng mọi thủ đoạn có thể một cách trong sáng mà cũng nhiều khi đen tối nhằm kích thích những sự thèm khát danh lợi khác, nghĩa là kích thích tiêu dùng, để tiêu thụ được sản phẩm hàng hóa của mình. Có thể liệt kê ra những hình thức kích thích tiêu dùng, đó là kêu gọi ủng hộ, giới thiệu sản phẩm, quảng cáo, khuyến mãi, giảm giá, lừa mị, thậm chí là dựa vào quyền lực hoặc trực tiếp dùng quyền lực, bạo lực. Hậu quả của sự tăng cường sản xuất hàng hóa về số lượng đồng thời kích hoạt tiêu dùng lên mức độ ngày càng cao, vô hình dung cũng gây ra sự lãng phí tài nguyên thiên nhiên ngày một lớn. Hậu quả là chỉ riêng việc phục vụ cho sự sống còn của con quái vật sản xuất hàng hóa đã trở thành khổng lồ mà chưa cần nói đến đến thiệt hại do chiến tranh gây ra, loài người đã làm cho tài nguyên thiên nhiên của mình nhanh chóng, bị suy kiệt trầm trọng, làm cho môi trường thiên nhiên, nơi mà loài người đang sống còn trong đó, nơi là nguồn sống của loài người và thiếu nó thì loài người không thể tồn tại được, nhanh chóng bị xơ xác, tiêu điều và bị ô nhiễm nặng nề. Thử hỏi, loài người hành xử với mẹ hiền Trái Đất của mình như vậy, với cái nôi mà mình đã từng sống khi chào đời, với cái nơi đảm bảo sự sống cho mình như vậy thì cũng chính là mở ra con đường tự đưa mình tới sự diệt vong không còn xa nữa, thì đã có thể gọi cách hành xử như vậy là có tính ngu muội, tàn bạo và man rợ được chưa?... Ê, lại định mở mồm ra cãi đấy hả, lũ kia? Im! Ta còn chưa nói xong. Ừ! Cứ cho rằng hành xử đến mức đó vẫn chưa gọi là man rợ đi, thì hành cửa của con người mà ta kể sau đây có đúng là man rợ không? Loài người không những khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách vô lối với phần ít là để đáp ứng cho nhu cầu sống tự nhiên, bức thiết và phần nhiều là dùng để “nuôi nấng” cái nhu cầu  nhân tạo to lớn chưa được chú tâm kìm hãm, khống chế của mình mà còn phá phách môi trường thiên nhiên một cách vô tội vạ, phi nghĩa, cũng chỉ vì sự thèm khát danh lợi cao độ và vô độ của mình, cũng chỉ để thỏa mãn những thú tiêu khiển kỳ quặc, những tham vọng điên cuồng đến lạ lùng của mình. Chẳng hạn những kẻ có cuộc sống sung túc, vương giả, nghĩa là không hề do đói khát thúc giục mà chỉ vì để cho vui, thường tổ chức đi săn bắn, giết chóc muông thú, hoặc tiêu khiển bằng cách nuôi thú, kích thích chúng và tổ chức những cuộc đấu chọi giữa hai con thú cho đến khi một con chết đi. Dù có giỏi biện minh đến đâu chăng nữa thì sự hành hạ, giết chóc, tàn sát sinh linh muông thú không vì bất cứ một nhu cầu sống còn sát sườn nào cả mà chỉ để cho vui, cho hả dạ tính thích gây hấn tiềm tàng trong tâm hồn con người, không thể là không man rợ được. Còn công cuộc làm biến dạng địa hình địa vật thiên nhiên, hay có thể nói là công cuộc đập phá thiên nhiên để dựng xây cơ sở vật chất như nhà cửa, đường sá, cầu cống… nhằm phục vụ cho đời sống loài người thì có tính man rợ không? Bộ não biết tư duy sâu sắc là một tuyệt tác của Tạo Hóa, được Tạo Hóa tác thành nên thông qua cuộc đấu tranh sinh tồn và tiến hóa thích nghi lâu dài trong thế giới sinh vật (ta nói ra sự thật chứ không phải có thích tự khen mình như loài người Trái Đất đâu!). Tuy nhiên, trí khôn của loài người các ngươi không phải vì thế mà không còn nhiều ngây dại. Nghĩa là loài người Trái Đất vẫn còn ở tình trạng sáng suốt trong mê lầm, trong u minh, làm cho nó nhiều khi có những hành động kiểu “ma dẫn lối, quỉ đưa đường”. Vì vậy, có thể cho rằng, xét ở góc độ lành mạnh, biết hạn định trong chừng mực nhất định thì sự đập phá thiên nhiên để dựng xây nhằm cải tạo, môi trường sống cho tốt hơn là một yêu cầu cần thiết, biểu hiện và sự thông minh, tài giỏi của loài người và không hề man rợ. Nhưng nếu xét ở góc độ không lành mạnh, khi sự đập phá thiên nhiên trở nên ồ ạt, thái quá không thương tiếc chỉ để nhằm thỏa mãn sự thèm khát danh lợi, đáp ứng những nhu cầu nhân tạo không bức thiết, hay chỉ nhằm thỏa mãn những tham vọng ngông cuồng, vị kỷ, chẳng mảy may có ích lợi gì đối với xã hội, đối với sự sống của loài người, thì hành động đập phá ấy là man rợ. Những Kim tự tháp Ai Cập được loài người đánh giá là một trong những kỳ quan của mình vì nó toát lên cái hùng vĩ, cái trường tồn trước tầm vóc cũng như sức lực nhỏ bé của con người, trước sự ngắn ngủi của một đời người, mà loài người nhờ thông minh, tài giỏi và khéo léo đã đẽo tạc rồi chồng chất nên được. Ta cũng đồng tình như vậy, nhưng nhấn mạnh rằng, đó chỉ là kỳ quan đối với riêng loài người thôi chứ không phải là đối với bất kỳ ai hay bất kỳ thứ gì khác nữa. Đối với ta thì những kim tự tháp ấy là biểu hiện của sự kỳ cục. Đập phá núi non ở chỗ này đi chất thành núi non ở chỗ khác không phải là một hành động kỳ cục sao? Chỉ vì cái tham vọng cuồng loạn và đầy hão huyền là được bất tử mà các Pharaon Ai Cập đã huy động hàng ngàn vạn con người làm như vậy và ý đồ đó có ngộ nghĩnh và kỳ cục không.? Hơn nữa, trong cái kỳ cục ấy, ta còn thấy hàm chứa cả sự man rợ. Cho dù ngày nay có ý kiến cho rằng những người thợ xây dựng kim tự tháp được các Pharaon trả công hẳn hoi thì các Pharaon lấy gì mà trả nếu không phải là từ tiền của cướp được trong những cuộc chiến tranh tương tàn và sự cống nộp của nhân dân Ai Cập trước một quyền lực tối thượng sẵn sàng ra tay trừng trị kẻ không biết điều? Và bao nhiêu con người đã bị buộc phải xa gia đình, chia lìa quê hương bản quán, chết tha phương bởi các công việc cực kỳ nhọc nhằn, đầy nguy hiểm rình rập là xây đắp những nấm mồ vĩ đại và vô tích sự bởi những tham vọng cuồng tín một cách mù quáng ấy? Tại sao ngay từ thời kỳ được gọi là văn minh cổ đại và cho đến tận ngày nay, loài người lại thèm khát đến mê mẩn vàng bạc châu báu như vậy, để rồi tìm đủ mọi cách đào bới đất đai, triệt phá rừng núi nhằm vơ vét chúng, dùng mọi thủ đoạn sở hữu chúng làm của riêng? Sự thèm khát thái quá ấy có toát ra sự man rợ không? Ta biết tỏng là dù mấy người chỉ tỏ vẻ đang chăm chú nghe ta một cách phục thiện, nhưng thực ra trong lòng mấy người đang nổi loạn, phản đối ta ầm ĩ. Loài người Trái Đất coi cái tôi của mình lớn lắm. Vì thế mà loài người Trái Đất dễ dầu gì thấy được sự mê lầm của mình và thừa nhận những hành động man rợ của mình đối với môi trường thiên nhiên, thậm chí còn bao biện rằng, vì thiên nhiên có quá trình tự tái tạo của nó nên sự khai thác tài nguyên thiên nhiên của loài người với mức độ như hiện nay là vẫn chấp nhận được và chẳng thấm tháp gì so với sự tàn phá của thiên tai. Đành rằng có sinh thì phải có tử là một bất biến đối với vạn vật - hiện tượng trong Vũ Trụ. (Bản thân ta, dù “đẻ ra” luật ấy thì cũng phải tuân theo luật ấy, chỉ có điều sự sống - chết ấy là vĩnh cửu: đang sống vĩnh cửu thì đồng thời cũng đang chết vĩnh cửu, không sống vĩnh cửu mà cũng không chết vĩnh cửu, là cả hai mà cũng không phải cả hai và đó là Tự Nhiên Tồn Tại). Trái Đất xuất hiện trong Vũ Trụ thì rồi cũng có ngày phải tan biến đi, nghĩa là sự sống trên Trái Đất rồi cũng đến ngày tận thế. Đó là điều hoàn toàn tự nhiên và không có gì gọi là tàn bạo hay man rợ cả, vì một cách thực sự khách quan thì sinh cũng như tử, chẳng có cái nào được ưu tiên hơn cái nào, chỉ là hai thể hiện tương phản nhau một cách tương đối lần lượt làm tiền đề cho nhau xuất hiện, phô diễn sự biến đổi đến tuyệt cùng theo nguyên lý nhân quả trong sự hạn định tuyệt đối của vật chất vận động nhằm cùng nhau phụng sự Tồn Tại. Như vậy, Trái Đất có vận mệnh của nó và sự sống Trái Đất cũng tồn vong theo cái vận mệnh ấy. Nhưng đó là vô tình! Lịch sử cho thấy trong suốt thời gian tồn tại cho đến nay, Trái Đất đã từng bị tàn phá bởi nhiều thiên tai kinh thiên động địa, làm chết hàng loạt sinh vật, làm tuyệt chủng nhiều giống loài, nhưng sự sống nói chung thì bất diệt: Những thiên tai từ bên ngoài ập đến tàn phá nghiêm trọng môi trường thiên nhiên ở Trái Đất là rất hiếm. Tác động bị cho là có tính phá hoại môi trường thiên nhiên Trái Đất chủ yếu là do bản thân sự vận động của Trái Đất gây ra và cũng chỉ ở mức độ không nghiêm trọng.Vì vận động của Trái Đất là có tính tuần hoàn, chu kỳ (vận động tuần hoàn theo chu kỳ là một phương thức vận động vật chất phổ biến trong Vũ Trụ!) cho nên sự tác động bị cho là phá hoại môi trường thiên nhiên ấy cũng phải “phảng phất” tính tuần hoàn, chu kỳ và thực sự khách quan thì phải cho rằng không phải là do thiên tai gây ra (vì làm gì có thiên tai trước quan sát thực sự khách quan, không thiên vị?!). Nếu đã có quá trình tác động đó thì cũng phải có một quá trình tác động ngược đối với môi trường thiên nhiên của thế giới sinh vật, có tính tương phản với nó. Hai quá trình đó đồng thời xảy ra nhưng theo hai chiều gọi là thuận - nghịch của nhau, và sự tiến triển của chúng có khi đều đặn có khi đột biến, có lúc hài hòa nhau, có lúc sai biệt nhau. Từ đó mà thấy, một cách tự nhiên, môi trường thiên nhiên biến động theo cách của nó không ưu tiên cho một giống loài sinh vật nào, không có mục đích phù hợp hay không phù hợp cho thế giới sinh vật, nhưng xét trên quan điểm ưu tiên cho sự sống còn thì nói chung, môi trường thiên nhiên biến đổi có lúc thuận lợi, có lúc bất lợi cho thế giới sinh vật (đóng vai trò như bộ phận hợp thành của chính môi trường ấy), làm cho thế giới sinh vật biến đổi theo một cách tích cực để thích ứng. Đối với từng giống loài sinh vật cụ thể thì đó chính là quá trình đấu tranh sinh tồn và trong cuộc đấu tranh sinh tồn ấy hoặc là bị diệt vong, hoặc là phải nỗ lực cải tạo bản thân đế tiến hóa thích nghi cho phù hợp, có ưu thế hơn trong điều kiện sống mới. Cũng từ đó mà thấy sự biến đổi của môi trường thiên nhiên (gồm cả thế giới sinh vật), luôn biểu hiện ra như hai quá trình đồng thời nhưng nhiều lúc nổi trội hơn so với nhau, tương tác đến nhau, đó là sự tự hủy hoại và tự tạo thành một cách chừng mực, tương đối hài hòa trong phạm vi qui mô về kích cỡ không gian và lực lượng vật chất hạn định của môi trường thiên nhiên. Đối với một giống loài nhất định thì tác động tổng hợp của hai quá trình đó tạo ta điều kiện, hoàn cảnh sống hoặc bất lợi hơn hoặc thuận lợi hơn. Trong điều kiện quá bất lợi, giống loài đó phải tự phát lan tỏa ra khắp môi trường để tìm cơ may sống sót, giảm số lượng thành viên phù hợp với lượng thức ăn đã suy giảm, tích cực tìm loại thức ăn mới để bổ sung, tích cực đối phó với thời tiết khí hậu đã xấu đi, “chờ đợi” sự cải tiến cơ thể sinh học của mình để thích nghi và chuyển biến thành giống loài mới. Một khi tất cả những cách thức ấy đều không kịp thời đáp ứng thì giống loài đó sẽ thực sự bị diệt vong. Điều đáng chú ý là trong điều kiện quá thuận lợi, giống loài đó sẽ tăng trưởng đột phá cả về kích thước cơ thể lẫn số lượng thành viên. Sự tăng trưởng lạm phát đó, vô hình dung, lại nhanh chóng tạo ra điều kiện sống bất lợi, dẫn đến bờ vực của sự tự diệt vong đối với giống loài đó, “nhường chỗ” cho những giống loài khác, hoặc cho một giống loài mới ra đời, và đây cũng là một yếu tố mang tính qui luật của nguyên nhân của quá trình tiến hóa thích nghi sinh vật. Nói thật, trước khi loài người các ngươi chưa xuất hiện, môi trường thiên nhiên của Trái Đất đã tồn tại và vận động hết sức hồn nhiên và tương đối hài hòa, cân đối, tự phát điều chỉnh cho phù hợp theo cách của nó, tự hoại bao nhiêu thì cũng tự tạo bấy nhiêu, có sinh có diệt để ổn định và đổi mới, đổi mới trong ổn định, không thiện không ác, không nhân đạo mà cũng chẳng man rợ. Nếu môi trường thiên nhiên biết suy nghĩ và có quyền tự quyết thì nó sẽ không bao giờ cho xuất hiện loài người để rồi nhanh chóng trở thành “mồi ngon” cho giống loài càng khôn lớn lên, càng tham lam vô độ đó. Môi trường thiên nhiên hiền hòa không những đã vô trình mà còn đã bị bắt buộc phải thực hiện điều đó, và đó hoàn toàn là do lỗi tại ta (ta ân hận quá nhưng đến bây giờ thì… quá muộn rồi!). Khi loài người được trang bị suy nghĩ sâu sắc nhưng vẫn còn mù quáng bởi mê lầm, đã trở nên một lực lượng có uy lực áp đảo nhanh chóng và khiên cưỡng theo chiều hướng ngày một tồi tệ đối với sự sống của sinh vật nói chung và của ngay chính loài người nói riêng. Hữu sinh và vô sinh là hai thể hiện tương phản nhau của vật chất vận động trong môi trường thiên nhiên mà loài người quan sát thấy, nêu ra khái niệm về chúng để phân biệt chúng. Hoàn toàn tương tư, cặp khái niệm tương phản sống - chết được dùng chủ yếu cho thế giới sinh vật để phân biệt hai trạng thái còn tồn tại hay đã hết tồn tại của một cơ thể sống (theo định nghĩa do chính loài người nêu ra). Tư duy sâu sắc đưa loài người đến nhận thức nói chung rằng, sống trên cõi trần gian để thấy biết, hưởng thụ, là điều sung sướng, là may mắn, hy hữu, nhưng đời người thì (thật đúng là tiếc) lại hữu hạn, ngắn ngủi nên sự sống là đáng quý và bình thường thì ai cũng ham sống, còn chết là hết tất cả, không bao giờ còn được thấy, biết và hưởng thụ nữa, vĩnh viễn lìa xa tất cả, vĩnh viên vô tri vô giác và vì thế mà thông thường, cái chết là đáng ghét, ai cũng ghê sợ nó dù biết rằng không thể tránh khỏi nó. Nghĩa là qua đánh giá chủ quan và thiên vị về tình cảm của loài người, sinh và tử đã không còn được thấy là bình đẳng với nhau nữa. Trong khi đối với mỗi con người ở trạng thái tâm thức bình thường, ai cũng vậy, đều ưu ái trọng vọng cuộc sống, nhất là cuộc sống của bản thân mình, thì đều coi sự chết chóc là một kết cục xót xa, đau thương và ai cũng muốn tránh né, xa lánh nó, dù biết rằng rồi cũng đến lúc phải chết thì người ta vẫn cố quên nó đi để vui sống. Cảm nhận về sinh - tử như vậy, dù không còn thực sự khách quan nữa, dù đã bị tình cảm chủ quan thiên vị, thì không phải là không hợp tình hợp lý đối với bản thân loài người, trái lại, phải cho là đúng đắn, sáng suốt, và đây chính là yếu tố quyết định làm hình thành nên Đức Huyền Diệu trong xã hội loài người mà các ngươi đã từng “khua môi, múa mép” nói tới. Cũng chính từ quan niệm thiên lệch về sinh - tử ấy mà xuất hiện hàng loạt những cặp khái niệm, quan niệm khác cũng thiên lệch khi đánh giá về mặt đạo đức đại loại như: thiện - ác, vị tha - ích kỷ, nhân hậu - dã man… và những tác động của tự nhiên gây thiệt hại đáng kể, nặng nề đến thế giới sinh vật được gọi là thiên tai. Như ta đã nói thì môi trường thiên nhiên Trái Đất là có hạn định về qui mô kích thước không gian lẫn lực lượng vật chất. Lúc đầu, môi trường ấy là hoàn toàn vô sinh. Khi môi trường ấy biến chuyển đến một thời đoạn được gọi là phù hợp và thuận lợi thì sự sống nảy sinh và tăng trưởng lực lượng mà đầu tiên là tăng trưởng về số lượng cá thể. Sự tăng trưởng ấy là tự phát, mù quáng và có chiều hướng đến vô hạn. Để đảm bảo tồn tại và tăng trưởng số lượng thì sự sống thủa ban đầu ấy rõ ràng là phải trao đổi chất với môi trường chứa nó và lượng vật chất phù hợp đóng vai trò “thức ăn” của nó chỉ có thể là do giới vô sinh cung ứng. Thế nhưng vì môi trường thiên nhiên là “chỉ có ngần ấy thôi” trong khi phải cung ứng thức ăn thường xuyên với số lượng ngày một tăng cho sự sống tồn tại và tăng trưởng mù quáng (tăng trưởng lạm phát lá một qui luật của tự nhiên!), cho nên nguồn thức ăn vô sinh đó tất yếu phải giảm có gia tốc theo thời gian. Bản thân sự sống (khi chưa có tư duy), do có cấu trúc nội tại cơ thể đã được định hình tương đối ổn định, phù hợp với điều kiện môi trường bởi tự nhiên (mà nguyên nhân sâu xa nhất là duy trì vận động cân bằng thông qua sự tương tác, trao đổi vật chất với môi trường chứa nó), theo hướng tạm gọi là có khả năng sinh sản và thường bị thúc dục bởi khả năng đã trở thành bản năng ấy, cho nên không thể tự khống chế được sự tăng trưởng mù quáng của nó. Cũng vì vậy mà hình thành nên mâu thuẫn tất yếu giữa quá trình duy trì tồn tại, đồng thời tăng trưởng thường xuyên của sự sống khởi thủy và quá trình giảm dần khả năng cung ứng theo thời gian của nguồn thức ăn vô sinh cho nó trong môi trường. Mâu thuẫn ấy dần dần trở nên căng thẳng, gay gắt, làm chuyển biến điều kiện môi trường từ thuận lợi sang bất lợi đối với sự sống khởi thủy, dẫn đến nguy cơ cạn kiệt nguồn thức ăn và sự sống bị tiêu diệt. Tuy nhiên, môi trường thiên nhiên không (chỉ) tự giải quyết cái mâu thuẫn nội bộ đã trở nên “không chịu nổi ấy” bằng cách đơn thuần là trở lại tình trạng vô sinh thuở ban đầu mà (còn) bằng cách (hợp lý hơn): khống chế tốc độ tăng trưởng của sự sống, giảm tuổi thọ cá thể sinh vật ở mức hạn định nào đó, làm một phần lực lượng sự sống do thiếu thức ăn mà chết, nghĩa là bên cạnh quá trình duy trì tồn tại và tăng trưởng của sự sống, gọi là thuận, thì cũng có quá trình chấm dứt tồn tại, làm suy thoái lực lượng sự sống, gọi là nghịch. Phần lực lượng sự sống chết đi, sau khi phân hủy sẽ trở thành lực lượng chất vô sinh, bổ sung cho nguồn thức ăn “truyền thống”. Cách giải quyết mâu thuẫn đó là có tính hồn nhiên, mù quáng và hơn nữa, xảy ra trong một môi trường thường xuyên biến động nên không triệt để ở mọi lúc mọi nơi, nghĩa là nguồn thức ăn có thể giao động trong không gian và thời gian, lúc thiếu lúc thừa, làm cho sự sống khởi thủy phân hóa thành những bộ phận số lượng tương đối khác biệt nhau về tuổi thọ, về mức độ tăng trưởng số lượng cũng như kích cỡ của từng cá thể sống. Quá trình giải quyết mâu thuẫn không những không triệt để mà còn làm nảy sinh những mâu thuẫn mới đến độ gay gắt giữa sự sống khởi thủy và nguồn thức ăn sẽ tự phát làm xuất hiện nên một xu thế trong nội bộ sự sống khởi thủy, đó là sự tự phát nỗ lực bổ sung và tăng cường nguồn thức ăn về số lượng, nghĩa là không những mở rộng về chủng loại các chất vô sinh có thể ăn được mà cả các chất hữu sinh cũng được huy động cho mục đích duy trì tồn tại và tăng trưởng của các cơ thể sống. Muốn thế, tùy thuộc vào môi trường chứa chúng qui định, và cũng là quá trình tự phát, các cơ thể sống khởi thủy phải tự cải tạo bản thân để dần dần chuyển hóa cả về mặt cấu trúc sinh học lẫn sức vóc theo hướng tiêu thụ được những dạng thức ăn mới mà trước đó còn tồn tại dưới dạng tiềm năng, không những là các chất vô sinh mà cả các chất hữu sinh, không những là xác những cơ thể sống đã chết chưa bị phân hủy mà cả các cơ thể đang sống khác. Có thể nói chính tính đa dạng nhưng có mức độ hạn định về qui mô của môi trường thiên nhiên vô sinh (tồn tại những bộ phận môi trường - những địa bàn có điều kiện sống tương đối khác biệt nhau) đã làm xuất hiện những tập hợp sống khởi thủy ngày một khác biệt nhau tương đối về cấu trúc, sức vóc cá thể và cả lối sống, rồi cùng với sự chuyển biến này của sự sống, trước yêu cầu phải giải quyết cái mâu thuẫn giữa sự tăng trưởng mù quáng không thể kìm chế dứt khoát được và lượng thức ăn vô sinh truyền thống, vốn sẵn có giảm đi một cách tất yếu, không phục hồi được, mà gây ra cảnh ăn tươi nuốt sống nhau giữa các tập hợp sống khởi thủy. Cuộc ăn thịt lẫn nhau ấy càng làm cho các tập hợp sống chuyển biến khác nhau nhiều hơn nữa, theo nhiều cách. Chẳng hạn, có thể là tập hợp sống có các cá thể với sức vóc lớn mạnh hơn sẽ tăng cường và hoàn thiện sức vóc ấy để ăn mồi dễ dàng hơn, hiệu quả hơn, trong khi đó tập hợp sống có các cá thể nhỏ yếu hơn sẽ phải tự tạo và hoàn thiện những kỹ năng kỹ xảo mới để có khả năng thoát khỏi bị ăn, thậm chí là giết chết luôn đối phương “to xác” nào đó định ăn chúng và “xơi tái” lại… Thế là ta đã nói cho mấy người nghe xong, dù là rất tóm tắt, cái nguồn gốc sâu xa nhất và đồng thời cũng là buổi đầu tiên của cuộc đấu tranh sinh tồn quyết liệt, của quá trình tiến hóa thích nghi liên tục làm xuất hiện đa dạng và phong phú giống loài làm tiêu vong hàng loạt giống loài cũ đồng thời hình thành hàng loạt giống loài mới, tạo thành hai xu thế thuận nghịch nhau là tiếp tục tăng cường đồng thời với tiếp tục khống chế quá trình đa dạng và phong phú hóa giống loài một cách thích ứng trong công cuộc nỗ lực mở rộng môi trường sống đến tận cùng khả năng mà môi trường thiên nhiên có thể có của thế giới sinh vật. Như vậy, rõ ràng là nếu không có loài người các ngươi thì cuộc sống trong môi trường thiên nhiên Trái Đất ấy nói chung là yên ả, hài hòa cân đối một cách hồn nhiên, có quá trình tự hủy hoại thì cũng có quá trình tự tái tạo một cách thích ứng, không hiền mà cũng không ác cho nên cũng chẳng có gì gọi là man rợ cả. Khi loài người xuất hiện và trở thành một lực lượng sống thống trị thế giới sinh vật thì cũng là lúc loài người bắt đầu thực hiện cuộc thập tự chinh vĩ đại đi chinh phục môi trường thiên nhiên. Chính sự thèm khát danh lợi nhiều khi đến vô độ lượng ẩn chứa trong mỗi con người đã làm cho cuộc thập tự chinh ấy ngàu càng rầm rộ, khốc liệt, đập phá, đào bới tan hoang giới vô sinh, tàn sát không thương tiếc giới hữu sinh nhằm vơ vét triệt để tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho cái nhu cầu nhân tạo đầy giả tạo và ích kỷ của mình. Sự phá phách ấy của loài người ghê gớm đến nỗi quá trình hủy hoại trở nên hoàn toàn áp đảo quá trình tái tạo lại môi trường thiên nhiên, làm cho nó nhanh chóng suy thoái theo hướng ngày một bất lợi cho sự sống và hầu như mọi giống loài sinh vật đều đang lây lất bên bờ vực của sự tuyệt chủng. Vô hình chung, cuộc thập tự chinh đi phá hoại và tiêu diệt ấy chính là cái thiên tai phá hoại môi trường sống kinh hoàng nhất, gây thiệt hại sự sống khủng khiếp nhất và vì là hành động mù quáng, đầy ích kỷ của loài người, tưởng chỉ có lợi cho mình nhưng hóa ra cũng gây hại nặng nề cho chính giống loài mình, cho cả muôn đời con cháu mai sau của mình, nên cũng là cái thiên tai bộc lộ ra sự dã man, tàn bạo nhất mà Trái Đất (tiếc thay) buộc phải tạo ra trong số các thiên tai tự tạo ra được của Nó. Môi trường thiên nhiên Trái Đất đã lâm vào tình trạng “suy dinh dưỡng” đến tê hại như hiện mà loài người hầu như chẳng thấy, hoặc nếu có thấy thì cũng chỉ hời hợt và nhanh nhảu lôi một đống lý do để bao biện chứ không hề lo lắng gì cả. Phải chăng đó cũng là một biểu hiện của sự man rợ! Thật là đáng kinh ngạc!... Ê! Mấy đứa mắc dịch cứng đầu kia, lại đang lầm bầm cái gì đấy!? Phản đối ta à? Loài người Trái Đất gây ra quang cảnh hoang tàn đến thế đối với môi trường thiên nhiên, nơi mà bản thân loài người chỉ có thể sống còn nếu điều kiện sống chưa bị triệt thoái mất đi, thì như thế không phải là ngu muội sao, không gọi là thảm cảnh sao? Và ngu muội gây ra thảm cảnh thì gọi là gì nếu không phải là man rợ? Giống loài muông thú có hành động bạo tàn đối với môi trường thiên nhiên như loài người không? Đừng có giở trò bao biện nữa vì trước Tạo Hóa là không thể bao biện được đâu! Nhưng thôi, mấy người cứ bảo thủ đi, cứ khẳng định rằng loài người các ngươi có quyền hành động như vậy để mưu cầu cuộc sống chưa bao giờ được hưởng thụ mãn nguyện và đó cũng phù hợp với lẽ tự nhiên đi, rằng loài người là văn minh, lịch sự nhất Vũ Trụ đi, thì trong trường hợp cuối cùng mà ta sắp “xổ toẹt” ra đây, mấy người sẽ không còn bấu víu được vào bất cứ cái gì để có thể biện minh, dù là… cãi chày cãi cối trước sự kiện khẳng định đanh thép này: đúng, loài người là một lũ man rợ! Loài người không phải chỉ có một mà là hai cuộc thập tự chinh vĩ đại, có qui mô tương tự nhau, được phát động gần như cùng một lúc và cùng hầu như được tiến hành thường xuyên, liên tục và đều tiếp diễn đến tận ngày nay vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc. Cả hai cuộc thập tự chinh ấy đều tàn phá dữ dội thiên nhiên và tàn sát khốc liệt sự sống và vì thế mà đều man rợ. Cuộc thập tự chinh thứ nhất thì như ta đã kể, còn cuộc thập tự chinh thứ hai chính là quá trình chiếm đoạt, cướp bóc tài sản, của cải, hành hạ, tiêu diệt lẫn nhau đến thảm khốc của loài người, nghĩa là loài người thực hiện cuộc thập tự chinh này với mục đích hết sức quái đản: hành hạ, chém giết không thương tiếc chính mình, tự mình cố gắng đi diệt chủng chính mình. Nếu cuộc thập tự chinh thứ nhất dù đúng là man rợ nhưng khó thấy và mấy ngươi còn chối cãi leo lẻo được thì cuộc thập tự chinh thứ hai là man rợ tới mức tột cùng, ghê hồn bạt vía, không kẻ còn một chút lương tri nào có thể hình dung ra được. Con người với nhau mà đọa đày nhau trong gông cùm, xiềng xích, mà hành hạ tra tấn nhau bằng đủ mọi cực hình từ xẻo tai, móc mắt đến chặt chân, chặt tay… cho tàn phế. Con người với nhau mà xé xác, phanh thây, ăn gan uống máu nhau, thiêu sống nhau chết quằn quại trên dàn lửa… Con Người với nhau mà xông vào chặt chém nhau đến chết cho hả hận thù hay chỉ vì cho thỏa niềm thích chí. Con người với nhau mà giết chóc nhau vì điên loạn, ghen ghét đã đành, nhưng đang yêu thương nhau tha thiết lại giết nhau mới quái đản. Con người với nhau mà dàn trận tuyến cố tiêu diệt nhau hàng loạt để tranh thắng bằng đủ mọi thứ vũ khí mà nền văn minh chế tác ra được như đại bác, súng liên thanh, bom napan, chất độc hóa học, bom nguyên tử… Ôi! Quá ghê tởm, quá rùng rợn, quá man rợ! Ôi! Ta không kể tiếp được nữa đâu, lợm giọng quá!...
Đóa hoa vĩ đại lại chuyển sang sắc tím tái. Chắc Tạo Hóa lại lên cơn giận dữ? Không, có lẽ Ngài trở nên buồn bã thì đúng hơn! Kể ra thì Đấng Toàn Năng rao giảng cũng có phần chí lý. Tuy nhiên, vì đã là toàn năng thì phải bao gồm cả thiểu năng nên Ngài cũng không thể biết hết được. Ngài đâu có biết được hai cuộc thập tự chinh của loài người dù sao thì cũng phân hóa nội bộ loài người và làm xuất hiện một bộ phận lực lượng không ít lên án sự tàn ác của hai cuộc thập tự chinh ấy, không những chỉ hô hào, kêu gọi mà còn có những hành động thiết thực trong thực tế nhằm hạn chế, ngăn chặn những hành động có tính man rợ đối với con người và cả đối với môi trường thiên nhiên, đối với thế giới sinh vật. Có thể thấy dễ dàng là ngày nay đã có nhiều tổ chức ra đời, tập hợp lực lượng, không tiếc tiền của lẫn công sức, tích cực hoạt động với mục đích duy nhất là bảo tồn, tái tạo môi trường thiên nhiên, thế giới sinh vật theo hướng cải thiện lại điều kiện sống và chấm dứt sự hành xử man rợ giữa người với người. Ngài cũng đâu biết được loài người chúng ta đã khám phá ra và đang khai thác, ứng dụng vào đời sống với mục đích hòa bình, ngày một hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên không bao giờ cạn, đó là năng lượng hạt nhân…
- Ta biết hết! - Đóa hoa vĩ đại rực hồng hào, tươi tắn trở lại - Đúng! Trong nội bộ loài người Trái Đất không thiếu, thậm chí là có rất nhiều những suy nghĩ và hành vi tốt đẹp. Đó chính là sự thể hiện của mặt phải nhân tính của Đức Huyền Diệu. Nhưng thể hiện đến ngần ấy thôi là chưa đủ. Đạo đức xã hội là vấn đề cơ bản và trọng yếu nhất mà loài người các ngươi nêu ra và bàn luận ngay từ buổi bình minh của lối sống cộng đồng - xã hội. Cho đến tận ngày nay, cuộc bàn luận ấy vẫn chưa ngã ngũ và vấn đề đạo đức vẫn mang tính thời sự ở những khía cạnh chung nhất có tính hình thức, lý tưởng. Vì chưa nhận thức đúng đắn được nguồn gốc tự nhiên của Đức Huyền Diệu và cũng vì cái bản tính kiêu ngạo, thích tự đề cao mình mà loài người thường “nhập nhèm” giữa Đức Huyền Diệu và nhân tính, không thừa nhận  mặt trái của nhân tính mà lại cho đó là thú tính, gây hàm oan cho giống loài muông thú - lực lượng sinh vật đóng vai trò hiến tế cho sự sống của loài người và như vậy, đáng lý ra loài người phải trân trọng, đời đời biết ơn. Cái mê lầm nghiêm trọng nhất chính là ở chỗ ấy đấy. Này, ta bảo cho mà biết, khi mất ngươi về đến Trái Đất thì ngay lập tức phải bố cáo lời rao giảng từ nãy đến giờ của ta và tuyên truyền lời ta nhắn nhủ sau đây, vì tình thế liên quan đến vấn đề tồn - vong của sự sống ở đó đã đến lúc cấp bách lắm rồi! Hãy lắng tai, quên, hãy tập trung tinh thần mà tiếp thu này! Loài người các ngươi không được chậm trễ nữa, phải suy ngẫm, chiêm nghiệm để nhận thức lại cho đúng đắn về thân phận mình đi! Hãy vứt bỏ ngay tức khắc cái quan niệm cho rằng loài người là chúa tể đi! Phải nhìn cho ra được mặt phản tác dụng của sự tiến hóa để thấy rằng, xét cho cùng thì loài người cũng chỉ là một giống loài thuộc thế giới muông thú, dù được ưu tiên hơn muông thú khác về tư duy thì đồng thời cũng bị chính cái tư duy ấy làm chi bị tật nguyền hành hạ hơn muông thú khác. Xét ở góc độ số lượng Vũ Trụ là nhiều và vận động của Vũ Trụ là tuần hoàn theo chu trình gồm rất nhiều những hữu hạn các trạng thái kế tiếp nhau thì con người cũng như muông thú có vô số cuộc đời và coi như trường sinh bất tử. Tuy nhiên, trong thực tại, con người cũng như muông thú sông rồi thì phải chết đi, chỉ có duy nhất một cuộc đời ngắn ngủi. Vì con người cảm nhận sâu sắc hơn muông thú về sinh - lão - bệnh - tử , về hỉ, nộ, ái, ố trong cuộc đời nên nó mạnh mẽ mà cũng yếu đuối hơn con vật, đáng thương mà cũng đáng ghét hơn con vật, hiền lành mà cũng hung dữ hơn con vật. Chỉ khi nào toàn thể loài người nhận thức được như thế và biết cái nhận thức ấy trở thành bản năng thì mới giũ bỏ được sự thèm khát danh lợi mù quáng đến mức tham lam vô độ ở mỗi con người, mới không còn lừa dối, chà đạp và tàn sát lẫn nhau; mới có được cái tôi sáng suốt, cái tâm vị tha, mã thượng, biết yêu mình thì cũng biết yêu đồng loại và yêu gồm cả thế giới sinh vật lẫn môi trường thiên nhiên: Từ đó mà biết đoàn kết lại, thống nhất với nhau khai thác có chừng mực tài nguyên thiên nhiên đồng thời với việc tích cực bảo tồn, dung dưỡng tái tạo lại. Làm được như thế, loài người mới thực sự được gọi là văn minh, mới thực sự đủ trí lực mà vươn lên tự quyết vận mệnh của mình, mới đủ khả năng đi đến những miền đất mới trong Vũ Trụ bao la để khai phá, cải tạo thành những môi trường sống mới và những thế giới sinh vật tươi đẹp. Đến lúc đó sự đáng tin cậy của loài ngươi các ngươi mới có thể được đảm bảo là trường sinh bất tử trong Tự Nhiên Tồn Tại… Ta nói xong rồi đấy! Bây giờ thì mấy ngươi về đi, về nhanh đi kẻo không kịp. Phải khẩn trương lên vì các ngươi đã già rồi, không khéo lại “qui tiên” dọc đường làm uổng phí lời giáo huấn vàng ngọc của ta…
Tuy mừng hú như vừa sắp chết đuối vớ được cái phao, song chúng ta cũng muốn nán lại một chút xíu nữa để hỏi Tạo Hóa một điều tối quan trọng ấp ủ trong lòng. Thế là chúng ta lên tiếng:
- Ấy chết!... Vô cùng biết ơn Ngài, thưa Đấng Tạo Hóa thiêng liêng! Chúng tôi đã lĩnh hội hết ý Ngài và xin ghi nhớ chính xác đến từng chữ lời nói của Ngài để về truyền đạt lại cho loài người Trái Đất. Nhưng kính thưa Ngài, sở dĩ chúng tôi cố gắng vượt muôn trùng xa cách đến đây vì muốn được diện kiến Ngài, được nghe Ngài rao giảng và cũng vì mong ước thiết tha được Ngài làm sáng tỏ một câu hỏi nhỏ đang nung nấu đến cháy bỏng tâm can mình. Xin Ngài mở lòng bao dung giúp cho được không ạ, dù vẫn biết rằng thiên cơ là bất khả lậu?
- Hỏi đi, nhanh lên!
- Dạ, dạ… Kính thưa Tạo Hóa, triết học duy tồn mà Thầy Cãi và NTT đề xướng ra có thỏa đáng không ạ, những phê phán của chúng tôi đối với cơ học Niutơn và thuyết tương đối hẹp của Anhxtanh có hợp lý không ạ, cái biểu diễn toán học về lực lượng toàn phần của hạt KG mà chúng tôi nêu ra có chính xác không ạ,có phải là cốt lõi thống nhất của hai phương trình tổng quát về thuyết tương đối rộng lẫn thuyết cơ học lượng tử, và cuối cùng, từ biểu diễn ấy có thể tính ra hằng số hấp dẫn G không ạ?
- Ái chà!... Câu hỏi to đùng thế mà bảo là nhỏ à, lũ láu cá kia!? Trả lời cũng được thôi nhưng ta không trả lời đâu. Mấy người phải tự chiêm nghiệm lấy! Ta không trả lời không phải vì thiên cơ bất khả lậu mà chỉ vì muốn giữ lại niềm say mê tìm tòi, nghiên cứu khoa học, sự tích cực suy tư để nhận thức tự nhiên cho loài người các ngươi. nếu mấy ngươi bị mất đi cái tinh thần quí báu ấy thì cũng coi như mất đi niềm hứng khởi lớn lao trong cuộc sống, không bao giờ còn thích quan sát, thi đua trí tuệ để tìm kiếm vinh quang trong Vũ Trụ nữa…
Thất vọng tràn trề! Buồn bực Tạo Hóa quá thể nên không đợi ông ta (hay bà ta nhỉ?) nói hết câu đã cộc lốc:
- Thôi vậy! Xin chào Ngài!
Rồi quay lưng định trở về theo “đường xưa, lối cũ”.
- Ô! Hô, hô! Đi như thế có mà đến tám hoánh mới may ra về được Trần Gian! - Tạo Hóa vừa nói vừa cười hô hố.
Ừ nhỉ! Nếu ở đây là vô cùng xa của Trái Đất thì Trái Đất là vô cùng xa của ở đây, nghĩa là vị trí của chúng ta ở khoảng hai rìa Vũ Trụ đối diện nhau. Nghĩ đến cái khoảng cách 1038 cm mà quá hãi hùng! Tuy nhiên nghĩ lại, chúng ta tự hỏi: thế thì bằng cách nào chúng ta lại từ Trái Đất đến được đây? Sực nhớ chúng ta đã lý giải rằng, chúng ta đến đây được là nhờ tác dụng tổng hợp của hai lực cùng chiều: nỗ lực hoang tưởng tột độ của chúng ta và sức thu hút phi thường của Tạo Hóa. Nhờ hai lực đó mà chúng ta “phi thân” với một tốc độ mà chỉ trong Hoang Đường mới có thể hình dung ra được, mà tốc độ ánh sáng C phải “lạy bằng cụ”. Vậy thì nếu muốn quay lại quê nhà (trên con đường có khoảng cách kinh hoàng ấy mà không bị chết già dọc đường, cần phải có một tổng lực giống như lúc ra đi nhưng ngược chiều tác dụng). Nghĩ đến đây lại thấy sợ hãi rụng rời: Đành rằng có thể tự tạo ra một nỗ lực hoang tưởng cực độ nhưng làm sao không những phải thoát được sự thu hút ghê hồn của Tạo Hóa mà còn phải được Tạo Hóa thúc đẩy một lực đúng bằng sự thu hút nhưng ngược chiều? Chỉ còn cách phải xuống nước, năn nỉ nhờ Tạo Hóa thương tình cứu giúp mà thôi! Và thế là chúng ta quay lưng lại, chắp tay van vái:
- Xin ngàn lần, vạn lần lạy Đấng Tạo Hóa thiêng liêng của vạn vật, muôn loài! Ngài hãy rộng lòng từ bi hỉ xả, cứu nhân độ thế một lần nữa, mở ra con đường, chỉ ra cách đi để chúng tôi về được quê hương bản quán thân yêu trong khoảng thời gian sớm nhất có thể!
- Ta không giúp đâu, hỡi những kẻ vô ơn bội nghĩa và hay giận hờn vô lối kia! Cứ ở đó cho đến mục xương nhé!
- Ôi! Cầu mong Ngài rủ lòng thương yêu như Ngài đã từng khuyên răn chúng tôi thương yêu vạn vật, muôn loài! Chúng tôi đã hối lỗi rồi ạ…
- Thương yêu muông thú không có nghĩa là không ăn thịt muông thú. Ta còn dạy thế nữa đấy!
- Vậy thì chúng tôi coi như đã hoàn toàn mất hết hi vọng trở về rồi sao? Hỡi loài người đang chìm đắm trong cơn mê lầm, những lời rao giảng vàng ngọc của Đấng Tạo Hóa toàn năng và độ lượng sẽ không bao giờ truyền đực đến tai các ngươi nữa, và như thế các ngươi sẽ mãi mãi không bao giờ tỉnh ngộ! Ôi, đau khổ quá! Ôi, bất hạnh quá đi mất!
- Chưa chi đã sướt mướt quá thể! Cái tinh thần “cột trụ kiên cường” mà Nho giáo trang bị cho, mấy người để đâu rồi?... - Tạo Hóa lại cười hô hố rồi nói tiếp - Ta đùa chút cho vui thê thôi chứ ta sẽ giúp. Cứ ở yên đó, không cần làm gì cả mà chỉ… đợi thôi!
Chúng ta chờ đợi trong sự hồi hộp nhưng chưa kịp nghĩ ngợi gì nhiều thì đột nhiên không hiểu sự chuyển đổi trạng thái chuyển động xảy ra như thế nào mà chúng ta lại thấy cái đóa hoa rực rỡ và vĩ đại ở trước mặt lớn lên rất nhanh. Nếu Tạo Hóa không tự hóa thân thì rõ ràng chỉ có thể là chúng ta đang phi thân mỗi lúc một nhanh đến chóng mặt, thẳng tới trung tâm của đóa hoa vĩ đại. Không gian lúc này không còn trong lành, mát mẻ nữa mà đang ngột ngạt, nóng bức dần lên, rất khó chịu…
Thế rồi cái nóng tăng lên đến mức hầm hập, như thiêu như đốt, khó lòng mà chịu đựng nổi nữa. Không những thế cái đóa hoa vĩ đại đang vô cùng rực rỡ bỗng tự nhiên lu mờ hẳn, không thể phân biệt được với không gian xung quanh nữa. Còn không gian thì tối sầm lại rất nhanh. Thế rồi chúng ta hoàn toàn không phân biệt được gì nữa. Bốn bề chỉ là một màu đen tuyệt đối. Căng thẳng tột độ làm chúng ta hoảng loạn, gào lên:
- Cứu với Tạo Hóa ơi! Chết chúng tôi rồi!...
Ngay lập tức tiếng tạo Hóa vang vọng đến loáng thoáng, nghe như từ nơi xa lắm:
- Đừng sợ! Cố chịu đựng một chút rồi tất cả sẽ qua, không sao đâu!
- Nhưng đi theo kiểu lạ kỳ này thỉ chỉ càng ra xa Trái Đất thêm chứ về đó làm sao được?
- Đi xa thì cũng có nghĩa là trở về. Mấy ngươi quên điều đó rồi à? Ở càng xa Trái Đất thì cũng càng gần Trái Đất. Để về Trái Đất với thời gian sớm nhất thì mấy ngươi chỉ có thể và phải đi theo kiểu ấy và nó được gọi là rơi tự do trong chuyển hóa không gian. Nghĩa là mấy ngươi được ta hóa thân để có thể vượt ra rìa của Vũ Trụ thực mà vào Vũ Trụ ảo (tức nội tại hạt KG), chớp mắt đi qua miền ảo rồi lại vượt rìa của Vũ Trụ ảo (cũng là rìa bên kia của Vũ Trụ thực) và lại về Vũ Trụ thực nhưng ở phía đối diện. Vì lúc đó Trái Đất ở gần đó nên với vận tốc ánh sáng, về đến Trái Đất chỉ còn là “vài bước chân”. Đến lúc này thì mấy ngươi đã đi được hai phần ba quãng đường về rồi đấy. Biết chưa hả, lũ ngố?... Thôi, về vui vẻ nhé!...
- Dạ! Chúng tôi cảm ơn Ngài vô cùng và xin khắc cốt ghi xương sự giúp đỡ tận tình đến không thể tận tình hơn của Ngài! Xin tạm biệt Ngài!
Chúng ta nói “tạm biệt” nhưng hiểu rằng có thể là vĩnh viễn không còn dịp nào diện kiến được Tạo Hóa nữa. Với tâm trạng vui buồn lẫn lộn trong cái nóng và ngột ngạt đến ghê hồn, chúng ta lịm dần đi và không còn biết gì nữa…
***
Tôi choàng tỉnh dậy. Nhìn đồng hồ đã thấy mười giờ sáng nên vội vội vàng vàng vào nhà tắm khẩn trưởng làm vệ sinh cá nhân. Xong đâu đó, như thường lệ (nhưng hôm nay muộn hơn), tôi lại ngồi bên cái bàn sắt cũ kỹ và quá đỗi quen thuộc kê ở góc xó phòng mà trên đó là một đống giấy tờ, sách vở ngổn ngang, lộn xộn hết chỗ nói. Định cầm bút viết tiếp câu chuyện hoang đường về Tự Nhiên Tồn Tại thì cảm thấy trong đầu hoàn toàn trống rỗng, không nảy ra được bất cứ ý tứ khả dĩ nào để kể nốt đoạn cuối của cuộc hành trình trở về Trái Đất từ Vũ Trụ của mình. Thế là tôi đành cứ ngồi đực ra đấy, chẳng biết làm gì ngoài việc đờ đẫn nhìn ra sân như kẻ mất hồn.
Một câu hỏi mà bất cứ người nào (ngoài tôi ra!) cũng cho là ngớ ngẩn nhất trên đời, bỗng dưng bật ra: cuộc hành trình vĩ đại đi chinh phục đỉnh Tu Di huyền thoại và trở về an toàn ấy có thực không nhỉ? Không cần suy nghĩ, câu trả lời ngay lập tức phải chắc chắn là “không” rồi. Bởi vì nếu tôi thực sự đã thực hiện được cuộc hành trình phi phàm ấy thì loài người đã phải đưa tiễn tôi ồn ào lúc lên đường, phải chào đón tôi nồng nhiệt lúc trở về, báo chí, truyền hình đã phải rùm beng lên và tôi đã trở thành nổi tiếng rồi. Đó ắt hẳn phải là những sự kiện trọng đại mà suốt đời, tôi không thể quên được. Đằng này, dù có cố gắng hết sức thì tôi cũng chẳng nhớ mảy may gì cả. Hơn nữa, một người nổi tiếng đối với cả loài người mà ngồi hàng tiếng đồng hồ trong xó phòng cũng chẳng có ma nào đến hỏi han, phỏng vấn, chụp hình kiếm chác thì quả là không thể tin được. mặt khác, nếu tôi thực sự đã thực hiện cuộc hành trình đang đẵng ấy thì phải tốn rất nhiều thời gian. Dù được Tạo Hóa bày mưu tính kế, trợ giúp tận tình thì giá chót cũng phải mất không dưới 10 năm. Ấy vậy mà quang cảnh cây cối trong sân nhà tôi hôm nay vẫn i xì như ngày nào, chẳng có gì thay đổi cả. Cây nhãn cổ thụ vẫn đứng đó, vẫn trong thế tuyệt đẹp như một cây kiểng khổng lồ. Cây bông sứ như một bà già cong lưng vẫn còn kia, tỏa hương thơm dìu dịu. Chúng vẫn đan cành lá vào nhau như thuở nào, gợi nghĩ về một mối tình trìu mến, thủy chung đến đầu bạc răng long. Và còn biểu hiện này nữa cũng báo hiệu cho biết về sự không có thực của cuộc hành trình đó: không thể vừa hành trình vừa viết được một chồng sách cao nghễu nghện ở trên bàn kia được.
Về mặt lôgic thì xét trên phương diện nào cũng vậy, hợp lý nhất là tôi chưa bao giờ đi đâu quá xa cả và thường là ngồi ru rú ở xó nhà để viết, thế thôi.
Dựa trên suy lý, tôi cũng đồng ý như thế. Tuy nhiên, từ sâu xa tiếm thức hay linh cảm, tôi vẫn cứ ngờ ngợ làm sao ấy. Cái cảm giác rằng bản thân tôi vừa thực hiện xong cuộc hành trình vĩ đại cứ bám chặt lấy tâm can, không chịu buông tha. Những quang cảnh mà tôi nghĩ rằng đã trực giác được trong suốt cuộc hành trình vẫn còn rõ mồn một trong trí não tôi. Nhất là sự rực rỡ đến diệu kỳ của đóa hoa vĩ đại đã từng làm tôi xao xuyến mãnh liệt, vẫn còn ám ảnh tôi đến độ cứ nhắm mắt lại là thấy một vầng thái dương bừng sáng vạn sắc màu lung linh huyền ảo và bên tai là vang vọng lời rao giảng giáo huấn, dặn dò của Đấng Tạo Hóa.
Lý trí mách bảo không thể có một sự thực như thế, trong khi tình cảm thì lại tha thiết báo rằng đã từng có một sự thực như thế đã làm cho tôi lâm vào hoang mang, lòng rối như tơ vò, không còn biết ra làm sao nữa. lại cứ thế ngồi thừ ra đó, ngao ngán, thẫn thờ…
À!... Hay là tôi vừa nằm mơ? Tôi biết cũng có những giấc mơ gây ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc đến độ khi nhớ lại cứ tưởng là thực vậy. Mặt khác nếu cho đó là giấc mơ thì sẽ làm cho lý trí và tình cảm thỏa thuận được với nhau: cuộc hành trình ấy là không có thực nhưng giấc mơ về cuộc hành trình ấy là một sự thực. Có lẽ đúng là chính tôi đã thực hiện cuộc phiêu du kỳ thú ấy nhưng không phải trong thực tại mà là trong giấc mơ của mình. Tôi đã ngờ rằng hôm qua uống rượu với bạn bè đến khoảng 4 giờ chiều thì say mèm và lăn ra ngủ mê mệt cho đến tận 10 giờ sáng hôm nay. Với ngần ấy thời gian có đủ để mơ về một hành trình ra đi và trở về dài dằng dặc như thế không? Có khả năng lắm chứ, vì kinh nghiệm cho tôi biết là có khi chỉ cần mươi phút cũng đủ để mơ về cà một đời người…
Tôi thở phào nhẹ nhõm, nghĩ thầm: “Thôi, thì cứ cho là giấc mơ đi!!...”. Mới nghĩ đến đó thì giật bắn mình vì chợt nhận ra mình đã đi vào vết xe đổ, nghĩa là phạm vào đúng cái sai lầm trong nhận định đã nêu ra ở phía trên. Chồng sách nghễu nghện như đang cười chế nhạo tôi: “Ông mới mơ xong thì làm sao có tôi hiện diện ở đây được?...”
Thế là tôi lại chìm trong mâu thuẫn, bị sa lầy chưa có cách nào thoát ra được. Nếu không thoát ra được mâu thuẫn này thì trước thiên hạ, tôi sẽ trở thành một thằng lừa bịp trâng tráo nhất và như vậy, toàn bộ câu chuyện về Tự Nhiên Tồn Tại quả thực là chỉ rặt những chuyện hoang đường nhảm nhí, không đáng tin cậy chút nào. Trong trường hợp đó, cái bọ sách mà tôi đem hết sức bình sinh và vắt cạn trí não ra để mà hoàn thành chỉ là một công trình phản khoa học đến nực cười, hoàn toàn vô giá trị, thậm chí có thể còn bị cho là có tác dụng đầu độc nhận thức của loài người về tự nhiên cũng như xã hội và vì thế mà đáng bị tiêu hủy đi.
Suy nghĩ ấy làm tôi hoảng loạn thật sự và toát mồ hôi hột. Tưởng tượng ra cái ngày công trình đồ sộ mà mình đã đem cả cuộc đời và danh dự đáng cược vào nó, yêu thương nó biết bao nhiêu mà cũng hy vọng vào nó biết bao nhiêu bị người đời kết án và cho lên dàn hỏa, lòng tôi thấy đau xót quá! Biết làm sao bây giờ đây? Tự nhiên đang tiến lên thuận lợi, giương đông kích tây hết sức nhịp nhàng cho ngòi bút dễ dàng vẽ lia lịa rồng rắn thì bị cái mâu thuẫn không giống ai giáng cho một đòn lãng xẹt, và đứng trước nguy cơ một thảm họa to lớn, đó là sự đổ vỡ tan tành cái mưu đồ hô hào thế giới tin vào quan niệm hai chân lý để biết mà khống chế quá trình phá - xây có chừng mực, để tự giác thúc đẩy quá trình tiến hóa về hướng tạo ra cái bản năng yêu mình thì cũng thực sự yêu gồm cả đồng loại, giống loài theo nguyên tắc của Đức Huyền Diệu. Ôi! Bế tắc quá! Buồn bã quá! Chán nản quá!...
Trong thực tại khách quan không bao giờ cũng có hai loại nghịch lý. Loại nghich lý thứ nhất do khách quan gây ra, loại nghịch lý thứ hai do chủ quan gây ra. Nghịch lý chủ quan là do sự lũng đoạn chủ quan, bởi quan niệm về tự nhiên chưa xác đáng gây ra. Do đó, khi thấy xuất hiện nghịch lý chủ quan thì có nghĩa sự suy nghĩ và quan niệm chủ quan đã phạm sai lầm. Vậy thì tôi đã phạm sau lầm ở khâu nào nhỉ? Hay là tôi đã hoàn toàn mê lầm ngay từ buổi đầu tiên khi quyết định dứt áo ra đi, lên đường để tìm… một cái gì đó không biết là cái gì? Nếu đúng như thế thì làm sao còn có thể cứu vớt cái mưu đồ cao đẹp mà tôi đang ấp ủ và hy vọng được nữa? Nếu đúng như  thế thì chồng sách cao nghền nghện kia chỉ là một đống giấy lộn, toàn những bôi bác phi nghĩa! Một suy nghĩ hoảng loạn vụt đến: hay là ngay lúc này đây nên tự tay thiêu sống nó đi, kẻo (biết đâu chừng) người đời mà thấy nó thì rồi không những kết tội và thiêu sống nó mà còn thiêu sống cả tôi, hối không kịp nữa! (Nghĩ đến cảnh bị thiêu sống trên giàn lửa, quằn quại trong cái nóng khủng khiếp rồi mới chết là lạnh toát cả gáy!).
Dù sao thì cái suy nghĩ hoảng loạn vụt đến đó rồi cũng vụt đi. Sự mê lầm ngay từ lúc lên đường mới chỉ là một giả định, một nghi vấn đặt ra để xem xét lại bản thân cho kỹ hơn mà thôi. Đẻ con ra, người mẹ sao nỡ ghét bỏ và sao không nuối tiếc, đau buồn khi con thành hư hỏng? Tôi cũng vậy thôi! Hơn nữa, chỉ có những kẻ ác và mù quáng như Tần Thủy Hoàng mới đốt sách. Ai đó, hình như là Tô Đông Pha thì phải, đã nói: “Kẻ nào trước đốt sách thì sau sẽ thiêu người”. Đúng lắm! Ở Châu Âu trong đêm trường Trung cổ, thiếu gì những chuyện như vậy!
Nếu không có sách của tiền nhân để lại, nghĩa là nếu không được dạy dỗ, chỉ bảo ngay từ thuở lọt lòng thì tôi đây vẫn chỉ là con thú hình nhân chứ không thể là con người được. Đừng có tưởng một đứa trẻ mới ra đời đã là con người. Không ai có thể nhớ lại cuộc sống của mình từ lúc lọt lòng cho đến lúc một tuổi; thậm chí lá lúc lớn hơn nữa. Đều đó cho thấy đứa bé có độ tuổi trong quãng thời gian đầu đời ấy có một trí nhớ rất nhạt nhòa, nhanh quên, rất thiếu hoặc có thể là hoàn toàn không có, và hoạt động, phản ứng hoàn toàn theo bản năng tương tự như một con thú mới sinh. Tuy nhiên bộ não của nó đã được trang bị những yếu tố cần thiết để tư duy của nó trở nên ngày một sâu sắc nhờ tình tinh, sự chỉ bảo, dạy dỗ của người mẹ, của gia đình rồi của xã hội. Có thể thấy quá trình chuyển biến từ lúc đầu giao hợp để thụ tinh thành bào thai, sinh nở ra đứa bé rồi trở thành con người là một tương tự còn dạng phác thảo, hay cũng có thể coi là một quá trình rút gọn, sơ lược hóa biểu diễn quá trình lịch sử tiến hóa của sự sống từ đơn bào đến đa bào rồi xuất hiện muông thú và từ đó mà tiến triển thành người. Trong thực tế đã từng xảy ra chuyện: một đứa bé mới chào đời đã bị bỏ rơi và được muông thú, chẳng hạn là chó sói tha vào nuôi trong từng rú hoang dã, hoàn toàn tách biệt với xã hội loài người. Đứa bé ấy khi lớn lên đã không thành được con người mà thành con vật gọi là người - sói, mang hình nhân nhưng hành động và sống theo lối sống bản năng của loài sói, nghĩa là thường di chuyển bằng cả bốn chi, ăn sống nuốt tươi, hú hét, nghịch đùa như một con sói. Có thể đoán rằng lúc đó sự thông minh của người - sói chỉ bằng hoặc cao hơn của loài cá heo đã được dạy dỗ một chút, vì những yếu tố làm cho tư duy chuyền biến đến sâu sắc, trong điều kiện không có sự chỉ bảo, dạy dỗ của con người nên đã không thể hoạt động được và coi như tạm thời lặn đi. Khi người ta phát hiện được và đưa người - sói về hòa nhập với xã hội loài người thì phải sau một thời gian không phải là ngắn, được chỉ bảo, dạy dỗ, người - sói mới dần dần chuyển biến một cách khó khăn thành con người (biết nói, đi bằng hai chân, chuyền sang thói quen ăn chín…).
Đấy, sách (cũng có nghĩa là sự chỉ bảo, dạy dỗ) quan trọng như thế đấy! Cho nên một cuốn sách được viết ra với một ý đồ cao đẹp thì dù hay dù dở cũng phải giữ gìn cho hậu thế, có thể phê phán nó nhưng đừng chối bỏ nó và nhất là đừng buộc tội nó, bởi vì chắc gì nó đã dở, đã có tội và hơn nữa con người ta không chỉ trưởng thành nhờ tiếp thu, rút ra được chân lý từ những điều đúng, mà còn từ những điều sai nữa!
Tôi ngắm nghía chồng sách ở góc bàn và bỗng nhiên thấy thương mình, thương nó quá! Một trong vài ba nỗi đam mê nhất của đời tôi là đọc sách. Nhờ đọc sách mà tôi đã thấm nhuần biết bao nhiêu điều đúng, lẽ phải, được biết bao nhiêu những chỉ bảo, giáo huấn sâu sắc, quí báu hơn vàng ngọc (và cả kim cương nữa chứ!?), lưu giữ được biết bao nhiêu lời hay ý đẹp của biết bao nhiêu vị thiên tài, hiền nhân đã từng xuất hiện trong lịch sử loài người từ trước tới nay và rồi đã cố gắng chắc lọc, gửi gắm chúng cũng như những hiểu biết mà tôi có được từ việc học hỏi các vị tiền bối ấy vào chồng sách kia, với một nỗi niềm thông cảm, thương mến giống loài mình thiết tha và cả một sự mong ước đến cháy bỏng Trái Đất có được một môi trường thiên nhiên luôn trong sáng, sạch sẽ, thanh bình, trù phú xanh tươi hoa lá, sung túc đa dạng muông thú…
Suy tư ấy đã làm cho một quá khứ hiện về trong ký ức. Ngày xưa, có một chàng trai nghèo hèn, khốn khổ vì không thể hòa nhịp được vào cái xã hội đương thời đậm màu sắc "tiền tư bản", đầy những khắc kỷ, chủ nhật nào cũng lê bước đến Thư viện quốc gia từ sáng sớm, ngấu nghiến đọc sách đủ loại, hết quyển này đến quyển khác đọc một mạch cho đến khi chuông reo đóng cửa, cả ngày không ăn uống gì. Chàng trai ấy cứ mỗi lần lĩnh được đồng lương ít ỏi lại lang thang đến những quầy sách cũ, ở hàng giờ trong đó, lục lọi lôi ra những quyển sách đầy bụi bặm và hôi nồng mùi phân gián. Sự ơ thờ, bất tuân của chàng trai đối với lối sống quan liêu, mệnh lệnh, những nhiễu gian xảo núp sau tinh thần phục vụ nhiệt thành một cách hình thức, đã làm cho nhiều người nghĩ chàng là kẻ gàn rở, tưng tửng điên và ngốc nghếch dại khờ. Ở công ty chàng làm việc, người ta thầm thì kháo nhau rồi cười khúc khích, ý nhị về một kẻ lập dị, áo quần thì nhàu nát, tóc tai thì bù xù, lúc nào cũng có vẻ ngơ ngơ ngác ngác, ít khi trò chuyện với ai và hay có những ý kiến, những lời nói trái ngược với quan niệm thông thường, rất chi là… trời ơi đất hỡi. Chính vì thế mà không ít người lạnh nhạt, xa lánh, thậm chí là tỏ ra khinh khỉnh với chàng trai. Chàng trai cũng từng rụt rè tán tỉnh vài cô gái nhưng chẳng cô nào chịu đáp lại, thậm chí có cô còn khó chịu ra mặt. Đúng! Theo cái thằng đàn ông mạt hạng như vậy thì làm gì có tương lai tươi sáng, có khi còn rước phải nợ đời. Không ai biết chàng trai là một người quá nhạy cảm. Vì quá nhạy cảm nên chàng tự thấy đời mình thật là buồn bã, khổ đau, thật là cô đơn hiu quạnh. Cũng không ai biết chàng trai là một người ương ngạnh đầy ước vọng. Vì thế mà có lần chàng trai đã làm một bài thơ khá dài, đặt tựa đề là “Thách thức”, đóng vai trò như một tuyên ngôn trước một đương thời đã loại bỏ chàng và chàng cũng tự rời bỏ, đồng thời cũng như một khẳng định dứt khoát về lẽ sống mà chàng đã chọn cho cuộc đời mình. Sau đây là bài thơ của chàng trai:
THÁCH THỨC
               Ta còn sống đây hay đã chết rồi
               Mà dòng đời buồn vui không cần ta nữa
               Một xác vô tình vật vờ méo mó
               Hay một hồn ma đờ đẫn vô hình?

               Ta mất hay còn
               Hỡi Đất, Trời, Tạo Hóa?
               Nếu đã chết rồi, hãy xóa xác ta đi
               Và đày hồn ta xuống chín tầng địa ngục
               Cho đáng kiếp một đời hèn, ô nhục
               Mù lòa, lạc lối, bơ vơ
               Ngu dại, ngẩn ngơ
               Sống như trò hề thiên hạ
               Nhe răng cười mà mắt nhòe nhoẹt lệ!

               Không! Không!... Không!
               Ta còn đây mà.
               Tại sao phải chết?
               Ta còn biết yêu thương
               Chưa lẫn vào phẫn uất
               Vẫn đang nhìn đời và nắm chắc bàn tay
               Hỡi Trời cao Đất dày!
               Người chỉ có quyền sinh quyền diệt
               Chứ không có quyền phán quyết
               Sự nhục vinh của một đời ta
               Để chê bôi gièm pha
               Đời ta bán rẻ.

               Không! Không!... Không!
               Ta cứ sống và quyết đi đến tận cùng Trần Thế
               Thắp nửa đời qua dám ngọn đuốc soi đường
               Cố kết ưu phiền thành khối kim cương
               Làm lấp lánh vinh quang cho nửa đời phía trước
               Ha, ha, ha,… ha!
               Sao mà chết được
               Khi thân ta sinh lực vẫn tràn trề
               Và lòng ta vẫn đắm đuối say mê
               Chứa chan ước vọng
               Máu còn nóng, còn thơm trong xác câm, hồn lặng!...

               Hôm nay,
               Trong cảnh huy hoàng của rực rỡ ban mai
               Ta bật cười vang
                           Rung chuyển Đất - Trời,
                                       Sảng khoái!
               Vọng về dòng đời
                           Thành rú gầm man dại.
               Bởi ai cũng tin ta đã điên rồi
               Và trong nhịp sống loài người
               Vĩnh viễn đâu còn ta nữa.
               Cứ ngờ xác ta đã trương phình thối rữa
               Trở về lại với cát bụi Trần Gian
               Và linh hồn ta
                           Đã bị lưu đày
                                       Khổ ải đến chung thân

               Không! Không!... Không!
               Ta đang sống đây như nhà địa chất
               Cần mẫn, xả thân, gan góc
               Mải mê tìm tòi, gạn lọc
               Trong lửa thiêu ngột ngạt, hoang mạc vô tri
               Khám phá ra chiếc chìa khóa diệu kỳ
               Mở toang kho tàng ánh sáng
               Cho tình người bừng lên không còn hốc tối
               Cho bờ cõi Thế Gian trải rộng vô biên
               Cho mỗi con người thành mỗi Phật mỗi Tiên
               Và nhân loại ngồi vào ngai Tạo Hóa!

               Không! Không!... Không!
               Ta chẳng thèm mặc cả
               Trước thói thường mè nheo
               Trước cái đói cái nghèo
               Trước cười chê mắng nhiếc
               Dẫu mất một đời trả cho vô ích
               Ta vẫn ha ha sảng khoái cười vang
               Hỡi những con đường đại lộ thênh thang
               Còn nhớ cội nguồn là những lối mòn một thuở?
               Hỡi những lối mòn ngoằn ngoèo nho nhỏ
               Còn ghi công người mở lối chông gai
               Bất chấp đương thời ruồng bỏ, mỉa mai
               Âm thầm khai hóa?!...
Bài thơ, đọc lên nghe cũng khá hay. Tuy nhiên phải công nhận rằng cái câu “Và nhân loại ngồi vào ngai Tạo hóa” có vẻ… hơi hỗn xược, và hình như chàng trai vẫn thích được làm… vua chúa!
Thế là từ ngày lẳng lặng thoát ly cái guồng máy hoạt động kinh tế khiên cưỡng, lập dị, đầy những ách tắc do sự điều hành duy ý chí một cách mù quáng ấy, từ bỏ cái chốn khó mà sống được thanh thản, lương thiện, chí công vô tư thì ít mà tư lợi, tham quyền cố vị thì nhiều nên cũng nhiều mưu mô xảo quyệt nhằm nịnh bợ nhau một cách nhục nhã, nhằm đấu đá, triệt hạ nhau một cách đê hèn, ác độc, chàng trai trở về sống hồn nhiên trong dân dã đời thường, thành người thợ sắt tự do để sinh nhai, lấy tứ đổ tường làm phương tiệt tự an ủi, giải khuây sầu muộn, lấy đọc sách, viết lách làm niềm vui thú…
Vì thế mà hôm nay tôi mới có được chồng sách (đang ở dạng bản thảo) ngồn ngộn kia! Ấy vậy mà trong một phút giây hoảng loạn, tôi đã định tống khứ nó, “di tam thiên lý” (quăng xa đến ba ngàn dặm!) nó, cho khuất mắt! Thật quá ư là hồ đồ!
Tự nhiên, tôi nổi cơn bực bội, hờn giận chính bản thân mình, ghét cái đối tượng mà tình yêu thương của một con người, theo bản năng, luôn hướng về đó trước tiên. Tôi định bạt tai mình mấy cái thật đau cho hả tức tối nhưng thôi ngay vì sực nhớ: hành hạ mình thì cũng chính là hành hạ đồng loại, khi đã hành hạ được mình rồi thì cũng dễ dàng hành hạ ngươi khác một cách vô cớ, trừng trị tội ác là một chuyện, còn hành hạ đồng loại cho hả giận hay để tiêu khiển thì không những thể hiện ra sự mê lầm của lý trí mà còn làm thể hiện của tính man rợ, tàn bạo chỉ ở loài người mới có, hành hạ bằng tư tưởng đã xấu rồi, huống chi là làm đau đớn thể xác cho hả dạ! Tôi lấy tay xoa má mình là lẩm bẩm: “Xuýt nữa thì phạm trọng tội!”.
Qua đó mà thấy, rao giảng về tình yêu thương đồng loại thì dễ, nhưng một con người có được và duy trì được tình yêu thương đồng loại một cách sáng suốt, đích thực lại rất hiếm và việc thực hành tình yêu thương ấy một cách đồng đều, thỏa đáng và vô tư lợi trong thực tế xã hội đa tạp về nhân tính, còn đầy rẫy bất công do vô vàn thèm khát danh lợi mù quáng gây ra (nhớ rằng bản thân hiện tượng phân định giàu - nghèo với nguyên nhân tự nhiên, chính đáng thì không gây ra bất công!), là vô cùng khó. Nhiều lần tôi đã tự hỏi: đến bao giờ thì tình yêu thương đồng loại của con người trở thành bản năng, nghĩa là đến bao giờ thì bất kỳ ai cũng yêu thương đồng loại một cách tự nhiên, thực sự, ai thấy cảnh giết chóc đồng loại cũng đều rùng mình, ghê rợn, ngất đi vì không chịu đựng nổi? Có thể có cái bản năng ấy không nếu loài người biết cách và tích cực tự cải tạo mình, tự giác thúc đẩy bản thân mình tiến hóa có chủ đích? Hay chẳng bao giờ?
Câu hỏi về thân phận loài người làm tôi cảm thấy nôn nao rất khó chịu, cứ bồn chồn, bứt rứt làm sao ấy! Tôi không còn thể nào ngồi yên được nữa, đành đứng dậy đi qua đi lại, đi lòng vòng trong căn phòng rộng đến những 7,5 m2. Đi như thế mà cũng chẳng khuây khỏa là mấy! Hay là đi chơi quách cho rồi, rủ mấy thằng bạn nghèo ra quán thịt chó của ông Tư Râu đánh chén, nhậu nhẹt cho tưng đời? Tôi nhìn lên đồng hồ treo tường: mới hai giờ rưỡi. Giờ này chắc là chẳng có ai trong số những bạn nhậu của tôi rãnh cả. Họ đều đang phải làm việc để kiếm sống. Phải nói rằng, tất cả những bạn nhậu mà tôi thân nhất, thích nhậu với họ nhất và thậm chí là không bao giờ chủ động rủ những người không phải họ đi nhậu vì muốn được vui thú, đều là những người thuộc tầng lớp mạt hạng của cư dân thành phố (nghĩa là nghèo nhưng chưa phải ở đáy xã hội, chưa nằm trong diện “xóa đói giảm nghèo”. Họ có chút học hành nhưng chẳng có danh phận gì, lúc trẻ đi làm không thuộc diện “biên chế” (chính thức được nhà nước thừa nhận là nhân viên “của mình”, được bảo hộ, có chế độ hưởng thụ ưu ái hơn và lâu dài so với “ngoài biên chế”), hoặc giữa chừng bỏ cơ quan nhà nước ra ngoài tự nhận làm (nghĩa là bị loại khỏi “biên chế” nhà nước như tôi đây) nên về già không được hưởng lương hưu. Do qui luật đào thải của nền kinh tế thị trường phải cạnh tranh gay gắt mà bây giờ, khi đã cao tuổi, nguy cơ thất nghiệp luôn đe dọa họ. Thường thì họ chỉ xin được việc làm ở những cơ sở làm ăn có qui mô nhỏ lẻ với hợp đồng ngắn hạn, hoặc công việc bấp bênh lúc có lúc không, mức lượng thấp, thậm chí là đi theo những đám thợ chuyên nhận làm khoán, nhận lương bằng người phụ việc, mà được nhận vào làm chủ yếu là do thương tình. Đó là nói về những người bạn nhậu thân của tôi, chứ xung vào lực lượng mạt hạng do nhiều nguyên nhân khác nữa: chẳng hạn: người sạt nghiệp do bị đổ vỡ trong kinh doanh (do thời thế, lừa đảo), không gượng dậy nổi nên trở thành mạt hạng, vướng vào tứ đổ tường đến tán gia bại sản mà thành mạt hạng, lười lao động, dựa hơi vào sự tần tảo “buôn thúng bán mẹt” (bán nhỏ lẻ) của vợ mà sống nên thành ra mạt hạng… Tôi thực ra cũng là một kẻ mạt hạng mà nguyên nhân dẫn đến bỏ bê làm ăn bởi phần vì chán nản cái thời cuộc chộp giật, quịt lường quá xá cỡ trơ tráo, phần vì muốn tập trung viết cho xong câu chuyện hoang đường về Tự Nhiên Tồn Tại.
Nhắc đến hai từ “lao động” lại nhớ tới dĩ vãng. Thời niên thiếu, nhà trường thường hay tổ chức những buổi làm việc công ích như trồng cây, vệ sinh trường trại, đào hố ủ lá làm phân xanh giúp nông dân, đắp đê chống lũ lụt…, mà hối đó gọi là “lao động xã hội chủ nghĩa”. Trong nhiều buổi làm việc ấy, người ta giăng ra cái băng rôn to tướng đề câu khẩu hiệu “Lao động là vinh quang!”. Lúc đó, tôi tin mù quáng vào điều đó. Lớn lên thành thanh niên, tôi vẫn tin như vậy với lý trí: lao động vừa tự nuôi sống mình, vừa làm ra của cải vật chất cho xã hội hoặc tạo ra những công trình ích lợi cho cộng đồng nên vì thế mà vinh quang. Bây giờ nghĩ lại, tôi cho rằng khẩu hiệu đó không chính xác, mà đúng hơn có lẽ phải là "Lao động Xã hội chủ nghĩa là vinh quang!" chứ không phải bất cứ lao động nào cũng vinh quang, hay lao động nói chung là vinh quang. Mục đích phục vụ sự sống còn chính đáng của loài người đem lại lợi ích cho cộng đồng xã hội một cách phù hợp với Đức Huyền Diệu mới vinh quang.
Nhưng lao động là gì? Theo quan niệm của triết học duy vật biện chứng thì, xã hội loài người là một kết cấu vật chất đặc thù, hình thành trong quá trình phát triển và chuyển hóa lâu dài của tự nhiên, từ giới vô sinh đến hữu sinh, từ động vật đến loài người. Từ một loài động vật cao đẳng - vượn người - chuyển biến thành loài người là cả một quá trình biến đổi lâu dài thông qua lao động. Lao động là hình thức hoạt động đặc thù của con người nhằm cải tạo tự nhiên để thỏa mãn nhu cầu của mình, đồng thời cũng cải tạo bản thân con người. Phải nói rằng loài người vượn tiến hóa thành người nhờ lao động.
Có lẽ vì quan niệm như vậy cho nên những người theo chủ nghĩa cộng sản mới coi lao động chung là vinh quang.
Tôi cho rằng cái quan niệm ấy cũng có phần đúng nhưng còn khiếm khuyết chưa “rõ ràng và sáng sủa”, nghĩa là vẫn phạm sai lầm, hàm chứa mâu thuẫn nội tại.
Trong “Biện chứng của tự nhiên”, Ăngghen viết thế này: “Các nhà kinh tế chính trị khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cái cung cấp những vật liệu cho lao động biến thành của cải. Nhưng lao động còn là một cái gì vô cùng lớn lao hơn thế nữa. Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”.
Vậy thì trước tiên cần phải làm sáng tỏ tính đặc thù của lao động thể hiện ra như thế nào. Cũng theo triết học duy vật biện chứng thì, quá trình lao động sản xuất là quá trình trao đổi vật chất giữa con người và tự nhiên, quá trình con người chinh phục tự nhiên, cải biến tự nhiên, trên cơ sở đó mà sáng tạo ra những điều kiện sinh tồn cho bản thân mình. Những sản phẩm lao động của con người thể hiện cụ thể sự thống nhất giữa xã hội và tự nhiên. Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người không phải làm với tư cách là những cá nhân riêng lẻ mà là những thành viên tập thể, quan hệ với nhau, trao đổi hoạt động với nhau, nhất là trong lao động sản xuất. Cũng trong “Biện chứng của tự nhiên”, Ăngghen viết: “Nhưng khi các loài vật tác động đến hoàn cảnh chung quanh của chúng trong một thời gian lâu dài, thì chúng hoàn toàn không có ý định trước về việc đó, và đối với bản thân chúng, tác động ấy chỉ là một việc ngẫu nhiên mà thôi. Trái lại, loài người càng cách xa loài vật thì tác động của con người vào tự nhiên càng mang tính chất của một hoạt động có tính toán trước, có kế hoạch hướng vào những mục đích nhất định, được biết trước. Loài vật phá sạch thực vật trong một vùng nào đó mà không hiểu gì về việc làm của chúng cả. Còn con người, khi phá như thế để dùng dải đất đã dọn sạch đó mà gieo ngũ cốc hoặc trồng nho, thì đã biết trước rằng, mùa đến, các giống cây ấy sẽ đem lại cho họ một số thu hoạch biết bao nhiêu lần nhiều hơn số hạt giống mà họ đã gieo”, “Ở các loài vật, cùng với hệ thống thần kinh phát triển, thì khả năng hành động một cách có ý thức, có hệ thống cũng phát triển theo… Tuy nhiên, toàn bộ hành động có hệ thống mà tất cả các loài vật đã tiến hành đều không in lại dấu vết ý chí của chúng trên mặt đất. Chỉ có loài người mới làm được việc đó mà thôi”, “Tóm lại, loài vật chỉ bị lợi dụng giới tự nhiên bên ngoài và gây ra những biến đổi trong tự nhiên chỉ đơn thuần do sự có mặt của nó thôi, còn con người thì do đã tạo ra những biến đổi đó mà bắt giới tự nhiên phải phục vụ những mục đích của mình, mà thống trị giới tự nhiên. Và chính đó là sự khác nhau chủ yếu cuối cùng giữa con người và các loài vật khác, và một lần nữa, chính cũng là nhờ có lao động mà con người mới có được sự khác nhau đó”.
Để đến với luận điểm coi lao động có vai trò quyết định đối với sự hình thành loài người, Ăngghen đã nêu ra những suy lý, giải thích khá cụ thể và cũng được trình bày trong tác phẩm nói trên. Ông cho rằng, bước quyết định đầu tiên, có ý nghĩa tiền đề là đứng thẳng được trên mặt đất, di chuyển thường xuyên bằng hai chân (hai chi sau) và hai tay (hai chi trước) được tự do hoạt động. Theo ông, “… bàn tay đã được giải phóng, từ đấy, nó có thể đạt được ngày càng nhiều những sự khéo léo mới, và sự mềm mại hơn đã đạt được di truyền lại và cứ tăng lên mãi từ thế hệ này sang thế hệ khác”, “Như vậy, bàn tay không những là khí quan của lao động mà còn là sản phẩm của lao động nữa. Chỉ nhờ có lao động, nhờ thích ứng được với những động tác ngày càng mới, nhờ sự di truyền của sự phát triển đặc biệt đã đạt được bằng cách đó của các cơ, của các gân, và sau những khoảng thời gian dài hơn, cả của xương nữa, và cuối cùng, nhờ luôn luôn áp dụng lại sự tinh luyện thừa hưởng được đó vào động tác mới, ngày càng phức tạp hơn, mà bàn tay con người mới đạt được trình độ hoàn thiện rất cao…”, “Sự phát triển của bàn tay đã tác động trở lại, một cách trực tiếp và có thể chứng minh được, đến những bộ phận khác của cơ thể, đó là điều quan trọng hơn rất nhiều”, “Dần dần với sự phát triển của bàn tay và với quá trình lao động, con người bắt đầu thống trị tự nhiên và cứ mỗi lần sự thống trị đó tiến lên một bước, là mỗi lần nó mở rộng thêm tầm mắt của con người… Mặt khác, sự phát triển của lao động đã đưa đến kết quả tất yếu là thắt chặt thêm những mối quan hệ giữa các thành viên của xã hội, bằng cách tạo ra rất nhiều trường hợp để cho con người giúp đỡ lẫn nhau, hợp tác với nhau, và làm cho con người càng ngày càng có ý thức rõ rệt về lợi ích của sự hợp tác ấy đối với mỗi thành viên riêng rẽ. Tóm lại, những con người đang hình thành ấy đã phát triển đến mức là họ thấy cần thiết phải nói với nhau một cái gì đây”, “Đem so sánh con người với các loài vật, người ta sẽ thấy rõ rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cũng phát triển với lao động, đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ”. Cuối cùng, Ăngghen kết luận: “Trước hết là lao động, sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ não của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người”, và “Lao động bắt đầu cùng với việc chế tạo ra công cụ”.
 Kết luận như thế dễ gây ngộ nhận rằng lao động có vai trò tuyệt đối trong việc làm cho não vượn chuyển hóa thành não người. Nghĩa là quá trình lao động là có trước sự xuất hiện của não người và như thế cũng là có trước con người, loài người. Trong khi đó, lao động là hoạt động đặc thù của con người, chỉ loài người mới có và nếu cho rằng chế tác công cụ là hoạt động lao động đầu tiên thì cũng có thể coi đó là thời điểm vượn chuyển hóa xong và những con người đầu tiên xuất hiện. Nhưng nếu lao động và con người đồng thời xuất hiện thì làm sao lao động lại sáng tạo ra con người được, hay nói cách khác con người làm sao có thể tự sáng tạo ra mình được? Khảo cổ học đã chứng tỏ rằng sự chuyển biến từ vượn cổ (ngày nay, nhiều ý kiến cho là từ một loài khác, hai chi dưới có màng như chân vịt, có cùng tổ tiên với vượn cổ) thành con người nguyên thủy biết chế tạo công cụ, là một quá trình tiến hóa rất lâu dài chứ không thể ngày một ngày hai hay đột biến được. Vậy thì trong suốt quá trình tiến hóa lâu dài đó, những hoạt động tác động đến thiên nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu sống của mình của những giống loài trung gian giữa vượn cổ và người nguyên thủy biết chế tạo công cụ, có được gọi là lao động không? Nếu lao động sáng tạo ra loài người trung gian giữa vượn cổ và người nguyên thủy biết chế tạo công cụ, có được gọi là lao động không? Nếu lao động sáng tạo ra loài người thì phải thừa nhận đó cũng là lao động hoặc ít ra cũng là lao động kiểu “nửa vời” và cũng có thể là gồm một phần hoạt động gọi là không phải lao động và phần kia đúng là lao động và loài có hoạt động kiểu đó tạm gọi là loài “nửa người nửa ngợm” (nửa người nửa vượn). Rốt cuộc thì phải nghĩ rằng, để sinh tồn, chính loài vượn cổ là “kẻ” đã sáng tạo ra hoạt động dưới hình thức lao động và thông qua lao động mà tự cải tạo mình thành người. Nhưng bằng cách nào hay động lực nào đã làm cho loài vượn cổ còn chìm đắm trong bản năng và mê muội lại có thể sáng tạo ra hoạt động có tính tự giác cao độ là lao động được? Chỉ có thể là do cái quá trình đấu tranh sinh tồn và tiến hóa thích nghi thôi thúc mà loài vượn cổ, một cách tự nhiên đã tăng cường lao động với trình độ ngày một cao để “thoát xác, hóa thân” thành loài người. Như thế thì phải nói chính loài vượn cổ sáng tạo ra loài người từ bản thân chúng chứ không phải trực tiếp từ lao động và hơn nữa, lao động không phải là hình thức hoạt động sống chỉ riêng loài người mới có. Còn nếu vẫn khăng khăng cho rằng, lao động là hình thức hoạt động sống chỉ ở loài người mới có, và hành động theo hình thức lao động xuất hiện lần đầu tiên là chế tạo ra công cụ, thì phải quan niệm chính con người đã sáng tạo ra lao động chứ không phải lao động đã sáng tạo ra con người và trước khi có hiện tượng chế tác công cụ thì loài vượn cổ đã thành người nguyên thủy thậm chí là rất lâu rồi.
Xét ở góc độ nhất định, tôi cũng đồng ý rằng lao động là một hình thức hoạt động mà chỉ ở loài người mới có, nhưng không đồng ý hoàn toàn với những biểu hiện đặc thù của lao động mà triết học duy vật biện chứng nêu ra và Ăngghen là người đề xướng, vì chúng chưa thỏa đáng. Theo dõi lịch sử cũng như nhìn vào thực tiễn, dễ dàng thấy lao động biểu hiện ra với nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như lao động cưỡng bức và lao động tình nguyện, lao động trí óc và lao động chân tay, lao động cá thể và lao động tập thể… Vậy thì trước những cặp hình thức lao động tương phản ấy, điểm chung nhất của lao động là gì? Có phải là tính tác động làm biến đổi thiên nhiên, tính hợp tác xã hội, tính sáng tạo, tính tạo ra của cải vật chất (khác với làm phong phú thêm về mặt tinh thần)… không? Chắc là không rồi! Vậy thì đó là gì? Rõ ràng chỉ có thể thấy điều đó ở tính mục đích của lao động. Dù đối tượng tác động của lao động có là gì đi chăng nữa thì mục đích chung nhất của mọi hình thức lao động đều là đảm bảo, thỏa mãn những nhu cầu vật chất lẫn tinh thần vốn có và cả mới nảy sinh của con người nhằm duy trì và cải thiện cuộc sống ở mỗi cá nhân hoặc cho cả cộng đồng xã hội, nói cách khác là nhằm phụng sự sống còn, mà tuy hình thức lao động, có thể của riêng cá nhân nào đó hay của toàn xã hội (về mặt này, dù có vẻ rất khiên cưỡng thì cũng phải thừa  nhận rằng hình thức lao động cực đoan nhất chính là chiến tranh, hay có thể nói chiến tranh là hình thức lao động đặc biệt!).
Có chuyện kể về một người tên là Rôbinxơn không may lạc đến hòn đảo hoang vắng, tịch không một bóng người, ở giữa đại dương mênh mông, cách ly hoàn toàn với xã hội loài người. Anh ta đã phải hành động một mình để cố gắng sống sót mà hy vọng có ngày được trở về đất liền. Khó lòng chối cãi được hành động ấy của Rôbinxơn cũng là lao động. Nhưng lao động ấy có mang tính đặc thù như triết học duy vật biện chứng nêu ra không? Có và cũng không! Có là có ý đồ, có hoạch định, có tác động đến thiên nhiên, có tạo ra của cải vật chất, còn không là không có tính xã hội, do đó mà cũng không có sự hợp tác, không có sự trao đổi lao động. Điều đáng nói là ở mức độ như thế, một cách tương đối và hình thức, có thể thấy lao động của Rôbinxơn chẳng khác gì mấy so với hoạt động sống của con vật ở nhiều giống loài muông thú. Chẳng hạn như con báo, nó cũng biết chọn chỗ trú ngụ thuận tiện, cũng biết chọn khu vực thường xuất hiện con mồi, cũng biết ưu tiên chọn con mồi dễ khuất phục nhất trong bầy đàn con mồi, cũng biết nấp, rình ở chỗ tối ưu nhất có thể, cũng biết chờ đợi đến thời điểm thuận lợi nhất cho việc vồ bắt con mồi, cũng biết cất giấu phần xác còn lại của con mồi sau khi ăn để đến lúc nào đó ăn tiếp. Nghĩa là hành động mưu sinh của con báo, ở mức độ cũng thể hiện tính có ý đồ, có hoạch định, cũng tác động đến thiên nhiên và tạo ra của cải vật chất. Vậy, tại sao không gọi được hành động đó là lao động?
Thêm một câu hỏi khác: lao động có tạo ra ngôn ngữ không? Tôi cho rằng ngôn ngữ xuất hiện và hoàn thiện trong quá trình lao động nhưng bản thân lao động không thể tạo ra ngôn ngữ. Có thể đoán rằng trong thời kỳ đầu tiên của lịch sử loài người, khi mà phương thức kiếm ăn của con người chỉ là săn bắt, hái lượm, thì dù là ở dạng sơ khai, ngôn ngữ đã xuất hiện và đó là thứ ngôn ngữ duy nhất, chung cho cả loài người. Cùng với quá trình tăng trưởng, về số lượng và đặc tính tích cực đi tìm kiếm nguồn cũng như chủng loại thức ăn mới, là quá trình lan tỏa dân cư ra khắp thế giới của loài người. Sự lan tỏa ấy và có thể cả sự bắt đầu xuất hiện phương thức kiếm ăn mới là trồng trọt chăn nuôi đã tất yếu dẫn đến xuất hiện những quần thể dân cư mang tính xã hội ngày càng rõ rệt, chiếm lĩnh những khu vực tương đối rộng lớn mà về mặt địa lý là tương đối tách biệt nhau. Rất có thể rằng, hiện tượng đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho thứ ngôn ngữ duy nhất, chung cho cả loài người đã nói ở trên trở nên bị phân hóa chuyển biến theo nhiều hướng khác nhau, xa dần gốc gác ban đầu dẫn đến tình trạng những quần thể dân cư khác nhau thì có ngôn ngữ khác nhau. Nếu cho là lao động tạo ra ngôn ngữ thì tại sao lúc đó, trong khi cấu trúc sinh học cơ thể và do đó mà cấu tạo thanh quản của con người ở các quần thể xã hội khác nhau, nói chung là đồng nhất và hơn nữa, mục đích và cách thức lao động nói chung là hoàn toàn như nhau, thì ngôn ngữ ở các quần thể dân cư ấy lại khác nhau? Một lao động duy nhất lại “chế tác” ra nhiều ngôn ngữ có cùng một công dụng duy nhất, thỏa mãn cùng một nhu cầu cho duy nhất một loài người là điều hoàn toàn bất tường, hoàn toàn phi tự nhiên và không thể hình dung được. Sự duy lý rốt cuộc phải dẫn đến ý nghĩ: không phải là cái gì khác mà chính là bộ não người đã đóng vai trò quyết định, cùng với điều kiện hoàn cảnh của khu vực sống đóng vai trò thứ yếu, làm xuất hiện hiện tượng sai biệt, khác biệt về mặt ngôn ngữ giữa các quần thể người ấy. Nếu ý nghĩ này hợp lý và đáng tin cậy, thì phải đi đến một kết luận, quan điểm của Ăngghen về lao động vẫn còn khiếm khuyết…
Phải chăng con người tạo ra ngôn ngữ trước hết là để phục vụ đòi hỏi trong hành động mưu sinh của mình và vì thế mà sự sử dụng ngôn ngữ trong lao động cũng chính là nét đặc thù của lao động? Không đúng! Lao động không nhất thiết và không phải lúc nào cũng cần đến ngôn ngữ, hơn nữa con người tạo ra ngôn ngữ là để thỏa mãn nhu cầu sống nói chung chứ không riêng gì đối với lao động.
Không thể phủ nhận được ngôn ngữ là nguồn gốc nhân tạo, do chính con người tạo ra và vì thế mà chỉ ở loài người mới có: Nhưng không phải vì thế mà nó không có nguồn gốc tự nhiên. Xét cho cùng thì chính cái quá trình tiến hóa thích nghi tự nhiên trong đấu tranh sinh tồn đã làm xuất hiện ngôn ngữ của loài người. Vậy thì nguồn gốc tự nhiên dẫn đến ngôn ngữ của loài người là cái gì? Đó chính là sự truyền và tiếp thu tín hiệu, thông tin giữa cá thể sinh vật và môi trường chứa nó (gồm cả đồng loại của nó). Có thể thấy ngôn ngữ của con người chỉ là một dạng, một cách thức có tính đặc thù, truyền thụ thông tin cho nhau trong vô vàn dạng, cách thức cũng có tính đặc thù khác, tồn tại trong thế giới sinh vật. Với góc độ nhìn nhận ấy thì ở các giống loài muông thú và thậm chí là ở nhiều giống loài thực vật, cũng có “ngôn ngữ” theo kiểu của chúng và phù hợp với chúng. Chẳng hạn như ở loài ong, loài kiến, phải cho rằng ở mức độ nào đó, chúng cũng có ngôn ngữ đặc thù để truyền thụ thông tin cho nhau. Nhiều hành vi của loài ong cho thấy có thể hiện tính ý đồ hoạch định, tính tổ chức, phân công phân nhiệm mà nếu giữa chúng không có sự truyền thụ thông tin cho nhau thì rất khó mà thực hiện được. Ở loài kiến cũng vậy. Khi một con kiến phát hiện ra thức ăn ở nơi nào đó thì nó lập tức quay về với ý đồ thông báo cho đồng loại và làm xuất hiện một đoàn kiến dài dằng dặc với những con kiến hối hả đi ngược về xuôi tha lôi thức ăn về tổ. Đối với những mẩu thức ăn quá lớn so với cơ thể của chúng thì nhiều con kiến sẽ hợp sức lại, cùng nhau vận chuyển mẩu thức ăn về tổ. Nếu những con kiến đó không có cùng một ý đồ, không biết phối hợp nhịp nhàng, không biết phân công tổ chức, không biết đồng tâm hiệp lực tác động vào theo cùng một hướng, thì chắc chắn chúng không thể vận chuyển được về tổ mẩu thức ăn đó. Nhưng làm sao chúng hiểu được nhau để cùng thực hiện tất cả những điều đó một cách đồng bộ nếu như chúng không có một “tiếng nói chung” kiểu gì đó để báo hiệu cho nhau, để “dặn dò” nhau? Như thế, trên cơ sở quan niệm của triết học duy vật biện chứng, một cách hình thức và ở một mức độ nhất định nào đó, phải cho rằng, hoạt động của đoàn kiến cũng như của từng con kiến trong việc tha lôi thức ăn về tổ, cũng là lao động, là một hình thức của lao động. Vì đã thừa nhận và trong hiện thực cũng dễ dàng phân biệt được lao động của con người và “lao động” của con vật, nghĩa là lao động của con người đúng là có tính đặc thù tính riêng, chỉ ở loài người mới có, cho nên phải trả lời câu hỏi: vậy thì lao động của con người và “lao động” của con thú thực sự khác nhau ở điểm nào nếu không thừa nhận những nét khác biệt mà triết học duy vật biện chứng đã nêu ra?
Không Gian (tuyệt đối) hay Thể Tích (tuyệt đối) là vốn dĩ thế. Vì chúng ta có mặt trong đó và cảm nhận được Nó là một sự thực không thể chối cãi được nên rõ ràng Nó là “ một cái gì đó chứ không phải không có gì”. Hoạt động sống của chúng ta mách bảo với bản thân chúng ta một cách hồn nhiên rằng, chúng ta là một thực thể hẳn hoi, bằng chứng là chúng ta đang quan sát thấy vạn vật - hiện tượng và sự vận động, biến đổi ở xung quanh, chúng ta đang cảm giác được những tác động từ bên ngoài đến, chúng ta đang nghĩ suy về điều này, điều nọ… Nghĩa là chúng ta cũng là một cái gì đó chứ không phải không là gì, và chúng ta gọi đó là tồn tại, cũng như gọi cái “không là gì”, cái mà chúng ta không thấy được là hư vô. Xưa kia, do nhận thức còn nông cạn mà tổ tiên chúng ta cho rằng chỉ có bản thân họ và những thứ học nhìn thấy được mới tồn tại, còn lại là hư vô, là thực sự không có gì. Họ đâu biết quan niệm như thế là hoàn toàn chủ quan, sai lầm. Họ đâu biết rằng bản thân họ cũng như những thứ họ quan sát thấy, cảm nhận được trong phạm vi năng lực của họ, thực ra nên gọi là những hiện hữu (và toàn cảnh mà họ thấy được gọi là hiện thực). Họ đâu biết rằng hiện hữu là thể hiện của tồn tại trước quan sát, hiện thực chỉ là một bộ phận nhỏ nhoi của thực tại khách quan, nên cũng hiểu lầm phần phi hiện thực - phần hiện thực khách quan bao gồm vô vàn tồn tại mà họ không thấy được, là hư vô, thậm chí là Hư Vô (hư vô tuyệt đối) - Không cái gì tuyệt đối. Vì họ không thấy, không cảm nhận được không khí nên họ cho rằng đó là một khoảng không, một thinh không hay một hư không, trong khi không khí vẫn hiển hiện đầy ắp và vận động sôi nổi trong chốn hư không đó, nghĩa là không khí chỉ hư vô đối với họ thôi chứ thực ra vẫn đang tồn tại. Bây giờ, nhờ có sự khai sáng của triết học duy tồn mà chúng ta biết được ta không thấy tồn tại vĩ đại chìm khuất trước mắt chúng ta làm chúng ta không thấy gì hết và cho là hư vô, phi hiện thực ấy thực ra là những cái gì đó hợp thành một tổng thể hiện thực mênh mông, rộng lớn phi thường đang “sờ sờ” ở trước mắt chúng ta mà chúng ta gọi là Không Gian và từng tưởng lầm đó là chân không tuyệt đối, là sự thể hiện của Hư Vô (hư vô tuyệt đối). Bây giờ, chúng ta đã biết được cái Không Gian vĩ đại ấy bao gồm cả hiện thực của chúng ta và bản thân chúng ta và giờ đây trước mắt chúng ta, không chỉ là cái hiện thực tầm thường và eo hẹp nữa mà là cả một Hiện Thực vĩ đại phi thường, một thực thể Tồn Tại (tồn tại tuyệt đối) vô cùng biến ảo và huyền diệu. Bây giờ chúng ta đã biết được chúng ta và vạn vật hiện tượng chỉ là những tồn tại tương đối có nguồn gốc là Tồn Tại, nảy sinh, hiện hữu ra từ đó và khi không còn tồn tại nữa thì tiêu vong, tan biến vào đó, nhường chỗ cho những tồn tại tương đối, mới ra đời. Bây giờ chúng ta còn biết rằng không thể có Hư Vô bên cạnh Tồn Tại vì nếu Hư Vô thể hiện ra trước Tồn Tại như một hiện thực thì nó phải là Tồn Tại chứ không thể Hư Vô được. Tồn Tại là vốn dĩ và duy nhất! Đó là điều mà hôm nay chúng ta đã nhận thức được.
Đã là Tồn Tại thì phải thể hiện đến “chân tơ kẽ tóc”, đến cùng cực vì nếu không như thế thì cũng coi như Hư Vô - tuyệt đối không có gì - tình trạng không thể có thực được khi chúng ta đang “ở đây” và tồn tại thực sự, không thể phủ nhận được. Muốn thể hiện ra được ra như thế, Tồn Tại phải biến hóa một cách toàn diện, liên tục không ngừng nghỉ đến bất tận, và đó chính là vận động. Tồn Tại là vốn dĩ thì vận động toàn diện đến tận “chân tơ kẽ tóc”, đến cùng cực, đến vĩnh cửu cũng là một vốn dĩ. Vận động là vốn dĩ như thế để thể hiện Tồn Tại, bảo toàn Tồn Tại hay có thể nói vận động là tự nhiên và chúng ta nói: Tự Nhiên Tồn Tại. Như vậy khi nói Tự Nhiên Tồn Tại thì có nghĩa rằng Tồn Tại phải vận động một cách tự nhiên nhằm thể hiện đến cùng cực sự Tồn Tại ấy đồng thời nhằm bảo toàn tuyệt đối sự Tồn Tại ấy. Đây cũng chính là Nguyên Lý Tự Nhiên, nguyên lý đóng vai trò tuyệt đối, tối thượng, là ngọn nguồn, là cội gốc của mọi nguyên lý, qui luật có tính tương đối và đặc thù khác. Vì thực thể trong thực tại khách quan luôn liên tục, không ngừng nghỉ biến đổi một cách tuyệt đối, nhưng trong hiện thực khách quan của một quan sát nào đấy, thì tùy thuộc vào cảm nhận cũng như qui định chủ quan của quan sát ấy mà vạn vật, mọi thực thể được thấy tồn tại trong những khoảng thời gian xác định nào đó với tư cách là chính nó chứ không phải cái gì khác. Cũng vì phải tuân thủ Nguyên Lý Tự Nhiên mà vạn vật, mọi thực thể không thể tuyệt đối tự thân biến đối, vận động được mà phải thông qua, phải tương tác, phải trao đổi vật chất vớ môi trường chứa chúng, qui định và “dung dưỡng” sự tồn tại của chúng để cùng nhau vận động, cùng nhau biến đổi. Điều đó cho thấy ngay trong thế giới vô sinh đã hàm chứa hiện tượng, truyền thụ và xứ lý thông tin, và như thế cũng tiềm ẩn cái tạm gọi là mầm mống của tính tích cực, tự giác duy trì tồn tại của vạn vật mà sau này, những tích ấy thể hiện nổi bật, nhất là ở loài người, trong thế giới sinh vật.
Thực thể sống xuất hiện đầu tiên trong môi trường thiên nhiên của Trái Đất là đơn bào. Khi đơn bào mới xuất hiện thì môi trường dung dưỡng nó (đại dương) dồi dào chất đặc thù mà nó cần trao đổi để duy trì sự tồn tại hay còn gọi là sự sống của nó. Lúc đó, nó chẳng phải làm gì khác ngoài việc chỉ ăn thôi, nghĩa là chỉ việc hấp thụ chất được gọi là thức ăn từ môi trường chuyển hóa để nuôi sống cơ thể rồi trả lại môi trường một chất khác gọi là chất thải hay “phân”, và được nước biển cho đi rong chơi đây đó. Sự ăn đó làm cho đơn bào lớn lên nhưng do qui định nào đó có thể có từ sự trao đổi chất đặc thù của đơn bào và môi trường mà sự lớn lên của đơn bào là có hạn độ. Nhưng đơn bào vẫn cứ ăn một cách mù quáng trong môi trường đầy ắp thức ăn, làm cho nó “phát phì”, sự cân bằng nội tại của nó không thể duy trì được nữa và thế là nó vỡ ra, “chết tươi”, nghĩa là nó tự chấm dứt cuộc sống của nó chỉ vì tham lam quá độ! Có lẽ đơn bào ở thời kỳ đầu tiên chưa hẳn là đơn bào mà chỉ mới là một thực thể trung gian giữa vô sinh và hữu sinh, tạm gọi là tiền đơn bào. Tiền đơn bào được thời gian rồi chết đi, phân hủy, tan hòa trở lại vào môi trường vô sinh. Có nhiều quá trình như thế xảy ra đồng thời và lặp đi lặp lại khắp nơi trong môi trường. Thế giới sinh vật trong buổi đầu hình thành chắc là chỉ như thế thôi.
Thời gian trôi đi một đêm dài và rất có thể cái mầm mống tích cực duy trì tồn tại đã thôi thúc làm xuất hiện một quá trình chuyển hóa trong cái thế giới sinh vật bán khai ấy theo hướng phức tạp hóa cấu trúc nội tại của một bộ phận tiền đơn bào, làm chúng trở thành đơn bào thực thụ. Đơn bào cũng ăn, lớn lên, phát phì rồi chết như tiền đơn bào. Nhưng cách chết của nó khác với của tiền đơn bào ở chỗ tự phân đôi ra, làm cho một “cái tôi” thành hai “cái tôi” mới, nghĩa là nó chết mà như không chết, chết để phụng sự, tôn vinh, phát triển sự sống. Đó cũng chính là hình thức sinh sản đầu tiên trong thế giới sinh vật. Từ đây, trong cái môi trường còn rất dồi dào thức ăn, xuất hiện một quá trình tăng trưởng nhanh, có tính lạm phát về số lượng đơn bào. Quá trình này, theo thời gian làm biến đổi môi trường sinh thái theo hướng nguồn thức ăn cung cấp cho sự sống suy giảm đến mức nghiêm trọng, không đủ cung ứng cho số lượng đơn bào đã tăng trưởng lên mức thái quá. Để cân bằng sinh thái, hàng loạt đơn bào phải chịu chết đói để tái tạo, bổ sung nguồn thức ăn đang suy kiệt. Đồng thời với quá trình đó là quá trình làm xuất hiện đa bào, quá trình phân định sự sống thành giống đực, giống cái, làm xuất hiện hình thức sinh sản mới, quá trình làm xuất hiện những hình thức truyền thụ và lưu giữ thông tin mới để đáp ứng cho những cách thức trao đổi chất mới, để lựa chọn, phát hiện thức ăn đã tương đối khan hiếm trong môi trường, quá trình cải tạo cơ thể về mặt hình dạng để lợi dụng môi trường chủ động di chuyển tìm thức ăn… Tất cả các quá trình ấy diễn ra nhằm cố gắng cân bằng môi trường sinh thái, duy trì sự sống ở mỗi tập hợp cá thể sống có cấu trúc nội tại và lối sống giống nhau và được gọi là đồng loại, làm xuất  hiện mâu thuẫn về quyền lợi và như thế cũng làm xuất hiện sự cạnh tranh nhau để sống còn không những giữa những tập hợp cá thể khác nhau và cả giống nhau về cấu trúc sinh học và lối sống. Quá trình hình thành và cũng là giai đoạn mở đấu cho cuộc đấu tranh sinh tồn và tiến hóa thích nghi trong thế giới sinh vật có thể đã là như vậy. Và cũng bắt đầu từ đây, thế giới sinh vật tăng trưởng theo hướng đa dạng hóa giống loài, nhiều giống loài tuyệt chủng thì đồng thời cũng xuất hiện nhiều giống loài mới, theo hướng mở rộng môi trường sinh thái của nó, chiếm lĩnh môi trường thiên nhiên đến tận cùng khả năng của nó, làm cho sự sống có mặt ở khắp nơi, từ biển cả đến mặt đất, trong lòng đất, trên núi cao và cả trong không trung, đồng thời qua đó mà cũng tăng trưởng về mặt lực lượng.
Trong lịch sử hình thành và tiến triển của sự sống, có thể thấy một điều giản dị này: lúc đầu chỉ là ăn (trao đổi chất), rồi đến phải tìm mà ăn và cuối cùng phải làm mới có ăn, lúc đầu chỉ cần một loại thức ăn vô sinh cho sự sống, sau là nhiều loại thức ăn vô sinh cho sự sống, thế rồi đến lúc bên cạnh thức ăn vô sinh còn xuất hiện thức ăn hữu sinh, thế rồi xuất hiện hiện tượng giống loài tiến hóa hơn ăn sống nuốt tươi giống loài chầm tiến hóa hơn và cả ăn thịt lẫn nhau, lúc đầu đối với một giống loài chỉ có một vài chủng loại thức ăn, sau là nhiều chủng loại thức ăn, cả từ thực vật lẫn động vật, và cuối cùng, nếu thức ăn hiểu theo nghĩa mở rộng, gồm cả những thứ phục vụ cho tiêu dùng phi thực phẩm thì coi như loài người là loài hầu như ăn được mọi thứ có trong môi trường thiên nhiên, kể cả máu thịt đồng loại, kể cả phân do bản thân loài người thải ra. Đó cũng chính là thành quả “đáng nể” nhất, đáng kể nhất của cuộc đấu tranh sinh tồn căng thẳng bền bỉ và lâu dài. Mở rộng ra, một cách phổ biến, vạn vật trong Vũ Trụ, nói tương đối, đều trao đổi chất theomột trong hai hoặc cả hai cách trong suốt quá trình tồn tại của chúng, một là thụ động chịu sự trao đổi chất với môi trường, hai là chủ động trao đổi chất với môi trường, trong đó cách thứ nhất thuộc tầng nền tảng vi mô, cách thứ hai thuộc tầng Vũ Trụ vĩ mô.
Nói chung là như vậy, nhưng phải hỏi rằng, cuộc đấu tranh sinh tồn và tiến hóa thích nghi ấy cụ thể đã tác động trực tiếp vào yếu tố nào, vào khâu then chốt nào trong quá trình vận động của thế giới sinh vật để nó tiến triển theo chiều hướng sinh ra loài người và chiều hướng ấy có phải là duy nhất, tất yếu hay không? Có thể khẳng định: không riêng gì thế giới sinh vật ở Trái Đất mà bất cứ thế giới sinh vật nào đã từng hoặc sẽ xuất hiện trên những hành tinh khác trong Vũ Trụ, đều phải có quá trình tiến triển theo chiều hướng làm hình thành nên giống loài biết tư duy sâu sắc, nếu không bị chấm dứt đột ngột bởi một tai nạn vũ trụ nào đó. Tồn tại và đồng thời không tồn tại là một tất yếu khách quan, nhưng trước một quan sát chủ quan thì tồn tại và không tồn tại được phân định tương đối thành hai, nghĩa là khi một thực thể nào đó đang tồn tại thì nó không thể không tồn tại, và ngược lại. Khi nói đến sự tồn tại của một thực thể vô sinh nào đó thì sự tồn tại đó chỉ có thể là ở trong môi trường chứa nó. Vận động, chuyển hóa là bất tuyệt và đồng thời cũng là sự thể hiện của tồn tại cho nên khi nói một thực thể đang tồn tại thì cũng có nghĩa đó là một lực lượng vật chất đặc thù so với môi trường chứa nó, đang vận động và phải liên tục vận động để duy trì sự biểu hiện đặc thù ấy. Nghĩa là nội tại của lực lượng vật chất đặc thù ấy phải luôn luôn biến đổi đến hết khả năng để duy trì cân bằng nội tại trước nguy cơ bị mất thế cân bằng, bị chấm dứt tồn tại. Tự Nhiên Tồn Tại là vốn dĩ, mà xét trên nguyên lý nhân quả thì là nguyên nhân và đồng thời kết quả của chính nó. Ngoài ra, mọi tồn tại (tương đối) khác, từ sự nảy sinh, hiện hữu, tiêu vong đều phải nằm trong mối quan hệ nhân - quả, đều là những kết quả của những nguyên nhân xác định. Qua đó mà thấy, một thực thể không thể hoàn toàn tự thân vận động để duy trì sự tồn tại của nó được mà phải thông qua sự tương tác theo nguyên lý tác động - phản ứng và sự trao đổi vật chất giữa nó với môi trường chứa nó, làm biến đổi bản thân nó và đồng thời cả môi trường chứa nó, chi phối nó. Giềng mối của mọi tương tác và trao đổi vật chất là cảm ứng - kích thích và chuyển hóa của các hạt KG. Từ đó mà có hiện tượng thu - phát bức xạ. Thu - phát bức xạ là hình thức trao đổi vật chất thống nhất và duy nhất nhằm duy trì tồn tại của mọi thực thể vô sinh. Trong một môi trường có điều kiện, hoàn cảnh phù hợp thì sự sống xuất hiện. Khi sự sống xuất hiện thì bên cạnh hình thức trao đổi vật chất đóng vai trò nền tảng duy trì tồn tại, còn xuất hiện hình thức trao đổi vật chất đóng vai trò thiết yếu duy trì sự sống đối với mọi cơ thể sống là tiêu thụ trực tiếp những loại vật chất cần thiết có trong môi trường và thải ra môi trường những vật chất đã bị chuyển hóa hoặc dư thừa trở nên không còn cần thiết nữa, thậm chí là bất lợi đối với cơ thể ấy. Ở Trái Đất, một cách phổ biến thì một cơ thể sống, muốn sống được, phải thở, uống và ăn. Ôxy luôn được tái tạo và coi như vô tận đối với thế giới sinh vật, nước cũng tương đối được coi giống như vậy, còn thức ăn thì bấp bênh, lúc khan hiếm, lúc dồi dào, nhưng phổ biến là bị hạn chế, gây ra tình trạng phải tranh giành, cưỡng đoạt giữa các giống loài sinh vật, do sự tăng trưởng tự phát, thiên tai gây ra. Chính vì vậy mà thức ăn trở thành nhu cầu bức thiết hàng đầu đối với sự sống, không ăn thì không thể sống được. Mâu thuẫn gay gắt có tính thường xuyên giữa nguồn thức ăn bị hạn chế bởi sự tăng trưởng mù quáng cũng như thiên tai gây ra và những lực lượng sống đã làm xuất hiện xu hướng đa dạng hóa nguồn thức ăn, mở rộng môi trường sống, tăng cường khả năng tìm thấy thức ăn, khả năng tạo ra thức ăn và cả khả năng đề kháng, tự vệ, lẫn tránh tai họa để sống còn ở thế giới sinh vật. Đó cũng chính là xu hướng tự nhiên, tất yếu và vì vậy mà cũng là duy nhất của quá trình tiến hóa thích nghi ở bất kỳ thế giới sinh vật nào trong Vũ Trụ.
Nhưng sự tiến hóa thích nghi và làm xuất hiện phong phú, đa dạng giống loài sinh vật bắt đầu như thế nào, trên cơ sở cốt lõi nào và đối tượng đầu tiên mà nó tác động có tính xuyên suốt làm chuyển hóa giống loài sinh vật là ở khâu nào của sự sống? Không thể khác được, bắt đầu là ở khâu thu - phát bức xạ, làm xuất hiện hiện tượng truyền - nhận và lưu giữ thông tin, tín hiệu và đây cũng là đối tượng bị tác động xuyên suốt và thông qua đó mà có sự tiến hóa nói chung. Thủa ban đầu, khi sự sống mới xuất hiện thì vì thức ăn là vô cùng dồi dào cho nên khả năng nhận biết thức ăn có lẽ ở mức độ hầu như chưa có. Khi thức ăn không còn dồi dào nữa thì khả năng phân biệt, nhận biết thức ăn được tăng cường lên, phản ứng trong nội tại cơ thể sống đã có dấu hiệu của cảm giác, bức xạ từ bên ngoài vào đã bắt đầu có ý nghĩa thông tin. Không ăn thì chết, thiếu thức ăn thì phải chờ đợi thức ăn “đến”, chờ không được thì phải di chuyển, “đi” tìm cho ra thức ăn, không có thức ăn “truyền thống” thì thử chất có tính tương tự, không có thức ăn vô sinh thì thử ăn thức ăn hữu sinh, ăn cơ thể sống khác, cơ thể sống khác cũng “muốn” sống còn nên phải tránh né hoặc chống cự lại, hết thức ăn gần thì tìm thức ăn xa, thức ăn trực tiếp không có thì phải làm ra miếng ăn mà ăn, con mồi nhanh mạnh thì phải nhanh mạnh và khéo léo hơn để mà vồ chụp được… Nhưng muốn được như vậy thì trước hết và trên hết phải tăng cường mức độ sắc sảo, nhạy bén ở khâu đầu tiên là truyền - nhận, lưu giữ và giải mã tín hiệu thông tin. Quá trình đó tất yếu dẫn đến sự xuất hiện hệ thống thần kinh, các giác quan để cảm nhận ngày một tinh tế những tín hiệu thông báo đến từ môi trường sống, từ đó mà cấu trúc sinh học cơ thể cũng dần được cải tạo theo hướng có lợi hơn cho lối sống đặc thù đang có, giành được ưu thế hơn trong cuộc đấu tranh sinh tồn gay gắt. Cũng nhờ thế mà xuất hiện muông thú, những giống loài có hệ thần kinh đạt đến độ tinh vi, gồm một đầu não (bộ não) đóng vai trò trung tâm xử lý thông tin, điều hành hoạt động sống và một mạng lưới “chằng chịt” những dây cùng những đầu mối thần kinh đóng vai trò thu nhận, truyền dẫn thông tin, nhờ thế mà hoạt động sống của chúng đã có nhiều hành vi thể hiện rõ tính tích cực, chủ động và đôi khi cả tính sáng tạo. Nói chung, nếu ở các giống loài thực vật, sự tìm ăn hầu như là thụ động, mù quáng, thì ở các giống loài động vật, sự tìm ăn đã có tính chủ động hơn rất nhiều, nhất là ở bộ phận động vật ăn thịt, không những phải tích cực lùng sục cho ra con mồi mà còn phải săn, rình rập, kiên trì chờ cơ hội thuận lợi để vồ cho được con mồi, nghĩa là đối với chúng, không “làm việc” thì không có miếng ăn, thậm chí là phải làm việc cật lực một cách có tinh thần hợp tác, đồng tâm hiệp lực mới may ra có được miếng ăn. Đừng tưởng con người là giống loài đầu tiên và cũng là duy nhất chế tạo ra phương tiện, công cụ cũng như vũ khí để hỗ trợ cho đời sống, làm ăn, sự tự vệ của mình được thuận lợi hơn, đạt hiệu quả cao hơn. Ngay từ khi xuất hiện cuộc đấu tranh sinh tồn, sinh vật, bị môi trường thiên nhiên thôi thúc và định hướng, thông qua quá trình tiến hóa thích nghi đã phải “tự tạo” ra và hoàn thiện những bộ phận cơ thể để làm công cụ, phương tiện sử dụng trong sinh hoạt tăng cường khả năng tìm kiếm và làm ăn cũng như khả năng tự vệ, trốn tránh kẻ thù. Chỉ có điều những công cụ, phương tiện ấy hình thành một cách hồn nhiên, tự phát và do đó mà cũng không có tính nổi trội, bị chìm khuất, con người khó thấy được. Không thể phủ nhận được tính công cụ, phương tiện phục vụ cho sự làm ăn, sự tự vệ đối với những thứ như móng vuốt, răng nanh ở loài hổ, báo, những thứ như nọc độc ở loài rắn, như sừng ở loài trâu, bò…
(còn tiếp)


Mời xem:

LỜI PHÂN TRẦN

PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

PHẦN II: NỀN TẢNG

PHẦN III: NGUỒN CỘI

PHẦN IV: BÁU VẬT

PHẦN V: THỐNG NHẤT