✍ Nhà báo - Nhà văn - Bạn Trỗi K3: Trần Chiến (Update 11/2021)
Thứ Bảy, tháng 6 19, 2010Xin nhấp chuột vào mục cần đọc để xem chi tiết
- Dê non xuất hành - 02/03/2014.
- Suối khoáng Mỹ Lâm - 23/01/2014.
- Hà Nội đáng thương - 14/10/2012.
- Ghi chép miền Nam - 23/07/2012.
- Lặng lẽ của “Lặng lẽ…” - 17/04/2012.
- Đi đảo Lý Sơn - 19/07/2011.
- Nhặt nhạnh Tây Nguyên - 18/04/2011.
- Chuyến đi đầu năm - 15/03/2011. Loạt bài "Hà Nội trong mắt tôi"
- Bài 6: Xa lông, điếu cầy - 20/10/2010.
- Bài 5: Thông tin xô đẩy - 12/10/2010.
- Bài 4: Tiếng ta “trôi” - 04/10/2010.
- Bài 3: Đô thị tự phát - 25/9/2010.
- Bài 2: Thị dân, anh là ai? - 19/9/2010.
- Bài 1: Nẻo xưa đâu tá… - 14/9/2010.
- Ôn tân tri cố - 19/6/2010.
- Hai Đức Chúa Ông - 25/5/2010.
- Giọt Tây Nguyên tí tách - 5/5/2010.
- Chuyên đề đồ cổ - 23/4/2010.
- ỐC ĐẢO - 20/4/2010.
- Đại đồng - 3/3/2010.
- Nửa vời nhà ống (P1) - 29/12/2009. + (P2) - 30/12/2009.
- Hà Nội nhìn từ nhà quê. - 21/12/2009.
- LÀM ĐẸP CHO ĐỜI (P1) - 14/12/2009. + (P2) - 15/12/2009.
- ĐI TÌM MỘT TÍNH CÁCH HÀ NỘI. - 10/12/2009.
- Nhịp đập phố cũ - 2/12/2009.
- ĐI THĂM LÀO - 28/12/2007.
- Đi "phượt" - 27/12/2007.
pleikucafe.com
- Nhốt dòng sông lại - 17/04/2011.
Báo Điện tử Tổ Quốc - Văn học quê nhà
Blog "Trần Đức Tiến"
- Tiếng ta lang thang - 21/08/2012.
- Ghi chép miền Nam - 25/07/2012.
- Chuyến đi đầu năm - 17/03/2011.
- Số phận biệt thự - 17/01/2011.
- Nặng nhẹ miếng ăn - 31/12/2010.
- Chín bỏ làm mười - 20/12/2010.
- Ngõ nhỏ lối nhỏ - 13/12/2010.
- TRẦN HUY LIỆU – CÕI ĐỜI
- Bốn chín chưa qua - Tiểu thuyết (Nghe đọc)
Xem phim MỘT NGƯỜI CHIẾU BÓNG - Dựa theo truyện "Bốn chín chưa qua" của TRẦN CHIẾN.
Hội Nhà Văn Việt Nam
- Bácbara kiêu sa (Như phim)
- Đào nguyên + Đào nguyên (II) + Đào nguyên (tiếp theo và hết)
- Táo mèo
- "Ốc gió"
- Thúy Vân - Báo điện tử Đại biểu Nhân Dân
- Nỗi sợ - vantuyen.net
- Thượng đẳng thần - vantuyen.net
- Hoa nước - Tạp chí Văn nghệ quân đội.
- Làm sao cứ phải tại sao - Báo Đại Đoàn Kết.
- Không gian thích lắm - Báo điện tử Đại biểu Nhân Dân.
- Cảm tính bổ sung - Nhân 110 năm sinh Trần Huy Liệu, Website Triệu Xuân.
- Thị dân hay tiểu nông? - 29/01/2013, viet-studies.
- Nụ cười Hoàng Công Khanh - Báo điện tử Đại biểu Nhân Dân, 09/07/2013.
- Đi ăn kiểu Mỹ - 16/11/16, viet-studies.
- Tưng tửng kiểu Tô Hoài - 08/07/2012.
Viet-studies
- Đi ăn kiểu Mỹ - 16/11/2016.
- Liệng Trong Miền Lỗ Mũi - 20/4/2019.
- Trong đục tâm linh - 23/01/2020.
- Từ cõi “Den mơ” - 10/8/2021.
- Tập Con bụi (Nhà Xuất Bản Tác phẩm Mới, 1990) đoạt giải của Hội Nhà văn Hà Nội.
- Tập phóng sự Hà Nội phố và chợ (Nhà Xuất Bản Hà Nội, 1994, 64tr).
- Tập truyện Đường đua (Nhà Xuất Bản Văn hóa Thông tin) 1997, đoạt giải ba của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
- Truyện vừa Bốn chín chưa qua (Nhà Xuất Bản Hội Nhà văn, 2000), được giải nhì của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
- Tiểu thuyết Đèn vàng (Nhà Xuất Bản Phụ nữ, 2002) đoạt giải A Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội.
- Chữ văn chữ báo (Nhà Xuất Bản Văn học, 2007)
- Trần Huy Liệu - Cõi Người - (Nhà Xuất Bản Kim Đồng, 2009.)
- Hoa nước - Tập truyện ngắn (Nhà Xuất Bản Phụ nữ, 9/2010)
- Gót Thị Mầu, đầu Châu Long - Truyện Giả Cổ (Nhà Xuất Bản Trẻ - 2014)
- Cậu Ấm - Tiểu Thuyết - (Nhà Xuất Bản Trẻ - 2014) - Giải thưởng “Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội” năm 2015.
- A đây rồi Hà Nội 7 món - (Nhà Xuất Bản Văn học và Quảng Văn Books ấn hành, thanglongbooks - 2014) - Giải thưởng “Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội” năm 2015.
- Chín bỏ làm mười - Tiểu Thuyết - (Nhà Xuất Bản Phụ Nữ - 2018).
Xem các bài viết tại Báo Hà Nội mới với bút danh Trần Chiến - Hoàng Định
- "Thiên nhiên" vô bờ bến - 12/06/2015
- Những ngọn nguồn - 18/10/2017
- Dẫu lìa ngó ý - 15/02/2018
- Tiếng Thủ đô - 02/05/2020
HDT-K3 nói... 14:24 Ngày 28 tháng 5 năm 2010
Chuyện xảy ra cũng chưa lâu lắm.
Có 1 dạo ở HN, các nguồn thạo tin cho hay nhà văn trẻ của chúng ta có nhiều thay đổi. Vốn vui vẻ, hòa đồng lại ham hoạt động nên anh tham gia nhiều hội lắm: nào bơi, nào tenit... và tất nhiên là cả hội bia nữa. Thế mà bỗng nhiên có đến mấy tháng nay, không hiểu sao anh mất dạng, không héo lánh tới bất cứ hội nào. Rồi nữa, hành tung của anh dạo này sao bí ẩn thế, cấm có mấy người gặp được anh, kể cả mấy thằng bạn nối khố. Mà họa hoằn lắm bất ưng gặp anh chưa kịp chuyện trò, hoặc hỏi thăm vì sao dáng anh hao gầy, võ vàng đến thế thì anh đã nguây nguảy "bận lắm bận lắm...". Thật chẳng sao hiểu nổi!
Thế đấy, người ngoài thì đã đành, nhưng trong nhà, chính vợ con anh cũng không lí giải nổi sự quái dị của bố nó. Không hiểu sao cứ đi thì thôi nhưng về nhà là cứ lẩn thà lẩn thẩn như nói chuyên 1 mình, nhiều khi lại hoa tay như viết vào không khí. Lại nữa, suốt cả tháng trời không biết bao em chân dài chân ngắn, thỉnh thoảng lại còn cả những ả nạ dòng nữa "xin phép chị cho em đươc găp anh 1 chút !"...
Phân vân ngờ vực xen chút ghen tuông nữa, nhưng vốn là 1 cô gái thông minh, diềm đạm nên nàng cứ bình tĩnh quan sát, suy đoán ngược xuôi... rồi cuối cùng ẩn số cũng được tìm ra.
Chuyện là thế này, khi tác phẩm của anh đã được chuyển thể xong, chuẩn bị bấm máy. Không hiểu thông tin từ đâu mà các em cứ tới tấp tìm anh, xin anh "tác động" với đạo diễn cho em 1 vai để được... "đổi đời". Còn lí giải cho những hàng động kì quái kia thì hóa ra anh đang tập trả lời phỏng vấn và kí tặng cho các "phan" hâm mộ - hoàn thành bước cuối cùng để trở thành "người của công chúng".
* *
Hãy cười tươi lên
Cho trí tưởng tượng cất cánh!
Một trong những diễn viên chính của bộ phim là Phượng. Khi đó nàng là sinh viên năm cuối trường báo chí, về thực tập tại tòa báo của anh. Gương mặt sáng, nụ cười xinh phong thái đoan trang và cực kì lễ phép. Với nàng, C là cái gì đó còn cao hơn thần tượng, khi quyển sách của anh ra đời với những lời khen ồn ào của công chúng, đặc biệt là của giới phê bình.
Rồi một ngày, với vẻ rụt rè dễ thương, nàng xin anh 1 vai diễn, "để cháu thử sức mình!". Kể cũng khó cho C vì thật ra anh chỉ là tác giả phần văn học thôi -nhưng vì có mối quan hệ bạn bè thân thiết với đạo diễn, hơn nữa anh thấy cô bé cũng có tư chất- nên mọi viêc rồi cũng tiến hành xuôn xẻ.
Và từ đó bác C trở thành người đỡ đầu cho Phượng trong lĩnh vưc văn chương nghệ thuật - kể cả nghệ thuật thứ 7.
Chỉ có 1 điều rất lạ, kể từ lần gặp nàng đầu tiên, anh cứ phân vân mãi mà không nhớ ra là gương măt ấy anh đã gặp ở đâu, từ lâu lắm rồi!...
Cho đến 1 hôm, khi tình cảm bác cháu giữa bộ ba: nàng, C và đạo diễn đã trở nên thân thiết, Phượng mời 2 người về quê chơi, "thăm bà và mẹ cháu"... Thật khó từ chối, nhất là khi thằng cha đạo diễn -do làm viêc vất vả quá- cứ sùng sục đòi đi "đổi gió 1 chút"... Vậy là vào 1 ngày thứ 7 đẹp trời cả 3 bác cháu lên đường.
Xin cho đươc miễn kể về doc đường đi, 3 nguời, đặc biệt là P vui vẻ thế nào. Rồi khi bước vào căn nhà đơn sơ nhưng sạch sẽ và mát mẻ, lòng C dâng lên 1 cảm giác bình an hiếm có thế nào...
Và sự việc chỉ thật sự bất ngờ khi mẹ cô bé đon đả chạy từ bên hàng xòm về, đon đả đón khách... Vừa nhìn thấy C, bước chân tự dưng khụyu lại, gương măt trở nên thất thần... và 2 hàng nước mắt ứa ra rồi tuôn chảy không sao cầm lại được. Chỉ thương nhất bà cụ và cô cháu gái, đang vui là thế, đang ríu rít là thế, bỗng nhiên nín lặng, ngỡ ngàng...
* *
Với anh, ngày hôm đó quả thật nặng nề. Vốn là 1 người cẩn thận, chỉn chu, chẳng biết mất lòng ai bao giờ, nhất là với đám đàn bà con gái C không hiểu tại sao lại xảy nên cơ sự này?!
Thế rồi bằng sự kiên nhẫn của anh, sự khôn ngoan khéo léo của nhà đạo diễn và nhất là tình yêu thương dịu dàng nhưng tận cùng đau khổ của người con gái, cuối cùng cái sự thât tưởng chừng đã được đào sâu chôn chặt trong lòng người đàn bà đã dươc hé mở. Và trong anh lại rộn lên bao kỉ niệm thiêng liêng về 1 thời hoa lửa đó.
* *
Mới đó mà đã hơn 1/3 thế kỉ, khi cuộc chiến đang vào hồi gay cấn nhất. Lớp học của anh phải sơ tán trong 1 làng thuộc vùng trung du bắc bộ. Làng nghèo và còn lạc hậu lắm, nhưng có các chú bộ đội về nên cũng trở nên vui hơn.
Cuộc sống cứ thế, bình lặng trôi cho tới 1 buổi trưa, khi đang ngồi ăn cơm ở ngoài sân đình, một thằng bạn khá thân thông báo "cạnh nhà tao có 1 vụ hôn nhân cưỡng bức". Vốn là những chàng trai khảng khái nhưng sốc nổi cả bọn quyết định đứng ra can thiệp. Và anh được mọi người tín nhiệm cử làm đại diện. Làm sao mà không can thiệp được trước cảnh chướng tai gai mắt ấy. "Cô dâu" mới chỉ chừng 15 tuổi đẹp như 1 bông hoa hé nở. Cái nghèo, cái lam lũ không sao che khuất được những phẩm chất cao quí của người đàn bà đang tiềm ẩn nơi người con gái trẻ. Mẹ nàng mất sớm khi nàng chưa tròn 8 tuổi, cha nàng tái giá với 1 người đàn bà có 2 đứa con riêng.
Còn "chú rể", ngoài 20 tuổi, có lí lịch chính trị chẳng tốt đẹp gì nên không phải đi bộ đội. Biết lợi thế của mình (nhà giàu, trai tráng trong làng đi bộ đội hết) nên anh ta cứ một mực đòi cưới cô gái nghèo nhưng xinh đẹp nhất làng.
Vậy là C và các bạn anh kiên quyết ra tay. Nào gặp bí thư chi bộ xóm, nào vận động đoàn thanh niên, rồi còn định viết đơn cho đảng ủy và chính quyền xã... và nhất là sự dũng cảm không khoan nhượng của cô gái trẻ... cuối cùng cái đám cưới gây nhiều ồn ào ấy cũng không thể xảy ra.
Thới chiến, và cuộc đời người lính thật nhiều biến động. Chỉ ít tháng sau đơn vị anh lại hành quân sang 1 địa điểm mới.
Chỉ chờ có thế, với những thủ đoạn mới, tinh vi và ác độc, người gì ghẻ và họ nhà trai lại gây sức ép để "cưới bằng được mới thôi". Nhưng cô gái trẻ (tuy 1 mình đơn độc) mà cũng chẳng vừa..., 1 quyết định táo bạo nảy ra trong óc và nàng quyết thực hiện cho bằng được.
* *
Biết chẳng thể yên thân đươc, và thương cha lắm nhưng nàng đã quyết ra đi. Còn rất trẻ, lại chẳng mấy khi rời khỏi con mương đầu làng, nàng lo lắng lắm. Nhưng hình như có 1 cái gì mới lạ và xa xăm đang thôi thúc trong lòng nàng. Trái tim thiếu nữ với những rung động đầu đời đã mách bảo nàng phải tìm đến chàng "người anh hùng" trong tâm tưởng. Con người trắng trẻo, thư sinh nhưng mạnh mẽ ấy đã bước vào giấc ngủ của nàng, đã chiếm lĩnh những suy tư của nàng về hạnh phúc, đã làm chủ phần hồn của nàng tự bao giờ nàng cũng chẳng biết nữa, nhưng nàng biết chăc chắn là phải tìm được chàng, vị thủ lĩnh đấu tranh cho tự do...
Dằn vặt vì thương cha,lo lắng hoang mang cho những bước chân bất định của mình, nhưng chí đã quyết. Hai chữ "hy vọng" là ngôi sao chỉ đường cho nàng tìm về 1 bờ bến mới. Vậy là gói ghém ít đồ dùng cá nhân cùng chiếc nhẫn mẹ cho trước khi nhắm mắt, vào 1 sáng tinh mơ nàng cất bước lên đường.
Thoạt tiên nàng tìm đến đơn vị của anh thì đươc biết anh đã về trường nhận nhiệm vụ mới. Đên trường hỏi thăm thì anh đã về HN, nghe đâu đi học ở trường tổng hợp. Nghe họ nhắc tới 2 chữ HN, mà nàng muốn xa xẩm mặt mày. Nơi đó chắc phải xa xôi lắm, đông vui đô hội lắm, biết tìm anh ở đâu?. Nhưng vốn gan lỳ từ tấm bé, rồi nỗi sợ hãi nếu trở về làng và nhất là "tình yêu lớn" với người anh hùng đã vẫy gọi nàng quyết ra đi.
Khỏi phải nói những đắng cay trên con đường thiên lý ấy của nàng. Chỉ với những thông tin sơ sài như vậy, trong thời binh đao khói lửa, trường của anh lai sơ tán nhiều nơi và thường xuyên thay đổi, nàng làm sao tìm thấy được "ngọn lửa ấm", "trái tim yêu dấu" của lòng mình.
Cho tới 1 buổi chiều mưa gió, nàng tả tơi guc ngã bất tỉnh trên 1 con đường làng (nơi mà người ta bảo là địa điêm sơ tán cuối cùng của trường anh). Cái buổi chiều định mệnh đó đã cho nàng gặp được bà cụ tốt bụng. Thế là nàng trở thành người con nuôi hiền thục của bà.
Nhà nghèo lắm, chồng chết bà chỉ có 2 người con, 1 gả chồng xa, còn người con trai đang ở chiến trường...
Thời gian trôi đi thấm thoắt, 1975 con trai cụ về. Cảm thương số phận nàng, ở lâu nên tình nên nghĩa, 2 người lấy nhau và sinh ra được người con gái, xinh đẹp sắc sảo chẳng khác gì mẹ ngày xưa. Đó chính là Phượng...
* *
Vĩ thanh
Nhờ xinh đẹp và tài năng, lại có những người thầy giỏi dang tâm huyết, chẳng bao lâu Phượng trở thành 1 ngôi sao sáng trong làng giải trí.
Thế rồi cô yêu và kết hôn với 1 tiến sĩ nghiên cứu về Việt Nam học người Mỹ gốc Nhật.
Với tư cách là cha đỡ đầu, C và anh bạn đạo diễn thân thiết sang Mỹ dự đám cưới. Ông thông gia là 1 tài phiệt có tiếng nói ở Hôliut. Trong những lần chuyện trò thân tình nhà tài phiệt nọ mong muốn thực hiên 1 dự án về cuộc chiến tranh VN, và thiết tha mời 2 người tham dự...
Vậy là người hùng của chúng ta bước vào nền "điện ảnh lớn " như thế đấy!
HDT-K3 nói...
Cho tui mở ngoặc ở đây 1 chút.
...
- Gắn với ông bạn để vui, để dễ tưởng tượng chứ ko có ý gì khác xin tránh hiểu lầm.
- Thực ra nghĩ gì viết nấy, viết luôn nên tính thống nhất sẽ ko cao. Tất nhiên tính định hướng là có.
Đăng lại bài viết của HDT-K3 (đã đăng tại phần comment 18 của truyện ngắn Hai Đức Chúa Ôngtại Blog K3: 14:24 Ngày 28 tháng 5 năm 2010).
Về đầu trang "Chuyện hậu trường?!"
Trung thành với tựa đề Đèn vàng, nhà làm phim đã chuyển đến khán giả thông điệp: “Đèn vàng: Chuẩn bị dừng lại, đừng bước qua những ranh giới”. Cảnh tỉnh xã hội được xem là trách nhiệm chính của người làm báo. Nhìn chung, Đèn vàng xây dựng được hình ảnh báo giới dùng nghề nghiệp điều chỉnh xã hội. Qua các tập phim, khán giả bắt gặp nhiều điều thú vị từ các chi tiết. Hình ảnh đứa bé suy nghĩ rồi quyết liệt nói với ông bố nhà báo rằng cô bé không chấp nhận tha thứ cho những bậc làm cha mẹ bán con như chị Dậu là một chi tiết gợi nghĩ. Qua cuộc tranh luận giữa hai bố con về chị Dậu và những “công thức” giảng dạy văn học trong học đường, người xem ngẫm nghĩ về nền giáo dục và trách nhiệm làm bố mẹ. Con trẻ cần được giáo dục giá trị đạo đức và thị hiếu thẩm mỹ đúng đắn.
Điểm mạnh của phim là những vấn đề bức xúc của đời sống xã hội được “nhìn” với con mắt “người làm báo” trong phim: tiêu cực đất đai, thủ tục hành chính, giáo dục… Phim đã chạm được một mảng thực tế “tối” của đời sống và chuyển tải khát vọng cải tạo đời sống xã hội của người làm phim với mong ước đời sống sẽ giảm bớt những tiêu cực.
Lời thoại ở các tập đầu dài dòng và nặng lý luận. Có lúc, diễn viên nói với bạn diễn mà cứ như độc thoại. Trong phim chính luận, nhân vật có thể triết lý nhưng lạm dụng điều đó lại tạo cảm giác lê thê, giáo điều. Giá như ngôn ngữ của Đèn vàng gần với nghề báo trong thực tế đời sống thì sẽ dễ tạo được sự đồng cảm.
Xem Đèn vàng, có cái gì đó chưa được thực sự thỏa mãn. Đèn vàng mới chỉ là “đèn vàng” ngập ngừng, thiếu dứt khoát.
Nguồn: Internet - Vinh Nguyễn
Đọc Đèn vàng
HOA NƯỚC
Trần Chiến
Đoàn xe chở cựu chiến binh huyện Gia Kiên đổ quân xuống khách sạn Mường Thanh. Hai mươi ba chiến sĩ má hồng xếp hàng đôi, đúng đội hình hành quân tiến vào khoảnh sân đã chật kín xe. Má hồng là đận năm mươi năm trước thôi, chứ giờ thì đã xũng xịu, túi da chẩy xuống rồi. Anh huyện đội, quân phục dạ tá dù trời ngoài ba mươi độ, hối hả hò lễ tân xếp phòng cho các cụ. Ngủ nhà sàn, trải chiếu, tất nhiên có chăn màn để muỗi khỏi khiêng. Bốn cụ một gian khá chật chội, nhưng tiền huyện chi chỉ đủ vậy. Được cái hút thuốc lào thoả thích. Cô lễ tân bảo phải kê đủ tên người ngủ mỗi gian, dù là các cụ. Anh trưởng đoàn bèn xướng danh: “Bác Đỗ Văn Tơ, bác Trần Đình Chiểu, bác Nguyễn Quang Tỵ này... “Rồi ngoái cổ xuống dưới hàng gọi: “Ông “Chim sâu”! Ơi ông “Chim sâu...”
Từ hàng cuối, ông lão bé nhỏ cứ “hở hở” mãi mới tập tễnh bước lên. Quả đúng là “chim sâu” thật, nghĩa là một tay xách nặng. Đầu ông lão hút trong chiếc mũ lưỡi trai vàng choé, trông chỉ thấy bộ răng tranh nhau làm tổ trưởng. Chim sâu nhưng lại đột lốt đại bàng, vì bộ quân phục ông mặc quá oách, dài rộng đều quá khổ, quần ống cao ống thấp. Vẻ vội vã như của một anh chàng mới nhập ngũ làm ai cũng buồn cười.
- Cụ đi thay ông Bính Phùng ở Nỗ Xá phải không? Cháu chưa biết tên cụ đấy.
Trường đoàn hỏi sau khi đã “chấn chỉnh trang phục” cho Chim sâu.
- Tôi Đoàn Văn Vững
- Ôi giời ơi. Bố thế này mà “vững”. Bà lão vẫn chê bố loẻo khoẻo lắm kia mà.
- Loẻo khoẻo đâu. Thế có gì?
- Là bố vào ngủ với bố Tơ bố Chiểu. Không được ngủ với vợ đâu. Mà tối đánh răng cho con nhờ. Đái ỉa đừng ngồi xổ lên bệ ‘toa lét” đấy nhá.
Chim sâu luýnh quýnh xách túi bước lên ngôi nhà sàn rộng thênh thang, mỗi gian ngăn lại bằng vách gỗ lửng. Nhận chỗ xong thì đến phần tự giới thiệu. Ông Tơ hay nói chuyện cơ quan đoàn thể ở xã Hồng Nộn. Ông Chiểu ở Cái Bơn đọc nhiều báo, dọc đường toàn kể vụ án này nọ. Ông Tỵ ở Đông Lương con cái rất mực trưởng thành. Thì ra họ xếp bốn cựu chiến binh chống Pháp ở chung. Không phải vì oách đâu, chắc thế. Mà vì các cụ khó ngủ, đêm đi tiểu xoành xoạch. Thôi thế cũng tiện...
Vừa nằm xuống, ông Tỵ đã ngủ khì khì. Ông Chiểu ngó sang chỗ xông hơi mát xa bên kia sân khách sạn bảo báo Tiền Phong vừa đăng mấy kỳ về các “điểm dịch vụ” kiểu này, chắc hẳn bên ấy tối “dậy mùi mắm tôm chanh” ra gì. Ông Tơ giở miếng giò lụa vợ gói cho, chia cho mỗi người một khoanh. Họ đều có vẻ khoẻ cả, cứ như chỉ mình mình biết đau lưng. Chim sâu nghĩ.
Từ trẻ, ông Vững đã có tật hay nghĩ ngợi. Sao con chim lại hót? Sao con vịt đi đủng đỉnh giống bà chánh tổng? Ngọn gió lay cái cây, chúng nó nói gì với nhau nhỉ? Toàn chuyện tầm phào chả ai để ý, thành thử nói ra chả ai nghe. Có người nghe ông giải thích gió rủ cây ra bãi sông chơi cho mát đấy thì cười sắc sụa, lần sau hỏi ông “vẫn vớ vỉn vậy à?”. Mấy chục năm ông cứ nghĩ mãi về những vớ vỉn ấy, dốt chặt chúng trong lòng vì mỗi lần nói ra lại bị ỏng eo. Vậy nên phải có lúc mình nói cho mình nghe, không trao đổi hoạ có phát rồ. Nhưng cũng có lần, có chuyện không nói không được. Tỷ như cần lấy vợ, ông ỉ eo thế nào mà cô Phin xóm Tám đồng ý về ở cùng. Lại có chuyện nói lại hay không nói lại thì cũng ra một kết cục cả. Sau tết Quý Tỵ 1953, chính quyền kháng chiến xã chấm Đoàn Văn Vững đi bộ đội. Cô Phin đã lùm lùm, không muốn xa chồng. Phần ông thế nào cũng được, không thể trái lời xã cũng như vợ, nên chỉ mỗi câu: Tôi “ấy” cũng được”. Tất nhiên chính quyền quyết định hộ, Vững lên đường không biết dặn Phin câu “ở nhà gắng tăng gia sản xuất mạnh để tôi lên đường giành lại non sông’. Đoàn thể biết chuyện, người bảo ông không hăng hái, người bảo chẳng sao đâu, tại hắn cầm tinh củ khoai thôi. Tóm lại là củ mỉ cù mì thò đằng nào cũng không quyết được phận mình, nói ra lị bị phê bình, chọc ghẹo hay thế nào đấy, Vững nghĩ thế và tiếp tục sự nghiệp nghĩ ngợi. Tất nhiên ông biết cái điều nói ra hay không nói đằng nào cũng có phần hay dở riêng, và mình làm thì mình sẽ chịu khổ hay được hưởng, nên cứ thế lích chích một mình.
Ông Tơ đánh xong khoanh giò ngồi xấp bằng tròn ngó quanh. Phố xá vui gớm nhỉ. Nghe nói đã lên thành phố cấp hai ba gì đấy, vui hơn cái làng Hông Nọn mình nhiều. Ông Tỵ đã nhỏm dậy, vuốt cho phẳng bộ quân phục còn mùi hồ, nghiêng ngó kiếm điếu cày. Ông Chiểu đi về bảo ban ngày chỉ có mát xa chứ không xông hơi, báo Thanh niên vừa có bài về mát xa ở Pleiku kinh lắm. Lại nghe nói quan viên tỉnh này giàu có, san đồi làm trại, ủi ao nuôi cá, có người nhà mặt phố cho thuê, bỗng dưng được chục triệu mỗi tháng. Rồi các ông đều thấy tiếc là tuy đều cựu chiến binh cùng huyện nhưng mấy khi được họp hành giáp mặt, nhất là giờ kinh tế thị trường càng mỗi anh mỗi phận, nên có phần tự giới thiệu về mình. Đúng là toàn những tướng oách: ông Tơ suýt bắt sống tướng Đờ Cát, ông Tỵ bắn cao xạ rơi “bê vanh xít” ở cứ điểm Độc Lập. Ông Chiểu là cán bộ chính trị, đã đi giảng bài cho học sinh các trường học trong huyện,rất tư liệu, bảo ai lại nói lên “hàng chục” bao giờ, cùng lắm là một tá hay chỉ một chục thôi. Ông Tỵ chịu là phải, nhưng khoe sang thằng cháu học giỏi, lên tận tỉnh thi văn. Nói tóm lại là ai cũng công trạng đầy mình, về làng mũ áo chói lọi, tham gia chính quyền ba bốn khoá, già rồi mới chuyển sang mặt trận tổ quốc, giờ thì cựu chiến binh.
- Lúc tôi về ngành giao thông là quân hàm trung tá. Ông giám đốc sở mới bảo: “Biết xếp cho anh chân gì bây giờ...”
Ông Tơ chưa dứt lời, ông Tỵ đã kể sang đoạn chỉ đạo chiến sĩ bò ra thu cái hòm dù có tấm bản đồ chiến trường của địch “còn quý hơn vàng’. Trong khi đó, ông Chiểu cho sống lại cuộc duyệt binh năm năm lăm ở Hà Nội, đích thân tướng B. chọn ông cùng năm chiến sĩ Điện Biên khác dẫn đầu khối lục quân. “Ai cũng cao to đen, dân thủ đô nhìn lác xệch, phải đi chữa mắt rất nhiều”. Ông Tỵ thủng thẳng: “Không có cánh tớ thì các cậu bị nó quần cho nát đít rồi. Hồi đánh Nà Sản, bê vanh xít chả tương các bố vãi ra quần phải rút đấy à... Năm năm ba tớ ở Trung Quốc hành quân về bằng xe kéo pháo, lính diện mũ sắt, ca men Việt Trung Xô, giầy vải cao cổ, khăn mùi xoa trắng, các ông chẳng thèm giỏ dãi a...”
Những câu chuyện bển Mển, bản Kéo cứ dài mãi ra. Không khí lính tráng hơi hơi suồng sã đã thay thế thứ bậc tôn ti hàng ngày. Ai cũng say sưa “hát” khiến ông cựu trung tá tức quá không thèm nói chuyện nữa. Thấy ông Vững đang khiếp vía vì những chiến công của đồng đội, ông cho phép mình nói bằng cái giọng bông phèng, có chút chút bề trên:
- Thế còn Chim sâu, làm sao mà ông cứ im như cót thóc vậy?
- Tôi chả có gì...
- Có gì mà không kể được - ông Tơ cao giọng – chín năm kháng chiên bắt được thằng Tây mù, thành tích quá còn gì. Ông cứ khiếm tốn quá hoá tự kiêu. Hà haaa...
Cả phòng cười theo khiến Chim sâu bắt đầu bối rối, bèn phân bua: “Tôi nhập ngũ năm ba, làm sao tính được “chín năm kháng chiến”...
- Lại khiêm tốn nữa rồi. Có thật ông đi bảo vệ cụ Hồ hay làm toàn việc cơ mật mà không thể nói?
- Ông ấy quản một lũ lính gái đấy. Nhỏ nhắn mà oách ra phết. Tẩn được mấy cô rồi? Khai ra ngay.
- Tôi chỉ làm mỗi việc củi lửa - ông Vững lúng túng – cầm cái đùa cả nhỏ hơn mái chèo một tỵ, quấy quấy. Vậy thôi. bao giờ chín cơm nắm lại, gói thêm mắm kem trong lá, xếp vào thúng gánh cho anh em ăn.
- Nghĩa là bố làm anh nuôi chứ gì? Có thế mà lúng búng mãi. Anh nuôi tha hồ sờ tí chị nuội, còn bộ đội đói ngẳng cổ - Ông Chiểu mủm mỉm.
- Làm gì ra có chị nuôi. Đơn vị toàn đực. Có hôm... có hôm... Chim sâu ngập ngừng rồi phăng ra - Đận đi khỏi Pha Đin, ra cái suối gì ở Tuần Giáo, cả tiểu đội nhìn thấy đàn bà Thái tắm, trắng ơi là trắng... Rức cả mắt!
- Nói khoác Tướng ông hủ hoá được với vợ đã là giỏi. Cứ làm như đã biết thêm cái khác rồi...
Vững nói câu nào bị độp ngay câu ấy, biết mình không cãi lại nổi bèn ngồi em. “Im mồm” chứ còn làm gì được nữa. Các lão còn lắm mồm hơn con ngan già nhà mình... Ây à... tưởng mụ Phin coi mình không bằng cái đinh mục, ai ngờ báu đáo báu để, cái cuộc này...
❀
Chuyến đi với Chim sâu đúng là từ trên trời rơi xuống, dù lão là chiến sĩ Điện Biên đích thị, lại còn đi trước ngày mở màn chiến dịch đến chín tháng.
Quãng thời gian Đoàn Văn Vững làm phó thường dân, sau đó là phó trưởng gia đình dài quá, đến nỗi ở xã không ai nhớ đến thuở oai hùng nọ của lão. Thương binh chả phải, chỉ dính mảnh đạn lúc gánh cơm trong chiến hào đầy bùn và vác xác đồng đội. Vững chỉ được hưởng chế độ bệnh binh, không có xuất nước chè, bánh kẹo ngoài uỷ ban xã ngày 27 tháng 7. Mồm lão ngậm thóc, suốt ngày thủ thỉ với đàn vịt, đêm cọt kẹt lều vó, ai người chọn đi kể chuyện đó cho các thiếu nhi dịp thành lập Quân đội. Biết một thì cũng phải thêm dấm ớt cho thành mười mới kể được chứ. Nhất là tại mụ La Sát ở nhà, thấy ai đến hỏi han lịch sử chiến đấu lại quàng quạc: “Lão chăn vịt nhà tôi thì biết cái gì mà kể chuyện anh hùng”. Người ta quên tịt đoạn Vững đã ra ngồi trụ sở, đại diện cho thế lực một họ để công tác, quên béng cả việc đã đùn đẩy lão những trọng trách ra sao. Thành thử trong cuốn “Lịch sử Đảng bộ xã Nỗ Xá”, Đoàn Văn Vững không được kể tên, chỉ tính là một trong năm ba người kể cả bộ đội, dân công hoả tuyến và thanh niên xung phong đã thoát ly, đóng góp trong kháng chiến chống Pháp. Cuốn sử ấy tuyên huấn huyện về lấy tư liệu rồi soạn, nghĩa là “khách quan” lắm rồi, vậy mà còn có người kiện. Rằng nhiệm kỳ tôi làm sao không kể cái ấy cái nọ vào. Rằng hồi ông N. đương chức có mấy vụ thối hơn đũng quần đàn bà ngày “hành quân” sao tít tìn tịt lờ đi. Kiện là việc của người khác, Chim sâu có mồm đâu mà mở ra.
Dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên, sau khi những huyện uỷ, uỷ ban thanh niên, phụ nữ... hành hương về rồi, thì có phổ biến Nỗ Xá được góp ba người trong đoàn cựu chiến binh huyện lên đất xưa anh hùng. Ông Bính Phùng, một biểu tượng của truyền thống, vì từng suýt anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, dĩ nhiên là người đầu tiên. Ông thứ hai là một thiếu tá thời chống Mỹ. Anh xã đội trưởng lính thời chiến tranh biên giới là thứ ba. Ba người đã lên huyện đội lĩnh quần áo sĩ quan, mũ lưỡi trai, huy hiệu, cả giầy tất, tiền bồi dưỡng. Huân chương ai có gì đeo nấy. Ông Bính Phùng ngực nặng nhất, chói lọi cả đằng trước lẫn trên vai. Khiêm nhường như xã đội trưởng Toại cũng đại uý, cấp phó tiểu đoàn rồi. Hôm họp đoàn xong, xe huyện trả bộ ba về nhà oai phong quá, cả xã xôn xao đến mấy hôm.
Đùng cái ông Bính Phùng bảo không đi được. Thứ nhất đăng ký xin xỏ mãi mới xin được chân đại lý điện thoại, triển khai chậm một tuần bưu điện họ cắt mất. Thứ nhì, ông thiếu tướng trung đoàn trưởng cũ hẹn có chuyến đi riêng. Thứ ba, muốn dành vinh dự này cho người chưa được hưởng bao giờ. Và đề cử Đoàn Văn Vững đi thay. “Ông ấy cũng chiến sĩ Điện Biên, tuy không công trạng gì những cũng là có đóng góp”. Bộ tứ và các đoàn thể đều nghi hoặc, sau đó đi ‘xác minh” thấy đúng thì chuyển sang do dự. Bính Phùng bèn giở dỗi ra: “Người ta hiền lành, bao nhiêu năm không kể công, đi là đúng rồi. Không chọn thì tôi khêu chuyện các anh tư túi tiền công đức đình làng ra đấy. Nới lại chuyến đi miền Nam “học tập phương pháp làm ăn hiện đại, xây dựng nền sản xuất hàng hoá”, ông Kiền không phải anh vợ chủ tịch xã mà đi nổi à? Các ông có muốn nghe dân chửi không?”. Ông Bính cùn rồi, nên hương chức xã phải nghe.
Xã đội trưởng đến nhà lúc Chim sâu đang say thuốc lào, ngã bổ ngửa vào chiếc mong ngả mốc tương. Toại nâng lão dậy, phảy tàn đóm bám râu thưa, ghé tai hét: “Ông có tỉnh không đấy? Chuẩn bị lên Điện Biên! Đi với con. Xin phép bà lão đi!”. Nhìn cái va li con bóng loáng trong tay Toại, Chim sâu tỉnh hẳn, nhưng giọng còn hốt: “Tôi đi ... là thế nào/ Tôi “ấy” thế nào được”. Lại một chầu giải thích pha ra lệnh. Rằng ông là chiến sĩ Điện Biên chính thị rồi còn gì. Hay là khai man lý lịch? Rằng cựu chiến bình, dù là cựu chiến binh chống Pháp cũng phải nghe lời xã đội, nếu không sẽ bị khai trừ khỏi đoàn thể. Rằng đây là vinh dự lớn, hơn mấy con vịt nhiều, không đi tức là từ bỏ truyền thống đấy. Chim sâu không nhớ mình đã khai lý lịch bao giờ, khai những quái gì, càng ú ớ. Thực là lão muốn đi lắm, chả mất tiền lại được lên chốn xưa. Người ra thế là trọng vọng chứ lị, mình vinh sự chứ lị! Nhưng ý bà lão ra sao thì còn chưa được lĩnh. Đành đánh bài lưỡng lự.
Thì xã đội triệu ngay mụ La Sát đang chổng đít thổi lửa dưới bếp lên giao nhiệm vụ. Mụ đồng ý tắp lự. “Thế ra xã cũng có lúc nhớ đến lão điếc đấy!” Lại còn trách mát tới táo gan chứ. Mụ sang ngay ông Bính Phùng cảm ơn và hỏi rõ cách thức. “Thì cứ đi chứ còn cách thức gì nữa”, Bính Phùng bảo. “Người ta bảo lên xe thì đừng xuống, bảo chụp ảnh thì đừng nháy mắt. Nhưng đừng ăn nhiều thức lạ, giữa đường đòi đi ỉa đái, lái xe nó mắng cho. Thế thôi. Kể ra sắm sanh được cho ông ấy cái máy điếc, đỡ “hở hở’ thì tốt, không thôi cũng được...” Mụ La Sát lại cảm ơn, về gọi con cái tối họp gia đình.
Chim sâu đẻ ba con một bề, tức thị ba con vịt giời. Được cái chúng không bay đâu xa mà chỉ lấy chồng quanh quẩn trong xã, ngày nào cũng mò về cùng mẹ quàng quạc. Phải nói là cả nhà sướng ngay vụ bố được chấm đợt này. Anh rể là hiệu phó tiểu học trân trọng mở đầu:
Cần xác định đây là vinh dự lớn bố ạ. Vinh dự lắm. Tiếc là chúng con là rể, chứ không đã mở mặt nữa với cả làng rồi. Bố phải quán triệt hết ý nghĩa của sự kiện trọng đại này. Nhà mình có người tham gia vào chiến công vĩ đại nhất thế giới thứ ba... Chà chà...Lớn lắm! Chậc...
Anh rể thứ chủ lò gạch không nói nhiều, biếu bố hai trăm nghìn uống nước khiến cô vợ sướng quá rưng rưng nước mắt. Anh rể út tháo chiếc nhẫn,, rằng con chả có gì, bố nhỡ độ đường thì tiêu, không lại đem về. Con cái người thì lọ dầu, ngưởi củ sâm, dặn dò những là ăn uống điều độ, nói (dối) với người phụ trách mình say xe để ngồi ghế trên, qua những dốc đèo đừng nhìn xuống kẻo chóng mặt. Có điều ai cũng nhất trí bố phải tắm thật kỹ cho hết mùi vịt, chúng con sẽ mua xà phòng. Cả thuốc đánh răng, bàn chải. A mà nhớ cắt móng chân đừng để những “củ cải” đen đủi quá. Mấy con vịt bố không phải lo, các cháu cắt nhau ra trông không suy xuyển đâu mà sợ. Riêng mụ La Sát ít nói lắm.
Tối ấy Chim sâu vẫn ra lều vịt, bảo thế quen rồi. Bà lão ở nhà trằn trọc, sáng ra dậy rất sớm, nhỏ cả sào xu hào con tươi nõn tươi nàng đem đi chợ huyện. Tất cả các khoản được triệu hai, cho vào tủi vải đeo trong áo kẻo kẻ cắp rạch mất.
Dặn đi dặn lại những câu cũ rích. Thế mà hôm xuất quân lên huyện, mụ không ra xã tiễn, sợ lại khóc như vợ chồng trẻ người dưng họ cười cho.
Sáng sớm, xe ôm sẵn sàng chở ba đại biểu lên huyện nhập đoàn. Đảng uỷ, uỷ ban cũng ra theo chúc mừng, căn dặn các vị. Đột nhiên có người phát hiện Chim sâu không đeo quân hàm. Lão bảo về năm năm lăm mới có chiến sĩ, mà năm năm tám mới phong quân hàm,đeo thế nào được cái trung uý xã đội đưa. Xã đội giải thích lão còn ở quân đội đến giờ hẳn phải lên cấp tướng rồi, đeo trung uý là còn khiêm tốn lắm. Vậy là đoàn xe ôm rầm rầm qua nhà Chim sâu. Chạy vào lấy cái một vạch hai sao vàng choé, lão thấy mụ La Sát đang khóc thin thít.
Diện bộ vào oách hẳn lên. Nào có ai nhận ra lão chăn vịt. Lại thơm mùi dầu gội đầu trị gàu “Xăn xiu”. Những cái gì cũng quá khổ. Quần không xắn hai gấu lau hết mặt đường. đôi giầy như hai chiếc tàu thuỷ vượt đại dương, Chim sâu còn chưa biết mình còn phải khổ với chúng đến thế nào...
❀
Rời khỏi đồng bằng, đường đổi hướng liên tục vì đèo dốc. Tấy Bắc chập chùng, những bài hát cũng chập chùng như con đường. Ký ức cũng vậy, tóm được hết sức khó khăn, nhưng đấy lại là cả một thời trai, cứ mỗi lúc mỗi trỗi dâyh trong mái đầu già nua. Sao mà quen quen, sao mà khong như xưa? Chim sâu thở hổn hển, lầu bầu mỗi lần “bắt” được một hình ảnh cũ.
“Có mà mát khối ra đấy. Sạt đường, hỏng ăn, nhịn đói là cái chắc.”
Lão nói vậy, một mình, lúc có ai bảo nóng quá, giá mưa cho thì tốt. Khi một người kêu: “Núi đâu lắm thế...”, lão đốp lại: “Chuyện, ngày ấy đi bộ cả tháng, tịt mấy lứa đẻ ấy chứ. Thế mà đám dân công vẫn “quai” nhau chỗ dốc Mạ...” Dù chỉ là “nói” hay “đốp lại” hẳn hoi cũng chả ai nghe thấy, vì lão có ra lời đâu. Cùng lắm lf lí nhí, nên chả lần nào Chim sâu bị ai cười mũi hay làm hề hấn gì.
Thế mà khi tấm bảng ven đường vụt hiện lên rõ mấy chữ “ Cầu Suối Tấc”, Chim sâu “ối” lên rất to khiến xung quanh tưởng lão đụng đầu vào trần xe. Chim sâu quay đi quay lại ra điều hối lỗi đã làm đứt tiếng ngáy của đồng đội rồi co ro, người dúm lại vì kỷ niệm xưa.
Suối Tấc ngày ấy rậm rạp chứ đâu có phơi mình ra quang quẻ như bây giờ. Dù bị bom chùm, bom phá, bươm bướm, khai quang thả tơi bời, rừng vẫn ngun ngút, phải ngẩng lên mới thấy được trời xanh. Chàng thanh niên mười tám tuổi Đoàn Văn Vững gánh rau ra suối Tấc rửa. Xong xuôi, cậu em út của tổ anh nuôi chưa muốn về, ngồi ngắm nghía lũ sỏi đen trắng bóng líu dưới chân. Thoáng một cái, cái chấm xanh biếc vùng qua. Con chim bói cá chuyền dọc suối dẫn Vững tới một vầng trắng loá mắt. Năm cô gái Thái đi nương về ào xuống tắm líu ta líu tíu như bầy chim. Những áo cóm cúc bướm, váy thêu, khăn piêu phơi ríu ran trên tảng đá to.
Chưa hay cái lẽ nếp trẻ trên đời, chẳng biết ngượng ngập, Vững bước hẳn lên tảng đá, ngây ra. Đám tiên nữ mới đầu ré lên, trầm mình xuống nước. Rồi tĩnh trí, bạo dạn trở lại, có lẽ vì cái nhìn của chàng trại quá trong trẻo. Chúng mình là hoa để họ ngắm chứ. Ngắm cơ mà.
Bộ đội có tắm với các chị không?
Một cô có búi tóc nặng trên đầu, chừng ba mươi bập bẹ, rồi nhỏm hẳn người dậy té nước vào Vững. Cậu em miền xuôi xinh xắn như con chim nhập bầy nhập nhoạng bước xuống suối. Xung quanh cậu đàn bướm vàng bay lượn ríu ran. Những nhũ hoa lúc đen, lúc hồng. Những tóc mây mượt mềm còn hơn nước, còn nước thì óng ánh đủ bảy mầu cầu vồng. Chẳng ai nói sõi tiếng Kinh, nhưng thế là đủ lắm rồi. Vững bị té nước cho đến lúc ngã ngồi xuống suối, mãi mới dậy nổi, chạy chí chết qua bãi đá không thấy gai cào, không hay rêu trơn trượt sấp mặt.
Và tối đến, bị kỷ luật vì để trôi suối nửa gánh râu, cũng chả buồn tiếc. Cài vùng thịt da trắng sáng đẹp đẽ, thơm lành quá, trong giấc ngủ cậu còn mỉm cười. Như là mẹ, là chị, lại như là hoa của đất trời, những núm vú với những nụ ấy, ám ảnh Vững không thôi.
Mãi sau này, khi đã tỏ lẽ đực cái, sự sinh nở bất diệt của đời, Vững vẫn không thể quên sự khám phá, cái cảm giác tinh khôi ấy. Mỗi lần oà mặt vào ngực vợ, hoa nước suối Tấc lại hiện ra khiến lão mủm muỉm cười, ngay cả khi đã móm mém.
❀
Thung lũng sáng ra đã nóng. Nắng non bò qua cửa sổ nhà sàn ngoáy vào mũi, nửa “tiểu đội” hắt hơi liên tục. Chim sâu nhớ đến mặt nước ao bèo, không biết cu Hiền có dong nổi đàn vịt... Lão mệnh mộc, hợp với nước, nên hơi tí đã nhớ nước. Gỗ cứ lềnh phềnh chứ bao giờ mà chìm được. Ngày nọ ông thầy xem bảo: “Văn nhân nhìn xuống, hào kiệt nhìn lên”, lão như văn nhân, phần âm rất mạnh, cả đời như người đàn bà rặt sinh con đẻ cái, chăm chỉ những cái vặt vãnh. Vặt vãnh nhưng làm nền cho những anh hùng dương tráng trí bay lên lo việc lớn, tỉ như đánh giặc, trở nên biểu tượng đất nước. Mệnh ấy có đi bộ đội, làm đến tổ trưởng anh nuôi là hết.
Phụ trách tuyên huấn hội cựu chiến binh huyện là một trung tá, cán bộ chính trị về hưu. Trong đoàn hành hương, Khắc Liên thực chất là người lãnh đạo, anh huyện đội lứa sau chỉ điều hành, thực hiện theo ý ông. Trạc tuổi chiến sĩ Điện Biên cả, mà trông ông vững vàng, giọng nói có uy lực khiến cánh “ba linh thôn” sớm nhất loạt gọi “thủ trưởng”. Khắc Liên tập họp đoàn phổ biến sáng thăm hầm Đờ Cát và đồi A1, nghĩa trang liệt sĩ, chiều nắng đi bảo tàng. Chương trình giao lưu tối có đại biểu huyện hội phụ nữ Tuần Giáo, các đồng chí chuẩn bị hát hò, đọc thơ, kể chuyện xứng với truyền thống quân dân cá nước. Chim sâu nghĩ giá là hội phụ nữ suối Tấc thì hơn. Biết đâu...
Hầm Đờ Cát thì Chim sâu đã biết quá rõ. Hết chiến dịch lão bị ôm không về Hà Nội duyệt binh mà ở lại thu dọn lòng chảo. Lão bé như kẹo, giá về cấp trên chắc không biết xếp vào hàng nào. Nghĩ lại mà kinh. Mìn, bom nổ chậm khắp nơi, lơ mơ là tan xác. Có anh bom đạn không sao, giờ chết mới vô lý. Được cái đồ hộp chén thoải mái, thấy mình thật chúa sau ba tháng giời cơm nắm mắm kem. Lão giấu trong đáy ba lô tấm dù trắng đêm về tặng vợ, dặn đừng phô với ai. Hồi kỷ niệm 40 năm chiến dịch, chẳng biết ai lộ, bảo tàng tỉnh về xin đem trưng bầy. Hú vía. Họ không phê bình lão tham ô chiến lợi phẩm, lại còn cảm ơn. Nhìn căn hầm thép sừng sững Chim sâu phục quân ta quá, thằng Tây lông lá to lớn thế mà dám xông vào “hô lê manh”.
Bước đến chân đồi A1 là Chim sâu sụt sịt. Đại đội lão mỗi đêm rơi vài mạng, có tiểu đội về mỗi một anh. Những cậu Thanh Hoá, những đứa Nghệ An, Thái Bình, ai cũng lừng lững đẹp đẽ. Nhớ nhất là đại đội trưởng Vang Lừng râu quai nón nói được tiếng Tây, đã biểu dương đồng chí Đoàn Văn Vững tuy đái ra quần nhưng vẫn mang được cơm lên cho tổ bắn tỉa. Chiến hào đầy bùn với máu. Vững đang lò dò thì moóc chê câu đến, gánh cơm văng tung toé. Đếm thấy chân tay mình mẩy còn đủ cả, Vững nhặt cơm dồn lại. Anh em bắn tỉa cạo bùn bên ngoài, chỗ cơm ăn được chỉ bẳng quả trứng. Ăn thế mà nhắm trúng Tây mới kinh. So với lính chiến đấu, vững thấy mình chỉ là con kiến bé nhỏ. Vậy mà cũng được biểu dương. Ngày chiến thắng, cả thung lũng dậy tiếng reo, quân ta ôm nhau bảo: “Sống rồi”. Vang Lừng bỏ giày đi chân không, dẫm phải mẩu thép gai rỉ. Nhìn đại đội trưởng lên cơn sài rung cả giường, quai hàm trẹo đo, cả đại đội khóc. Tất nhiên là chỉ còn bốn chục mống khóc được, những đứa khác thì còn biết cái quái gì nữa. Mà cái giống chết mới lạ, không sống lại được, không ai thay được là sao?
Sau Vững đem ảnh đại đội trưởng về thờ, Vang Lừng hơn lão chín tuổi, chưa lấy vợ.
Đang sụt sùi thì có người dúi vào tay miếng giấy ăn, bảo lau mặt đi rồi ra trả lời phỏng vấn. Hai phóng viên Pháp gặp đoàn cựu chiến binh mừng quýnh, hỏi có ai trực tiếp đánh đây ngày xưa không. Đoàn có mỗi lão dự A1, còn ông Tỵ, ông Tơ, ông Chiểu “chơi” những Him Lam, Bản Kéo, Độc Lập, không phát biểu được. Chim sâu lập tức dúm lại. Biết gì mà trả lời. Nhưng Khắc Liên giao đây là nhiệm vụ tuyên truyền, phải cho cả thế giới biết chiến công của chúng ta vĩ đại thế nào, nhắc nhở thế hệ trẻ đừng quên truyền thống. Hai người Pháp ân cần bảo Chim sâu cứ điềm tĩnh, có gì kể nấy. Lão đứng nhìn lên chỉ thấy lỗ mũi rậm rịt lông xoăn, hệt đám tù binh thuở nào.
- Tôi chỉ nấu cơm đưa lên cho anh em, xong lại về nấu cơm tiếp.
Chim sâu lầu bầi, nghĩ bụng hai người một nam một nữ cùng sàng đây công tác, thể nào mà chả đực cái với nhau. Chuyện mình làm có gì oai mà phải kể. Nhưng họ lại hỏi cặn kẽ cơm nấu ở đâu, làm sao để giấu khói, gánh cơm trong hào ra sao. Những chuyện ấy dễ quá. Chim sâu tuôn rào rào, lời dịch lại được ghi lia lịa.
- Bây giờ thăm lại chiến trường xưa, ông có cảm tưởng gì?
Câu hỏi làm Chim sâu nhớ đến đại đội trưởng Vang Lừng, cậu Mui trung liên, anh Toàn tổ trưởng tổ nuôi quân. Lão ở cách trận địa hai cây số, làm luôn công tác tử sĩ, cứ đem phên cuốn xác đặt xuống đất, vạt gốc cây khắc chữ sơ sài đánh dấu. Rồi đơn vị khác, người khác lên sau thu dọn hài cốt, chẳng biết có gom được hết, gom được liệu còn miếng gỗ ngày nọ... Chắc rồi gia đình họ phải thờ chung cả... Mà ai cũng trẻ mới thương chứ. Nỗi lòng làm Chim sâu không thể trả lời. Khắc Liên hết khuyên nhủ đến nhắc nhở không xong, đành bảo lão lau nước mắt nước mũi đi, nhoè nhoẹt thế kia bọn mũi lõ chụp ảnh rồi đem phản tuyên truyền khắp thế giới xấu hổ quân đội ta, đất nước ta lắm.
- Ông ấy vậy thôi, mà bắt được lính nhẩy dù xuống giao thông hào bằng đòn gánh gánh cơm. Là vì đang thương nhớ đồng đội nên mới khóc. Trong số chúng tôi, những người bắt được tù bình thu súng hoặc gọi hàng lính Tây nhiều lắm, tính không xuể.
- Ông giải ngũ năm 1955 à? Theo chỗ tôi biết, quân đội Việt Nam năm 1958 mới phong quân hàm cơ mà...
Chim sâu cứng người vì bị vặn. May sao Khắc Liên đỡ lời: Khi giải ngũ ông ấy là đại đội phó, tương đương trung uý. Đoàn cựu chiến binh chúng tôi ai chưa có quân hàm cứ phiên chức vụ tương đương khi giải ngũ mà đeo. Nếu đúng tuổi mới về hưu, bây giờ đeo đại tá cũng là vừa.
Nhân lúc Khắc Liên và hai nhà báo bận đối đáp, Chim sâu linh ra chỗ cái hố to tổ bố, dấu vết quả bộc phá nghìn cân thuở nào. Đầu lão ong ong, vừa xấu hổ, ấm ức với mình, vừa trách tổ chức đẩy mình ra. Lão là bậc phó chiến sĩ, về nhà là phó thường dân, khi lấy vợ là phó chủ gia đình. Ăn không nên đọi, nói năng ấp úng. Cái gì cũng ây ấy vầy vậy, thế thôi. Có gì mà phát ngôn phát biểu được. Cả đời lão nói về mình còn chả nên lời, cơn cớ gì mà nói hộ người khác được.
Gớm quá. Chim sâu miên man trong ấm ức, đến lúc có người nắm tay kéo giật lại: “Cụ ơi, không nhảy qua giao thông hào được đâu. Chân cẳng chấm phẩy vậy mà đòi nhẩy như ngày xưa, chúng cháu không khiêng cụ về với cụ bà được...”
❀
Cuộc giao lưu ở sân khách sạn Mường Thanh đã không diễn ra được như trong chương trình của ban tổ chức. Không phải đổ bể vì có mưa hay ai đó bị nạn, mà mặc nhiên, tất cả những nhân vật chính đã đẩy nó sớm lên một tiếng. “Kịch bản” thì bị sửa hoàn toàn. Duyên do, như sau này một người trong ban lãnh đạo đoàn Gia Kiên “phối đúc kết” lại, tất cả là ở rượu và đàn bà.
Bữa tối là tiệc lớn, có mời hội cựu chiến binh sở tại. Hai đồng đội xưa tìm được nhau khóc rưng rức, cười móm mém. Vài ông Hải Dương định cư Điện Biên được phong bánh cáy cũng sụt sùi. Những ông cao xạ, những ông pháo mặt đất, ông ôm bộc phá công kiên, ông chỉ lẳng lặng xe thồ tranh nhau nói. Hai mươi hai đại biểu phụ nữ Tuần Giáo trẻ trung, sồn sồn hy móm mém đều có cả. Trong số đó lại mười lăm người áo cóm cúc bạc rực rỡ, váy nhung the dập dờn, tằng cẩu hay chưa tằng cẩu đều uống rượu như uống nước lã. Đã quen công tác giao lưu lắm họ nên mỗi mâm chúc rượu ép đủ mỗi ông hai chén Sông Mã cay ngụt mũi. Riêng các cụ, tức cánh Điện Biên xưa, phải thêm một, “không thì chị em chúng em đứng đợi mỏi chân lắm rồi”. Đi đủ mười hai mâm, mỗi cô ít nhất hai chục chén cứ như không. Mà mắt cứ long lanh, mà cứ hồng lên, áo cóm lại phập phồng mới tệ.
“Dzô!”
Cánh chống Mỹ học mốt uống mới, nhất loạt hô khi cạn chén. Cánh đánh nhau ở biên giới phía Bắc còn trẻ, “sành điệu” hơn, vòng chéo tay uống với chị em bên hội, nhất là cô xinh xắn làm tài chính huyện. Và hô “Ra!”. Các cụ chống Pháp biết thân chèn bụng dạ bằng cơm và thật nhiều nước canh béo ngậy. Vậy mà vãn ngây ngây, đang vòng tay chúc tụng mà tiền liệt tuyến nổi chứng, quần như sắp ướt đến nơi.
Và hát ngay. Đọc thơ tại trận. Đợi theo chương trình thì rượu hả mất. Phí phạm. Sáu chục cái miệng đồng thanh “Hò kéo pháo” với “Giải phóng Điện Biên” mãi lại vòng vèo về “Em bé Mường La” và “Đồn Him Lam ta xuất kích”. Một trăm hai mươi bàn tay vỗ đỏ lừ. Hát mãi mà chiêng trống mà nhạc điện tử chưa đến phục vụ họ.
Đang vật nhau với năm chén rượu nhảy múa trong người, Chim sâu thấy mình bị đẩy ra giữa hội. Khắc Liên cầm tay ông giơ cao, mặt mũi tưng bừng: “Các đồng chí xem đây. Ông Chim sâu bé nhỏ này đã nấu cơm tiếp đạn tận đồi A1, góp phần nhổ cứ điểm rắn nhất trong chiến dịch. Thế mà đồng chí ấy rất khiêm tốn, sáng nay trả lời phóng viên ngoại quốc là chẳng làm gì cả. Một biểu tượng anh hùng của người Việt Nam ta đấy. Thật đáng tự hào!”
- Thật tình... thật tình là tôi... – Chim sâu lắp bắp.
- Thế mới vĩ đại! Đồng chí phải hát mới được!
- Thủ trưởng ơi tôi say lắm rồi. Con mụ La Sát ở nhà mà biết...
- Ở đây ai cũng say cả. Vứt mẹ nó mấy con mẹ La Sát đi! - Khắc Liên ghé tai Chim sâu - đây là kỷ luật dân vận đấy bố ạ. Đang giao lưu với địa phương, không hát đồng chí sẽ bị kỷ luật.
Lòng dũng cảm ở đâu bò ra làm Chim sâu, sau một hồi ngậm hạt thì, nổi máu phê phán anh em đã hát sai bài “Giải phóng Điện Biên’. “Chỗ ấy đáng ra phải là “một đồng chí đứng lên nói rằng một tay tôi cầm súng, tay này bóp... thằng Tây mới phải”. Lão chợt câm bặt khi thấy Khắc Liên nhăn mặt. Xung quanh là sự im lặng khủng khiếp. Rồi trận bão cười phá ra. Chim sâu bị nhấc bổng ên. Những cái hôn làm nhoè nhoẹt mặt lão.
- Hát thế mới là hát chứ!
- Hoan hô bố già. Thế mà cứ bảo ít mồm.
- Tôi đề nghị giao lưu ngay thôi. Đang sướng. Sướng thế này chết cũng được. Để tý ra ngoài kia rượu nó nhạt mất.
“Đề xuất” của một chiến sĩ “ba linh thôn” được hưởng ứng nhiệt liệt. Ban tổ chức nhăn nhó chiều lòng “quần chúng manh động”. Đây là một khuyết điểm sau này phải ghi vào nghị sự tổng kết chuyến đi. Nhưng bây giờ nó làm cho ai nấy phát rồ.
Mấy cô Tuần Giáo nghe giải thích câu hát của Chim sâu, người thì cười rũ ra, chẩy cả nước mắt, người cứ ngổi tủm tỉm, mặt đỏ như có ai phát.
Thế là bài “Chiến thắng Điện Biên” của Đỗ Nhuận được vặn vẹo thành đủ kiểu, những câu người ta hát khi cận kề cái chết. Lính chống Mỹ hát “lắc la lắc lư đoàn quân ra Bắc, đồng bào thắc sao các anh trở về – Sốt rét chúng ông mới về, ốm gần chết chúng ông mới về...” Người trở lại Điện Biên sau chiến thắng chả kém: “Muốn kin mắn co (ăn sắn) thì lên Tây Bắc, đồng bào thắc mắc thì ra Sìn Hồ’. Rồi là ghế bàn dẹp lại. Chai rượu lăn ra đến mép bàn được một cựu dũng sĩ diệt Mỹ cứu nguy, “Phan Đình Giót” tiếp. Đội văn nghệ đến kịp thời. Cái khoảng sàn bé tí giữa nhà ăn thành nơi múa sạp. Những cặp chân già lão, những váy Thái duyên dáng dập đồn theo nhịp gậy tre lên xuống. “Sòn sòn sòn đô sòn”, người ta tranh nhau vào “xới”, vòng đi vòng lại không biết chán.
Chim sâu ngồi cù rù, mắt long lanh sướng mà bụng e ngại, nghĩ đến gương mặt nhăn nhoe của Khắc Liên. Bụng dưới lão căng phồng vì nước tiểu. Mặc lòng, lão say quá rồi. Cơn mưa hoa nước suối Tấc lại hiện về.
❀
Lão chẳng phải đợi lâu. Cuộc vui cạn độ mươi phút, Khắc Kiên bước vào nhà sàn với vẻ mặt hết sức bất bình. Nhưng giọng nói không đến nỗi nóng nẩy quá, dù sao phòng toàn chiến sĩ Điện Biên thứ thiệt:
- Đoàn thấy không hài lòng về buổi giao lưu tối nay. Thứ nhất, bác Vững hát rất... gì. Có mặt phụ nữ, hội cựu chiến binh bạn, chúng ta rất nhiều phương diện, không phải sướng gì cũng bạ ra. Ai lại hát tục tĩu thế bao giờ. May là ông không huỵch toẹt ra là “tay này bóp cu thằng Tây” đấy.
- Nhưng hồi ấy tiểu đội tôi hát thế thật – Chim sâu lí nhí.
- Đồng chí vẫn còn chưa nhận ra khuyết điểm a? Quân đối với dân thế còn không đáng xấu hổ? Thứ nhì, tôi thật sự thất vọng về các bac – Giọng Khắc Liên dồn nén hết sức – Ai lại già lão thế mà nghịch quá trẻ con. Không làm gương cho anh em đi sau còn gì thể thống chiến sĩ Điện Bên nữa. Chương trình giao lưu tính làm ngoài sân rộng rãi, trang trọng, có diễn văn, thì xảy ra ngya tại nhà ăn. Các bác có thấy cánh truyền hình lắc đầu không thể quay nổi vì bát đĩa rếch rác, rượu chè lổng chổng không? Hiệu quả tuyên truyền thế là hỏng hết. Các anh ở tỉnh sẽ nghĩ gì về ta? Thứ ba là...
Khắc Liên dừng lời, phần vì nản quá, phần sợ các cụ “ba linh thôn” bị phê nặng lại dỗi, hỏng hết các chương trình sau này. Mà các cụ đã có vẻ biết sợ. Ông Vững đã khóc rồi kìa...
❀
“Uầy ùùù”. “Uầy ùùù”.
Đang đêm Chim sâu tỉnh dậy vì chuỗi âm thanh vừa quen vừa lạ, nó làm bạn với lão từ vài chục năm nay. Khi réo rắt vẫy gọi, nó thúc đẩy lão làm những chuyện mà đận bình thường lão không bao giờ dám nghĩ đến. Tỉ như cãi lại vợ hoặc trái lời ai đó. Tỉ như đái xuống cửa cống thuỷ lợi đầu thôn. Nhưng thường khi “Uầy ù” mang tới nỗi sợ bí ẩn, càng chẳng có căn nguyên nào càng đáng sợ, càng giải thích càng tịt ngòi. Giả như nó bắt lão im mồm không cho nói ra ý mình trước đám đông, cụp mắt lại khi thấy đàn bà xắn quần cao quá. Lúc nào cũng lo bị vặn, bị mắng. Tệ hơn là bị giễu. Rất đau. Nên Chim sâu hay thủ thỉ cùng mấy con mụ vịt bầu vậy. Nhìn lão cầm sào đi theo lũ vịt thấy thơ thới lắm. Đằng trước lạch bạch, cạc cạc như bà mệnh phụ, đằng sau rì rầm, ầm ậm như kẻ hầu người hạ. “Chủ tớ” hợp nhau mớu lạ, đến nỗi không bao giờ “tớ” dám xơi món tiết canh chúa sừng chui ra từ cổ “chủ”.
“Uầy ùùù”....
Nằm giữa tiếng kéo bễ, Chim sâu giận mình, giận “người ấy”, tức thủ trưởng. Sao ta không cãi nổi một câu là mình hát đúng như tiểu đội hát ngày nào, không hề có chuyện xuyên tạc bịa đặt?... Đúng là chúng nó đã hát “một tay tôi cầm súng, tay này bóp tay thằng Tây”. Mà giời đất ạ, mình cũng ngu thật. Gần dặm chục năm qua hát vậy, thấy nó vô lý mà không suy nổi là lính ta “đặt đểu”, càng vô lý lại càng nghĩ mới ấm ớ chứ. Lính không đùa thì sao làm lính mà vượt qua được chết chóc gian khổ được. Cũng như ông Ba Càng chú mình đi làm cán bộ vài năm về nhà toàn nói “triển khai bón phân”, “cơ cấu sáu cụ một mâm” vợ con chạy hết. Còn thằng Sum chạy công nông không nói được câu nào nghiêm chỉnh, thì sao đến lắm người thích nghe. Tóm lại là quna hay lính, đại tá hay phó thường dân đều mỗi người một giọng, chỉ mình ta không “hát” được. Không nên lời được thì đành phận là phải. Không biết lúc tối ta say, ta có cãi lại thủ trưởng câu nào bố láo? Huân chương đầy ngực như thế, chắc ông ấy nói câu nào phải đúng câu ấy...
Mà chả biết mấy tay cùng phòng quán triệt ý Khắc Liên ra sao? Điều này thì Chim sâu có lay tất cả mọi người dậy để hỏi thì cũng chả ai trả lời nổi. Lúc đó Khắc Kiên nổi nóng thế mà ai nấy căng da bụng chùng da mắt tuốt lượt luôn, không kịp bàn thảo gì đã ngáy o o quên hút thuốc lào. Vậy nên nửa đêm thức dậy, những mối lo chẳng cơn cớ quái gì mới bò đến, dù lão toàn lo bò trắng răng.
Năm 1955, Đoàn Văn Vững, tổ trưởng tổ nuôi quân của đại đội 12, thuộc trung đoàn X, sư đoàn bộ binh Y về phục viên. Một cuộc sống mới bắt đầu, cấy cày củ mỉ như không có cái đoạn binh lửa vừa rồi. Chỉ thêm ba sào ruộng được chia từ tay địa chủ, có vợ, cô gái gầy yếu tựa gió thổi bay. Và mất mẹ, người luôn lo cho thằng con lành như đất. Dù sao chiến tranh cũng để lại di chứng trên người Vững: bàn chan phải dính mảnh đạn thành tật, những con sốt rét nẩy người, và chút húng hắng ho vì phải hơi bom. Vững đẻ một mạch ba con vịt giời, khuôn đất đốt gạch xây nhà, cho đến lúc ông trưởng họ gọi đến giao nhiệm vụ: “Việc gia đình thế là đủ. Chú phải tham chính thôi. Họ Chụ, họ Nguyễn nó mình mẩy ghê quá”. Vững chối đây đẩy, viện trình độ kém, sức chưa lại, nói năng đâu biết gì. “Cả họ bây giờ trông vào mình chú. Người ta chỉ biết chú đã đi bộ đội tức là đã được sinh hoạt có tổ chức, ai biết mình nấu cơm. Tôi không ra được vì hồi cải cách đấu hăng quá, bây giờ sửa sai thành có khuyết điểm. A à chú còn khoẻ hơn tôi chứ lị” ông trưởng khẳng định, về hò cả họ dồn phiếu cho Vững. Anh trúng chân nông hội vận động thành lập tổ đổi công, tiến lên hợp tác hoá, làm nghĩa vụ thuế xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam. Thằng lười mượn có ốm, Vững đi đắp đê thay nó. Có đứa phá bờ tháo nước trộm, anh lặng lẳng đắp lại. Củ khoai đặc không đúng chỗ chẳng phát huy được thế mạnh họ trông chờ, rút cục anh về ngồi chân văn phòng uỷ ban xã, thực chất là thằng để người họ khác nó sai vặt. Ai đời làm văn phòng mà không định đoạt được gì. Công văn chỉ thị về thì đem đến trình chủ tịch họ Nguyễn, bí thư họ Chu xin ý kiến, chạy đi triển khai mệnh lệnh của “chúng nó”. Ngồi họp giữa các luồng ý kiến khác nhau, Vững không “ừ” thì gật, bị dồn quá thời nấp vào cơn buồn ngủ. Rút cục thì ở cuối nhiệm kỳ, anh chỉ đắc dụng ở chân chẻ đóm đun nước. Văn phòng uỷ ban lúc nào cũng tinh tươm, nước sôi đầy phích, ấm chén bóng líu. Những thanh đóm Vững chẻ từ tre ngâm mỏng tang, hút ngon lành đến độ chủ tịch huyện xin về một nắm. Ngoài ra là vô tích sự hoàn toàn, lại còn phải lo ngay ngáy đón ý ông này, ông nọ, chỉ sợ những ông ý không bằng lòng.
Trước ngày bầu cử chính quyền đợt kế tiếp, Vững đến nhà trưởng họ nhăn nhó: “Bác cho em nghỉ không ứng cử nữa. Văn dốt võ dát không múa được. Với lại ra uỷ ban suốt ngày việc nhà hỏng cả...”
Ơ, chú làm họ không được nhờ. Cũng may là còn không đến nỗi gửi trứng cho ác...
Trưởng họ còn chưa nghĩ được nên đề đạt ai thuộc “đằng mình” ra ứng cử thì Vững đã ù té quyền về nhà báo tin “phục viên” cho vợ. Phin lúc này đã xôe ra như cái cót thóc chứ không còn giống cây tre cho gió nó đu nữa, cắt luôn cho chồng chân chăn vịt. “Nhà cứ lo đằng ngoài lều, để lũ vịt ở nhà với các việc khác cho em”. Nói thế chứ Vững trôn sao nổi những việc nặng: cày bừa, đắp đê, đi “hai linh hai”... Thôi uỷ ban thì phải vậy, còn hơn lúc nào cũng lo không phải đầu thì phải tai. Làm chỗ chính quyền trách nhiệm nặng nề phải thông tỏ mọi nhẽ, không thì sao quả tạ r[i xuống đầu chẳng tránh được, dù chỉ là chân chẻ đóm đun nước.
Cuộc đời đến là lạ, cứ như cái sàng, lắc một hồi là gạo ra gạo, trấu ra trấu, hột to hột nhỏ đằng nào đi đằng ấy. Đã không còn “tham chính” mà Vững còn phải tiếp tục chịu những “thử thách’, lần này từ vợ. Phin có bà bác nằm liệt giường đã chín năm, ụ ị như bao bột. Con cái chăm sóc hiếu đễ đủ đường, mà cũng mệt mỏi. Ngày cụ đi, Phin bảo chồng mang nải chuối sang thắp hương. Đám tang rất ít nước mắt, các thủ tục chỉ làm đủ cho phải phép. Sự ra đi giải phóng người sống, đem lại thanh thản cho người chết. Chính bà cụ, khi còn tỉnh, cũng một mực: “cho tôi một liều thuốc đi cho nhanh. Không biết kiếp trước tội nơ gì mà bắt sống lay lắt thế này...” Nghĩ thế nào nói thế đấy, Vững đặt nải chuối lên ban thờ, thắp hương vái rồi “chia sẻ” một câu chết người: “Thôi cũng mừng cho các bác. Cụ nằm lâu quá rồi, thế này đỡ mệt”. Lời “phản ánh” lại của tang quyến cũng nhẹ nhàng, ra ý Vững thật thà quá đỗi, nhưng làm Phin tức uất người. “Ít ra phải chia buồn, nói câu người ta hiếu đễ chứ”, vợ anh ghét quá chỉ bảo được vậy. Từ đó, Vững không còn gánh vác một việc ngoại giao nào nữa, yên tâm “chuyên sâu” vào nghiệp chăn vịt.
Mà lão hợp việc thật.Cái lều ngoài bờ mương lè tè, xung quanh quây dậu nứa thưa thật đúng là đại bản doanh của ông tướng. Ông ngủ luôn ngoài ấy, đỡ nghe eo xoè của lũ vịt ở nhà, đêm đêm cùng con Đốm xách đèn ra soát sét. Là đếm gọi là thôi, cho đỡ nhớ chúng, chứ quê này đâu có giống ăn trộm. Lão đào giun, ngăn máng tát nước bắt lưa thưa mài mại, lũ vịt lúc nào cũng đầy diều lớn mau như thổi. Lão thơ thới lắm, mình mình lo, mình mình quyết, không phải quán triệt, bàn bạc lĩnh ý ai. Con nào bỏ ăn, phân xanh nhoét mà không thối là bỏ thẳng cẳng. Con đực nào oai hùng ra dáng thủ lĩnh, lão phong ngay chân tiểu đội trưởng phụ trách đàn vịt đẻ, đi đâu cũng dẫn rượu một đám “cung tần mỹ nữ”: Oách hơn vua chứ lị.
Cạc cạc cạc... “Triều đình” gồm “vua”, “quan” cùng lũ vợ đủng đỉnh đi trước, lông lá mượt như được chùi. vít vít vít... Lũ tí nhau mà chạy, chen chúc ngã cắm đầu. Sau rốt là ông “đại tướng’ đội nón mê tay cầm sào buộc lá chuối, tay xách bình tích, lưng lủng lẳng điếu cày. Cái hình ảnh ấy quen thuộc với dân Kiên Xá từ ba mươi năm nay. Tên đặt “Chim sâu” bắt đầu từ đấy.
Có người bắt gặp lão, bỡn cợt: “Chào tướng quân. Tình hình chiến sĩ thế nào?”. Vững cười hi hi, ngây ngây nhìn đại đội hành tiến. Rồi ra thế nào mà đêm lại bật ra những câu:
Ông nông dân chăn nuôi bảy mươi ba con vịt
Suốt ngày nghe chúng nó khụt khịt
Nghe đi nghe lại mãi không hiểu
“Ông ơi bụi lúa đằng kia có quả trứng”
Nửa đêm lão bắc bếp rán lũ rô con uống rượu, ngâm đi ngâm lại. Lão khoái mấy câu thơ đến nỗi không về nhà bốn ngày liền. Để mụ La Sát cười cho à, lão chả dại. Làm bà Phin phải ngoi ra lều, miệng bảo sốt srột, nhưng nửa đêm lại róc tuỷ lão ra giữa xung quanh nồng nàn cứt vịt.
❀
Đôi giày da không phải cỡ hại Chim sâu. Một ngày lội bộ qua các di tích, thăm bảo tàng, chẳng là mấy nả với vụ dong lũ vịt ngoài đồng, mà làm lão khốn khổ. Sáng ra nhìn những chỗ bị da cứa đứt mời phù nề hoặc đã rớm máu, cánh lính già đều ngại ngùng.
- Hay là ông ở nhà. Chân cẳng thế này còn tham quan gì nữa.
- Tôi đổi đôi dép vậy. Chim sâu nhăn nhó.
- Bốn túi phải đi với chân chì - Ông Tơ thành thạo - đeo huân chương với cả trung uý mà dận dép còn gì thớ cựu chiến binh.
- Nhưng ngại thủ trưởng phê bình...
Nhắc đến thủ trưởng ai nấy đều ngại. Lại quay ra trách lão: “Mà ông cũng “ấy” lắm cơ. Lúc có phóng viên nước ngoài, cần mạnh bạo thì nín thít. Lúc giao lưu với phụ nữ và các cháu thanh niên lại rửng mỡ làm hỏng cả chương trình. Mà thủ trưởng cũng nóng quá. Lính tráng đang vui... Hôm qua tôi buồn ngủ đấy, không cũng cự lại vài câu...”
Ông Tơ im bặt vì Khắc Liên bước vào. “Vấn đề” được giải quyết chóng vánh khi ông nhìn thấy đôi chân rách nát. Lão được phép ở nhà, lai còn có y tế đến băng chân, phải cái chết ngượng vì mùi vịt nấp trong các khe kẽ.
Nắng hè, dù là nắng non, ngốt ơi là ngốt. Nhà sàn trồng sữa sân bê tông bí bức. Chim sâu hết nằm lại ngồi. Có hai người gõ cửa, một cô chào mua bảo hiểm, một anh mời hàng thổ cẩm với những huy hiệu, huy chương “xu vơ nia” kỷ niệm. Chim sâu chọn chiếc khăn piêu cho vợ, mấy chiếc khánh “đồng hạng” cho lũ cháu, lấy làm ưng ý lắm. Lão xìu xuống khi nghĩ đến đoạn mụ La Sát nhăn nhó: “Tôi đội khăn này vào dịp nào được?”. Liền ve vẩy ra khỏi khách sạn. Cứ để những ‘nỗi niềm” đấy đã, ta đi xem thành phố hiện đại thế nào. Quả là mấy hôm nay lão chỉ toàn “sống với không khí lịch sử”, mấy chục năm nay chỉ biết quanh quanh từ làng đến huyện là cùng.
Chợ Điện Biên không làm Chim sâu thích thú mấy. Của cải miền núi chẳng thấy đâu, mà cứ sáng choang hàng Tầu như chợ xuôi. Được cái có những cô người Thái bán măng đắng, củ mài, và lũ rau má cằn nhưng chắc chắn là đậm vị. Chim sâu ngần ngừ rồi rẽ vào hàng ăn, gọi đĩa xách xào còn đen kịt và chén rượu. Kể cũng sốt ruột khi nghĩ đến lứa xu hào vợ nhổ non đem bán, nhưng lão phải tiêu tiền chứ. Dù là tiêu cho riêng mình, dù mình chỉ là “Chim sâu” , thì sao lại phải không? Đây là chuyến đi trót đời kia mà.
Rượu vào hăng lên, Chim sâu gọi xe ôm đi chơi phố.Tấp nập thật. Nhà cửa san sát phủ chót Ốt Nam hơn hẳn phố huyện ở quê. Gì thì gì đây cũng là thành phố, dù ở mãi biên cương. Nhưng trở thành người phố, người ta xoay xở ra sao trong những ngôi nhà xây không được bóng cây che chở đây? Lão hứng khởi đôi chút khi ngắm nghía pho tượng đàu khổng lồ đang dựng trên ngọn đồi D1 cũ. Những toà công sở ngất ngưởng thì chỉ nghé qua quýt. Giá mấy ông thắt cà vạt trong ấy có ra mời Chim sau cũng chả vào. Vì không đẹp, và cũng sờ sợ thế nào...
Anh xe ôm đầu đinh mũ cối, sau một hồi giới thiệu “đặc sản” cà phê vườn có các em Thái sẵn sàng “tới bến” không đắt, để mặc “bố già” ù ì sau lưng. Anh ngạc nhiên thấy bố bảo đưa tuốt đến cuối lòng chảo, nơi núi non dẫn sàng Lào bắt đầu trùng điệp, càng ngạc nhiên thấy ông lão bỏ xe máy bước xuống bãi đá ven suối Nậm.
Ngồi thừ giữa nắng, Chim sâu thấy mình bắt đầu nghĩ ngợi. Toàn chuyện không đâu. Câu phê bình của thủ trưởng. Lời vợ dặn. Những ký ức này nọ. Rồi lão nhập bọn với lũ trẻ quăng thia lia ngoài suối. Đám đàn bà đi nương về cởi áo cóm trầm mình ngoài kia mới trắng chứ, như lũ vịt của lão. Mà chắc là thơm, theo lối quả vườn tươi tự nhiên chứ không ướp thuốc, bắt cho chín ép như những chị tỉnh thành. Tay ấy chân ấy làm lụng chắc cứng cáp lắm. Ô, lại nghĩ đến suối Tấc rồi. Suối Tấc đã lấp lánh suốt cuộc đời lão, hà cứ gì cứ thấy chờn chợn khi muốn phô ra với người khác nỗi niềm rất đỗi dễ thương ấy? Chim sâu nhắm mắt tưởng tượng mình bước ra giữa Nậm Rốn, trâm mình cạnh những suối tóc, những thịt da trắng ngần...
❀
Bỏ cậu xe ôm chỗ cây cầu dẫn vào thành phố, vượt qua cái máy xúc bẩn thỉu, Chim sâu rẽ vào con dốc nhỏ. Đã đến lúc kiến bò bụng, mà lão không muốn về khách sạn với ăn xuất tiêu chuẩn, trên bàn phủ khăn có bia, phục vụ chạy ra chạy vào. Vẳng bên tai những tiếng mời chào, nào tiết canh dê, nào măng đắng chấm chẩm chéo. Có một cô, trông ra dáng mợ rồi, có cái ánh mắt thế nào đó, chẳng mở mồm mà khiến lão bước vào. Đến lúc nhận ra xung quanh thơm ơi là thơn, những lọ xếp hàng trên giá gương sặc sỡ như hàng cờ phướn, thì đã muộn.
- Bác cứ tự nhiên. Không cần phải cởi. Em không làm ướt áo bác đâu.
Cô gội đầu nói sau khi dắt lão ra đằng sau tấm bình phong ngăn cách hẳn với phố bụi. Không hẳn muốn từ chối, Chim sau cứ nhắm mắt đưa chân, trèo lên chiếc ghế bọc vải sơn mầu đỏ. Không khí dịu dàng lan toả căn quán, lão nhắm mắt lại, khoan khoái tận hưởng.
- Bác chắc ở xa lên đây?
- Đi chơi mà. Trời nóng quá nhỉ...
- Bác cứ nằm yên, nước vào cổ bây giờ.
- Vâng
Chim sâu thấy giọng mình khản đặc. Thật khó mà không động đậy. Lão nhìn theo lúc cô ta đi lấy nước lạnh. Những ngón tay cào cào trên da đầu khiến Chim sâu cảm thấy dễ chịu. Công cuộc làm đẹp cuối cùng cũng kết thúc. Nửa giờ đồng hồ làm Chim sâu phấn chấn. Lão đưa cô chủ quán tờ năm chục không lấy lại tiền thừa. Và nghe rủ rỉ:
Rằng bác là cựu chiến binh lên thăm chiến trường xưa chứ gì, mấy hôm nay em gội cho các bác nhiều. Em cũng gốc xuôi, bố mẹ đi công tác, sinh trên này, phải anh chồng nghiện giờ nuôi con một mình. Rằng bác dễ thương, thật thà nhỉ, phải người có mùi gì hoi lắm. Ban nãy bác ngáy một tý đấy. Em cứ để yên. Bác đã có tuổi, ít đi chơi, đừng ham vui kẻo nhỡ làm sao bà lão biết tính thế nào. Mai bác về a, ... Rằng...
❀
Mãi về sau, khi đã yên ổn trong lều vịt ở quê. Hương vị Tây Bắc, những kỷ niệm có mùi thơm, mềm mại và ấm áp khiến lão mơ màng như tương tư. Gần sáng dậy đếm vịt lại nhớ tới giọng nói dịu dàng, cái nhìn buồn buồn của cô chủ quán gội đầu. Sao mình không thể quên những chuyện toàn là vụn vặt ấy? Ô, làm sao mà phải quên? Nếu như vậy thì để cái lều này toàn mùi vịt a...
Những điều không thể tỏ cùng ai ấy sẽ theo Chim sâu xuống đất đen. Còn bây giờ, lão vẫn túc tắc rong chơi trên đồng, chấp chới cây nứa buộc lá chuối. Vít vít... Cạc cac... Lũ vịt mông nặng đi trước như đoàn mệnh phụ, ai nói nấy nghe...
T.C
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ quân đội - vannghequandoi.com.vn
Xem: LÃO CHIM SÂU TRONG TRUYỆN NGẮN "HOA NƯỚC" CỦA TÔI - Trần Chiến, 25/04/2014, TẠP CHÍ VĂN NGHỆ QUÂN ĐỘI ĐIỆN TỬ.
Về đầu truyện Hoa nước
Thượng đẳng thần
Trần Chiến
Phạm Vĩnh Nhiên, người tổng Hào Hiệp, Sơn Nam Hạ, là con một bác phó cối. Nhiên hồi nhỏ hay đáo khăng, suốt ngày trèo cây bắt cá, lớn lên đốc chứng chữ nghĩa. Được cha gửi học các danh sư, mười tám tuổi đã tiếng tăm thơm phức. Các thi nhân đến nhà bác phó cối tha hồ đố chữ, khảo kinh sách, Nhiên đều rành rẽ, giải các tầng nghĩa nông sâu đâu ra đấy. Thảy đều bèn đoán định một tương lai rỡ ràng, phải nuôi dạy cho dày cả phần đức độ để rồi sáng danh trong thiên hạ.
Năm hai mươi tuổi, Nhiên thi hương trúng thủ khoa. Lên thi Hội rồi vào Kinh thi Đình, chàng một lèo tới á nguyên, mà năm ấy không có giải nguyên. Các chủ khảo dâng quyển của Nhiên lên ngài Ngự, được khen rằng ý tứ đậm đà, hùng tráng mà sâu xa, lại không khiêm nhường vờ vĩnh, đúng là có chí trị quốc bình thiên hạ. Đặc biệt, văn phong như ẩn như hiện, có đấy mà lại không, không động đến cái gì mà lại cứ nhắc người ta phải nghĩ đến cái đó, huyền hoặc vô cùng. Vua Hiến Tông bảo thái sư: "Người này văn tài lai láng nhưng chưa qua việc cụ thể". Lời tâu lại: "Bẩm, nên bổ vào một chân sở tại cho quen việc hương xã, huyện nhậm đi. Mà phải luôn đổi chỗ, đi những thổ ngơi khác nhau mới vừa phong phú kiến văn, lại vừa tránh được thiên hướng phiêu phiêu phưởng phưởng rất nguy hại của bọn hư văn. Bây giờ, nên cho một chức gì hèn hại thôi, sau mươi năm mà không chìm đắm thì đúng là chân tài".
Tháng ba năm sau, ăn tết xong, Nhiên bái tạ cha mẹ, căn dặn các em rồi vào châu Sơn Đương mãi trong Hoan Ai, nhậm chân thư lại huyện đường. Nhiên không cho việc nhỏ ấy là phí tài mình, rất chăm chỉ ghi chép, cần mẫn sưu tập cả những huyền tích, phong tục từng làng xã, gia phả các dòng họ, khiến quan phụ mẫu ưng ý lắm. Ngày nọ, tri huyện gặp vụ kiện khó: hai chi họ Nguyễn ở làng Bá Đàm đâm nhau lòi ruột, ai cũng nhận mình là chi trên. Cùng một gốc đấy nhưng bây giờ mỗi anh mỗi bàn thờ, hương hoa bề bề bên cạnh, ra đình cứ chiếu trên đòi ngồi, đâm đổ máu. Mà chẳng biết lấy đâu làm căn cứ xem xét. Vĩnh Nhiên bèn giở những ghi chép riêng, biết cách đấy ngoài trăm năm, cụ cao tổ Nguyễn nhiều vợ lắm con, sau này có một chi li khai, lập bàn thờ riêng, viết lại gia sử. Chiếu theo biên khảo ấy thì phân ra chi nào dưới, chi nào trên rất dễ. Quan huyện cho người về Bá Đàm đọc gia phả, những hoành phi câu đối trong cả hai nhà thờ thấy lời Nhiên quá đúng, theo nhẽ ấy mà xử thì cả hai bên đều phải tâm phục. Lại cao hứng, ngài bảo Nhiên: "Thầy ngồi chân thư lại này phí tài, để ta biện lời với trên cho một chỗ khác". Nhiên vâng dạ, ngày lo việc phủ đường, đêm về chong đèn biên chép, khảo cứu các thư tịch đầy rẫy trong vùng. Việc nghiên cứu là một hứng thú chẳng bao giờ cạn.
Quá một năm ở Sơn Đương, Nhiên có trát đổi làm huyện lệnh Phác Hộ, một vùng ở cửa sông Cái. Chỗ ấy phù sa cuồn cuộn ra biển, dòng sông cứ bên lở bên bồi đổi luôn năm. Các vụ kiện của dân làng đôi bờ nhiều vô kể, vì bãi sông lúc thì nhập vào tả, lúc dời sang hữu ngạn. Vĩnh Nhiên bày cho hai làng cử người rời đồng ra giữa sông lập trại, hoa lợi hưởng chung. Sau này trai gái hai bên lấy nhau, sinh thành đàn đống, hiềm thù chấm dứt. Thấy huyện lệnh được cả việc quan lẫn việc dân, quan tuần phủ bèn gả con gái yêu cho. Nhiên lấy được người đẹp nhưng vẫn băn khoăn, thưa với bố vợ: "Số con phải lênh đênh, trong mươi năm chưa đứng chỗ được, sợ là vợ con phải di chuyển vất vả". Nhạc phụ cười ha hả: "Biết thế là hiếu đễ, thơm thảo rồi. Còn chuyện gái theo chồng thì kể gì".
Hiến Tông là một vì vua anh minh, giữ kỉ cương, trọng hiền tài rất mực. Nhờ vậy mà dần dà giặc giã dẹp yên, dân chúng chỉ lo canh cửi, cày cấy. Dù lụt bão mất mùa, dù đồng khô cháy hạn, lúc nào dân gian cũng một lòng tin tưởng vào người chăn dắt. Trên dưới đều chăm chỉ nên đất nước thịnh vượng, dần dần thanh thế vượt ra ngoài bờ cõi. Dăm bảy năm ấy cũng là thời gian Vĩnh Nhiên cùng vợ chuyển hết từ huyện này sang phủ nọ. Chuyên cần, khiêm nhường, tận tụy, ở đâu chàng cũng tròn việc quan, lại nhặt nhạnh được vốn kiến văn sung túc, trưng cất thành nhiều bộ sách quý. Chàng cả tiếng đến nỗi dù ở nơi sơn lâm cùng cốc, tết lễ nào cũng có người đến xin chữ, còn ngày thường phải chỉ giáo nhiều vô kể.
Bác phó cối ốm nặng, gọi Nhiên về bảo: “Con đã được nhiều việc cho đời rồi, sẽ đến lúc về kinh ấm chỗ. Hành văn là nghiệp của con, nhưng nên nhớ nó rất gần chỗ khốn khó”. Nói rồi nhắm mắt xuôi tay.
Nỗi đau mất cha chưa nguôi thì Nhiên được gọi về kinh nhậm chức tham tri bộ Lễ, chuyên biên chép lịch sử. Những việc hàng ngày trước mắt, những sự cách mấy trăm năm chàng đều vào sổ, ngày ngày cần cù như con ong. Những đánh giá, sắp đặt của chàng đều có tình, đích đáng, ai nấy đều chịu. Đến nỗi nhà vua, một hôm thăm thư viện họ Phạm, đã ban cho hai chữ “Biệt nhỡn” treo vách.
Về kinh được hơn năm, nhân khuyết chân ở bộ Lễ, Nhiên được cất thẳng lên thượng thư. Ba mươi sáu tuổi, học rộng tài cao, nên đồng liêu không mấy kẻ thắc mắc, đều cùng gọi Phạm Công. Công được chức trọng mà không mảy may huênh hoang. Nhớ lời cha, chàng coi đó là nghiệp chứ không phải nguồn lộc. Nỗi buồn phiền duy nhất gặm nhấm chàng là muộn con, dẫu đã cùng phu nhân thuốc thang hết thày này sang lang khác.
* *
Một trung thu sáng đẹp, vua Hiến Tông mở tiệc thưởng trăng ngoài ngự uyển cùng thái sư đầu triều. Ngài vừa vi hành bốn cõi, thấy đâu đâu cũng sung túc kiện khang, bao nhiêu hoan hỉ tuôn tràn. Rồi một chốc, mặt rồng thoáng đăm chiêu: “Muôn dân no đủ, lễ hội mở ra liền liền, hết Nguyên tiêu, Xá tội vong nhân lại tết cơm mới. Có điều quy củ chưa được chỉnh đốn. Làng nào có thần làng nấy, nhưng nước chưa có đấng chung để thờ tự. Phải có các thượng đẳng thần để ai ai đều trông vào, cả nước chung một niềm tin”.
- Tâu hoàng thượng, đấy là việc của bộ Lễ - Thái sư kính cẩn tâu.
- Khanh mau tìm người, giao viết lại công tích những vị định chọn, tấu lên ta xem xét.
- Tâu hoàng thượng, thần đã nghĩ đến sự ấy, thật muôn phần khó khăn. Định tội sai cho một người đã là có lỗi, mà viết công đức không đúng cho ai cũng tổn âm đức vô cùng. Việc này...
- Khanh cứ nói! - Nhà vua thúc giục.
- Phải tận tay thượng thư bộ Lễ tự làm.
- Trẫm cũng tin người ấy. Họ Phạm vô tư, chỉ biết chính đạo mà hành. Ngoài kiến văn vô cùng đầy đặn, thì đó là đức tính tối cần với người dựng nên gương sáng cho cả bờ cõi trông vào, noi theo.
Nói rồi thảo ngay chỉ, truyền Phạm Vĩnh Nhiên thảo ra hệ thống thượng đẳng thần, đặng cả nước thờ tự.
Phạm công về thư viện khảo các biên chép, đi lại những địa phương ngài đã biết, lục tung từng thần tích gia phả. Những làng dệt vải, những làng trồng cấy, những làng đục chạm, làm thợ ngõa, công đều đi tận nơi. Các thành hoàng rất nhiều công tích: tỉ như Bắc hành học Lỗ Ban đục gỗ chí chát, ra Hải Đông buôn bán với thương nhân Chà Và, hoặc giả chỉ đem giỏ đi khắp nơi chuyên cần nhặt phân trâu đem về bón ruộng. Lại chẳng ít nham nhở dở hơi: có công đấy nhưng tham bát bỏ mâm, dựng nghiệp rồi mà còn xơi con thầy vợ bạn...
Bao nhiêu lao tâm. Bao nhiêu đăm chiêu, so bì, dằn vặt.
Cuối cùng thì được hai vị để tâu lên, trước hết với thái sư.
Một là Minh Quang Đại vương ở Lao Xá, tỉnh Đông. Gốc tích làm ruộng, thần lực tráng kiện vô kể, ngài đã dẫn đầu trai tráng trong vùng đuổi giặc Ngô phía Bắc, bình nhà Hầu phương Nam. Thế binh hùng mạnh, đến nỗi chẳng còn quan binh triều nào dám sang cướp đất ta nữa. Ngài chỉ gươm xuống đâu thì đấy là bờ cõi. Cương vực vững mạnh, đất ta có dân ta, dân ta có vua ta, sánh vai với lân bang, chẳng ai coi thường được.
Hai là Linh Thảo Sơn Thần, xuất thân làng Đoài, tổng Phù Vân, Sơn Nam Hạ, nơi đất lầy thụt, ngập úng, chẳng trồng cấy gì được. Gặp năm đói kém, trời bắt mất đứa con, ngài giận bỏ nhà đi lang thang, học được cách đắp đê trị thủy. Ngài trở về dạy lại dân hàng tổng, cả nghìn người đổ ra chắn triền sông Cái. Cánh đồng bớt ướt át, có thể gieo được hạt thóc xuống. Rồi ngài đến các tổng lân cận, hai bên tả hữu ngạn, đâu đâu cũng hô hào đắp đê, thau chua rửa mặn.
Cây lúa nước mọc lên, thóc gạo ùn ùn chất về kho. Sự ấy làm thần sông Cái nổi giận, dâng nước đục thủng một khúc đê. Linh Thảo bèn chỉ huy cả vạn người vác đất đá ném xuống, sạt chỗ nào đắp chỗ ấy, nước hết đường xông vào phá hỏng ruộng bờ. Nhưng nhớ đến quyền lực cũ, năm nào cũng dâng nước lên. Thì chỗ nào cũng gặp phải con đê cường tráng che chở cho làng mạc thanh bình, thịnh vượng.
Ngài ấy sau lên núi hóa, tôn xưng Sơn Thần, chỗ nào cũng lập bàn thờ bái vọng, lấy bát cơm mới mà dâng. Cả một vùng dân cư trồng cấy lúa nước, tạo lập nên lời ăn, tiếng nói, câu hát, nền văn hiến chẳng giống ai.
Minh Quang Đại vương và Sơn Thảo Linh Thần, một người dựng xây nước, một người giữ lấy nước, giang sơn gấm vóc từ đấy. Thử hỏi còn ai xứng đáng hơn?
Ba là...
Bốn là...
Phạm công cũng nghĩ đến vài bốn vị có công tích nữa, nhưng thảy đều chẳng hoàn toàn, đề lên làm Thượng đẳng thần nó không tề chỉnh thế nào. Nghĩ vậy, bèn dâng quyển lên thái sư. Ra vào, nghe ngóng, phấp phỏng. Đợi.
Chưa được dăm hôm, đã có lệnh truyền. Thái sư mặt mũi xầm xì, cho thi lễ xong rồi hỏi sõng:
- Thầy soạn hết chưa?
- Bẩm, hạ quan mới làm được hai vị, chưa nghĩ thêm được ai. - Ngài thượng thư trả lời, rất áy náy về chữ “thầy”.
- Khi quân!
Tiếng thét của thái sư làm Phạm công giật nảy người, xuất hãn đầy mình. Bèn cúi đầu, chờ thịnh nộ.
- Thầy có biết ai đẻ ra Ngài Ngự ta?
- Dạ, là Đức Đoan Tông.
- Thế ai đẻ ra Đức Đoan Tông?
- Là Thái Tổ khởi nghiệp.
- Làm sao mà thầy lại quên ơn Thái Tổ, không ghi vào hàng Thượng đẳng thần?
Quan thượng thư nhẹ cả người, từ tốn đáp:
- Bẩm, hạ quan có nghĩ đến chuyện ấy. Thái Tổ dẹp bỏ triều cũ thối nát, khởi nên nghiệp đế đến nay và cho mãi mãi sau này. Đó là một công tích vĩ đại. Nhưng quả là có đôi tì vết. Một, là Đức Thái Tổ xuất thân hoạn lợn. Hai, là khi đã thành cơ nghiệp, do nghi kị, người xuống tay giết oan năm khai quốc công thần. Ba, là...
Thái sư chạy thẳng từ trên án xuống bịt miệng Phạm công. Mặt mũi thất sắc, ngài nhìn quanh, thấy không có ai mới khẽ nhủ: “Không ai sáng láng như thầy. Không ai thậm ngu như thầy. Đây là việc vua truyền, làm sao thiếu được những bậc sinh ra mình rồng.
- Bẩm, thiết nghĩ...
- Không được cãi. Nghĩ như thầy đáng chém ngang thân. May là thầy nộp bản văn cho ta trước, chứ dâng thẳng lên hoàng thượng thì đã chu di tam tộc.
Phạm công tuy sợ hãi nhưng tấm tức, mặt hết đỏ dồn sang tái, cứ ngây ra mà chẳng biết bảo sao. Thái sư xem chừng đã xong chuyện, phẩy tay áo rộng loạt soạt: “Người chết rồi, phết phẩy vài nét thêm cho thơm tho mà cũng không biết đằng. Rõ là đồ hủ sinh”. Rồi hầm hầm đi vào.
Phạm công về dinh thượng thư, mặt tái dại như phải cảm, vợ càng hỏi càng ú ớ. Được ba hôm dở cười dở khóc thì vùng trở dậy, nửa đêm mài mực. Viết rằng: “...”. Rồi lại khóc, lại nhăn nhó như táo bón rặn ỉa, cầm bút phết phẩy.
Quyển nộp lên. Thái sư xem những chỗ Phạm công cho là “tì vết”, thấy sửa: Một, Thái Tổ thời hàn vi là người cần lao, làm nhiều nghề bình dân, nhờ vậy biết rất rõ phong tục bách tính. Hai, những người đã cùng Ngài vun trồng nghiệp Đế, đến lúc bình thời chẳng may bạo bệnh chết cả. Ba, ...
Thái sư bảo đem vuông lụa và mươi đĩnh bạc cho Phạm công, phán: “Thầy theo hướng này là đúng, nhưng hãy làm cho văn chương thơm nức lên. Bằng không thì lấy vuông lụa mà tự xử”.
Lại về trầy trật mài mực, rỏ thêm vào nghiên vài giọt nước thơm mua ở hàng son phấn xóm bình khang. Lấy hết sức bình sinh nhuận sắc.
Nộp. Duyệt. Trả lại. Nhuận sắc thêm.
Đến lần thứ ba thì vừa ý thái sư. Quyển văn được vua ưng chuẩn ngay, rằng chọn lựa chuẩn xác, hàm ý súc tích, văn chương sang trọng, tuy có đôi chữ bóng bẩy quá nhưng vẫn xứng đáng với công tích các vị. Một đạo dụ thảo ra, các đình làng, miếu mạo đều đặt bàn thờ mới có bài vị tam vị Thượng đẳng tối linh thần. Thờ riêng. ở trên cùng. Còn những ông thành hoàng cũ tuốt lượt sắp từ trung đẳng trở xuống.
Thảng hoặc có phe giáp bướng bỉnh giữ nguyên Thượng đẳng thần cũ, thì quan quân về đấm đá đạp, cho cạch mặt.
Trật tự thờ cúng xếp đặt xong, thượng thư bộ Lễ được thăng tước hầu. Công có những trang trại ở Hưng Hóa, Hoan Ai, được thu thuế khu chợ vải, khu thuốc nam ở Kinh Bắc, lộc ăn đời đời không hết. Mùa nào thức nấy, người nhà hưởng cam Canh, vải thiều, nhãn lồng, chim ngói, sâm cầm, đem so với ngự thiện chẳng kém mấy nỗi. Nhưng ngài tính khiêm nhường, hay gọi bọn sĩ tử lại cùng thù tạc. Chúng thấy công thật đáng trọng, chỉ thỉnh thoảng hơi ngây ngây như mất hồn. Hỏi, chẳng thấy nói sao.
Một đêm sau rằm tháng tám, Phạm công dọn tiệc nhỏ ngoài vườn, đối ẩm với phu nhân. Chốc nhát sương sa, phu nhân kêu lạnh, lui vào. Công nửa nằm nửa ngồi trên ghế đu bâng khuâng, cứ nửa câu thơ lại một hớp rượu, buồn vui lẫn lộn, rất xao xuyến mà chẳng hiểu vì sao. Bỗng có người đi vào, ăn vận lối nho sinh, mặt mày sáng sủa, có sợi lông trắng dài cỡ ngón tay trỏ bên mày trái. Người ấy thi lễ, rồi đứng yên. Công cũng hờ hững chỉ tay vào chén rượu rồi cứ tì tì một mình. Được một canh giờ, sương đã ướt vai, thấy nho sinh vẫn đứng, bèn hỏi:
- Người cần mảnh tú tài kì thi tới à?
- Thưa không.
- Hay muốn một chân ở nha tu thư? Ta chắc ngươi đã đỗ đạt...
- Thưa không.
- Thì nói đi.
- Nhưng chửa chắc bề trên đã đáp ứng, nên tôi băn khoăn.
- Đã nói gì mà chắc với lép.
- Tôi biết quan ngài chính trực, không giúp người để nhận lộc hèn hạ bao giờ. Hiềm vì chủ tôi hối thúc quá.
- Chủ ngươi là ai?
- Là Vân Vi trại chủ, ở phủ Sinh Đồng.
- A, cái người trông coi chợ vịt cách đây ba trăm năm chứ gì? - Phạm công thốt lên.
- Thưa vâng. Chủ tôi muốn được làm Thượng Đẳng Thần, can thế nào cũng không được.
- Chủ ngươi gian trá lắm. Cả làng Vân Vi chuyên nghề mua vịt gầy, trước khi bán tọng bánh đúc đầy diều cho nặng thêm. Lại còn đeo những đinh sắt, móc đồng vào quả cân, đổ thủy ngân vào cán cân. Bậy bạ thế, làm thành hoàng Vân Vi đã là quá đáng, sao dám sánh với các bậc dựng nước, giữ nước!
“Càn rỡ !”.
Nói rồi rũ áo đứng dậy, giận dữ bỏ vào.
Đêm sau, Phạm công có việc ở bộ Lại, khi về muộn người đã nẫu vì rượu. Phu nhân sai đầy tớ rửa mặt nước nóng, đổ nước gừng, bôi vôi rồi lui ra. Một lúc nho sinh tối qua lại đến, lần này bộ dạng nhăn nhúm, trên mặt thâm tím không còn sợi lông trắng dài. Thoạt thấy, công mắng ngay: “Đã bảo rồi, mà chủ ngươi còn cố đấm. Láo thế là ta tước cái thành hoàng đấy!”.
- Bẩm, tôi cũng không muốn lại, nhưng bị mấy đấm mấy đạp, lại còn cắt cả lông mày bảo mạng.
Công định gọi người nhà đuổi đi thì nho sinh quỳ thụp xuống, thì thầm rất khẽ. Công lặng người, đổ mồ hôi hột lấm tấm, hết nóng chuyển sang lạnh, rồi lại hầm hập như ngồi phải hoả lò. Một lát thì trầm tĩnh, hỏi:
- Chủ ngươi sao có quyền lực thế được.
- Bẩm, vì kiếp trước ngài lỡ tay tát người bán vịt điêu hộc máu, nên kiếp này phải trả nợ vô sinh. Chỉ có chủ tôi là giải được cái hạn ấy.
- Ta không tin.
- Thế thì tiếc lắm.
Nho sinh dợm quay đi. Công giật lại: “Nhưng ta không thể làm việc ấy một mình. Bên trên có thái sư, mà ta không muốn đưa của đút, bẩn tay lắm”.
- Thằng thái sư đã có chủ tôi lo. Ai mà chẳng thích bạc.
- Hoàng thượng mà biết thì ta bị chu di...
- Hoàng thượng lại càng dễ. Ngự trên cao nói sao mà chả tin. Vả quan ngài gây dựng được uy tín rồi còn gì.
- Lại còn đồng liêu quyến thuộc, bịt sao được mắt những kẻ ấy?
- Chủ tôi liệu cả rồi. Bọn kẻ sĩ chỉ là đứa thối mồm. Chỉ cần quan ngài, thái sư với hoàng thượng đồng ý thì là xong.
Nói rồi đi hẳn. Công quay vào trong, nhìn dáng nằm của phu nhân, vẫn thắt đáy lưng ong, tóc dài chấm gót mà sao cô quả quá. Hết đền phủ này đến miếu mạo nọ, kì sóc vọng, lễ tết nào nàng cũng cầu tự mà kết quả gì đâu. Mà công thì không muốn vợ nọ con kia, nhìn cảnh người thấy nẫu ruột lắm. Ngắm mãi rồi thở dài thườn thượt, quay ra ngồi vào án thư, xắn tay áo lên mài mực.
Văn sách nộp lên thái sư, Phạm công tay cứ run bắn lên, ấp úng chả ra sao. Bốc phét đến là trắng trợn, tâng Vân Vi trại chủ thành bậc phú hào mở mang nghề buôn, khiến một vùng giàu muôn ức muôn triệu. Lại còn xắn tay từ thiện xây những đình chùa, trợ giúp kẻ khó, lúc nào trong nhà cũng nuôi một tổng ăn mày. Lạ thay, thái sư chẳng khảo gì, cứ nhận quyển rồi bảo về. Sau mấy đêm, công phải bảo vợ nhổ vợi tóc trắng trên đầu.
Rồi một đạo dụ ban ra, sắc phong Vân Vi trại chủ làm Thượng Đẳng tối linh thần, sánh cùng Thái Tổ Hoàng đế, Linh Thảo Sơn Thần và Minh Quang đại vương. Bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình, nhất là bộ Lễ, bộ Học đều giật mình. Nhưng ai dám cãi vua.
Phạm công đến nhiệm sở, đi lại các nơi bị lạnh nhạt, chế giễu nhiều hơn. Nhưng ngài không chấp. Sự bẽ bàng chung chả bằng niềm vui riêng: phu nhân đã tắt tháng, nôn khan, lông mày dựng ngược. Cái núm vú trước đỏ tươi, rất đẹp, dần dần trở sang thâm đen, mọc gai gạo. Ngắm nàng mình mẩy tròn trịa, công khoan khoái, thấy những tiếng tăm, danh vọng chẳng là gì với hạnh phúc nhỏ nhoi này.
Một năm sau cái đêm trăng muộn nọ, phu nhân sinh con trai, đặt là Nguyệt Phùng. Đứa bé càng lớn càng khôi ngô, mới năm tuổi đã thuộc khối mặt chữ. Công yêu Nguyệt Phùng vô cùng, ra sảnh đường thì chớ, về nhà là nâng niu đùa giỡn, đi đâu cũng cho theo cùng.
“Cái nợ của cha đây. Cái nợ của cha đây”. Nghe chồng nựng con thế, phu nhân thường nặng mặt, phỉ phui cái mồm. Nhưng mặc lòng, công không thể âu yếm con theo cách khác.
* *
Ngày tháng thoi đưa, thấm thoắt Nguyệt Phùng đã lên sáu. Lời trẻ bi bô mà bịn rịn, Phạm công đi đâu cũng nhớ con. Ngài không thể ngờ mình lại yếu đuối, tầm thường làm vậy. Vẫn chăm chỉ, nghiêm cẩn trong công việc, ngài dần lấy lại sự kính trọng của đồng liêu. Nhưng buông đèn sách ra, ngài lại gắn chặt lấy con, bị lệ thuộc vào nó, buồn thấy cứt nó xanh, khi chuyển sang vàng, ngửi thấy thối là đã mừng rỡ lắm. Đã có lúc ngài thấy giấc mộng kinh bang tế thế thuở nào thật cỏn con so với niềm vui thế tục này. Chà, Nguyệt Phùng, cái nợ của cha, sao con ra đời oái ăm làm vậy. Nhưng dẫu thế nào, cha chẳng thấy ăn năn cắn rứt.
Ngày Nguyệt Phùng tròn bẩy tuổi, Phạm công mở tiệc lớn khoản đãi từ viên thư lại tầm thường nhất đến bà con xa xôi. Quà cáp chả mấy hậu hỹ nhưng toàn những gương mặt chất phác, những chúc mừng đôn hậu. Ròng rã những bữa đạm bạc, những buổi ê hề, đến đêm thứ năm, sau tuần rượu cuối, ngài đang lơ mơ thì có người dựng giường dậy, hất cho ngã sóng soài. Trước mặt, một cái bóng trắng cầm cành dâu quất túi bụi. Ngài che mặt mắng rằng: “Yêu ma cút ngay! Ta bình sinh chưa biết sợ là gì!”. Cành dâu càng vun vút tợn tạo, yêu nữ áo trắng mắm môi mắm lợi trút căm hờn: “Sao ngươi chẳng nghĩ đến ta? Sao ngươi chẳng nghĩ đến ta?”. Ngài đã lấy lại bình tĩnh, từ tốn nhủ: “Con giặc cái này đanh nọc quá. Làm sao mà cho ngươi cái gì được!”. Yêu nữ cười nhạt: “Không biết đến ta thì liệu hồn!”. Rồi bỏ đi. Phạm công chỉ hơi lấy làm lạ, ngẫm nghĩ một tý rồi ngủ tiếp.
Qua ngày sau, người nhà báo trâu bò ở những ấp trại của ngài, từ Hoan Ai lên thượng du đều bị lở móng, chết hàng loạt. Ngày sau nữa mấy dãy chợ bên Kinh Bắc cháy rụi, chẳng thu được một xu thuế. Rồi dịch bệnh nổi lên, giếng ăn sau nhà có xác chết, người ăn kẻ ở tâm phúc lễnh loãng việc nhà, đêm đêm lên cơn mộng du, cứ trèo lên mái nhà mà tru như đực cái gọi nhau. Chỉ trong mấy hôm, tài sản ức triệu của công vợi hẳn. Phu nhân hoảng hốt. Công vẫn thản nhiên, biết rằng yêu nữ thế nào cũng đến.
- Thì muốn gì, đấy cứ nói cho đây biết chứ.
Thấy Phạm công bỡn cợt, yêu nữ tức vằn mắt. “Ta chỉ nói khi ngươi đã biết quyền lực của ta”. “Thì cũng đến khánh kiệt cửa nhà là cùng. Ta đâu có sợ. Ta khinh ghét quyền lực của mi”. Nghe công nói cứng, yêu nữ cười khàn, bỏ đi ngay.
Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi mà quá khốc liệt. Sáng hôm sau, Nguyệt Phùng đang tươi bỗng hóa ra tàu lá hơ trên lửa hồng. Công mời danh y phục thuốc, uống được mươi thang thì hồi sức trở lại, nhưng đường ăn nói tắt hẳn. Thấy con hết bi bô mà chỉ u ơ, vợ chồng héo hon. “Chẳng biết kiếp trước nợ nần gì mà khốn nạn thế”, phu nhân bảo. Công lặng ngắt như tờ, đêm nào cũng thức đợi.
Sắp gục vì kiệt sức thì người áo trắng ấy quay lại, xưng danh là ma cái ở Bình Dương, vẫn thường tới các đoạn đèo hiểm trở từ Nam chí Bắc, giả mỹ nhân dụ dỗ rồi xô khách xuống vực. Người ấy quỷ quyệt khôn lường, chỉ lấy độc hại mà chi phối chúng sinh, làm người ta khiếp sợ mà thần phục.
Nay muốn làm Thượng Đẳng Thần.
Từng năm lăn lộn khắp dân gian, quá biết những thủ đoạn của ma cái, Phạm công nhất mực vâng dạ. Ngày sau, ngài thảo quyển thư, dùng những lời ngợi ca tuyệt vời nhất bồi đắp công tích bà ta thành núi cao biển sâu, lại còn đặt mỹ tự “Bình Dương Thần Nữ”. Như lần trước, thái sư đồng ý tăm tắp với tờ trình. Rồi đức Hiến Tông chuẩn y, sắc phong vị Thượng Đẳng Tối Linh Thần thứ năm.
Bàn thờ dân gian lại có thêm một bài vị. Ngày giỗ tế, tết lễ, ai nấy kính cẩn hương khói, ngợi ca công đức cả năm vị theo thần thái những bản sắc phong triều đình ban ra, vốn đều do thượng thư bộ Lễ soạn. Những lời khấn giống nhau, những thành tâm bằng nhau, nhất mực tin tưởng nhẽ vua truyền.
Chỉ có điều ở bộ Lễ, đám liêu thuộc không còn dịp dòm ngó, mỉa mai Phạm công nữa. Ngài đã cáo quan trở lại nghề đóng cối gia truyền, âm thầm như một nông phu. Hàng tháng trời ngài xa gia đình, đung đưa gánh đồ nghề trên vai, ăn ngủ nay làng này mai tổng khác. Trở về nhà, hễ thấy thằng con câm cầm cái bút, thì giằng lấy, bẻ vụn, vùi luôn xuống đất.
Nguồn: Văn tuyển - vantuyen.net
Báo Đại biểu Nhân Dân - (Phần 1 - 27/10/2010)
Nỗi sợ
Trần Chiến
Nếu có đuổi ông sẽ về nhà quê ông lấy bà vợ hai xinh hơn
Đỗ Thọ trợ lý của giám đốc K. bốn mươi tuổi chuyên viên hai, có gia đình ổn định, yên ấm, một tối thứ năm bỗng không muốn trở về nhà. Sau giờ làm việc, anh đi làm một bụng bia, mặc dù không quen uống. Anh để xe lại cơ quan, lang thang ngoài phố, không tâm trạng, không buồn phiền, nhâm nhẩm trong đầu câu hát nhảm của trẻ con hồi chiến tranh. Dở chứng thế họa có là điên.
Nhưng Thọ không điên, đơn giản là anh đang thất sủng. Chiều nay giám đốc đi qua bàn trợ lý, mặt nặng như chì. Một lát sau, ông gọi Thọ vào, nói rằng anh đã làm hỏng một ý đồ gì đó, làm người ta hiểu lầm ông, rằng ông đang đặt rất nhiều hy vọng ở anh. Những lời nói của thủ trưởng thâm thúy quá, khiến anh không thấy hết khuyết điểm của mình, mình phải làm gì để sửa chữa nó. Thọ hiểu có thể anh sẽ bị thôi chân trợ lý, chuyển về nơi cũ.
Mưa cuối thu bay nhè nhẹ. Vòm hoa sữa trên đầu tắm trong ánh đèn cao áp sáng trắng vui vẻ rắc hương nồng nàn, phả vào không gian cái gì đó làm người ta xao xuyến. Nhìn đoàn người đang hối hả làm ăn, hối hả tiến thân quanh mình, Thọ bỗng thấy sung sướng được một mình. Lại một câu thơ thời chiến tranh, cái thời gian khổ nhưng rất vô tư đổ xuống...
... Ôi rất lâu rất lâu
Tôi mới đi một ngày thong thả.
* *
Sáng hôm sau. Thọ đến cơ quan với tâm trạng bất cần, bụng bảo dạ: trợ lý giám đốc là cái quái gì! Anh sẽ lui về một phòng ban nào đó cũng được, trở về với say mê thầm kín của mình là hoàn thành một tập thơ. Anh đã rồ dại mà bỏ đi âm điệu trong tâm hồn mình, chạy theo bậc thang danh vọng trong chốc lát. Phù phiếm cả. Giờ là lúc phải trở về, anh nhủ thầm và cho tiền hai người ăn mày khi đi bộ đến cơ quan.
Trên bàn làm việc của anh có mấy bông hồng nhung đẹp tuyệt, ngát hương. Nhưng hình như của đứa nào chơi xỏ. Thọ giận tái người, muốn quăng cốc hoa đi. Anh càng chua chát hơn khi K. đi qua bàn vào thẳng phòng giám đốc, chả hỏi han lời nào.
Độ mười giờ, mọi người trong văn phòng biến đi đâu hết, chỉ còn lại cô văn thư trẻ măng, xinh xắn. Thọ tiến đến cái bàn có cái giá để đầy những con dấu. Anh thấy cô căng người lên như đang chờ đợi.
- Vân biết lọ hoa của ai không? - Thấy Vân mỉm cười, Thọ hỏi tiếp - của cô à?
Anh đi quanh bàn, cố kiềm chế rồi bỗng bùng lên:
- Cô chế giễu tôi đấy à? Cô tưởng tôi cần cái chức gì gì lắm đấy hả. Tôi là tôi, hiểu chưa: Cô cứ việc ngồi mà vào sổ các công văn và đóng dấu. Còn tôi vẫn là tôi - Anh thở dài chua chát. Mắt Vân mở to ra trước mặt Thọ, anh thấy từ đó những giọt nước đang bị ghìm lại để khỏi lăn ra. "Em chỉ muốn anh khỏi buồn thôi mà", Vân nhỏ nhẹ nói.
Cô nhẹ nhàng đứng dậy ra ngoài, dáng đi hơi kỳ quặc, không sập cửa giận dữ. Hết buổi làm việc, Thọ ngượng nghịu đến cái bàn có những con dấu và đề nghị "Vân đi uống nước với anh đi". Anh đợi hơi xa cổng cơ quan một quãng, sốt ruột nghĩ rằng cô đang đánh phấn lại nước da vốn đã trắng. Nhưng Vân không đánh phấn, cũng không tô lại lông mày, làm Thọ rất dễ chịu.
Buổi chiều thật êm dịu. Trên hồ Tây, một cánh buồm lạc ra xa không vào được, in nét thẳng, mảnh trên đường viền xanh rì của bờ bên kia. Chuông khóa lễ chùa Trấn Quốc vẳng ra rất khẽ. Tất cả thật tuyệt diệu, chỉ trừ tiếng xe máy. Lần đầu tiên Thọ thấy uống bia lúc cuối thu thú vị hơn mùa hè ồn ĩ. Bên anh có cô gái xinh xắn, non dại, một bông hoa mà nhiều kỹ sư trong cơ quan mong muốn.
"Mình không tiếc là đã có vợ. Mình chỉ đáng hưởng hạnh phúc thế này thôi.
Thọ nhắm mắt lại tận hưởng sự êm đềm tĩnh lặng. Rồi anh sửng sốt thấy Vân sâu sắc, già dặn chứ không hời hợt như anh hằng tưởng về đám con gái trẻ. "Ông K. phê anh là không đúng. Chính ông ấy phải truyền đạt chủ trương của mình tới các cấp dưới. Đằng này ông ấy đùn cho anh, anh lại phải gánh lấy phản ứng của mọi người, rồi ông ấy lại đổ tội cho anh. Thủ trưởng thế là thâm lắm", Vân đã nói như vậy.
Thọ về nhà hơi muộn. Bao giờ cũng thế, anh lăn ngay vào sự ầm ĩ của hai đứa trẻ. Đứa lớn khoe được mươi con hài", đứa bé hát một bài mới được dạy. Nhưng khi nghe vợ khoe bức tranh Tàu mới mua, anh sầm ngay mặt lại. "Thật là ngu ngốc, chẳng có tâm hồn gì cả", Thọ nghĩ, tự nhiên nhớ câu Vân nói: "Em ghét những con dấu lắm".
Thọ bị thôi chân trợ lý, về làm nhân viên èng èng dưới phòng kỹ thuật. Hết những cuộc trao đổi, truyền đạt với các trưởng phòng. Hết những ý kiến người ta tham khảo anh xem có nên chi mười triệu đồng, có nên triển khai chiến dịch này, dấy lên phong trào nọ... Mấy tay vật tư láu cá không còn đón ý anh, thỉnh thoảng mời anh đi uống bia như trước. Thậm chí có kẻ không còn gọi "anh Thọ" nữa mà ông ông, tôi tôi, có lúc hạ anh xuống hàng "cậu".
Vị chát đắng do thất sủng không làm, Thọ sốc lắm. Bù lại, anh có một người bạn để tâm tình, những phút giây êm đềm. Cặm cụi kẻ vẽ, tính toán trên bản vẽ kỹ thuật, anh thường nghĩ tới cái bóng dáng nhỏ xinh mà anh sẽ đợi, hoặc sẽ chờ anh sau giờ làm việc. Rồi sẽ là một cuộc đi dạo trên xe đạp qua phố vắng hay cốc nước trong một quán rất kín đáo, có nhạc êm, để chỉ nói về thời tiết, về giọng hát mới nổi. Nỗi lo giá cả của vợ, hay sự tính toán của thủ trưởng chẳng là gì trong những phút giây ấy.
Đôi lúc Thọ nghĩ đến những quan hệ giữa anh đàn ông tuổi đã rung rúc với cô gái trẻ, hay một bà dòng dòng với cậu trai tơ, đang được coi là "mốt". Mình có thời thượng không, có lợi dụng không? Không, không hề. Giữa anh với Vân rất trong sáng, rất có văn hóa. Kinh nghiệm và nỗi sợ hãi sự nguy hiểm khiến anh duy trì được một tiết tấu chậm rãi, gắn bó. Còn cô thì tin cậy anh biết bao trong sự bồng bột, bất thường của mình. Và vợ anh... Trời ơi, vợ anh sao cái gì cũng hợp lý thế? "Vợ người thì đẹp vợ mình thì tử tế... Thế mới khốn nạn". Mẹ kiếp, thằng nhà văn nào viết đến là đểu.
Một ngày giữa đông sau hồi mưa phùn gió bấc, nắng hanh làm bùng lên cái sắc đẹp mãnh liệt trên má trên môi, trong mắt những người con gái. Thọ ngồi trong quán cà-phê quen thuộc bỗng ngỡ ngàng khi Vân tới. Cách ăn mặc cực kỳ đơn giản của cô đã làm anh quên ngay những ngày giá rét vừa qua. Những đường nét tròn trịa lộ ra rõ ràng, bất ngờ như lần đầu, nhất là chỗ cổ tay. Anh âu yếm hỏi cô có bao giờ đánh phấn không, rồi giọng khàn lại: "Anh thích em lắm".
"Để làm gì, hả anh?".
"Chả để làm gì. Đơn giản là anh thích em". Anh trả lời thế rồi rủ cô đi xem phim. Trong bóng tối của phòng chiếu, tay cô để yên trong tay anh.
"Anh thích em lắm".
Ngày hôm sau anh nhắc lại điều ấy và hôn cô vào má. Mắt Vân bỗng nhòe nước làm anh luống cuống, định giải trình thế này thế nọ. Nhưng cô đã gỡ ra cho anh: "Anh chỉ thích em thôi. Tại sao em lại chỉ được thích? Em không đáng yêu sao? Rút cục thì tại em tất cả, vì em đã yêu anh mà không yêu cái người yêu em. Nhưng không sao, thế mới đáng đời em".
"Thôi về đi anh" - Vân nói nhưng không đứng dậy. Anh lại thấy bàn tay cô quá nóng.
Vài tháng đã qua đi. Cái thời gian hết sức dịu ngọt của lỡ hẹn, những cái hôn, chờ đợi cái gì không biết. Cuộc sống bỗng đầy ý nghĩa với họ, dù xung quanh thời tiết đang rét cắt ruột. Một lần nghe thấy người ta kháo nhau "anh già mà đi với em hay quá nhỉ", anh sướng vì kiêu hãnh, mất ngủ cả đêm.
* *
Sau Tết, K. mời Thọ lên. Ông tự tay pha trà, mời thuốc với bộ điệu khá lúng túng rồi đột ngột nói trước đây ông đã lầm đánh giá không hết khả năng của anh. Ngay bây giờ đây ông quyết định đưa Thọ trở về cương vị cũ. Quyết định đã được trưởng phòng tổ chức thảo, đánh máy xong, chỉ còn thiếu chữ ký, nhưng ông muốn biết ý của anh thế nào.
Nhưng tôi cũng còn một chút băn khoăn và muốn đề nghị với ông- K. ngập ngừng chuyển cách xưng hô - Cái quan hệ của ông với cô Vân ấy mà, tôi thấy chẳng có vấn đề gì, bản thân tôi trước kia cũng thế. Nhưng người ta nói nhiều quá, sợ không được suôn sẻ khi bổ nhiệm. Đấy là tôi chỉ nói để ông tham khảo chứ không có ý cấm đoán, ra điều kiện gì. Nhưng ông cũng nên cân nhắc kỹ.
Tối hôm đó, sau khi kể hết mọi chuyện với Vân, Thọ nói rằng việc riêng của anh chẳng ai xía vào được, chân trợ lý chả là gì, rằng giờ đây không có gì quý bằng "chuyện của chúng mình". Đang bực tức một cách hăng hái, anh như người bị dội gáo nước lạnh.
- Thôi anh ạ - Vân nói - Cũng nên nhận, ông ấy trông đợi mà mình từ chối cũng không hay. Chuyện của chúng mình cũng nên thôi. Anh có bỏ được vợ con đâu mà.
Thọ đờ người vì những ý tứ rõ rành rành, quá sáng suốt. Nhưng anh chưa chịu bất lực. "Chẳng nhẽ lại thế. Anh để tùy em. Chúng mình rất yêu nhau cơ mà".
- Ý em là nên thôi.
Giọng nói dứt khoát khiến anh bàng hoàng. Đêm ấy Thọ day dứt. Hay là Vân không còn yêu? Tự kiểm điểm lại, anh thấy mình rất trong sáng, không hề lợi dụng cô, giữa hai người đã có một đoạn đời rất đẹp, thôi thì thôi, anh cũng chẳng có gì để phải lên án mình về đạo đức. Anh đã yêu, thế thôi, cho đến khi cô không còn yêu anh nữa.
Mặc lòng sự ngần ngừ chưa quyết của Thọ, giám đốc K. vẫn ký quyết định dùng lại trợ lý cũ. Hằng ngày anh về chỗ cũ ngồi thảo công văn, gọi điện thoại, soạn kế hoạch làm việc của K., nhắc bà tạp vụ "ngày mai chuẩn bị năm cốc nước chanh để giám đốc tiếp khách". Qua tấm bình phong chỗ anh ngồi vẫn có tiếng máy chữ lách tách, cái bàn đặt giá để con dấu, có điều ngồi sau đó không phải là Vân.
Mùa hè, Thọ đi Đức công tác mang về một phiên bản tranh bảo tàng Đrexden thay vào bức lịch Tàu vợ mua ngày nào, có văn hóa hơn.
Phố Hàng Lược một ngày áp Tết. Những gương mặt bộn rộn, những áo bông áo len mốt mới nhất tíu tít bên cúc, đào. Người ham vui đi tìm hoa, người thích lộc vác về nhà chậu quất dềnh dàng.
Thọ bước vô định, để mặc cho dòng người dịch chuyển chầm chậm cuốn trôi đi giữa phố hoa. Quả là anh không cần mua thứ gì, ở nhà vợ đã sắm sửa đủ cả Thọ đi cho đỡ buồn, đỡ nhớ một cái gì đấy, mà anh không biết rõ. Anh không cần, không tìm nó, nhưng luôn luôn thấy thiếu, vì thế mà lòng anh hay trống trải, cuộc sống thiếu một chất men say. Không hẳn đã là nỗi buồn.
Cái tệ nhất là Thọ không biết mình đang cần gì.
Dăm năm đã qua đi. Thọ đã thôi chân trợ lý mà ngồi một chỗ khác cao hơn, nhưng vẫn chưa được là phó giám đốc kỹ thuật của xí nghiệp. Anh đã chán ngán những cuộc đấu đá thắng thua, trở nên mệt mỏi, chức vụ phó giám đốc với anh giờ chả còn quan trọng mấy.
Thọ biết với tâm tính e dè, không dám đương đầu của mình, anh chỉ có thể đạt đến chân chuyên viên mà thôi, không ai giao quyền quản lý cho một người "chuyên môn thuần túy". Anh đã béo ra, huyết áp bắt đầu cao, vẫn có duyên với phụ nữ, nhưng rất thờ ơ. Không hiểu sao Thọ hay ngoái lại đoạn đời đã qua để rồi thấy trống rỗng, bất mãn với mình. Anh có lành hiền quá, có đạo đức giả không? Cái cảm giác mình chưa được sống đeo đẳng Thọ mỗi lúc một nặng.
Đang ngó theo một cành đào phai trôi bồng bềnh trên dòng người, Thọ thấy Vân. Đang đứng chọn hoa hồng. Cái cảm giác rất quen thuộc dạo nào trào dậy làm anh hồi hộp đến nghẹn ngào. Thọ sững sờ với chính mình. Vân đấy, áo len nâu có những đường kẻ vàng, quần mầu ghi sáng, nom kém rực rỡ, nhưng đầy đặn, đàn bà hơn ngày xưa nhiều.
Cảm thấy có người đang theo dõi mình, Vân quay lại. Ngay lập tức Thọ cảm thấy sự hồi hộp trong mình đã lan sang cô. Mắt Vân chợt long lanh và hình như sắp cười. Nhưng Vân đã cúi xuống bó hoa bà hàng đang chìa ra. Chẳng quyết định gì cả, anh tiến đến chỗ cô. Rồi cũng đến lúc cô chọn xong hoa và ngẩng lên.
- Anh.
- Bao nhiêu đấy bà?
Thọ rút ví trả tiền cho bà bán hoa, bỏ mặc cử chỉ phản đối của Vân. Họ đứng đấy một lúc, im lặng. Rồi Vân bước đi trước, bó hồng bạch trên tay, mái đầu uốn rất hợp với lứa tuổi còn son hơi cúi xuống. Cảm giác hồi hộp gần như lo sợ đè lên cả hai, khiến họ thốt ra những lời thật ngớ ngẩn.
- Hoa đẹp thật.
- Vâng.
- Anh cứ tưởng năm nay sương giá xuống sẽ hiếm hoa.
- Năm ngoái cũng thế mà hoa vẫn nhiều.
- Em đi có một mình à? - Thọ ngập ngừng - Ta vào kia uống cà-phê đi.
Quán giải khát áp Tết vắng tanh. ông chủ còn trẻ uể oải đọc báo. Không có cà-phê, không nước uống. Cuối cùng Vân gọi dứt khoát: "Ông cho hai cốc kem". Có cái gì đấy nghịch ngợm điên rồ trong cốc kem ngày đại hàn khiến họ vẫn không thể ra lời ngay được. Thọ ngắm gương mặt yêu dấu thuở nào. Anh biết Vân đã một con, gia đình yên ấm. Anh kể về sự mệt mỏi lâu nay, nỗi chán ngán cuộc đời công chức, về cánh cửa sổ phòng anh không bao giờ đóng, đêm là thời gian của thần thánh.
"Không có vợ con vào trong đó", anh nói thêm và không kìm nổi: "Nhưng ngày ấy sao em thôi anh dễ thế? Hay là vì em đã có người khác?".
- Trời ơi, anh chả hiểu gì cả.
Vân trả lời buồn bã, nhìn anh bằng ánh mắt không tiếc nuối, ánh mắt mà anh còn nhớ tới nhiều trong những đêm ròng. "Chẳng lẽ anh không thấy là em chỉ yêu có mình anh. Chúng mình đã có những kỷ niệm đẹp về nhau, em sẽ giữ gìn chúng suốt đời. Nhưng anh làm sao mà lấy em được. Anh còn gia đình, công tác, còn bao nhiêu thứ cơ mà".
- Vậy ra em đã cố tình bỏ đi để cho anh được yên bề? Vậy mà anh cứ nghĩ rằng... Trời ơi, sao anh lại nghĩ thế?...
- Lẽ ra em không nên nói ra, để anh được trọn vẹn. Nhưng anh đã biết mất rồi. Giọng Vân bỗng dứt khoát - Mà thôi, đào lên có ích gì. Em đã chồng con, cũng yên ấm như bao người. Anh mừng cho em đi chứ. Anh không thích ư?
Vân đứng dậy, hấp lấp bỏ đi. Khi Thọ trả xong tiền cho chủ quán, ra tới đường thì cô đã đi mất.
* *
Sự xấu hổ, hối hận dằn vặt Thọ nhiều đêm. Rồi một hôm anh tìm Vân giữa đường.
- Bây giờ anh đã hiểu ra anh chỉ là một thằng hèn, rất hèn. Có lẽ anh vô tư, không tính toán nhưng anh đã bị quá nhiều nỗi sợ hãi đè nén, sợ thủ trưởng, sợ điều tiếng, sợ tan vỡ gia đình, ảnh hưởng con cái. Suốt đời anh bị nỗi sợ ám ảnh, không dám làm theo ý mình, tình cảm của mình. Anh thật là... thật là... đê tiện. Anh kinh sợ bản thân mình.
- Thôi anh ạ. Sám hối mà làm gì - Vân nói nghiêm nghị - ích gì nữa. Không có em, anh vẫn sống bình yên đấy thôi. Mà em cũng thế.
- Không đúng. Anh không hề bình yên đâu. Em không tưởng tượng nổi năm giờ sáng vợ anh lăn từ trên gác xép xuống, không kịp đổ bô nước giải đã cầm lấy cái bàn in tiền. Không phải giấy bạc đâu, tiền âm phủ - Quẹt quẹt, kít kít... nhà anh sản xuất tiền cho người chết để sinh sống. Quẹt quẹt... ngày nào cũng thế. Và anh vẫn đi làm, đạo mạo, làm trợ lý giám đốc, bây giờ thì anh có chức vụ cao hơn rồi.
Gió vô tư thổi mát nhẹ. Trong vườn hoa lúc ấy rất vắng, khiến Vân có thể đặt lay lên mái đầu đau khổ của Thọ. Những lời tự chế giễu của anh kinh khủng quá, khiến lòng chị se lại, muốn vuốt ve nhiều hơn mái đầu thân thuộc. Nhưng chị phải bình tĩnh. Nếu không nỗi đau về cuộc sống ngày thường tẻ nhạt cũng sẽ thức dậy, cuốn chị vào cơn bão mất.
- Thế thôi. Thọ ơi, chúng mình hiểu nhau rồi, và không trách gì nhau nữa.
"Không cần phải gặp nhau đâu..."
Vân nhẹ nhàng rút tay mình về. Nhưng Thọ giữ chặt lấy nó, bồng bột. "Không đúng. Nếu chỉ muốn sám hối, thì anh đã được rồi. Nhưng anh vẫn yêu em. ác cái là anh vẫn yêu em, dù tình em thế nào" - Anh nói và đường đột cắt đứt câu chuyện: "Thôi ta về đi em, anh cũng thấy chúng mình không nên gặp nhau nữa". Nhưng ba hôm sau, hết sức bơ phờ, Thọ lại đón đường Vân đi làm về. Trước dòng người tấp nập, anh như kẻ tâm thần: "Anh chỉ muốn nói một câu thôi, anh thấy rõ anh yêu em yêu hơn trước nhiều". Chính Vân bình tĩnh hơn, chị nhìn quanh rồi quyết định đến một chỗ vắng vẻ để nói với "nhau những lời cuối cùng". Trong căn phòng vắng của một người bạn độc thân, chị bảo anh:
- Không được đâu anh ạ, bây giờ cả hai đều phải rất bình tĩnh. Bao nhiêu nước chảy qua cầu rồi. Mỗi thời có một tình yêu. Đấy là anh vẫn yêu em bằng những kỷ niệm ngày xưa thôi.
- Có lẽ em nói đúng, có khi anh hiểu lầm tình yêu của mình thật. Thế thôi, một tình yêu trẻ con, để khi lớn rồi ngoái lại thấy nó thật đẹp. Có lẽ anh đã điên. Bây giờ anh sẽ bình tĩnh lại, sẽ lại chế ngự mình như xưa. Có điều anh biết chắc mình sẽ không sống yên ấm với gia đình được như trước. Anh sẽ lãng quãng, đổ đốn, có thể có những người khác. Nhưng không có ai để anh yêu đâu.
"Chào em". Thọ đứng dậy. Đi đến cửa, anh quay lại nhìn. Chị vẫn ngồi đó, nhìn theo anh, đôi mắt trong trẻo buồn buồn. Trời ơi, anh làm sao xua đuổi được đôi mắt ấy, nó sẽ lấp loáng, trong đêm anh dài dằng dặc. Thọ quăng túi quay lại, nâng chị đứng lên. Vân hoảng hốt lắp bắp: "Đừng, anh đừng...", nhưng rồi chỉ cưỡng lại có chừng mực. Vả chăng, anh hôn chị thật dịu dàng, lên trán, lên mắt, vào tóc, tai. Sự âu yếm thật tự nhiên, như điều chị vẫn mong muốn sau bao nhiêu năm lấy chồng.
Những ngày sau, rốt cuộc, bằng sự nồng nhiệt, Thọ vẫn đến được với Vân. vị ngọt ngào ban đầu dần biến mất khi Vân cũng trở nên nồng nàn. Chị đẹp ra vì vẻ long lanh trong mắt, mầu hồng trên má, và họ nhập vào thân xác nhau thật tự nhiên.
Ba tháng trôi đi thật nhanh với đôi tình nhân. Những cuộc hò hẹn, giận hờn tí chút, những niềm vui nho nhỏ tặng nhau làm cuộc sống họ đầy ý nghĩa. Thọ chăm chút các con hơn vì tình thương với chúng và làm việc cũng tốt hơn. Cả anh và Vân đều bất ngờ với những trò ma lanh ma cuội, nói dối quanh của mình để che mắt thiên hạ. Bản tính họ vốn thành thực. Điều đó làm cho mỗi cuộc chuyện trò nhuốm buồn một chút. Vào một buổi sáng, khi cơn cuồng nhiệt đã qua, Thọ nhìn Vân đang còn mình trần nằm mơ màng trên giường, nói vui:
- Em bây giờ tham lam hơn cả anh rồi đấy.
- Anh nghĩ sao? Chúng mình cứ thế này mãi ư? - Vân dập tắt ngay sự uể oải trong mắt, bỗng bùng lên - Chẳng lẽ cứ vụng trộm mãi thế này? Em mà lại phải như con điếm, hiến mình cho anh lén lén lút lút, chỉ sợ người ta biết.
- Thế em bảo mình làm thế nào bây giờ? - Thọ lúng túng, tuy biết thế nào cũng đến lúc Vân hỏi câu đó.
- Làm thế nào anh phải biết chứ. Giá anh đừng quay lại. Giá em đừng yêu anh.
- Thì chúng mình vẫn yêu nhau đấy thôi. Hay là... Em tiếc à? Em không thấy sung sướng hay sao?
- Có chứ - Vân nghiêm trang - Em còn yêu anh hơn ngày xưa. Em muốn sống với anh. Em muốn tất cả phải sòng phẳng, không thì em xấu hổ với con chết mất.
"Glatxnơt"!
Chị bỗng kêu lên bằng tiếng Nga làm anh phì cười. Tính công khai. Quái quỷ thật, sao lại còn nghĩ ra cái trò ấy. Nhưng anh chợt tỉnh. "Em có hiểu những điều ấy sẽ dẫn đến đâu không?". Anh luống cuống thấy chị bắt đầu thút thít. "Anh rất muốn sống với em, nhưng không phải dễ dàng gì. Cái chính là chúng ta chưa bao giờ nghĩ đến chuyện ấy một cách nghiêm chỉnh". Thấy Vân đang rất sốc, anh tìm lời vỗ về, hứa "sẽ tìm ra giải pháp". Rồi họ chia tay nhau gù gù như đôi chim.
"Em muốn sống với anh", Thọ nghĩ tới câu ấy luôn, hiểu rằng sự thể sẽ dẫn tới đâu. Rút cục thì lần gặp sau anh cũng vẫn chẳng có giải pháp nào. Chưa bao giờ anh nghĩ đến chuyện xẻ cái gia đình mình ra. Những đứa con đáng yêu biết bao. Bà vợ anh "không có tâm hồn", khi ngủ ngáy to thì có tội tình gì? Thọ đang nghĩ cách làm nguôi lòng Vân, thì chị đã báo một tin làm anh lặng người: "Nhà chồng thấy chúng mình đi với nhau hôm nọ, đã lục vấn em. Không, chồng em chưa biết gì. Em muốn anh định đoạt đi. Anh mất gì khi được em. Còn em thì chúng nó sẽ hiểu mẹ nó". Rút cục thì thằng đàn ông nồng nhiệt trong anh im re. Anh hôn chị, nghịch những lọn tóc quăn sau gáy nhưng bị gạt ra. ỉu xìu như cái bánh đa gặp nước một lúc, anh nói lớn:
- Em điên rồi. Em đầu độc những buổi tối như thế này. Sao chúng mình không lặng lẽ yêu nhau như trước, có hơn không?
- Lặng lẽ. Đồ ăn vụng!
Vân gắt lên. Nhưng khi Thọ cũng nói to rằng không thể tiếp tục như thế này được, rằng chị đã đổ dầu vào lửa quá nhiều, đến lúc đám cháy to lên sẽ không dập được, thì chị dịu lại trước, vỗ về anh. Chị xin anh "thôi", thở vào gáy anh nóng bỏng. Nhưng Thọ không thể nào yêu đương được lúc này. "Thế nếu khi cùng sống chúng mình lại không hợp nhau thì sao!", Thọ nói vậy rồi thấy mình quá ác, liền tìm cách làm cho Vân nguôi ngoai đi. Cuộc chia tay lại bịn rịn, tần ngần.
Một tuần liền, Thọ không đến gặp Vân, anh cảm thấy những điều phiền phức, rắc rối sẽ xảy đến. Thọ định chiều nay sẽ đón Vân ở ngã ba quen thuộc.
Cuối buổi sáng, Thọ được báo xuống phòng thường trực có người gặp. Một phụ nữ đang chờ, vẻ người hơi cũ. Bà ta bồn chồn, hỏi ngay: "Anh Thọ ạ?".
- Tôi là Hồng Nhân, phụ trách nữ công - Bà ta nói ra tên cơ quan của Vân - Có một việc thế này, tôi phải báo để anh biết trước. Trước mặt mọi người, Vân công nhận anh và cô ấy yêu nhau, và cô ấy chẳng cần gì cả, muốn đi đến đâu thì đến. Gia đình họ lại yêu cầu gặp anh để xác minh rồi sẽ tỏ thái độ.
"Bây giờ Vân và ông anh chồng đang ngồi dưới phòng thường trực".
Vậy là cái đó đã đến trước. Vậy ra Vân... Cô ta đã... Và cả anh chồng. Hắn là người thế nào? Bỗng nhiên Thọ nghĩ đến ông thủ trưởng, đến vợ và con. Phải, những đứa con anh sẽ ra sao khi sự đổ vỡ không được chuẩn bị ập đến quá bất thình lình. Anh đã có hai mươi nhăm năm công tác, có một "quá trình" như người ta thường nói, sang năm đến kỳ tăng lương, anh có thể kéo dài những ngày hưu trí ở bệnh viện Việt - Xô...
Trong một tích tắc, Thọ thoáng nghĩ rằng những điều mình vừa tính đến đều có vẻ đê tiện. Nhưng không kịp nữa rồi, đôi chân rất nặng nề đưa anh tới phòng thường trực nhanh hơn mọi quyết định. Đôi mắt đờ đẫn của Thọ nhận ra ngay cái dáng ủ dột của Vân sau lưng bà thường trực. Thấy anh, chị ngồi thẳng người, bấu chặt vào mép bàn. Bất giác, anh né tránh cái nhìn khắc khoải, nhìn sang người đàn ông thấp nhỏ, gày gò trạc tuổi mình ngồi trên chiếc ghế băng.
"Những thằng gày thường hay quyết liệt".
Quả như Thọ nghĩ, tay đàn ông đứng phắt dậy bắt tay anh, bàn tay bé mà cứng quèo. Hắn ta vào chuyện luôn:
- Tôi là Tí, thợ mộc tự do. Chuyện muốn nhờ anh cũng chẳng có gì. Cô em dâu tôi hôm vừa rồi có bảo là anh và cô ấy yêu nhau. Gia đình tôi tôn trọng tự do của anh chị, nếu có cái đó thì xin anh cho biết để chúng tôi có cách xử. Nếu không có thì chẳng bận gì đến anh, cô ấy yêu anh một bề, gia đình sẽ có biện pháp giáo dục trong nhà với nhau.
Cái lưng bà thường trực ngọ nguậy "hình như bà ấy muốn quay lại, bà ấy muốn lắm mà không dám quay lại". ý nghĩ của Thọ bị bắt chặt vào cái lưng.
"Anh cứ yên tâm, cậu em tôi chưa biết gì đâu", Tí nói thêm.
Mặt Thọ vẫn không rời được cái lưng. Anh không hiểu mình đang nghĩ gì. không hẳn là về ông thủ trưởng, bà công đoàn không hẳn là vợ con. Thế thì vì cái gì mà anh lo sợ thế. Hay vì nghĩ đến những ngón lay ngắn rất cứng của Tí khi cầm cái dùi đục? Bỗng nhiên mồm Thọ mấp máy, những điều anh chẳng ngờ:
- Tôi với Vân không có chuyện gì. Là chỗ quen biết cũ thôi.
Cảm ơn anh. Cảm ơn chị Hồng Nhân. Gia đình phiền anh Thọ và chị thế thôi. Còn bây giờ chúng tôi sẽ tự xử lấy với nhau. Xin phép ạ.
Thọ lấy tay che mắt. Cạnh anh là Vân. Cô ấy đang làm gì. Tay thợ mộc đã đi ra còn quay lại làm gì nhỉ. Bỗng nhiên anh nghe thấy bà Nhân kêu "ối". Mặc dù Vân đã cúi xuống, Thọ vẫn thấy má chị hằn lên những vết ngón tay. Bà Nhân ôm lấy mặt Vân chắc đang ướt đầm, hổn hển. Về thôi em. Đây không phải chỗ em trông cậy rồi. Về! Về!".
Thọ phải mượn chén rượu đắng qua trưa mà vẫn không say được. Tại sao anh lại nói thế? Cái chính là anh nói thế có đúng không? Tại sao nỗi sợ quái ác mà anh tưởng không còn lại ập đến đúng cái lúc ấy? Cuối giờ buổi chiều, anh lại có điện thoại, tiếng bà Hồng Nhân: "Báo cho anh biết là Vân uống thuốc ngủ tự tử, đi cấp cứu ở bệnh viện Bạch Mai rồi gác máy. Thọ ngồi đờ đẫn một lúc rồi bổ đi tìm người bạn bác sĩ. Liệu anh có kịp không? Có kịp cứu được gì cho cái bảo vật đã tự dâng hiến cho anh? Bạn anh khuyên thư thư hãy vào, cho bớt người nhà khỏi rắc rối. Anh đành dằn lòng đợi.
Buổi tối, Thọ vào khoa hồi sức. Rất cẩn thận, người bạn bác sĩ để Thọ đứng ngoài, vào xem xét trước. Lúc trở ra, anh ta đưa Thọ cái áo blu trắng. "Vào đi. Đã rửa dạ dày. Qua cơn nguy hiểm rồi". Trong phòng cấp cứu lỉnh kỉnh bình ôxy, chai lọ, có một người đang ngồi. Anh ta ngẩng lên, mặt đẫm nước mắt. Thọ nhận ra ngay em trai của ông anh chồng bệnh nhân và vào luôn một vai kịch hợp lý.
Thưa bác sĩ, tại sao cô ấy lại làm thế? Đây, cái lọ Gacđênan hết sạch. Tại sao, tại sao... - Giọng anh ta qụy lụy - xin các bác sĩ hết lòng, gia đình chúng tôi sẽ cảm tạ.
- Không có gì đâu. Anh cứ yên tâm.
Thọ đến bên cái giường giữa phòng. Vân nằm đó nhợt nhạt, gầy hóp. Dưới tấm chăn mỏng là lấm thân quen thuộc xiết bao. Vầng trán dưới mái lóc đen xơ xướp, xanh xanh, trong suốt. Bất giác, anh làm như xem mạch, cái cổ tay lỏng ra dưới tay anh. Thọ phải bước hấp tấp ra khỏi phòng để tránh nước mắt khỏi trào ra.
"Anh cứ yên tâm. Chúng tôi sẽ hết sức". Anh nói với chồng Vân, giọng hình như hơi sẵng.
* *
Cái kết cục của câu chuyện tình, tất nhiên chẳng thể vui vẻ, nhưng cũng không đến nỗi quá bi thảm. Vân ra viện sau mười hôm phục sức, dần dần khỏe trở lại, có điều mang dị tật, cổ ngoẹo sang một bên. Gia đình chị có chòng chành lắc lư đôi chút nhưng không tan vỡ, vì người chồng, dẫu có ông anh thợ mộc nghiêm khắc không thể ghét vợ được. Ngày giỗ bố chồng năm ấy, Vân viện cớ ốm đau, không về thắp hương ông cụ.
Về phía Thọ cũng không bi đát, sau ba lần đón gặp Vân không được chị đáp lại, chẳng lẽ cũng uống Gacdênan theo. Như thế câu chuyện có vẻ tiểu thuyết thế nào. Và cái chính là anh còn phải sống, thiên hạ có bao nhiêu đứa cơ hội, hèn nhát, đểu giả vẫn sống nhăn ra đấy. Thần kinh con người hiện đại rắn chắc lắm. Chỉ có điều, giữa dòng đời, anh luôn luôn phải gậm nhấm nỗi sợ của mình.
Nguồn: Văn tuyển - vantuyen.net
http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=466
Thúy Vân
Trần Chiến
Bấy giờ gia đình Vương viên ngoại hay tin Thúy Kiều, bèn tất tưởi đón nàng về sau mười lăm năm lưu lạc. Bố mẹ gặp lại con, chị em trông thấy nhau ứa nước mắt, đôi hồi hàn huyên không bút nào tả xiết. Chàng Kim Trọng gặp lại người yêu dấu nhất đời thì đầm đìa lệ, thương cảm không ra được lời nào. Đêm ấy, về đến nhà trọ, cuộc trùng phùng ngây ngất khiến những con người tội nghiệp vì xa cách lúc thì đua nhau nói kể chẳng quản gì tôn ty thứ bậc, lúc thì lặng đắng mênh mông cả gian nhà.
Sáng hôm sau thức dậy, Thúy Vân sang phòng viên ngoại thưa rằng: “Trước đây sở dĩ con được kết duyên với chàng Kim vì chị đã bán mình làm tròn chữ hiếu, không thể giữ lời nguyền nên mới để con nối vào sợi tơ duyên ấy. Nay nhờ phúc ấm, chị con được tái sinh, thì lời nguyền còn đó, ví như không sớm thực hành thì đến lúc nào cho tiện...” Ông bà Vương vui mừng ưng thuận, bèn bàn định giờ thiêng ngày tốt cử hành lễ hợp cẩn. Đôi vợ chồng Ngâu thế là từ nay hết hạn, không còn cách trở nữa.
Nàng Vân quay về phòng mình thấy người nhũ mẫu là Sương thị đầm đìa nước mắt. Sương thị gắn bó với gia đình viên ngoại đã lâu, từng bế cả ba chị em Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Quan, nay đang trông lũ con nàng. Gạn hỏi nguyên lai, bà ta chỉ rầu rĩ: “Cô tính dở rồi cô ơi”, rồi một mực xin về quê. Vân hỏi: “Sao những ngày gia đình hoạn nạn bà không rời bỏ, nay đại hỷ trùng phùng, bà lại bỏ đi?” Sương thị gạt nước mắt: “Họa phúc có nguồn không phải chỉ một ngày, khó nói lắm cô ơi”, rồi khăn gói hối hả lên đường. Gia đình viên ngoại níu buộc không được, bèn độ cho vàng bạc để bà Sương về an lão với con cháu cuốc cầy mộc mạc.
Hôn lễ Thúy Kiều Kim Trọng cử hành đơn giản nhưng đậm đà, rồi vợ chồng viên ngoại trở về chốn cũ. Kim Trọng mang hai vợ - hai chị em cùng đàn con sang Nam Bình nhận chức huyện lệnh. Ngày ngày, chàng Kim tha thủi chốn công đường, trò chuyện với dăm ba tên nha lại, xử vài vụ kiện con con. Tối về chàng thăm qua quýt mẹ con Thúy Vân rồi sang phòng Thúy Kiều ngay. Đối với chàng và nàng Kiều bây giờ mỗi một ngày là một lần mới yêu nhau, mỗi giây phút chuyện trò đều còn tinh sương, như chưa hề có mưa dập gió vùi, mặn nồng hơn cả những cặp vợ chồng bình thường. Nhan sắc đã đến hồi đậm đà của Thúy Kiều, tài cầm kỳ thi họa của nàng khiến chàng Kim đắm đuối, không thể rời xa. Dù ở nơi công đường hay bên người vợ hiền cũ kỹ, hoặc chơi cùng đàn con xinh xắn, dĩnh ngộ, lúc nào chàng cũng chỉ mơ tưởng đến cùng ngâm thơ xướng họa, nghe câu đàn trác tuyệt của Thúy Kiều, rồi dắt nhau vào cõi Vu Sơn bí ẩn.
Thúy Vân bấy giờ tuổi ngoài ba chục, lòng xuân chưa nguội, hiềm vì bìu níu đàn con mà chẳng để ý đến sự thay đổi nơi chồng. Nàng đã sinh nở vài bốn lần, khuôn trăng chẳng còn đầy đặn, nét ngài đã kém phô tươi. Ban ngày nàng chăm sóc con, tự tay tắm rửa, cho ăn uống, dạy chúng những chữ thánh hiền đầu tiên. Sương thị đã về, nàng không muốn để ai làm việc đó nữa. Con cái là vàng bạc của nàng, trừ phi tay nàng ra, không ai chu đáo được cho chúng. Tối đến mệt mỏi quá, nàng vật mình xuống ngủ ngay, chẳng kể gì đến dung nhan, điểm tô sắc đẹp như hồi còn trẻ. Kịp cho đến một sáng mai, bắt gặp Thúy Kiều nơi vườn cảnh, nàng thấy mắt chị long lanh sáng, da thịt mình mẩy roi rói tươi. So với hồi đôi tám, mười phần xuân đã gầy mất ba bốn phần, nhưng vẫn còn là trang quốc sắc thiên hương đủ sức làm xiêu lòng mọi đấng nam nhi. Bèn giật mình ngẫm nghĩ, vấn an chị vài câu chiếu lệ rồi về phòng mình, ngồi thừ trước gương.
Chiều hôm ấy, Kim Trọng đi kinh lý xa về, vào thăm vợ con, nàng liền bảo: “Chàng phải để mắt đến việc học của con đi. Thằng bé lớn học Tam tự kinh chẳng thuộc”. Chàng Kim ngần ngừ giây lát rồi buông sõng: “Thì cái ấy nàng bảo lại thầy đồ uốn nắn cho nó chứ. Ta đã trả tiền cho cử nhân họ Dương rồi kia mà”. Nàng lại bảo: “Con bé con hay đái dầm lắm, ngộ nhỡ tì vị nó làm sao...”
“Nàng bảo nha môn gọi thầy lang ngoài phố. Cứ thầy hay nhất mà triệu. Ai chả muốn chữa bệnh cho con huyện lệnh”.
Chàng Kim nói rồi dợm đứng dậy. Thấy vợ đã nước mắt sũng vạt áo, thì hỏi: “Làm sao?” Thúy Vân thổn thức: “Bấy nay chàng chẳng đoái hoài đến mẹ con thiếp, thật tủi hổ muôn phần”. Kim Trọng an ủi: “Ta bận việc quan quá, ban ngày mệt nhọc, tối thật không muốn sang ngủ cùng, nên có phần sao nhãng. Để đêm nay, ta sẽ đến cùng nàng”. Thúy Vân vui mừng trang điểm, tô lại đôi mày, xức hương thơm nức. Tối ấy chẳng thấy chàng về. Mở cửa sổ ngóng sang công đường thì đèn lửa đã lặng tờ, lại nghe bên kia vang lừng sênh phách, réo rắt câu ngâm. Ngày sau gặp lại, Thúy Vân nhắc, chàng Kim lại y lời. Nửa đêm chàng sang, nàng khấp khởi đón vào, hồ hởi kể hết chuyện con lớn sang con bé, chỉ thấy chồng im phắc, với tay sang đã ngáy pho pho. Mới hay chàng vừa ở bên kia về, đi chợ đã hết tiền, chỉ còn nằm trơ như khúc gỗ, chẳng còn thú vị gì đến nàng.
Đêm ấy nước mắt nàng Vân đầm đìa gối lẻ. Nhưng sáng hôm sau cố dằn lòng, nàng lấy sự dịu dàng hỏi chồng: “Chắc chàng làm việc quan bận bịu lắm, để hôm qua ngủ vùi trong mệt nhọc sớm quá? Có cần để thiếp tìm danh y chạy chữa cho chóng phục hồi”. Kim Trọng đáp hững hờ: “Ờ, có mấy vụ kiện lớn làm ta khó xử, cũng xin nàng đừng vì thế mà lo xa”, rồi rảo lên công đường ngay. Vân sầm mặt, nghĩ giận chồng, giận mình mà không biết tính làm sao. Việc nhà cứ nặng trĩu, bập bỗng như vậy. Đến tháng năm Kim Trọng đi công việc ở Hàng Châu về, mang cho mỗi người vợ một hộp phấn hoa. Thúy Kiều mừng rỡ đón nhận. Thúy Vân ra chiều dửng dưng. Chị liền hỏi em: “Vân muội không thích hay sao mà làm vậy?” Vân bảo: “Chị thì mới quen với hương phấn, em sao được thế”. Kiều chạnh nghĩ tới thanh lâu hai lượt thanh y hai lần thuở nào, đau đớn khóc nấc lên. Kim Trọng quở mắng Vân, nàng hoảng sợ quỳ xuống tạ lỗi mà rằng: “Em trót nhỡ miệng, trăm lạy chị tha thứ. Nhưng cũng vì tình phu quân với thiếp trước đầy ăm ắp, giờ san sẻ chả còn một phần”, rồi dập đầu chan chát xuống sàn. Bên này, Kiều thổn thức: “Bây giờ không còn vãi Giác Duyên, tôi biết đi đâu bây giờ?” Kim Trọng cau có dỗ dành hai vợ, bên này bên nọ mãi mới êm. Chuyện cãi cọ đến đấy là xong, nhưng hai chị em không bao giờ vui vẻ đôi hồi nữa, nhác thấy bóng nhau ở đâu là tránh, không đừng được thì chỉ trao dăm ba lời nhạt nhẽo. Vân càng năng đi chùa, sống khép mình, từ chối mọi bổng lộc của chồng đem về. Có bận Kim Trọng phải tìm đi tìm vợ đã ở lỳ mấy ngày trên am Thảo Nguyên, hỏi thế nào cũng chẳng tỏ duyên do. Nhưng nàng không thể trái lời chồng mà vào ở hẳn chùa, thiên hạ sẽ nghĩ gì về gia đình quan huyện lệnh...
Sang xuân năm sau, ông bà viên ngoại từ quê nhà sang An Bình thăm hai con gái và chàng rể, lạ lùng thấy Thúy Kiều nhuận sắc, rạng rỡ, còn nàng Vân bủng beo thảm đạm. Giữa cuộc trùng phùng gạn hỏi, chỉ thấy nước mắt chảy vào trong. Đến khi về phòng riêng, Vân òa lên thưa cùng cha mẹ: “Con không có phúc, chẳng được chồng yêu”. Viên ngoại bảo: “Sao lại nói thế. Kim Trọng là người biết ăn ở, đã có với nhau ngần ấy mặt con lại còn bảo không được chồng yêu là thế nào”. Vân đáp: “Con biết điều ấy từ khi chị Kiều về nhà. Ở chung, tự nhiên chàng quên hẳn con đi. Tình xưa chỉ là tình gia giáo, xếp đặt thôi, chứ thực lòng chàng chỉ nghĩ đến chị con”. Viên ngoại bèn mắng: “Tự dưng lại giở giói. Mày là đứa không biết nghĩ. Chị Kiều đã vì bố mẹ, chị em mà bán mình đi, lưu lạc mười lăm năm, khổ nhục ê chề mới trở về, phải có quyền hưởng tình âu yếm của Kim Trọng chứ. Chẳng phải trước kia chính mày đã nói để hai đứa nó nối duyên lại với nhau hay sao?” Vân đáp: “Con biết chứ”. Viên ngoại bảo: “Thiên hạ bao nhiêu gia đình có chồng chung vẫn êm ấm, sao mày không chịu yên một bề, hở con bất nghĩa với chị?” Vân lại đáp: “Khổ là con cũng biết thế”. Rồi chết giấc đi, đổ bao nhiêu nước gừng vào miệng mới tỉnh lại.
Bấy giờ chỉ còn lại hai mẹå con Vương phu nhân ép Vân uống chén sâm hấp, rồi gạn hỏi: “Thế chị Kiều có biết tình cảnh của con không?” Vân đáp: “Có biết. Nhưng chị em khó nói với nhau lắm. Không nói với nhau được hết nhẽ như xưa”. Phu nhân bảo: “Để mẹ nói với Kiều, chị em lấy chồng chung, san sẻ nhịn nhường nhau, lọt sàng xuống nia chứ đi đâu mà thiệt”. Vân kêu lên: “Giời ơi, cái khối tình chẳng thể nào chặt ra chia đều như phân vàng khối bạc được. Nhịn nhường thì ấm ức. Cãi nhau chẳng có lý nào. Không lẽ chị Kiều lại đi tu, hoặc con tách ra ở riêng. Cái sự tử tế nó làm hại cả nhà này”. Nói rồi nín hẳn, không ai cậy miệng ra được nữa.
Quá ba năm ở An Bình, nhờ làm quan giỏi, Kim Trọng được thăng chức ngự sử, về kinh nhận nhiệm sở. Đi theo chàng chỉ có nàng Kiều. Ai hỏi đến Vân, chỉ thấy hai người ngậm ngùi mà chẳng bảo sao.
Người ta bảo ở An Bình có người đàn bà họ Vương tâm tính nhu mỳ, hiền lành phúc hậu, ai ai đều quý mến. Vương thị chẳng biết gia thất ra sao, nhờ nghề làm tào phở ngon mà nuôi được đàn con đông đúc. Sống cùng gia đình có bà nhũ mẫu họ Sương, vẫn đỡ đần giúp giập khi trái nắng trở giời Vương thị hay lên cơn lẩn thẩn.
Nguồn: Đại biểu Nhân Dân - daibieunhandan.vnhttp://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=80&NewsId=76509
Táo mèo
Trần Chiến
1.
Tăng lên tầu Ninh Đàm, toa số 6, chỗ ngồi tốt gần cửa sổ, nhìn theo hướng sẽ đến. Thu xếp xong cái túi đồ thì ngồi thừ lần mần cơn cớ mình ra đi ngày Tết. Giá tầu chạy sớm ông đã chả phải loay hoay với ý nghĩ nên xuống, quay về nhà thu lu đợi xuân hay cứ dấn mình vào chỗ chẳng biết có cái quái gì nó sẽ đón.
Tăng dậy ở D., trường đại học có tiếng cả nước, cho ra lò khối sinh viên nay đã nên danh giá. Thời buổi đòi hỏi cán bộ phải có bằng cấp, D. thêm nhiệm vụ đào tạo trên đại học. Hơn lúc nào hết, những công chức tỉnh thành ngành, các uỷ ban… ham học đến thế. Việc làm không hết, kèm thêm thu nhập, giảng viên D. chuyên cần kèm cặp hướng dẫn, săng sái bảo vệ học viên trong các cuộc phản biện. Cứ mỗi năm, mỗi chu kì năm năm, báo cáo của trường lại dầy thêm thành tích đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.
Được phong giáo sư năm 53 tuổi, Tăng vào loại “nhiều tiềm năng” ở trường, ngất ngưởng một chuyên ngành, ngồi trong vài bốn hội đồng giám khảo. Thỉnh thoảng tỉnh thành này, ban bộ nọ mời ông tham gia nghiệm thu những đề tài đang đẻ ra vô ối. Cứ ngồi đấy tằng tằng chấm cháp, tằng tằng phán bảo, phê bình, uốn nắn một chút, và nhiều hơn, là “khẳng định các giá trị tích cực”, ông sẽ ấm thân lắm. Nói lộc ăn hết đời thì hơi xa, nhưng đến bẩy mươi thì thừa sức. Bởi giáo sư thì coi như chả phải nghĩ đến hưu hắt, tuổi tác cống hiến kéo ra như sợi dây chun, được đến đâu tuỳ thuộc vào vô khối quan hệ trên đời.
Vậy mà bỗng nhiên giở giói. Chán việc. Không ưa chủ tịch hội đồng nghiệm thu này, ghét mặt thằng nghiên cứu sinh nọ. Lười lĩnh các cuộc “trao đổi để đi đến thống nhất”. Có những câu hỏi đột nhiên bật ra: “Giời ơi, dốt thế này mà sẽ lãnh đạo một tỉnh á?”, “Sao ông S. có thể trắng trợn hoan hô một quan điểm sai lệch đến vậy nhỉ?”… Sự kính trọng đồng nghiệp giảm dần. Tệ nhất, là thấy cái tinh thần trí thức trong mình, quanh mình đang nghi ngút bốc hơi. Không phải Tăng thiếu tự tin vào các đánh giá chủ quan, nhưng ông chả bao giờ bảo vệ được chúng. Không nói thì như bị đầu độc, nói ra luôn là thiểu số, có khi gàn dở đến điên rồ. Gần đây nhất, khi lập một dự án vài chục tỉ có mục đích yêu cầu rất hoành tráng, chính quyền thành phố không vời Tăng tư vấn nữa. Tại những câu ấy câu nọ mình đã “phát” trong kì này cuộc kia, hẳn thế. Vắng mình thì chợ vẫn đông mà, có khi còn vui hơn. Nhìn giáo sư A. nổi tiếng to mồm “trung ngôn nghịch nhĩ” mà xem, sau khi được đi tham quan dăm nước đã chẳng đóng góp toàn những “ý kiến xây dựng” là gì.
2.
Ghế trước mặt đã có chủ. Người đàn ông mặc đồ lớn có cravát, xách xăm – xô - nai, nét mặt và bộ điệu quàu quạu, vẻ của người ở quê dẫm phải cứt cán bộ. Vừa ngồi xuống anh ta giở di động nói liên tục, hẹn ai đó sẽ đến chơi Tết, uống rượu cũng được nhưng phải là rượu tây. Với một người khác là tình hình công việc đòi hỏi ghê lắm chưa chắc đã có dịp ghé qua đâu. Oang oang, rông rổng, ông cán bộ mới này mà ngồi chiếu tổ tôm rút lô phôn dễ là các tiên chỉ ở làng phải đi chữa mắt tuốt. “Tuổi này chỉ bốn mươi, lương hệ số ba phẩy chứ mấy, bằng thế nào được mình”, Tăng bất giác so sánh, nghĩ đến những học viên của mình ở một trường cán bộ quản lý, loại trưởng phòng cấp sở vừa tôn thờ mọi tôn ty phẩm trật vừa rất chi tự đại ngắm nghía bản thân.
“Mà “ba phẩy”chắc vừa bước ở ruộng lên mươi năm trước, Tết đến phải thưa gửi biếu xén ra gì…”, lại một chiêm nghiệm về đời công chức bật ra.
Vào tiếp theo là một phụ nữ trạc ba mươi, trông có vẻ đi làm ôsin, và cậu sinh viên, Tăng đoán ngay thế vì xanh xao lắm, gặp đồng hương chiêu đãi lạc luộc hẳn đã là sang. Hai chị em chào hỏi hồn hậu ra lối quê, chỉ có Tăng đáp lại, rồi quay ra nói với nhau về đứa trẻ đợi mẹ, ông bác nghèo mà vẽ việc nhăm nhăm xây nhà thờ họ, món quà định mua cho bà dì mà quên mất. Người phụ nữ bảo có lẽ phải xuống Hà Nội trước rằm, bà chủ chả muốn chị về nào. Quê họ ra giêng hội xuống đồng to vật, ước gì được ở lại chơi…
Tăng đã đem những tâm sự khó bề ngỏ ra trút vào P., một đồng sự. Rằng ông chả tin gì những điều mình đang rao giảng. Rằng đã viết hai giáo trình, nặn lại chúng thành năm quyển sách, lại cấu mỗi nơi mỗi tí vào các thuyết trình, luận giải…, giờ thấy chả có ý nghĩa, có khi còn phản động vì đã cổ lỗ, giả tạo quá. Những giáo điều nền tảng, để xuất phát, giờ mới thấy không phải gốc, bị áp đặt vào từ đâu ấy. Mà những quan sát, chiêm nghiệm về thực tế, ông lại thấy nó phải khác, rất khác kia… Không biết các vị có dấm dứt gì không, chứ tôi thấy tưng nấy năm chỉ trích dẫn tưng nấy câu trong kinh điển đã bị chặt khúc, cắt xén, ra hàng chục đầu sách mà tư tưởng chả nhúc nhích đi đâu, rất chi là không ổn nhá. Chuyện với P., rồi với R., sang cả H. nữa chả đi đến đâu. Nghe những câu chế giễu thân ái, lời khuyên giải chân tình họ bảo lại, Tăng thấy như mình đang nói thứ tiếng của thổ dân một hòn đảo rất chi xa xôi giữa ấn Độ Dương.
Sự cô đơn làm ông lúng túng, thấy mình là thằng ngọng. Nhưng dù tẻ nhạt, xa lạ, đám đông vẫn có lúc làm ông quên đi cái tâm trạng độc hại kia, thành thử lại nhúc nhắc, đều đặn các kì cuộc.
Thì đùng một cái bà Khánh ngã bệnh. Chứng nan y ủ đã lâu, chẳng chịu khám, giờ phát ra vô phương cứu chữa. Chạy thầy chạy thuốc, cháo lão như cuồng như điên, ông đau đớn nhìn vợ vật vã, méo mó từng ngày. Khánh của ông đã đẹp và tình tứ làm sao. Đông trùng hạ thảo, linh chi nghìn năm, bà lang Mường trên Kì Sơn, cái cơ thể trong suốt từ chối hết. Bà Khánh ốm khéo lắm. Vừa trọn một tháng đau nặng là đi, quả cảm chịu đựng những cơn đau, không chịu chạy những kì hoá trị kéo dài mà tốn kém. Đủ để chồng con rộc rạc nhưng chưa kinh tởm sợ hãi. Đám ma vì thế mà còn nước mắt. Tăng như người câm, chỉ một mực khấn thầm: “Nếu được làm lại, ta vẫn chọn nàng!”. Lần đầu, và chỉ lần ấy, ông tin có thần phật.
Rồi thần phật thánh chúa rủ nhau đi cả. “Mẹ bảo bố là người lành hiền, không biết tự lo liệu. Mẹ bảo con phải chăm bố, đừng để buồn, để đói. Buồn thì phẫn chí, đói chết bố ạ. Nên con sẽ can dự vào đời sống đang còn bơ vơ của bố”, con gái ông bảo. Việc đầu tiên Thuỷ làm là đuổi phắt cô ôsin ba mốt tuổi chồng ở quê đủ cả rượu chè lẫn đề đóm đĩ bợm chỉ thiếu nước tiêm chích. Chỉ có ông với nó ở nhà nó ngứa mắt lắm. Việc thứ nhì, ông dậy sớm đón cháu cho con nhờ, chiều đón về, cho ăn một mẩu bánh thôi ông ạ, nếu có thể thì tắm táp, kể lể dăm câu ba điều có tính chất giáo dục, rồi đợi con đến. Ơ, ông chưa về hưu nhưng lấy cái bận thay cái buồn chả hơn à? Đấy là hai việc đầu tiên, và vỏn vẹn thế, con gái “can dự” vào đời trai già mất vợ chán đèn sách.
Ngày giờ còn mênh mông quá, dù vẫn giữ giờ dậy, tham gia vài chân giám khảo, thi thoảng góp cái tham luận cho hội nghị hội thảo. Sức ông vẫn mạnh, máu me vẫn chẩy mà không biết cô về hướng nào, không “đóng góp “ đi đâu, cũng thành một thứ ung thư, tuy chả ai nhìn thấy. Giá kể ta nghèo, ta bận như ngày xưa…
“Cho nghĩ làm gì. Cho tự do làm gì. Có biết dùng đâu, hở giời!”, Tăng vật vã khi buồn thương sót tiếc mỗi lúc mỗi nhạt. Ai bảo một đời chỉ cơm nhà l. vợ lệnh thủ trưởng? Ai bảo làm trí thức để không thể chỉ nghĩ, chỉ xúc động theo cái phương người ta đã định. Bấy nhiêu năm chăm chăm tranh biện, viết lách, cố đoạt lấy những danh hiệu bằng sắc, thì ngoài kia, ngoài trời ấy, mây có xanh không, bọt bèo nênh nổi, yếm thắm môi đào thế nào? Sao ta không thử nếm những quả cấm bị chi chít các rào đón kín kẽ của người thân người sơ, của cấp trên trực tiếp và cấp trên vô hình ngăn cản?
Tăng mò mẫm vào những cánh cửa hôm qua còn xa lạ. Trong quán karaoke được non tươi lau trán, chùi mép, lại dậy lên mặc cảm nó chưa bằng non nửa tuổi mình. Mà sao dạn dĩ, anh em ngọt sớt. Mà sao đã bật côca còn lốp bốp hainơken, chết thôi…
Trót dại ghé tổ thơ, chán mớ đời cả tổng chữ thù tạc mà cứ phải buông lời “Tuyệt cú, chữ dùng không thể thay được!”. Trông gương lão Mai Đình đần đì chê sáng tác của nữ sĩ Oanh Anh “cóc gọi bằng cụ” mà giờ hồn. Chống tham nhũng như các cụ thì hàng tấn thơ cũng bằng đổ lỗ dế.
Lớp dưỡng sinh thì bị trưởng môn mắng là “tâm bất tại”, vì không tập trung vận khí, đầu óc cứ chổng đâu đâu. Cái sự bất tại làm ta thừa chân thừa tay, thoắt nhớ thoắt quên, chẳng ai đợi ai cầu mà bồn chồn, dù rõ rành tỏ rằng thiếu ta thì trái đất chẳng lệch nào.
Phải đi tìm cái tự tại thôi, Tăng quyết định, bất giác nghĩ câu “ta là ai, từ đâu đến?” trong giáo trình soạn thuở nào…
Nhân vật thứ năm của “mâm” chẳng có gì đáng nói, ngoài chuyện là đàn ông, và rất khó đoán tuổi. Chạc này ở nông thôn có thể đã chực lên lão, mọi sự đã đóng khung cả rồi, trong khi những thằng ở thành phố còn chạy theo lũ gái trẻ. Tăng biết làng nọ, đàn ông đàn ang đến mấy mà đẻ toàn con gái, ra đình ăn cỗ những thằng “biết đúc” nhất định không cho ngồi cùng mâm. Ô, đi tầu quan sát nghĩ ngợi được nhiều nhỉ…
Mùa đông đầu tiên vắng vợ rét cắt ruột, dài dằng dặc và ngổn ngang những bập bỗng với hy vọng. Một ngày dậy sớm nghe mưa lắc rắc ngoài song, ngắm mầm lá bé xíu run rẩy mà đầy hứa hẹn, Tăng hoảng sợ. Tết sắp đến. Ông sẽ không đi đâu vì có bụi, sang con gái cũng không, vì nó ở với nhà chồng. Đợi bạn dưỡng sinh hay các “thi hữu” đến ư, kiếu đi. Họ chúc ông những gì thì ông sẽ phải đến họ nói lại câu ấy. Phải đi đâu để trốn tránh những ý nghĩ u ám chứ. Ngày còn, bà Khánh chả đã bảo chung sống với tâm trạng ấy, ông đang tự đầu độc mình.
Lẳng lặng xuống mộ vợ khấn ra giêng mới quay trở lại được, bà hãy độ cho tôi một trời xuân tươi sáng, thấy trời xuân tươi sáng thôi chứ không cần chi chít tài lộc xum xuê may mắn đâu. Kể ra tôi đi là ích kỉ. Nhưng cái giống đàn ông nó thế. Và nghiêm trọng báo con gái bố đi xa ăn Tết, quyết định rồi không lằng nhằng nữa, chập tối ba mươi mang hoa quả sang thắp hương gớm căn vặn gì mà lắm bố không điên đâu. Bố đi đâu chưa biết, đi tìm cái gì nói ra con lại càng không hiểu đâu thôi tóm lại là không phải đỏ tía lông mày lên thế trông xí lắm giao thừa bố thắp hương khấn vọng mẹ mà. A cô lại bảo Tu Ty không có ông nó khóc á nó lại chả quấn ngay lấy thằng ông nội ngay đấy…
3.
Tàu chạy qua đường chắn đầu tiên thì cô vào khoang. Quần bò, áo lông vũ trần, thứ đang là mốt, nhẹ, đẹp và ấm. Và dong dỏng cao, phấn đánh một cách kín đáo, không che đủ tàn nhang trên gương mặt trẻ trung ưa nhìn. Có một gì đấy toát ra khiến bộ óc ưa chiêm nghiệm của ngài giáo sư phải lục lọi, như là sự tương phản giữa vẻ rụt rè đến dút dát với bên ngoài rực rỡ. Đứng ngần ngại một lúc, cô so so tấm vé rồi hướng về chỗ trước mặt Tăng, ngần ngại: “Anh ơi, chỗ này là của em ạ…”
“Ba phẩy” vô cảm ngó nghiêng ra cửa, đến lần “anh ơi” thứ ba thì quay lại: “Chỗ này của tôi”.
- Nhưng số ghế này là của em. Vé đây ạ.
- Vé tôi số này. Ghế này của tôi.
Tăng thấy cần can thiệp, bảo cô gái cho xem vé. “Ghế 3B, đúng chỗ cô này rồi”, ông lẩm bẩm, quay sang người trước mặt: “Thế vé của anh đâu?”.
- Anh làm gì mà hỏi vé tôi?
Giọng đáp lạnh lẽo quá, Tăng đâm chột. Thằng này dám động tay côn đồ lắm. Mà mình thì không hề muốn thế. “Tôi là khách thôi”, ông lúng túng, “nhưng đúng vé đúng chỗ thì đỡ phải tranh nhau!”. ý kiến lập tức được chị em cậu sinh viên biểu đồng tình. Nhưng “Ba phẩy” già giọng lắm: “Chả phải tranh làm gì. Chỗ này chỗ tôi. Ngồi đâu mà chả được!”. Rồi tức giận lẩm bẩm: “Đi làm ca ve mà còn đòi chỗ…”.
Cả “mâm” ngạc nhiên thấy cô gái chùng xuống như ngọn cỏ phải lằn nước sôi, thin thít ngồi vào chỗ còn trống. Ô, thằng cha dám nói thế mà sao không biết độp lại. Lông mày tỉa, tóc nhuộm, chả nhẽ… à? Nhưng trông hiền dịu nết na một vẻ đấy chứ, đâu có giống những bật bia khui sô đa bôm bốp như karaoke ta đã… Mà có đi thế đã là gì, giờ có chán vạn nghề mà. Vậy mà chịu. Mà phải im mồm. Kìa vai đã rung lên, mặt úp vào túi. Nghẹn ngào, càng cố nín càng bằn bặt.
“Khóc con mẹ gì nữa”, “Ba phẩy” tức giận. Xung quanh bắt đầu ngó vào. Ông có tuổi xịch vào sát Tăng, ra ý cave thì sẵn bệnh tật biết đâu lại hát i vê. Khó xử thật, có cả thương sót nhưng không biết xử thế nào. Người đầu tiên lên tiếng là chị “ôsin”: “Thôi em ạ, làm gì thì làm cũng là phận làm thuê kiếm tiền, việc gì phải khóc!”.
- Nhưng quê em biết thì nhục lắm. Em bảo ở nhà xuống Hà Nội đi làm. Nhỡ có đứa nào nó mắng con em mẹ mày đi ca ve thì sao. Khổ thằng bé lắm chị ơi…
Giữa những nức nở câu được câu chăng lờ mờ hiện lên một hình hài gái quê rời nhà đi làm nghề ấy nghiệp nọ. Có nhẽ là thế thật. Lòng trắc ẩn nổi lên. Không muốn gây chuyện với thằng lì lợm gớm ghiếc, Tăng sắm giọng an ủi. Việc gì mà khóc. Kiếm tiền nuôi con, mình thấy mình lương thiện là được rồi cô ạ. Còn hơn khối kẻ khác, những đứa bóng bẩy sang trọng chức này với tước kia mà ngồi không đúng chỗ mình mới phải xấu hổ (a cái tay kia nó làm như không nghe thấy mình nói cái chi chi). Tóm lại là tôi thấy cô chả việc gì phải khóc. Ai biết đấy là đâu, có phải không các cô các cậu? Đây anh nhà tầu đây rồi xếp cho cô này ngồi đúng chỗ đi.
4.
Thị trấn nghỉ mát vào Tết tinh tươm, yên tĩnh. Xe tải bò lên bỏ đồ uống, đa phần của tây, và rau tươi cho các khách sạn, rồi kìn kìn đánh đào về. Xuân thế là xuôi rồi, để mình ta ngược, Tăng nhấm nháp ý nghĩ rằng mình đang tự do. Quả là tự do lơ lửng trong thinh không trong trẻo, mỗi ngọn gió, tiếng chim, ngào ngạt trong bụi cỏ đĩ. Những ý nghĩ u ám bay mất. Không thấy buồn chút nào, mới lạ. Nhưng đúng là có chờ có đợi cái gì đó, cái điều sẽ làm mình thay đổi được trạng thái tâm hồn. Một con người, một chuyện gì đó, từ từ thôi cũng được, để ta nếm, nhấm. Từ lúc khởi hành, Tăng đã mong đợi biết bao điều đó, bất giác thấy mình đang tách ra, len lén quan sát tâm trạng của mình. Trước mắt không buồn là hay rồi. Sợ nhất là thấy cô đơn lại lồng lên đòi mình cho ta về đi.
Ông đi tìm nơi ở, bảo thuê qua Tết. Nhà nghỉ nhỏ, sạch sẽ, hơi tách xa trung tâm, và quá rẻ. Người chủ, quan sát khách một cách kín đáo, giao cho ông cả căn gác có khoảng sân lát gạch đỏ loáng ướt nước mưa. Dưới kia là lũng đầy sương. Sương hay mây? Đến trưa, dưới nắng, tất cả tan đi, lộ ra những nương ngô, nếp nhà ngún khói. Ai leo dốc nhỏ bé thế…
Tăng ra chợ Niềng, cái tên có vẻ vùng xuôi, trèo lên tụt xuống giữa những tóc đỏ đuôi gà, giọng nói lạ tai, đống măng cao như núi. Đi vòng quanh ngắm nghía, và mặc dù đói ngấu, thong thả mãi mới xà vào hàng lòng lợn. Trời rét, nhấm nháp đĩa lòng xe điếu còn được vị ngăm ngăm đắng với rượu táo mèo ngọt dịu. Rồi ngà ngà về đánh một giấc. Lan man trong giấc ngủ là đoạn cuối của chuyến tầu lên Ninh Đàm, cái mà ông gọi là “cuộc xung đột nhỏ dẫn đến những dự cảm cũng nho nhỏ nhưng thú vị”.
Rút cục thì mọi sự lại êm ả. Ai về chỗ nấy tuy người này càu nhàu ông rách việc chõ vào người khác, người kia “cháu ngồi đây cũng được bác ạ”. Chị em cô ôsin vui vẻ hẳn với ông, ra điều chúng mình về một phe, cho bõ ghét cái thằng giả vờ. Tăng, với cảm giác mình vừa làm việc nghĩa, bắt sang linh tinh Tết quê thế nào, xong nồi bánh là các cậu khì khì ngủ được rồi đấy nhỉ. Ông khó đoán tuổi cũng chen, bảo mình là dân bán tào phở thuê nhà sáu mươi nghìn tháng có cả tắm giặt dưới bãi Phúc Tân nhưng ra Tết sẽ lên bẩy mươi nghìn. Ông có bà vợ đần thối chỉ được cái mắn, không biết đã soạn đủ gạo đỗ chưa, giời ẩm ướt thế này vào rừng kiếm lá dong tổ làm mồi cho vắt. Cậu “ sinh viên” đúng là sinh viên thật, rất lo mẹ bắt sang nhà cô Đào “mặt mũi lúc nào cũng sưng sỉa”. Râm ran chuyện, khúc này sang đoạn kia chả có trật tự giơ tay xin phát biểu gì, tựu trung chỉ là giấc mơ đủ ăn đủ mặc của những người bé mọn.
Cô dịu hiền ca ve không góp vào, nhưng cái vẻ vừa u ẩn vừa non nớt gây tò mò cho Tăng quá. Sự êm lặng của cô kích thích người đa cảm dõi theo một số phận có thể là trắc trở, rất nhiều nỗi đằng sau… Đôi lần lôi kéo chỉ thấy cô vâng dạ lảng tránh, như là cơn sợ sệt hãy còn, ông bèn thôi. Xôn xao suốt buổi những khấp khởi Tết quê, thi thoảng là nỗi lo ra giêng. Khi “Ca – ve” xuống tầu, trước Ninh Đàm một ga, sao Tăng thấy mình như là muốn gặp lại.
Lòng quả cảm có lúc nhụt đi tý, khi bước ra khỏi buồng vệ sinh, chạm ngay cái mặt quạu của “Ba phẩy”. Tăng bất giác lùi lại rồi khuỳnh khuỳnh tiến ra, cố làm như bình thường. Thằng cha đứng tránh chả nhìn. Nghĩa là nó tức bụng thật.
“Ngày áp Tết, ta nằm ườn, người sạch sẽ, hồn tinh tươm, ta lười biếng và chờ đợi”. Những câu “thơ” bật ra khi giấc ngủ thứ hai kéo đến. Ta không làm gì, chỉ ngủ và nghĩ ngợi. A, ta thật giống Đề – các. Có lẽ ông cụ cũng hay xem phim hành động Mỹ và ngủ…
Cái chốn để thiên hạ đốt tiền, lúc tận năm tận tháng vắng đi một chút. Các khách sạn quét dọn, trang hoàng. Thợ xây, lâm tặc ùn ùn ngoài bến đón xe xuôi. Đống táo mèo cao ụ ngoài chợ vơi dần vào non trưa. Mặt người tất tả nhưng rờ rỡ. Khách du lịch ngoại quốc, như đám trẻ con ta, diện những bộ sặc sỡ từ xa đã bắt mắt. Chỉ đám đàn bà H’mông là bình thản, cứ túm năm tụm ba xe gai kháo láo, chiều tối mới rảo chân về núi.
Tăng mải miết ra ngoài thị trấn. Gặp những khe nước nhỏ cả nghìn đời đứng ù oà giữa vực sâu, gốc đào vạm vỡ đầy mắt mấu. Có người đàn ông trẻ ra mời ông vào nhà, cái túp ba gian cạnh đường, sát hiên nồi bánh chưng lục bục. Những chuyện bâng quơ. Anh ta người xuôi, làm công nhân giao thông cách đây nửa ngày đường ô tô. “Vợ em còn trẻ, kém đến mười tuổi, làm ở trạm tiếp sóng phát thanh thị trấn. Nói thật với bác nó ấm lắm, em về phép chả muốn đi đâu chỉ chăm chăm ấp thôi. Chúng em bện hơi nhau rồi. Bác uống đi. Rượu táo mèo nhẹ nhưng say được đấy. ối giời gió lùa lo gì bác. Em toàn ngủ đường, ô tô như tiếng ru. Ôm vợ càng chặt. Độ quá trưa vớt bánh bác quay lại ăn với em nhá. Lúc ấy Đào về rồi, vợ em ấy… Bác chả lo, em còn cả đêm kia mà…”
Lại tản bộ, bâng khuâng về hạnh phúc. Đơn sơ làm sao, chỉ nồi bánh chưng với hơi vợ. Ngửa cổ ngắm con chiện đứng tít trên thinh không, rằng sao mày yêu đời làm vậy. Giễu cợt lũ cỏ đĩ, cũng thơm tho, sắc hương đủ cả mà phải níu quần khách qua đường nhỉ. Này những cành lá chi chít chồi xuân kia, mi ngậm nhựa kiểu cách gì mà oành một cái nhất loạt đơm hoa? Nhựa của ta ở đâu, đơm cho rượu ta hương vị chi? Rồi lại hết hồn vì con rắn xanh loằng ngoằng trên đường, chẳng biết nó đem lại điềm gì…
Sự ứng nghiệm có vẻ ngay ở đầu thị trấn. Khách sạn Hoa Ban đến là xinh, có hai tầng, tường lát gỗ pơ mu thơm sực. Chìa ra ngoài, cái khoảng terre a café cũng lát gỗ, lan can chạy rất nhã nhặn, là chỗ ngồi rất ưa thích với người nước ngoài. Người đàn ông chạy ra xởi lởi. “Anh còn nhớ em không? Không nhớ cũng phải. Dạo ấy em lười đến anh thật. Em mời anh vào đây uống. Năm hết Tết đến, vội vã gì. Rồi anh sẽ nhớ ra ngay ấy mà…”.
Lúng túng vì thấy mình bất lịch sự, Tăng ấp úng xin lỗi, cái nghề tôi nó thế, chở đò cho bao nhiêu người mấy khi nhớ được khách. Tuổi tác nó thế anh ạ. Quái, gương mặt đúng là quen, có lẽ mình đã dậy. Như một người lịch duyệt, ông nhấm nháp ly rượu, khen ngon. Mà ngon thật, cô - nhắc, thằng cha sành mồm lắm. Trông hắn mạnh khoẻ và đẹp đẽ, giọng nói, nét mặt nhã nhặn mà vẫn đầy tự tin, cái vẻ của người lịch lãm, vừa có tiền vừa có uy quyền.
Xoay xoay cái ly, hỏi han nhà cửa vợ con, bâng quơ về thời tiết giá cả. Bên kia chỉ bảo thấy anh khoẻ là em mừng, dạo nọ nghe tin chị mà không đến chia buồn được, anh đừng trách. Nhưng ta cứ uống mừng gặp mặt đã, nhớ hay không chả quan trọng. Nói anh tha lỗi, có buồn chắc anh mới lên đây. Đừng ngại anh nhá, đám tiếp viên đây không phải về Tết hết đâu. Tăng chả thích cái trò ú tim kéo dài. Uống mà vẫn không nhớ người mời thì rất tệ. Lục lọi mãi, kí ức dần hồi phục.
Sau quãng thời gian đằng đẵng ăn cơm xứ người, hai chục năm trước, Tăng về nước nhận chân nghiên cứu viên viện U. với một trời mộng ước khoa học. Nhận bìa thực phẩm loại “trên bình thường”, ăn bo bo, tháng nào các chị mậu cho độn ngô thì đem xay quấy bánh đúc, chàng phó tiến sĩ mới cứng có biết bao nhiêu là nguyên tắc. U. tham gia một chương trình đào tạo cán bộ cho ngành D. Mục đích yêu cầu rất nhớn, như là đáp ứng yêu cầu nhân lực phục vụ xu hướng phát triển tất yếu của đất nước, như là cho ra lò những người giỏi thật sự, có tâm có chí xây đắp cho ngành và địa phương, tất nhiên xuất thân công nông phải là tiêu chuẩn đầu tiên. Cậu học viên anh hướng dẫn gầy gò, trông ngơ ngác sau cặp kính vỡ một bên mắt, gợi một chút trắc ẩn. Nhà rất nghèo, thấy bảo thế, “ăn khoai nhiều đến nỗi giờ ngửi mùi khoai là em phát nôn”, và qua đại học bằng đường tại chức. “Dốt như chuyên tu ngu như tại chức”, nghĩa là kiến thức chắp vá lắm. Người ta ở tỉnh lên phải ăn đậu ở nhờ, giải quyết bao nhiêu cái khó, mình cần bảo ban hướng dẫn cẩn thận lắm mới được, Tăng nhủ vậy. Nhưng Hưng, giờ thì Tăng đã nhớ ra, chỉ nghe kĩ có lần đầu, vâng dạ ròn tan, rồi đến thầy rất thưa thoáng. Nghe Tăng than phiền cậu này không ngồi yên đọc sách được, mình nhận xét nó có ghi gì đâu, vợ anh bảo “ nó ăn nói có trên có dưới đấy chứ, thôi cứ làm phúc cho người ta anh ạ”.
Giáp kì bảo vệ mà chả thấy Hưng đưa quyển, người hướng dẫn rất sốt ruột. Lạ thật, chỉ thua mình dăm bẩy tuổi mà kém ý thức như đám thanh niên chưa biết gì, cứ thoắt biến thoắt hiện như ma. Quở, thì nhận lỗi ngay em còn nhiều việc phải lo ở tỉnh lắm. Tăng chạy đến giám đốc bên D. thông báo lại, ông này bảo anh cứ yên tâm nay mai nó sẽ đưa. Luận văn rút cục cũng có, kèm theo cân chè, chai rượu tây, trong túi đựng có hai trăm đô. Tăng chỉ nhận “phần nặng”, cái “phần nhẹ”, hồi ấy còn hiếm lắm, thì tìm cách trả.
“Quá tệ anh ạ. Ăn cắp mỗi nơi một tý. Câu trước chửi câu sau, chương nọ đòi đào mả bố chương kia, nghĩa là lắp ghép của người này với người khác mà không hiểu gì cả. Nặng về mục đích yêu cầu chứ không có tý gì khoa học, tôi xem ra cậu này chỉ láu cá, giỏi làm chính trị…”
- Thôi cứ châm chước cho nó, giám đốc bên D. ôn tồn trước cơn giận dữ của Tăng. Không trẻ lắm nữa, nhưng lí lịch tốt, xuất thân nghèo, nó có điều kiện tu thân tu dưỡng để tiến bộ. Hoàn thiện nhân cách là một quá trình chứ ngay một lúc thế nào được, ông không nhớ lí luận à. Mà đây là chỗ tỉnh nhờ cậy ngành. Nguồn cán bộ đấy. Ông cứ quở mắng nó nhưng giơ cao đánh sẽ thôi.
- Đừng quan trọng hoá làm gì! – viện trưởng của U. khuyên Tăng. – Chú giỏi thật đấy, lại là giáo viên hướng dẫn, nhưng trong hội đồng giám khảo còn mấy giáo sư nữa kia, liệu họ có khó tính như chú không?
Tăng chỉ hiểu hết ý vị câu nói ấy khi ra bảo vệ luận văn. Điểm 5 của giáo viên hướng dẫn (anh đã nhổ vào mặt mình khi nâng lên đến thế) không chọi lại ba con chín và một con 10 của bốn giáo sư còn lại. Hưng tốt nghiệp khá, đàng hoàng nhận giấy chứng nhận trong buổi tổng kết mãn khoá. Đi liên hoan chia tay, nhận quà của lớp, Tăng không thể chia vui với ai, nhất là các giáo sư nức tiếng trong hội đồng. Hoá ra mình giảng kĩ càng, có phương pháp, lại là ngu lâu hơn cả. Người ta đã định đoạt trước, mình cho 1 hay 2 có khi nó nhận cả bốn con 10 còn lại. Những ý nghĩ làm đắng cả người, mà vẫn phải bắt tay thằng học viên trứ danh. Bắt tay thôi, nhất định không chúc tụng, mong mỏi với kì vọng.
Dù sao, “bài học đầu tiên” làm Tăng biết điều hơn. Sở D. không mời anh tham gia đào tạo nữa, nhưng còn chi chít những trung tâm K., uỷ ban M., nhu cầu chuẩn hoá cán bộ đâu đâu chả lúc lỉu như chùm quả ứ mọng mời gọi các nhà khoa học. Làm một vì núi uy nghiêm nhưng cô độc, bị các hội đồng phản biện dự án, các hội thảo góp ý dự thảo luật và văn bản dưới luật “quên” vừa ít hào vừa kém vui thế nào. Vô số bài học tiếp theo làm Tăng khôn dần. Nhưng vẫn có lúc dại, khi những nguyên tắc khoa học “trỗi dậy”. Đời dậy cách thích ứng, ông là cậu học trò không xuất sắc nhưng chả đần độn hoàn toàn.
-Tôi nhớ ra rồi. Anh nhắc cho tôi cái ngu của tôi.
Tăng chậm rãi nói, xoay xoay cái ly. Có một vẻ gì lúng túng trong mắt Hưng rồi biến ngay khi Tăng hỏi “Anh thế nào rồi?”
- Em cũng bình thường. Hồi ấy xong lớp anh em không về tỉnh mà lên đây. Bác em làm tổ chức bảo trên này toàn người dân tộc, ít cán bộ có bằng cấp, dễ tiến bộ. Xin chuyển vùng dễ quá, em cố làm việc, học tập, hoàn thành được cái thạc sĩ, rồi tiến sĩ, giờ phó giám đốc sở Q. Cuối năm em có buổi làm việc với tay trúng thầu làm công viên Cây Gáo ở đây, may thấy anh. Anh khoẻ chứ ạ?
- Cũng chả biết nên nói thế nào. Cũng không đến nỗi ngu như xưa.
Chuyện đang lâm vào thế bí thì người thứ ba xuất hiện. Thằng cha quần bò mũ cối to như gấu chào hỏi rất kính nhường rồi ngồi im như thóc. Hưng không giữ anh, chỉ theo hỏi chỗ ở, rồi mời trân trọng:
- Chiều mồng một Tết, doanh nghiệp của vợ em có cuộc trao quà từ thiện cho các gia đình khó khăn trong thị trấn, làm ở trụ sở uỷ ban. Nói thật, cũng là tiền em thôi, nhưng đảng viên không được làm giàu, nên đứng danh nghĩa vợ. Em muốn mời anh dự, cho vui ấy mà. Có thể anh Nghĩa bí thư tỉnh uỷ cũng xuống. Sau đấy về đây ăn cơm. Anh thu xếp nhá. Chả gì cũng mấy chục năm anh em mới gặp nhau…
“Liệu Hưng có biết hồi ấy mình đã chỉ cho cậu ta điểm trung bình tối thiểu? Chả có vẻ gì là biết, chả thấy oán giận gì. Mời mọc chân thành lắm, tuy câu “nhất tự vi sư bán tự vi sư “ hơi sáo. Mà gã đối tác “làm việc” cuối năm, chắc chỉ là chiết lại số tiền trong dự án được Hưng rót cho chứ gì. Mình có nghĩ xấu về Hưng quá không? Mình đã ghét cái mặt nó hồi ấy, tự bảo thấy ở đâu thì cạch đi. Bây giờ Hưng tử tế quá, thành đạt rồi còn biết bỏ tiền ra giúp kẻ khó, lại đẹp đẽ, sang trọng, mình còn ghét được nữa? “.
Những ý nghĩ làm Tăng phân vân trước lời mời, đành trả lời lối nước đôi. Dầu sao, ông biết chắc đặc điểm của mình, là ít thay đổi những ấn tượng đầu tiên; cái điểm mạnh đôi khi lại thành điểm yếu. Ông sẽ không thân tình với Hưng quá, nhưng cũng chả để những cơ hội để nếm trải, cốt vui trong lúc trống trải trôi qua mà không tóm lấy.
5.
Bất ngờ thật, chuyến đi này, đoạn đời này, cho ta gặp được “người thầy đầu tiên”. Nghĩ thế mà Tăng không tưởng nổi lại gặp cái bất ngờ khác, lạ lùng hơn nhiều.
“Ba via” của thị trấn, chỗ đất trũng, để trèo lên cao là đến bản H’mông gần nhất, mọc dăm bẩy ngôi nhà gỗ, dáng chừng của người xuôi. Đang dõi theo chiếc xe tải bò xuống đấy, Tăng thấy cái dáng quen quen. Vừa nhẩn nha đi tới thì người ấy quay lại. “Ca- ve hiền hậu” trên tầu! Tăng chả còn cái “tên” nào khác để gọi cô, ngoài cách thằng “Ba phẩy” đã đặt.
Người con gái hoảng hốt quay đi. Tăng rảo theo “Cô ơi…”. Gương mặt lấm tấm tàn nhang quay lại, đôi mắt rất thảng thốt. “Thế cô ở đây à?”, Tăng hỏi đủ nhỏ cho cô yên tâm. Tiếng “Vâng” rơi vào im lìm, ông hiểu là không nên tiếp tục gì nữa. Nhưng sau chiếc xe tải đã bước ra người đàn ông nhỏ quắt, nhăn nhúm, tầm tuổi rất khó đoán. “Bác quen cháu đây à? Chắc bác ở Hà Nội lên”, ông ta cà nhắc bươn đến chỗ Tăng rất vồn vã rồi kéo phắt ông vào nhà. “Con giao xong rau thì vào nhá. Bố đi đun nước!”, giọng the the không thể cưỡng lại.
Nhà ba gian thưng gỗ lợp ngói, rất trống trải. Căn bếp rời ra ngoài khoảng sân. Thấy Tăng chăm chú nhìn cái hình hài dúm dó trên giường, ông bố bảo: “Nhà khó bác ạ. Còn thằng em cháu bị tật. Hồi ở lính tôi đóng vùng giải chất khai quang. Bà nhà tôi mất hai năm nay, nhất trí quan điểm con cháu đi làm sở thêu dưới Hà Nội, nên không được gọn ghẽ. Bác ngồi chơi đi!”.
- Khoèo, quay ra cửa sổ đi! - Ông mắng thằng bé như mắng con chó.
Tăng hiểu ngay là mình phải nhập vai. “Ca- ve” đi làm sở thêu, ông phải đóng chân liên quan, kiểu như thế. Bèn đà đận đưa đẩy, rất khó vì không biết tên. Cũng may chủ nhà cuống quýt với ấm nước cứ câu được câu mất, và cũng có vẻ tàng tàng thất thường thế nào. Dẫu sao ông cũng thủng được rằng gia đình gốc Hà Nam, đồng chiêm túng đói luôn năm nên di lên đây, ban đầu ở trên thị trấn, chỗ giờ là khách sạn Hoa Ban, rồi bị bứng cả chòm xuống trồng rau dưới lũng này. Và cô gái phải thằng chồng nghiện ly dị rồi, mới đi làm dưới ấy nửa năm, con trai hai tuổi đang chơi bên hàng xóm. “Tôi có trợ cấp thương tật, rau dưa cũng đủ. Nhưng thằng Khoèo với cu con thì nặng gánh quá, nhất trí quan điểm, thế là cháu nó phải đi. Xa nhà nhưng Tết về có quà, lại cho cả chòm nữa, cũng tốt”.
Ông bố mắng con gái không vào ngay, còn quèn quẹt chổi ngoài sân làm gì. Chắc đang lúng túng, khổ sở lắm. Tăng bèn với ra: “Gớm thôi đi. Người quen làm gì phải cẩn thận quá. Cô không vào tiếp khách là tôi mách bà xưởng thêu đấy!”
“Có thế chứ. Các cô ngồi thêu thùa thì hót như khiếu, về nhà gặp khách quen lại phong kiến quá. Tôi đến xem hàng là các cô ấy trêu kinh lắm. Đàn ông cứng bóng vía hãi ngay. Cô cho tôi đi xem vườn tược tí nào. Bác cứ để đấy tí nữa tôi uống…”
Mảnh vườn rộng mỡ màng. Bắp cải cuốn chắc nịch. Súp lơ, xu hào đang lơ thơ, còn cô gái cứ gập người tránh né như cây chuối bị lưỡi dao ngang thân. Giờ không son phấn nữa, trông cô thật mỏng manh. Gương mặt có cái gì khang khác, Tăng nghĩ mãi mới ra, là đôi mày nằm ngang, không tô xếch lên như hôm trên tầu, nó đem lại cái vẻ thuần hậu, dung dị, điều hẳn hợp hơn với xóm Hà Nam. Những nốt tàn nhang sau những lọn tóc xoăn ngắn ở gáy lên rõ hơn, chạy xuống cái cổ bị che lấp, chắc là rất trắng. ấp úng, mắt cứ trôi đi đâu, làm Tăng phải bảo: “Này cô thợ thêu, đừng lo sợ quá thế. Làm thế nào mà tôi có thể phá hỏng ngày Tết của cô được nhỉ”. Cái cây bị phạt ngay ngay trở lại. “Vâng, em nhờ anh đấy. Bố em đang mê mẩn với bộ đồ thờ em mang về. Bố em bảo đấy là vong linh mẹ em cho được làm ăn yên ổn, kiếm ra tiền”.
- Thế sao đêm trước cô lại xuống giữa đường, không về ngay Ninh Đàm?
- Em sợ gặp người biết mình, như cái ông tranh chỗ trên tàu. Bố em biết em thêu thùa thế nào em chết mất.
Chuyện không thể lâu vì nỗi niềm nhiều quá, chỉ kịp biết tên cô, là Mai. Đang đợi ở nhà cả cái chòm đồng chiêm nước lụt. Những là bác gái với các cô cậu ở nhà thế nào mà bác lại lên đây ăn Tết lẻ vậy. Quê chúng tôi ngày này đến bận, bao sái đình chùa xong lại cọ rửa văn chỉ gập cả lưng. Làng nghèo, xưa phát về khoa bảng đấy, giờ hẳn chỉ làm đến thợ thêu là cao nhất. Những là cả đời tôi chưa ăn Tết tỉnh thành bao giờ, dù tiếng là hay đi xa mà thị trấn nườm nượp có biết gì. Ông giời cũng tệ bác ạ, năm sương muối, năm mưa đá rất phập phù, lo đủ ăn cũng khó. Bác là khách đặt hàng thêu, nhất trí quan điểm, mong bác chiếu cố cho cháu công ăn việc làm được cả năm. Thế nào mồng một cũng phải ra phố đón bác về ăn mỗi nhà một bữa, đạm bạc thôi nhưng cũng phải đủ món, bác vào nhá. Mà con cái Mai thế không được, người đáng cha chú sao vẫn gọi anh em, tỉnh thành cái hay đem về, cái dở để lại chứ…
Ăm ắp nỗi niềm xa quê, khao khát tiếng trống hội dưới xuôi. Và lẩn khuất, rì rầm cái mạch nhỏ đồng loã. May là mấy ông cụ chất phác bộc bạch ào ào chứ không thóc mách mấy, còn chủ nhà chỉ lo thuốc nước. Và Tăng, bốc phét, nhăng nhít đến là trắng trợn, phát hiện mình dồi dào thiên bẩm kịch kọt.
Tăng ngập ngừng không biết có nên đến ăn với Hưng. Đúng là ông, chán ngấy vị dung tục trong quan hệ với đám quan liêu, lại rất tò mò muốn biết hắn đã “trưởng thành “ thế nào. Hưng là sản phẩm của một hệ thống đào tạo quan chức, ông đã góp phần vào đó. Tò mò vì biết Hưng sẽ cởi mở rất nhiều, Tăng quyết định nhận lời mời, dù phải “ăn kèm” bí thư tỉnh. Chuyến đi dù sao cũng không ít bất ngờ rồi mà, ông nghĩ khi ngang qua đống táo mèo lăn lóc cổng chợ Niềng, những đàn bà H’mông bỏ lại chẳng đem về bản.
- Tối mai tôi có cái hẹn, không đến bố con em được. Nhưng tôi rất muốn quay lại, em đồng ý không?
Tăng bảo, khi Mai tiễn ông đến đầu thị trấn. Có cái gì đấy buộc cô lại với ông. Cô là đàn bà, ông là đàn ông, đang trống trải, cái đó có một chút. Nhiều hơn, cô đang như con nợ, ông nắm giữ bí mật của cô nhờ vụ bẩn tính của “Ba phẩy”.
- Em không biết. Nhưng em chúc anh một năm mới bình an. – Mai không trả lời vào câu hỏi.
Giao thừa, Tăng mang nén hương ra gốc đào vườn hoa thị trấn khấn vợ. Con nó trách tôi, liệu bà có trách? Giờ này nó đang cúng ở nhà, bà ở dưới ấy hay lên cả trên này? Dầu sao, tôi phải lo cho mình, cái tâm nó đang loạn cả lên đây này. Rì rà rì rầm, nghĩ không biết có nên xuýt xoa như các bà các cô… Rồi về nhà nghỉ, nhận lời chúc Tết và chúc lại bà chủ, uống chén rượu ông chủ mời, lên phòng.
“May là mình có lời trước, và họ không câu nệ ai xông nhà”, anh trai già độc thân nghĩ, trước khi giấc ngủ dễ dàng ập đến.
6.
Sáng đầu năm rét và khô, một tiết trời rất thích để đi bộ. Thị trấn còn vắng tanh khi Tăng đi ngang qua. Những ngôi nhà gỗ xộc xệch như đã muôn đời ngái ngủ. Những kiến trúc mới tinh theo kiểu Pháp, tầng hầm xây đá, trên “trán” có những hoạ tiết vui mắt. Mù mắc dầy trên tán sa mộc, vẳng ra tiếng lích chích. Mũi Tăng ngàn ngạt, nhưng vẫn ngửi thấy mùi hăng hăng tinh tươm của rừng, mùi mốc uể oải của tầng lá ải và quả thối.
Có những điều tương phản trong cảm nhận của khách từ xa tới. Một mặt, là quang cảnh quá phóng khoáng của triền núi ngập nắng, bắt ta phải nín thở. Những bản Dao, bản H’mông vắt vẻo trên đó, cái cao hơn, cái thì thấp hơn tầm đứng của Tăng. Một bóng người nhỏ ti hậm hụi vần cây gỗ, dẻ để làm nấm chăng, hay pơ mu chặt trộm? Trời ơi, sao lại có thứ không khí trong trẻo dường này, và lòng ta như cậu sinh viên thuở nào, không bợn chút bụi trần…
Một mặt, là bao nhiêu dự cảm về những điều sắp đến, đằng sau những cuộc gặp mấy hôm rồi. Ngẫu nhiên đấy, mà như là do số phận sắp đặt cả. Có một cái gì đấy ràng buộc ta với cô ca ve tên là Mai. Ta không thể không nghĩ đến cô ấy. Ta rất muốn là đằng khác. Nhưng đằng sau cơn nóng ran của con đực, lại là sự quan tâm về một thân phận, tò mò hay thương cảm chả biết. Mà có lẽ là cả hai. Ta có giúp được gì cho cô ấy không? Trách nhiệm, là thứ ta ngán nhất trên đời này cơ mà…
Và còn nữa, sừng sững, không mong manh như với Mai, là vị học viên cũ, cái tay phó giám đốc sở xởi lởi, tiếc thay còn rất tháo vát. Đằng sau sự thân thiện đó là gì? Hưng, đã và đang thành đạt, có biến đổi gì sau hơn mươi năm qua? Trong mơ hồ, Tăng thấy ngại ngần, về một tư chất trí trá có thể đã định hình, nay lại được kinh nghiệm quan trường bồi đắp. Ông không muốn gặp Hưng nữa, điều đó rõ quá, nhưng lại tò mò gấp bội muốn chứng thực những linh cảm, trải nghiệm của mình. Để xem nó đã hoá cáo đến đâu? Nhỡ đâu, nó thay đổi, tốt tính thực tình với mình thì sao…
“Một thứ tò mò, muốn khám phá của trí thức. Ước gì mình quẳng được tâm trạng này, quan hệ này đi, để chỉ nghĩ đến Mai…”, Tăng nghĩ, khá mệt mỏi. Nhưng nghĩ trước chả được nào. Mình sẽ tuỳ cơ với Hưng. Mình cũng có kinh nghiệm, sự trải đời và những “vũ khí “ cơ mà.
Lang thang giữa thiên nhiên quyến rũ và những tâm trạng chả có cơn cớ gì, Tăng thấy thèm một bếp lửa, làn khói, tiếng lao xao. Mồng một, chả dám vào nhà ai, ngó vào họ cũng ngại. Quay về đói ngấu, may là hàng bánh cuốn đầu thị trấn đã nghi ngút.
Hưng đến đúng hẹn, giữ lễ, ra điều “thày trò” khi lái xe đến đón Tăng đi dự lễ trao quà từ thiện. Trụ sở uỷ ban đã lố nhố người. Những hình thù cũ kĩ, méo mó dắt theo lũ trẻ dặt dẹo. Những gương mặt chậm chạp, dễ chả bao giờ tìm được cách ra khỏi sự khó, lại càng không nghĩ có ngày có thể ra khỏi đấy. Có cả Mai, dắt theo cu Khoèo. Cô mặc chiếc áo bông đàn ông, có lẽ của ông bố, tã tượi, thụ động, mắt rủ xuống chả nhìn đi đâu. Tăng đang bươn đến chỗ cô thì bị lái vào hội trường. Một người đường bệ, có nét mặt cởi mở chìa tay ra cho ông. “Anh Nghĩa, bí thư tỉnh uỷ. Anh Song, trưởng ban tuyên giáo…”. Tăng rối lên giữa đám xã giao, thấy “nỗi niềm bé nhỏ” của mình mất hút trong loa phóng thanh “trân trọng”.
Lễ trao quà đơn giản, hẳn là vì ngày Tết. Sau lời giới thiệu của uỷ ban, vợ Hưng lên trao quà, mỗi suất một túi bánh mứt, chai rượu vang Thăng Long kèm năm chục nghìn đồng. Bí thư tỉnh đánh giá cao tấm lòng của doanh nghiệp Hoa Ban, cho đây là sự tri ân phải có với người nghèo, trong đó có những gia đình chiến sĩ đã hy sinh hoặc để lại một phần thân thể ở chiến trường. “Đảng ta đánh giá rất cao những hành động uống nước nhớ nguồn được xã hội hoá… Tôi nhẩm tính số quà trao hôm nay trị giá khoảng hai triệu đồng, không nhiều, phải không ạ. Nhưng nó thể hiện tấm lòng lá lành đùm lá rách, rất đáng được nêu gương”.
“Mà sao không thấy báo đài đến đưa tin nhỉ?”, ông quay sang hỏi trưởng ban tuyên giáo. Đang chăm chú vào lời Nghĩa, Tăng nghe thấy những âm thanh lạ trong đám đông bên dưới. “Nghẹc loọc. Vâng ạ!”, cu Khoèo ngơ ngơ gương mặt si đần, đế lên. Có những tiếng nhắc, tiếng mắng, câu cười cố nén, nhưng bí thư đã tươi roi rói: “Thế đấy, cháu nó cũng đồng ý với tôi. Cháu rất ngoan đấy”.
ắng đi một chút khi các gia đình nhận quà thảo luận cử người lên phát biểu. Rồi Mai bị đẩy ra trước micro. Thưa gửi được mấy câu khá đúng sách, giọng cô đã nghẹn lại, như thể đang cố nuốt cả bể nguồn cơn xuống ngực. Nước mắt cứ thế lăn xuống làm gương mặt ưa nhìn nhoè nhoẹt mà vẫn cứ không ra được lời nào. Hội trường im phắc ái ngại, đã có vẻ sốt ruột thì Khoèo lại rành rọt:
- Không nói thì bảo không nói! Nói nhiều lại bảo nói nhiều!
Có những tiếng cười nho nhỏ, những âm thanh bị nén lại. Bọn trẻ con bắt đầu ồn ĩ. Thì Hưng đứng dậy đỡ lời: “Gia đình xúc động quá nên không phát biểu được, mong các vị thông cảm. Vả chăng, cái mục đích lớn nhất của buổi lễ hôm nay là trao quà thì chúng ta đã làm xong rồi. Tôi xin thay mặt ban tổ chức cảm ơn sự có mặt của các vị khách đã bớt thì giờ ngày Tết đến dự”.
Hội trường lập tức bùng lên như cái chợ. Trẻ con đòi mở túi ăn kẹo, người lớn bảo phải về thắp hương đã. “Đám đông bao giờ cũng vô ý thức”, Tăng nghĩ, đang định đến an ủi Mai thì lại bị kéo vào phòng khách uỷ ban. Trong cuộc giao đãi với các anh địa phương, ông thấy ngoài sân vợ Hưng phát biểu trước máy quay truyền hình tỉnh. Phó nháy chạy lăng xăng chớp lia lịa. Mai quắp cu Khòeo về thế nào nhỉ, đi xe ôm khéo mất già phần tiền vừa được phát. Tăng mải nghĩ, chợt thấy bí thư hướng về phía mình: “Hôm nay mới sơ kiến thôi, nhưng mong có ngày được gặp lại anh”.
- Sơ kiến là thế nào ạ. Em mời hai anh về nhà em, ngay đây thôi. - Hưng nói.
- Thôi, tết nhất đi làm có thì có buổi, Nghĩa quay sang Hưng. Mình đã đi quanh năm…
- Một chút thôi ạ. Anh nỡ nào để em dông cả năm. Một chút thôi, em đã chuẩn bị cả rồi. Thôi thì anh cứ đến, nâng ly rồi không uống cũng được. Đằng nào đến trưa là anh cũng ngồi với chị rồi. Nhà em đang vui, vừa làm việc từ thiện, cô ấy rất mừng được anh bớt chút thì giờ.
Giọng mời khẩn thiết rất khó thoái thác, Nghĩa từ chối vài lần rồi rảo ra xe, miệng dặn “quàng quàng lên, đơn giản thôi đấy”. Và quay sang Tăng, hơi nhăn nhó: “Anh thông cảm cho, tôi thật không mấy khi được ăn cơm đủ cả nhà”. Thế nhưng vẫn phải đợi, Hưng chèo kéo đám truyền hình và báo tỉnh về nhà cho bằng được.
Tiệc đã sẵn sàng, nhỏ, đơn giản nhưng lịch sự, người đặt rõ là rất sành sỏi, kén gu khách. Hưng đưa Nghĩa đi xem nhà, bảo “đây là doanh nghiệp đối tác với du lịch tỉnh, vốn chung của vợ em với mấy gia đình đằng ấy, mình là đảng viên muốn cũng không làm giầu được”. Đang còn “báo cáo” thì bí thư đòi “Ông có gì thì cho tôi uống đi nào!”. Đám báo chí tháp tùng cũng sốt ruột ra mặt. Rồi cũng đến lúc tất cả ngồi vào bàn. “Vợ chồng em chúc anh mỗi cái sức khoẻ. Không có sức khoẻ thì chả làm gì được đâu ạ”, Hưng nói rồi nâng ly. Nghĩa, rất lịch lãm, ra câu chúc Tết, chạm cốc với bà chủ và Tăng trước, rồi lần lượt tới cánh báo chí. Ông uống chầm chậm thứ chất lỏng mầu vàng nâu, khen ngon, rồi ngay giọng: “Thế nhá, giờ thì tôi về, được chưa?”.
Tăng được bí thư trao tấm danh thiếp, “lên đây có gì anh cứ gọi tôi”, giọng chân thành chứ không thoảng quá. Đám phóng viên cũng lục tục ra xe. Hưng không nài giữ, nhưng thấy vợ ra theo đưa phong bì, “gọi là chút mừng tuổi đầu năm của anh chị”.
7.
Còn lại có hai người, vì vợ Tăng đã lui vào trong. Nhưng ông chủ có vẻ nhãng đi đâu đâu. Khi Tăng hỏi thân tình “có chuyện gì?”, Hưng bảo: “Ban nãy anh Nghĩa nhắc em giữ đoàn kết với giám đốc sở. Mà giữa em với anh Chung có gì đâu. Kể ra giám đốc ở bên Thanh niên sang, nghiệp vụ không có, nhưng em không hề lấn quyền. Chắc cụ nghe đứa nào phản ánh bậy…”. Đang còn bứt rứt thì vợ Hưng đem dưa hành ra, líu ríu mời và giải thích: “Chúng em cũng mới dần, xa nhà chơi Tết, chứ ăn thì ngon mồm cả năm rồi”, giọng biển rất nặng. Răng sin sít, kiểu người chặt chẽ không béo nổi, chắc Hưng bị quản lý ra gì. Nhưng có ba đầu sáu tay mới quản nổi tay này, Tăng nghĩ, chuyển sang an ủi Hưng, kiểu “thì chắc là nhắc chung chung thôi. Đi đâu ông ấy chả nhắc”.
“Mà dù sao, trong mắt bàn dân, ông đã được bí thư tỉnh uỷ đến thăm nhà mồng một Tết rồi…”, Tăng nói thêm, nhận thấy cái nhìn dò xét của Hưng. Nhưng rất nhanh, chủ nhà đã hồ hởi giới thiệu với vợ “nhân thân” sang trọng của khách, “không có thầy Tăng thì anh đã chả nên người được như ngày nay…”. May là bà chủ xử theo lối đơn giản, không nói những lời trịnh trọng quá.
Tuần rượu đầu bì bì, nặng về giao đãi, nhắc đến những ấy nọ hồi anh dậy còn chúng em thì học, học kiểu cốt lấy được bằng là rất không phải với công sức thầy. Em xây được cái nhà này là nhờ bên vợ. Mang tiếng là quan chức cấp sở, chứ cô ấy mang tiền về nhà là chính chứ. Sốt ruột vì Hưng à ơi lâu và có mùi che đậy, ông khách lóng tính lên giọng: “Tôi hỏi thế này có gì anh chị tha lỗi, có phải ban thờ ở nhà, nhà ở tỉnh ấy, không phải cái này đâu, không có bát nhang cúng Phật?”
- Ơ, sao anh biết? – Vợ Hưng bật lên - Đúng là em có bát nhang thờ Thần linh, Bà Cô, Tổ tiên và Ông Hoàng tại gia. Xưa mẹ đẻ em cũng bảo phải thờ Phật, mà ban riêng, anh Hưng cứ không nghe cơ. Thế ra anh biết xem. Anh xem cho chúng em đi!
- Tôi cũng chả thạo. Nói bừa thôi mà.
- Anh cứ giấu… Ngồi đây biết nhà em ở tỉnh thế nào. Cách năm chục cây số chứ ít đâu. Anh xem đi. Nhà đúng là đang phong vận, nhưng em cứ lo lo, biết đâu…
- Tôi nói thế này cô cũng chả tin. Nghĩa là cái linh cảm thôi. Nhà mình vượng rất nhiều thứ. Quan lộc, của cải đều thăng tiến. Nhưng…, Tăng ngập ngừng, cái khí trong nhà nó dương quá. Hoả mạnh khó bền. Rất khó nói cô ạ, chỉ là linh cảm thôi mà. Nhưng thờ Phật cho tâm tĩnh lại, bớt dương xung đi, có khi lại là hài hoà, đem lại sự ổn định, thư thái.
- Vâng, thế em sẽ lập ban thờ Phật riêng, rước tượng về hương khói. Anh bảo thế sẽ tiếp tục … tốt chứ gì ạ?
- Là nói vui vậy thôi cô ơi. Tôi cứ cảm thấy thế nào thì bừa phứa ấy mà, thầy bà xem xiếc cái gì…
Mặc vợ Hưng vật nài, Tăng một mực chối. Quả là ông đã nói bừa, một lối đùa nhả, kiểu đấm dứ trong quyền Anh. Không nói gì, nhưng Hưng đã động tâm thấy rõ. Nhấp nhổm trên ghế, bàn tay hết ruỗi lại co, mắt anh ta cứ chòng chọc vào Tăng nhưng lại lảng đi khi ông nhìn lại. Cuộc chơi đã bắt đầu rồi đây, và không phải không có phần ác, Tăng nghĩ, thú vị thấy mình đang chủ động, chờ cho bà chủ phát chán bỏ lên gác.
Quan sát, “đọc” tâm lý người khác là một phần công việc của Tăng, sau này nó phát triển bừa phứa ra cả những “lĩnh vực” khác. Một sinh viên hay nghiên cứu sinh trích dẫn hay trình bầy tư liệu có thật không? ẩn ý trong những câu nói kín như bưng của lãnh đạo là gì? Từ những “thắc mắc” kiểu ấy, ông dò dẫm đến những đoạn khúc kiểu “Tại sao người lãnh đạo không bao giờ nói thẳng ý mình ra?”, “Anh ta vướng cái gì mà cứ lập luận vòng quanh thế nhỉ?”. Nghĩ thấu đáo được những điều ấy sẽ có cách xử sự khôn ngoan hơn. Tóm lại là có lợi, tuy bắt ta nhiều lúc phải đăm chiêu.
Hồi bà Khánh ốm, quá tuyệt vọng, ông theo một người bạn đến nhà người xem tướng tay. Mệnh bà còn lớn lắm, Tăng nghe lời, về miệt mài phục thuốc. Nhưng chứng nan y cứ múc dần sức sống của vợ ông. Đến lúc hết hy vọng, Tăng giận mình vô cùng. Sao mà ngu thậm ngu tệ. Cái thằng “thầy”, gã giáo viên cấp một ấy, chỉ mới phán vài câu ông đã tăm tắp tin, tông tốc kể ra những chuyện hết sức kín đáo trong gia đình. Sau này, những cuộc tự phân tích tâm lý tiếp tục đưa đến kết luận rằng con người ta ai cũng có những chỗ yếu đuối, rất dễ bị khai thác hay dẫn dắt. Tăng mua sách xem tay, mò vào Dịch, quan sát tướng mạo, thỉnh thoảng “vận dụng” trong giao tiếp. Một trò nghịch tinh, nhưng nó quyến rũ vì thỉnh thoảng vẫn thành công, đem lại những hiểu biết về bí mật trong mỗi con người, điều ông chả bao giờ thấy chán kiếm tìm.
Nhưng có một cách thức tự nhiên, có lẽ là rất riêng với Tăng, là bao giờ ông cũng kết hợp những kiến thức học được với linh cảm, kinh nghiệm. Có những cái “kho” để đối chiếu, “cất” người này vào loại thành thực, đôn hậu, người kia thì ngược lại, hay đơn giản là ù ỳ rất khó “đọc”. Cái điều Tăng vừa phán với vợ chồng Hưng đến nửa phần là bố láo, nhưng lại dựa trên những cảm nhận đang diễn ra trong đầu ông về họ. Và bây giờ, nửa thật nửa hư, ông chơi tiếp cái trò không phải là không ma tịt, với anh chàng vốn từng là cậu học viên rất không trung thực của mình.
- Thế ra anh biết xem. Mà lại xem giỏi. Ngồi một chỗ biết ngoài nghìn dặm…
Hưng buông lửng, đà đận kiểu không ra câu hỏi, cũng không thúc giục. Nhưng vẻ sốt ruột làm sao giấu được Tăng. Vị “chuyên gia tâm lý” muốn lái câu chuyện sang hướng mà ông thấy cần thiết. Rượu ngon mà không ngửa bài ra, cứ phải úp mở nó hóc lắm. “Thế ông có biết hồi ấy tôi cho ông điểm mấy không?”
- Em biết. Và càng thấy biết ơn anh. Anh đã cho 5, mà bài em dưới trung bình không đáng. Nhưng anh cho em một bài học mà các giáo sư cho chín mười không cho được. Đấy là chữ “Lễ”. Em không đến anh, ít đến thì đúng hơn. Lối tặng quà lại rất thô lỗ, quen nói ít hiểu nhiều kiểu tỉnh lẻ hay của lũ buôn trâu bán bò. Trí thức trọng chữ nghĩa, thái độ, nhiều khi không sòng phẳng quá được. Nói thật, trong bữa liên hoan cuối khoá hồi ấy em rất ngượng, nhìn thái độ anh biết ngay ấy mà.
Hưng nói nhẩn nha nhưng liền mạch, không bứt rứt, những điều như thể đang nằm lòng. Kể ra thế là có bản lĩnh lắm, sau khi vừa bị bí thư tỉnh phang một đòn có thể là rất ảnh hưởng đến tiền đồ chính trị, Tăng nghĩ. “Và lại bắt luôn được vào cái “hồi ấy” của mình nữa chứ”.
- Các ông lăn lộn trong công việc, thay đổi nhiều thật đấy. Trước gầy gò, ngơ ngác, lại còn kính vỡ một mắt, ai ngờ đẹp đẽ, lịch lãm thế này. Chả bù lũ mọt sách chúng tớ…
- Vâng! Va chạm nhiều nó cũng khá lên chứ anh. – Hưng đã trở lại hồn nhiên - Được chân phó giám đốc sở cũng có giá của nó, như phải xa quê. Hồi tốt nghiệp khoá học của các anh, em về tỉnh thấy tình hình chật chội quá thể. Trưởng ban tổ chức chính quyền là người làng em, nhưng họ em với họ hắn đánh nhau liên tù tỳ. Bên ấy nghèo mà học giỏi, bên em buôn gỗ bán bè hay cậy của, nhiều lần tỏ ý khinh khi. Đến lúc gặp hắn ở tỉnh rồi thì ngán quá. Làm sao tiến bộ, có một chân chức sắc được. Kể cố thì cũng được bổ nhiệm chức phó phòng, nhưng nói anh tha lỗi, làm phó như chó dọn cứt. Rồi ông bác làm tổ chức trên này kéo lên, mới đầu cả nhà không chịu. Giờ thì bố em lại khen “thằng này có chí!”
- Hồi ấy cậu ba mấy chứ mấy, thế mà giờ đã phó giám đốc.
- Em khai tụt đi ba tuổi. Hồ sơ tay tổ chức chính quyền chứng nhận ngay vì em đi là nó đỡ ngứa mắt. Cũng có quà cáp quỵ luỵ chút đỉnh chứ nói không thì nó chả chịu. Vậy là em còn cống hiến thêm được ba năm. Anh giáo sư thì chả phải lo hưu sớm, phải không ạ?
- Tớ lại đang muốn hưu. Làm việc không còn động lực nữa.
- Em thấy trí thức các anh phức tạp thật. Cứ hay tự làm khổ mình. Dù sao em cũng học được các anh cái nết ham học. Từ hồi xa anh em học nhiều lắm. Chính trị trung cấp, cao cấp này. Bằng quản lý, bằng luật, có khi hai lớp một lúc. Vừa học vừa công tác, đi đi về về Hà Nội vất lắm. Nhưng phải cố. Thời buổi tiêu chuẩn hoá cán bộ đi cả hai chân chính trị chuyên môn nó mới vững. Bây giờ thì ổn rồi, thạc sĩ, tiến sĩ đều xong. Anh mà về tỉnh, chủ tịch đoàn giới thiệu tiến sĩ thì em cũng lên đấy ngồi vì cũng có tiến sĩ. Nói đùa thế thôi, em đâu dám trèo…
- Tớ không tiến sĩ đâu, Tăng nghiêm chỉnh. Chỉ có cái giáo sư. Trí thức, văn nghệ sĩ tức là làm quan tắt ấy mà, đâu có tuần tự tiến bộ như các cậu. Mà chắc việc học của ông cũng tốn kém?
- Hướng dẫn bao nhiêu quan tỉnh quan huyện rồi, anh lạ gì! Uống đi anh! Tuy không gặp nhưng em vẫn biết tình hình anh. Em mừng vì anh đã thay đổi, chứ cứ như xưa khư khư giữ cái sĩ thì ai mà nhờ được…
Nghe câu lái chuyện, Tăng biết Hưng đã cảnh giác với đề tài mình đang rất háo hức. Cơn tức đang dâng lên trong lòng, biết nó rất vô lý, mà ông không đè xuống được, nên chuyện lại nhạt nhẽo, khách sáo đến vô hồn, chả xứng đáng với chai cô nhắc và những thịt sấy, dưa cải ngon quắt lưỡi.
8.
- Cậu có một cái giấu vợ rất kinh.
Tăng bỗng đổi mạch chuyện, gần như thầm thì. Đang khoái chí vì thành công, và rượu đánh thức óc khái hoạt, ông muốn tiếp tục những “thử nghiệm” của mình. “Cú đấm” gần như có tác dụng ngay, vì Hưng hoá nhũn nhùn nhùn. “Nếu cậu bằng lòng thì đưa tay tớ xem, nghe được câu nào thì nghe, không thôi…”
Ngần ngừ, rồi bàn tay trái cũng đưa ra. Nhưng Tăng bảo Hưng lồng các ngón hai bàn tay lại với nhau, ngắm nghía rồi mới nâng bàn tay trái lên. Rất lâu mới ra lời:
- Cơ mưu cơ chí lắm. Nghĩ mưu cả hai bốn tiếng trong ngày. Thành đạt muộn. Đường công danh thế này tức là ưa hoạt động, có khả năng thực hành. Không chấp nhận thất bại hay sự an bài, bên trong có người luôn luôn hối thúc làm cái lớn. Về cái khoản phải xa nhà xa quê mới lập nghiệp được thì các đường biểu thị rất đúng… Có thị phi, nhưng “tay không bắt giặc” vượt lên. Trông thì nhàn tản nhưng tâm trí rất vất vả. Kể ra cậu dậy học thì tốt hơn, tâm với đức đỡ bị suy như làm quản lý. Mà gan cũng đỡ nóng…
- Thế em có được ai phù trợ không? - Hưng như bị nắm đúng thóp, lẩm bẩm.
- Không rõ lắm, cả nội lẫn ngoại. Nhưng có một bà cô chết trẻ đỡ, át nhiều những mưu hại lắm. Bà có thể đẩy cho đi xa hơn, lại có thể dừng. Đức năng thắng số mà, nên ông cần thờ Phật, át đi những ham hố dục tốc quá. Tiền đang vào như nước nhưng cũng phải cẩn thận, làm việc công đức…
- Thì em góp từ thiện cũng là công đức…
- Công đức cũng có dăm bẩy đường, cái đấy tôi nói sau. Còn cái này, tớ xin lỗi trước… - Tăng hạ giọng - Cậu có con riêng. Gần thôi. Cậu rất yêu nó. Thằng bé phải không?
- Dạ…, giọng Hưng thoảng đi.
- Cái khổ nhất là cậu muốn nhiều thứ quá. Sân si đấy. Sẽ tiến nữa về đằng tiếng tăm, như đỗ đạt, lên chức. Nhưng muốn nhiều thì khổ lắm, đấy là quy luật chứ không phải hậu vận của cậu đâu. Khổ, có khi chỉ là mất bạn, hoặc người ta kính nhường, sợ mình nhưng không tôn trọng. Cậu hay lấy mục đích làm đầu nên có khi không thấy đó là khổ.
“Nhưng thôi, có khi ông chả thích…”, Tăng dừng lại khi thấy mặt Hưng sa sầm, không phải là không có sắc thiểu não. Hẳn là đúng cả. Kể ra mình mò mẫm có hơi ác. Nhưng nó đáng thế, phải thế chứ. Và đúng là Hưng cũng chả muốn bị “đọc” tiếp, khi nhắc đến vợ đang trên gác.
- Anh, các anh sợ thật đấy, biết hết chuyện nhà người… - Ông chủ nói yếu ớt, nhưng dù sao cũng cho thấy một trạng thái thành thực, ngửa bài hơn.
- Thế mới ăn cơm thiên hạ được ông ạ, Tăng nói đùa, bỗng thấy thương thương. Câu cuối cùng nhá, ông đang rất muốn ngồi vào cái vị trí đã có người. Hãy chịu đựng, biết chờ đợi. Đừng manh động quá mà rối tung lên. Thôi, tớ uống đây!
- Em cũng biết là phải làm thế. Giám đốc sở chả biết quái gì, nhưng là người của phó bí thư phụ trách tổ chức. Phải cái lắm lúc không chịu được lại điên lên. “Cạch” cái đi anh.
Chuyện hết lờ đờ, vào hẳn quãng cởi mở. Hưng uống như hũ chìm mà giọng không hề dính, rất tự chủ, làm Tăng không khỏi không khâm phục. Có điều cứ mỗi lần “anh ạ” là lại đập tay vào người tiếp chuyện. Người tự tin, nắm quyền lực mới có những thói quen như vậy, tinh quái cẩn trọng đến mấy thì rượu vào vẫn phải tít.
- Ông chắc có nhà Hà Nội rồi chứ nhỉ? –Tăng, uống ít mà chiêm nghiệm nhờ chén rượu thì nhiều, hỏi.
- Mới có đất thôi, chưa xây. Thằng Ân sở xây dựng tỉnh em ăn dự án xoá đói giảm nghèo xây nhà ngay nên xong sớm nghỉ sớm. Nhưng cái Hoa Ban này chủ yếu của em, có phần hùn của mấy anh trên tỉnh với ngay huyện này nữa cho chắc chắn, anh ạ. Cậu quản lý đây là em bên vợ. Hay anh sang bên này nghỉ đi. Đỡ buồn, mà em còn vài việc muốn bàn với anh.
Tăng từ chối, nói thác là còn muốn “sử dụng tình trạng độc thân”, rồi hỏi: “Nhưng biển treo ngoài kia là của công ty Ô., nhà nước kia mà…”. Hưng không trả lời, xoay sang giục: “ Anh ăn đi, món mì ý này được lắm đấy!”. Sục cạn ly mấy lần, mới đà đận:
- Kể ra là em không muốn nói, nhưng dấu anh lại thấy áy náy. Thế mà anh tin được à. Cái lòng khách sạn là của chúng em, tức là tư nhân. Vận dụng mãi, không thì không di dời được những hộ dân ở đây.
- Có phải là đám Hà Nam, giờ trồng rau dưới lũng?
- Ơ, thế ra anh biết hết rồi. Anh đúng là ma xó. Sợ thật đấy. Anh quen ai à?
- Cũng không hẳn…
- Em hỏi thế thôi. Anh mà có lòng trượng nghĩa tranh đấu cho mấy nhà ấy thì dù ba đầu sáu tay cũng bằng húc đầu vào tường. Bọn em làm kín lắm, anh ạ. Nắm chuyên chính trong tay mà.
Hưng nói chắc nịch, giọng uy quyền, cứng cáp. Nhìn hắn tấn công vào đĩa bít tết, Tăng bỗng tỉnh hẳn. Đầu ông long lên những mối ngờ: “Có phải vì bị đẩy xuống lũng trồng rau mà nhà Mai rơi vào khốn quẫn? A, có phải vì thế mà cô ấy đâm đi “thêu thùa”? Thế những chuyện ấy có liên quan gì đến cuộc từ thiện hôm nay không, biết thế mà còn làm thế thì khốn nạn quá chứ”. Bên tai ông, Hưng rất rành rọt:
- Em muốn bàn với anh một việc, rất quan trọng. Chất xám của anh cần cho tỉnh lắm, tất nhiên không phải chỉ mình anh. Một vài lớp bồi dưỡng, đón các giáo sư lên. Em cứ ngửa bài thế này, các anh thì cơm bưng nước rót, tiền tỉnh vận dụng nhiều kiểu, không bèo bọt như ba rem nhà nước trả trí thức đâu, anh ạ. Và bọn em chả phải đi đâu, vẫn nắm việc cơ quan nên chả lo thằng nào tranh ghế mà vẫn có chứng chỉ học tập, đủ bằng cấp để đạt chuẩn cán bộ của trên. Nhất cử lưỡng tiện đấy. Tất nhiên không phải cứ học là đỗ, chứng nhận chỉ đến với những ai đúng quy hoạch của mình. Anh thu xếp cho đủ một đội hình giáo sư, trên này em sẽ báo cáo với tỉnh.
“Anh thấy sao? Chuyện này anh phải giúp em mới được”. Nghe Hưng giục, Tăng thấy mình đang nhãng đi. Đúng là lâu nay ông hay “trôi” vào nảo nào giữa những câu chuyện cần tập trung. Một chứng già, chứ gì. Bèn điểm lại những gì Hưng vừa nói, và đà đận: “ Để tôi nghĩ đã. Ông nói đột ngột, tôi hơi bất ngờ. Tôi chưa tổ chức lớp thế bao giờ mà…”
- Có gì anh cứ cho em biết đi.
- Thực là tôi ngại về chất lượng lớp. Các ông ở tỉnh về Hà Nội học tập trung còn ngổn ngang bao nhiêu việc, rất ít khi tĩnh trí cho bài vở. Các giáo sư tôi quen biết họ cũng khó tính, tỉ như lên tận đây dạy mà học viên kém quá, bận công việc quá, giờ dự một giáo trình không đủ, rồi ra cứ thế cho chứng chỉ à, cuối khoá cứ thế cấp bằng chứng nhận à. Mà các ông cũng chăm học thật đấy nhỉ.
- Anh tính cán bộ làm đã cực thì còn đi học để làm gì? Nhưng có bằng cấp mới có chức vụ, thì mới có quyền bổ kế hoạch, lập dự án. Quyền lực, nói thật, còn hơn chữ nghĩa anh ạ. Em chả biết trí thức văn nghệ quan tắt thế nào, chắc không mạnh toàn diện bằng bọn em. – Hưng khoát tay. – Mà thôi, nói những chuyện ấy nó xa xôi quá. Cụ thể là anh cứ làm một khoá cho bọn em đi. Chất lượng là cái gì! ở trong tay các anh chứ. Em ngửa bài thế này, là trên này cần bằng và có tiền, các giáo sư có thẩm quyền và thiếu tiền. Đấy, thực lòng là thế, khó nghe nhưng em phải nói thẳng bản chất lớp học là vậy. Anh đã bắt em nói trắng phớ ra rồi đấy, giận hay không là tuỳ anh. Nhưng em lại phải nói thêm, không có anh thì em cũng nhờ được người khác. Giáo sư giờ thiếu gì người bán…
- Thì ông kiếm được ai cứ nhờ họ đi. Tôi chưa sẵn sàng.
- Anh làm em giận quá. Vẫn cứ như ngày xưa. Nhưng anh lại là người có tiếng là nghiêm túc trong khoa học. Thế em mới nhờ. Giúp em chỉ có lợi.
- Ông đúng là vẫn như ngày xưa. Chả đổi tí nào.
Chủ khách, lúng túng vì trót cởi mở quá, để chuyện đâm vào chỗ bí bì, đành ngồi yên cho rượu vào. Rồi Tăng phá ngang: “Ban nẫy bí thư tỉnh uỷ không ở lại, chắc là bận…”
- Em cũng tiếc. Giữ thế nào anh Nghĩa cũng về, bảo “Tết cũng đi bà ấy không bằng lòng” với lại “Ông cũng để tôi phải có cuộc sống riêng của tôi chứ”. Nói thế thì chả nài được nữa. Nhưng anh biết không, cụ xuống dự thế là đã được quá rồi. Khối đứa đang chọc ngoáy em về cái khách sạn này phải im miệng.
Hưng nói rắn rỏi, rõ là đang trong cơn cởi mở hết lòng. Chả còn gì để phải giữ kẽ thầy trò, đằng nào thì với chầu xem tay, khách cũng đã đọc hết vị chủ rồi còn gì. Nhưng trong lòng Tăng, nỗi bất bình bắt đầu réo lên thành cơn giận. A, té ra mi, với những anh trên tỉnh, dồn mấy gia đình Hà Nam xuống dưới lũng, đẩy Mai vào chỗ “thêu thùa”. Quân khốn nạn, với những dự án đầy mục đích yêu cầu cao cả, những diễn văn diễn từ thánh thiện… hại đời người ta. Nghĩ thế nhưng nhà trí thức lại ra lời nhẹ nhõm: “Ông bây giờ cảm thấy hoàn toàn làm chủ cuộc đời rồi đấy nhỉ?”.
- Anh nói thế nghĩa là sao?
- Ban nẫy tôi còn chưa nói hết với ông đoạn công đức. Đuổi người ta đi để xây khách sạn kinh doanh cho mình rồi lại làm từ thiện, cái công đức ấy ghê tởm lắm! Tôi hãi cái sự tiến bộ của các anh.
Hưng ngạc nhiên thấy Tăng đổi giọng bất ngờ.. Ông “bán tự vi sư” đã đứng dậy, mặt đang đỏ lại sang tái ngó anh ta trừng trừng. Ông chủ nhà cũng tự chủ rất nhanh, lau mồm cẩn thận, mím chặt đôi môi mỏng, vứt cái khăn ăn xuống bàn. Những lời ra như chưa từng uống:
- Thế là đủ rồi. Biết nhau rồi. Buồn cười nhỉ. Té ra anh vẫn cứ như xưa. Nhưng nói ra thế cũng là tốt. Cũng là nhờ rượu mới biết. Thôi thì anh nghĩ gì em không bàn. Nhưng chớ có thọc vào những chuyện trên này. Không đùa được đâu, thầy giáo ạ!
9.
Ban đêm, Tăng thấy mình bị dồn đuổi. Con quái vật khoẻ mạnh thần thông lúc xấu xí lúc xinh đẹp giơ bàn tay lông lá gớm ghiếc chụp xuống đầu ông. Đồng lúa, bãi ngô, sân trường, lên cả trên rừng rồi mà chỗ nào cũng thấy nó trước mặt. Đứt hơi mà nó thì cười khành khạch. Bị chiếu bí, Tăng đẩy Mai vào mồm nó. Sáng sau ông chủ nhà nghỉ bảo đêm qua bác nằm mơ u ơ ghê quá, làm em phải lên xem…
Ông bị rơi vào cơn phiền não. Day dứt vì cái ý nghĩ mình đã góp phần tạo nên một cái quái thai cho trần thế, là thằng Hưng. Sao mà thiên hạ giờ chăm học thế nhỉ, ai ai cũng muốn làm cử nhân, tiến lên tiến sĩ. Dân tộc mình hay tự phong hai chữ “hiếu học”, thế mấy người trong bia tiến sĩ ở Văn Miếu có tên trong sách “Các tác gia Việt Nam”, nghĩ ngợi một cách độc lập. Các cụ “sĩ” ơi, chăm học thế thì chết giống nòi là phải. Ông và bè lũ giáo sư đã thành ra thế nào khi nặn một lũ ấy nọ thành trí thức. Chúng đã cán bộ đảng viên, giờ lại cả trí thức nữa, thế nào thì ra thế ấy chứ còn gì…
Và lo sợ. Nói ra điều mình nghĩ sẽ hệ luỵ. Không có rượu thì đã chả có chuyện. Uống kinh thật. Đầu nặng quá. Mình có trắc ẩn, sự thương cảm, nhưng mình chưa bao giờ là con người tranh đấu. Không quật cường như người khu Bốn mà đòi cách mạng á…
Sự thảnh thơi rời bỏ con người nhậy cảm. Kỳ nghỉ thế là hỏng mất rồi. Chẳng thiết ăn uống, cũng chả muốn về nhà, về thì sự day dứt về đạo đức kia cũng chả buông tha nào. Tăng thấy mình phát ốm, suốt ngày nằm lỳ trong phòng làm nhà chủ cũng ngại. Phiền phức quá.
Mai đến đúng lúc. ép cháo lão, xoa dầu đánh gió. Gớm lưng anh đỏ lên ghê quá. Lúc gặp anh em cuống lên quên mất trên tầu là chú cháu. Em lấy cành mùi đập lên người anh đây… Đàn ông tám mươi bọn em cũng “anh em “ cả. Chịu đau một lúc, ra mồ hôi là nhẹ người ngay ấy mà. Mồ hôi cô ướt đẫm. Sự đụng chạm làm con đực nổi lên, Tăng thấy mình chả yếu chút nào.
“Xong việc” đúng là nhẹ nhõm, thoả mãn. Ngắm nhau trần trụi, vuốt tóc, mân mê dái tai, thấy vừa buồn cười vừa lạ lùng. “Sao cô ấy lại cho mình nhỉ?”, nghĩ thế nhưng câu ra mồm lại thật ác: “Em mang sẵn “túi” đi à?”.
- Em nghĩ chuyện thế nào cũng đến lúc thành thế này, mang đi cho yên tâm. – Mai thảnh thơ - Em hiểu đàn ông chứ, biết ngay đã lâu anh không có đàn bà. Anh đã làm việc tốt cho em. Lần thứ nhất trên tầu, đòi chỗ cho em. Thật ra em dại, không ngồi đúng chỗ cũng chả sao, đòi cái thằng ấy lại lòi nghề mình ra. Lần thứ hai đúng là cứu mạng em. Anh không đánh lảng hôm ấy thì em còn mặt mũi nào với gia đình nữa. Bố em biết dễ tự tử mất. Chòm xóm em nghèo nhưng nghiêm, không chịu đứa con gái đi khách đâu. Anh thấy em có xấu không?
- Vậy là em trả ơn à, Tăng trầm ngâm. Thật ra không biết ai nợ ai. Em không biết đâu. Anh cảm thấy mình có lỗi một phần khi em phải đi thế này…
- Em không cần thương xót đâu. Không thích. Mới đầu thấy khổ lắm, nhất là lúc vài thằng say nó hành. Nhưng dần thì xác định được. Là một nghề thôi mà. Đàn ông “bút cũ giấy mới” ai chả thích, còn chúng em thích có tiền. Cũng có những chuyện chết cười, như đang đi ngoài phố gặp khách đi với vợ con, rất nghiêm nghị chỉn chu. Lờ nhau đi thôi, hoặc giới thiệu cô này là “đối tác làm ăn”. Có bà tưởng em làm oách xoắn lấy nhờ liên hệ, chồng đứng xa mặt cứ tái dại. Chắc lúc ấy em ra dáng thư kí sếp lắm.
- Em đi làm từ bao giờ?
Tăng hỏi bạo khi đám mặc cảm đạo đức đã nguôi nguôi, cơn tò mò trỗi dậy. Vả, hai người phải có câu chuyện chứ, ông còn chưa biết “mở đầu” thế nào.
- Bẩy tháng trước. Nhà chuyển từ trên chỗ khách sạn Hoa Ban bây giờ xuống lũng được ít lâu thì đi. Nhưng mà thôi, anh làm gì mà cứ như ông điều tra xét hỏi. Chỉ biết là lúc ấy em long lanh, không tệ như bây giờ.
- Bây giờ em cũng chả tệ…
Tăng mân mê cái dái tai bé như con sò của Mai, lại tự phân tích những cảm giác trong lòng. Trời đất ạ, người đàn bà này… Những chấm tàn hương chạy xuống ngực, mình làm sao quên được.
“Anh xem phim “Gió mưa bên thềm” chưa?”, Mai xoay chuyện tự nhiên.
- Phim Hàn Quốc à?
- Hồng Kông. Bọn em chờ khách canh tivi suốt ngày ấy mà. Kể cô gái ra tỉnh làm xưởng thêu mặc đồng phục xanh nhạt đầu chít khăn hoa, ngồi trong phòng rất rộng cả trăm người, tay đưa lên đưa xuống miệng hát không lên da non được. Bố em cũng xem phim ấy cứ hỏi “hết ca thì ra bếp ăn tập thể à, ăn mâm sáu như bộ đội hay mâm mấy?”. Bố em dễ lừa lắm, thích xem và bàn chuyện thời sự với cả chuyện thời xưa đánh nhau thế nào. Nói gì cũng tin anh ạ. Anh không xem phim ấy thật á?
- Anh không thích tivi.
- Chán nhỉ. Thế anh làm nghề gì?
- Anh làm cái nghề em làm đầu tiên ở Hà Nội ấy. Tức là làm đẹp.
- Chỉ bịa!- Mai bật cười khanh khách. - Đàn ông ai làm nghề ấy bao giờ. Anh đùa ghê nhỉ. A mà có khi thật. Em thấy thợ may, uốn tóc, vẽ thời trang nhiều con trai làm giỏi ra phết. Anh có bàn tay mềm như tay đàn bà. Nhưng tuổi anh đi làm đẹp thì chưa thấy ai.
- Khách của anh đa phần đàn ông, cũng không còn trẻ.
- Thôi anh chả phải nói nữa. Chuyện với anh tức lắm. Cứ lấp la lấp lửng.
- Anh dậy học, Tăng giải thích. Đại loại ai dốt thì anh cho cái thạc sĩ, vừa lười vừa dốt mà lại muốn trèo lên đầu người khác ngồi ỉa thì anh tặng luôn cái tiến sĩ. Sau này khuyết chân cán bộ nào người ta vin vào những bằng to bằng nhỏ ấy mà bổ nhiệm ấy mà.
- Oách nhỉ. Thế anh là giáo sư à? Em đã đi với vài ông tóc bạc, mấy thằng trẻ đưa đến cho “vào đời”, cứ lóng nga lóng ngóng, chắc cũng giáo sư.
- Anh lóng ngóng lắm à?
- Anh không đến nỗi. Nói chuyện với anh cũng vui. Mấy ông kia cứ hỏi em “quá trình công tác” buồn cười lắm.
- Ban nẫy em nhắc đến khách sạn Hoa Ban. - Tăng “chuyển gam” - Tối qua anh ăn trên ấy, với ông Hưng, có khi em biết.
- Lạ gì. Anh chơi với họ hả?
- Quen từ xưa. Đúng ra là anh đã dậy Hưng. – Tăng dò hỏi, thấy mặt Mai bỗng dưng đanh lại – Có chuyện gì à?
- Ông ấy đẹp đẽ, lịch sự lắm phải không?
- Khác hẳn ngày xưa, quê mùa lắm. Nhưng chắc chả phải là em quý báu hắn, đúng không?
- Em căm thù. Mà thôi. Anh chơi với ông Hưng tức là anh cũng là rồng. Em chỉ là tôm thôi, không trèo được. Nợ trả rồi nhá. Giờ thì ai đi đằng nấy.
Mai với áo ngoài đứng dậy, làm Tăng cuống lên. “Anh có biết nó làm những gì đâu. Nó thay đổi thế nào làm sao anh biết. Chỉ là thấy thầy cũ, Hưng mời cơm, tỏ ra còn nhớ mình, thế thôi. Em buồn cười thật. Mấy chục năm không gặp nhau, dễ thầy vẫn phải chịu trách nhiệm về trò chắc. Bây giờ gặp cô giáo cũ chắc em không chào hỏi hả?... Thế thôi, chả nói chuyện ấy nữa. Nhưng em đừng về”.
Mai ngồi xuống, thừ người ra, tay cứ vuốt ngược ra đằng gáy. Chuyện lâm vào tắc tị, Tăng đang tìm “lối thoát “ thì nguồn cơn bên ấy đổ ra.
“Còn ở trên thị trấn thì mình em nuôi ông cụ, thằng Khoèo với cu Nính không là gì. Lúc ấy ông chồng cũng bỏ đi rồi, không còn là gánh nợ nữa. Nhưng đột nhiên bị đẩy xuống lũng trồng rau. Em được nhận vào làm ở khách sạn Hoa Ban như thoả thuận giải quyết công việc cho người phải ra đi để giải phóng mặt bằng, hàng ngày giặt rũ, làm vệ sinh buồng, rửa bát… Nghĩ cũng sướng, thức ăn thừa của khách mang về nhà, nhiều khi cả con cá lăng chỉ thiếu cái môi. Tắm gội nước nóng, dùng dầu gội tóc mượt ơi là mượt. Mấy tháng trời da em hồng hẳn lên, đàn ông nhìn vừa thích vừa sợ, sợ nhất là cái hôm ông Hưng hỏi han thu nhập em rồi bàn bạc gì đó”.
“Rồi ông quản lý bảo bỏ ủng cởi găng ra, mặc bộ này vào tiếp khách. Tưởng là lên chạy bàn, hoá ra là có mấy khách vào uống đòi. Em không chịu, thế là ra, còn cả tháng lương mắc lại. Mình làm có hợp đồng đâu mà đòi được”.
Chuyện buồn nẫu, nghe nữa nó bất nhẫn quá. Nhưng cô gái đã như nhập đồng, mắt nhắm nghiền, lời ra rỉ rả, những nỗi không thể đừng…
“Vụ rau mất, môi miệng treo tít lên xà nhà, bố con chả muốn nhìn nhau. Rồi em mang thử quần áo Trung Quốc về Hà Nội, thấy bảo giao chợ Thành Công, chợ Thanh Xuân được giá lắm. Hàng không bán được, nhưng em mắc lại ở hiệu làm đẹp. Cấy mi giả, nhuộm tóc, tẩy nốt ruồi, xăm mắt, nhổ lông nách. Các bà khen em làm cũng được”.
“Nhưng mà tiền ít anh ạ. Bố em thương tật, trời ẩm là đau, con hết sưng phổi đến chó cắn. Lại còn thằng Khoèo. Thế là theo bạn chuyển nghề. Được cái khách chơi nhiều người tử tế, bằng lòng thì thưởng hậu. Hôm nào xe biển xanh đánh đến chị em vui như Tết. Khách biển trắng hay xe máy thì ke. Bà chủ hiện nay cũng tử tế, thuê đám vệ sĩ rắn mặt, khách quậy “làm việc” ngay. Cũng có đứa chơi chạt nhưng tiếp tại chỗ, không đi đâu thì khỏi lo. Đại khái trừ tiền trọ, ăn uống, phấn son các thứ, mỗi tháng gửi về nhà được hai triệu”.
- Nói như em thì cái nghề này cũng… không đến nỗi như người ta tưởng nhỉ, Tăng ngập ngừng.
- Em hiểu ý anh rồi. Chỗ anh khó hỏi cũng là chỗ đau nhất của bọn em. Thân mình thế này chỉ để cho chồng con, người yêu hay như anh, để trả ơn trả nghĩa này nọ thôi, đúng không? Nhưng những người ấy có nuôi được mình không? Khách đi đúng là năm bẩy loại. Nhưng những thằng râu ria, hôi hám hay say rượu cứ ấp mặt vào ngực mình là em cứng hết cả người lại, muốn đẩy ra mà không dám. Nhiều lúc nghĩ mình trang điểm đẹp đẽ thơm tho, để tay chân chúng nó mân mó, vầy vò, nước mắt cứ chảy ra. Nhưng vẫn phải chiều, lấy đồng “bo”. Rồi lại nghĩ may mà mình còn cái cửa này kiếm ăn, chứ xấu như ma chắc đánh đường ăn xin. Đấy, nghe thấy đã sướng chưa?
- Không “chấp nhận”, “xác định” à?
- Anh nói gì em không hiểu.
- Nghĩa là không quên được, cứ phải nghĩ á?
- Nghĩ nó mới khổ. Em vào loại không làm nghề này lâu được. Có con bé người Lào Cai, trẻ lắm, người yêu gọi điện hỏi đi chơi đâu không về, nó cứ xưng xưng “đi làm ca ve, kiếm tiền, rồi ít nữa về mới cưới được”. Lại còn cao giá “không đợi được thì đi lấy con khác đi” mới kinh. Thế mà thằng kia phải chịu đấy.
- Nó thế là sướng chứ.
- ừ. Thì là sướng. Nhưng nghề này sướng khổ khó lường. Em hơn nó vài tuổi mà như bà già, cứ khuyên ăn diện ít thôi, đừng đổi điện thoại vội, một đêm đừng để dăm bẩy thằng họp chợ trên bụng mình … Mà nó có cần đâu. “Bà có phải mẹ tôi đâu mà lắm lời”, lúc cáu nó văng lại với em thế đấy.
- Xong rồi sao?
- Cũng thôi chứ làm sao? Mà sao anh hỏi lắm thế. Tò mò lắm nó già người đi ông trẻ ạ. Tóm lại là một nghề thôi mà, như đi buôn ấy, nhưng đem thân mình ra làm vốn, có lúc xui xẻo, có lúc gặp may.
- Gặp anh là may hay xui?
- Tết về với con, gói bánh, dọn bàn thờ, thăm hàng xóm là may rồi. Nói chung chuyện với anh không chán, trừ đoạn bị hỏi nhiều quá, thì là vừa may vừa không may.
Mai nhổm dậy chải đầu, vén đám tóc loăn xoăn sau gáy, bộ điệu thật dễ thương. Tăng ngắm nghía rồi chuyển “đề tài”: “ Ban nẫy em bảo ghét Hưng. Nhưng có khi hoàn toàn là thằng quản lý khách sạn…”
- Anh nói thế cũng phải, giọng Mai hết sức nản. Nhưng em làm, em biết. Ông Hưng lúc nào cũng đẹp đẽ, lịch sự, chưa nói nặng bao giờ, mà sao ai cũng sợ. Thằng quản lý không được phép chủ bố bảo không dám sai em tiếp khách.
- Em có muốn trả thù nó không? Nghĩa là tố cáo hay làm gì đấy…
- Anh hỏi thực hay chơi đấy? Nghĩ đến chuyện ấy em còn chẳng, nữa là…
- Biết đâu có khi anh giúp được em. Những người quen của anh ấy mà…
- Thôi đi. Để em sống yên ổn. –Giọng Mai đông cứng lại- Anh đến bới chuyện rồi đi, gia đình em ở lại chịu nạn à. Mà em tự bỏ việc ở Hoa Ban chứ nó có đuổi đâu. Anh có kéo bạn bè chiến hữu vào đánh được nó thì em cũng ê mặt. Điếm đi kiện à? Trí thức các anh nói chuyện thì thích nhưng đáng khinh lắm, chỉ hô khẩu hiệu rồi đánh trống bỏ dùi.
“Thôi em về đây!”, Mai đứng dậy, đỏ mặt tía tai. “Về với con. Trả ơn cho anh thế cũng là nhiều rồi đấy. Mai làm gì á? Mai chơi với con. Ngày kia cũng chơi với con. Anh thích thì cứ xuống nhà bàn chuyện kiện tụng. Bố em suốt ngày nói chuyện chống tham nhũng”.
- Thôi nào. Anh đã rất mừng vì mình nói chuyện dễ dàng, ngon lành biết bao. Anh thích lắm, thật đấy. Không phải chỉ vì em đã cho anh đâu. Không ngờ là lại làm em giận đến thế.
- Anh, các anh xía vào chuyện của chúng tôi thì được thơm tho đấy, nhưng chỉ để cái khổ lại.
- Thôi, anh xin mà. Đã lâu anh không biết đàn bà. Em rất tuyệt vời. Anh muốn tưởng tượng lại em đẹp thế nào, đừng làm hỏng nó đi…
- Thôi đi ông, ông già làm nũng ạ.- Mai đã dịu lại - Lần sau ốm không có chuyện đấm lưng nữa đâu. Em coi nó như một lần đi khách, hơi đặc biệt hơn thôi. Thôi đừng xuống nữa. ở đây chật hẹp, cô nào có đàn ông tiễn ra khỏi nhà nghỉ là ầm lên ngay…
10.
Ban nãy mình nói “xác định” với “chấp nhận” những gì gì với Mai. Thế còn tụi giáo sư thì sao? Và mình, cái thằng tôi này này, thì nó thế nào?
Vào nửa đêm, sau cảm giác khoái lạc, Tăng bị những ý nghĩ oái oăm hành. Đến độ nóng hết cả người, phải ra sân đứng, dù biết dễ cảm lại.
Cái hình ảnh đầu tiên, và rùng rợn nhất, ông nhớ lại, là tấp nập ngày rằm tháng bẩy năm nào. Ba hội trường to, bẩy phòng họp nhỏ trong trường huy động hết. Tất cả các phòng ban, bộ máy chuyên môn phục vụ cho “vụ” bảo vệ luận án tiến sĩ. Cơn cớ cho cuộc khẩn trương ấy là một chỉ thị ra hai năm trước, định rằng đến ngày… tháng… năm, tất cả các chức sắc muốn được bổ vào cấp ý nọ phải có học vị tưng nây. Quá bằng chạy xô. Học viên, đa phần đang giữ chân trưởng phó phòng ở các cơ quan thi nhau đi thi phần tiêu chuẩn, sau đó cắm đầu học. Nhiều người đèn sách ngay tại nhà giáo sư hướng dẫn. Thiên hạ siêng thì các thầy cần cù. Giáo sư Vũ Nờ “chăn” một lúc hai chục “em” từ ba mươi đến “u sáu mươi”, chỉ nghĩ ra tên tưng nấy đề tài đã đáng bội phục. Nhà viện sĩ Đinh Cờ lúc nào cũng thấy chiếc xe của nghiên cứu sinh Hoàng Quờ, hàng xóm ồn cậu này rất hiếu hạnh với thầy, rửa đít với cả đổ bô cho ông lão tám mươi trên gác. Viện trưởng đầu ngành Trần Vê nêu kỉ lục đọc liền tù tì hai mươi sáu luận văn trong tháng rưỡi, tất nhiên có phán xét. Vê làm việc ở nhà là chính, trò đến đông quá cậy bà vợ quê ra tiếp. Tất cả diễn ra với một tốc độ chóng mặt.
Kết “vụ”, đám giáo sư bảo nhau: “Giờ thì đã có thể kê cao gối ngủ, chúng ta đã hoàn thành chỉ tiêu đào tạo sau đại học cho hai trăm năm sau”. Nói vui, tếu táo tha hồ, có điều chả thầy nào hé răng công khai hoa lợi thu được nhờ vụ ông trời “gieo” xuống trần cái chỉ thị nghiệt ngã nọ.
Phần Tăng thì khá đủng đỉnh. Chả có “động cơ” nào hối thúc, ông chỉ nhận đủ chỉ tiêu hướng dẫn, ba người trong một năm, và ngồi trong bốn hội đồng giám khảo, công việc tuần tự theo nền nếp. Rồi một hôm, ông phải bảo: “Cái thằng Phờ nó thế nào thế, hai chương liền nhau, một cái chỉn chu, một cái bố láo không ngửi nổi…”.
- Tại vì hai chương hai người viết, bố ạ.
Ông chủ tịch hội đồng khả kính chả biết vui gì mà cười cười rất thú vị. Tối ấy, Phờ đến nhà Tăng, đem cho cái cục trăng trắng cưng cứng, bảo là sừng tê giác, “có người ở châu Phi cho em”. Nhờ thế, vợ ông đã kéo dài cuộc sống thêm được hai tháng chăng? Hay là ba tháng hay chỉ một tháng?
Sau bao nhiêu lần từ chối, để bị kêu rằng “giữ giá quá”, rút cục Tăng cũng đứng trước một đề nghị bất khả kháng. Em vợ ông, người đã một mực nâng giấc bà chị cho đến lúc cuối, dẫn đến cậu Văn Nờ. “Em biết bác nghiêm chỉnh, chả dám nhờ nhiều. Chỉ là nói hộ với ông Đức Mờ đừng cho nó điểm dưới trung bình. Cả hội đồng còn mỗi ông Mờ nó chưa tiếp cận được”. Cứ tưởng khó, ai ngờ Đức Mờ cười ha hả: “Ông hỏi nó có muốn tôi cho mười không? Mà không cần đến nhà ngay đâu”. Lòng Tăng trào lên cảm giác bứt rứt. Nhưng chả lâu. Dù sao ông đã báo hiếu lại nhà vợ. Vả, thêm một tiến sĩ, đời hẳn phải đẹp hơn, chứ lị!
Rằm tháng bẩy ấy là kì hạn cái văn bản oái oăm nọ có hiệu lực. Tăng chạy xô từ hội trường lớn này sang phòng họp nhỏ kia, lúc hăng hái bảo vệ người mình hướng dẫn, lúc rón rén nhặt ra “thiếu sót không đáng có” trong luận văn phản biện. Nơi nào cũng rào rào, nô nức. Hết một cuộc, nhân viên hành chính khẩn trương hạ tấm bảng yết “Lễ bảo vệ luận án tiến sĩ của nghiên cứu sinh…” xuống, trương tấm khác lên. Ngày chưa xong, “Lễ” tiến hành tiếp ngay buổi tối. Mà nhà điện, dễ là chơi khó tiến độ đào tạo sau đại học, cúp đèn cho nhìn với cả micro cho nghe. Khắc phục khó khăn, trường cho mua cả đống nến đại. Phòng bảo vệ khói mù, trò đọc toét mắt, thầy căng tai nghe. Cảnh tượng rất liêu trai, ai nhìn nhau cũng thấy có đuôi. Và mệt, chữ ùn két trong đầu. Được cái “lễ” kết thúc nhanh, một tối chạy vù vù ba cuộc. Và luận văn nào cũng từ “trót lọt” trở lên đến “hoành tráng”.
Tan “vụ hè thu” – một đồng sự của Tăng đùa thế, ví các giáo sư như người nông dân yêu ruộng đồng, thảy tĩnh lặng trở lại. Tăng nhìn ông hiệu phó chuyên môn, các giáo sư trong khoa, ngoài viện cứ thấy vừa quen vừa lạ thế nào. Cả ông cũng ra khang khác.
“Năm nay chúng ta đã xá tội vong nhân mới ghê chứ!”, câu nói của Tăng ở văn phòng khoa thỏm vào thinh không.
Những đèn đuốc đêm bảo vệ ấy. Tiếng nức nở khóc chị của em vợ ông. Những bảng biển, bằng sắc… Tất cả diễu binh trong đầu Tăng. “Cũng là một nghề ấy mà, nhưng chúng em lấy thân mình ra làm vốn”, người con gái bán trôn vừa ra điều thế.
Vậy ông, những các ông thì ra thế nào? Không phải thân xác, mà đem cái đầu được học hành đầy đủ ra làm vốn, thì cũng là làm điếm chứ còn gì. Nghề giống nhau lắm, có điều anh mặt trắng được thiên hạ trọng vọng đến điều, hơn đứt phường chị em ấy nọ.
“Liên hệ kiểu gì mà kì quặc thế”, Tăng tự nghiệm khi sương đã ướt vai.
11.
Sáng ra, không ngờ là ông khoẻ trở lại. Dậy sớm tắm, ngắm mình trong gương, sờ nắn bắp thịt, liệu chúng đã nhẽo quá… Cái túi dưới mắt đã bắt đầu lộ hình, sẽ ngày càng thõng xuống. Đầu lúc nào cũng nghĩ tới cô gái, khi trần trụi, tàn nhang chạy xuống ngực, khi nghiêng đầu buộc tóc, cặp lông mày đỏ tía vì tức. Những hình ảnh thật ngọt ngào. Một cơ thể trẻ trung dẫu lắm dầy vò, một tâm hồn tưởng như chai cứng vẫn hé mở rung động. Chuyện trò thì thẳng thắn, tự nhiên, sự bất thường quyến rũ biết bao, Tăng tưởng như mình đang mơ màng.
Mà cũng đáng mơ màng thật. Phố lại đầy sương. Sương hay mây. Ngồi trong dầy đặc ăn ngô nếp, suýt soa vì nóng. Váy Mèo ríu rít trong bụi nước. Đống táo cổng chợ đã dọn đi, vẫn người đàn bà hôm qua ngồi khù khì với những củ măng lực lưỡng. Tăng trôi đi giữa những lao xao. Nhìn theo chiếc xe hơi mang biển Hà Nội, thấy tội nghiệp cho những kẻ dưới ấy quá. Cho tiền một kẻ dặt dẹo, chắc là nghiện. Trên này mưa sớm, chắc thế, nên đào chưa rụng hoa mà măng đã lộc phộc lên.
Ra nhà “người quen” đầu thị trấn, thì cậu công nhân bện hơi vợ đóng cửa. Những bước chân, tuy chả chọn hướng, lại lộn về chòm Hà Nam. Chỉ có ông bố ở nhà, Tăng đã biết tên, là Bẩm. Trên giường, thằng khoèo. “Mẹ con nó đi đâu ấy. Hôm qua con mẹ đi một lúc mà nó hờn quá”. Bẩm bình thản đón món quà Tăng mua cho con Mai, cái áo rét, và chai rượu thuốc cho ông, không quá “cảm kích” như hôm trước.
ấm chè tuyết ngon đến phải suýt soa. Chuyện chả ra chuyện, chủ nhà cứ nhẩn nha dắt, tỏ ra tự tin, hiểu biết hơn hôm trước nhiều, khách ngồi nghe mà hồn để ra vườn, nhỡ có bước chân về. Chè búp có mưa xuân mới ngon ông ạ, đây là chỗ dành năm ngoái. Tôi trồng mấy luống trên đồi, mới dặm hàng muồng vào cho khỏi dãi nắng, chả biết có ăn thua gì. Rồi ra đến những đề tài hoành tráng vĩ mô hơn, phát biểu với sự sắc sảo không ngờ.
Bẩm nghiện tivi nặng, tuy là xem nhờ. Tất cả những sự kiện lớn của đất nước đều nắm vanh vách, lại có ý kiến riêng, làm Tăng cảm thấy mình đang ngồi trước một cán bộ tuyên huấn về vườn, nay ra trưởng ban văn hoá thông tin xã. Sinh ra lũ quét lũ ống là tại phá rừng ấy mà. Vụ công ty Vạn Sinh cổ phần hoá, tài sản nhân dân hoá thành của riêng xử đến đâu rồi. Tôi là chúa ghét bọn tham nhũng. May là giời còn có mắt, nhất trí quan điểm, lãnh đạo tài giỏi phát hiện ra, người dưới mới hay là còn lẽ công bằng ông ạ. Không xem tivi, ru rú dưới chân đồi này thì chả còn biết tin yêu vào cái gì. Mà ông có biết gì về quy hoạch thị trấn không, xóm tôi hy sinh đi cả, rất là mong đóng góp được phần nhỏ bé cho sự nghiệp kinh tế xã hội chung. Cái khách sạn Hoa Ban lên chỗ ấy là đúng rồi, nhất trí quan điểm. Đẹp thật, vật vào đúng chủ có khác, chả như hồi chúng tôi bày rặt mộc nhĩ với măng khô. Hôm khánh thành đông nghi ngút, ông phó chủ tịch tỉnh với ông trưởng ban tổ chức trông nghiêm như sư đoàn trưởng cũ của tôi, chắc toàn bậc giỏi giang đức độ.
- Thế ông có biết cái Hoa Ban là của ai không? Tôi lại nghe tư nhân, không phải của nhà nước.
Nghe Tăng phá ngang, Bẩm thận trọng:
- Tôi cũng có nghe nói ông ấy ông nọ hùn vốn dựng nên, giờ kê cao gối ngủ mà hưởng. Nhưng đất là của quốc gia, các ông ấy là lãnh đạo, có quyền quyết, nhất trí quan điểm, trên giải thích vậy thì mình còn tranh tụng vào đâu. Kệ, quên đi coi như chưa bao giờ ở đây ông ạ. Mình như con kiến lãnh đạo như củ khoai kiện thế nào….
-Thế sao bác vừa bảo tin vào công cuộc chống tham nhũng lắm cơ mà? – Tăng ngạc nhiên.
- Thì cứ nói vậy, Bẩm cười trừ. Thật bụng mình ra cũng có ai nghe. Mỗi lần lên thị trấn, tôi cứ đi tránh chỗ ấy. Trông cái khách sạn không ngủ được. Cũng may phải trông thằng bé với anh khoèo này, nhất trí quan điểm, chả mấy khi đi đâu. Độ nọ xóm này có bà cụ chết mấy tháng mới lên uỷ ban trình báo đấy.
12.
Chuyện không đượm như bếp đốt củi tươi. Bẩm im phắc nhưng sao cứ nhấp nhổm. Nhảo ra vườn ngó nghiêng, ông quay vào độp luôn: “Nhất trí quan điểm nhá, tôi hỏi thật, mỗi lần đến chỗ nó ông giả bao nhiêu tiền? Nó có được hưởng cả không?”.
- Đến chỗ nào cơ? Khách sạn Hoa Ban á? – Tăng cuống lên biến báo.
- Ông đừng giấu. Nhìn tôi đi chứ! Nãy giờ ông nhấp nhổm không trông con Mai về thì là gì? Đây là điều tôi phải biết. Nó thêu thùa thế nào, ở đâu, đã có người nói cho tôi cả. Ông ngang bằng tôi, tức là đẻ ra nó được mà lại “em anh “ với nhau, tức ông là khách rồi, nhất trí quan điểm chưa. Nhưng chắc khách tử tế, trông tôi biết. Nó thuê nhà trọ ở hay ngủ ngay trong quán? Đêm thì mấy giờ được ngủ, hả? Ông phải nói cho tôi, vì tôi còn hỏi ai được nữa. Ông nói đi, không nhất trí quan điểm nó về tôi gọi cả vào cho một trận đây.
Tăng ngồi lểu đểu, mặt đờ đẫn. Bài lật nhanh quá không kịp trở tay. Bèn tình đầu cái đoạn đi tầu, những là thằng ngồi lộn chỗ, cuộc gặp hôm nọ, trên đồi, chỉ là tình cờ. “Hoàn toàn là tôi không biết cô Mai từ trước”.
- Thế ra ông cũng không biết gì hơn tôi à? Ông nói thật đấy chứ. Đừng giấu tôi nhá. Tôi thương nó lắm, lúc nào cũng thấy có tội với mẹ nó.
Bẩm bỗng xìu xuống, nước mắt chẩy cả ra nhoè nhoẹt. Nhưng Tăng thì sôi lên. Lão già quái đản thật! Ban đầu nói chuyện chống tham nhũng ra điều lập trường, té ra lão nắm tỏng mưu mô của bọn trên tỉnh. Dù sao thế cũng là do bất lực. Nhưng cái vụ biết con phải điếm đàng mà vẫn ngậm miệng ăn tiền thì tệ quá. Nghĩa là lão biết hết nhưng không làm gì hết.
- Thế sao ông biết mà lại giả như không, đ. làm gì, đ. khuyên bảo gì cô ấy? – Tăng văng vào mặt Bẩm.
- Thế bác bảo tôi làm gì được nào? Chân cẳng thế này không nuôi được con cớm cháu đớn. Nó đi là khổ là nhục rồi, nói ra càng khổ thân nó hơn, nên đành ngậm miệng. Nhất trí quan điểm, tôi biết cái giá quà cáp, tiền nong nó gửi về chứ. Cố tiêu tùng tiệm, để ống, hết son trẻ nó có cái dùng. Tôi là thằng bố hèn. Tưởng là tôi thiết sống đấy à… Ơ hời ời ời…
- Cú đẻ con công mà không biết đằng… Ông là thằng bố tồi.
Tăng đùng đùng bỏ ra vườn. Bẩm chạy theo nhoè nhoẹt mũi dãi: “Ông nghe tôi nói cái đã!”
- Ông nghĩ một đằng nói một nẻo. Bảo là tin yêu mà bị nó đuổi nhà lại ức. Hèn lắm!
- Đồ trí thức bốc phét! Biết cái gì mà nói.
- Đồ bám đít quần đàn bà.
- Đồ dê già Tết bỏ nhà đi hoang!
Trên đồi léo xéo tiếng trẻ, Bẩm vớ nùi dẻ bẩn thỉu chùi mũi dãi, quay ra kêu ca đám củi ướt lắm khói quá. Mẹ con Mai về mang theo khí vị tươi trẻ cho căn nhà ngột ngạt, hai người đàn ông miệng ngậm như bị khoá. Líu ríu con chuồn cánh bướm, loe xoe cậu Khoèo xem cháu có chong chóng đây này. Chả ai dám nhìn cô. Nhưng Tăng không thể đi nổi. Bẩm đã tất tả bê bình rượu ra, sai con gái sửa soạn cái gì ăn. Chừng như rất sợ phải ở lại với con, lão già thoăn thoắt chuyển sang đề tài chiến tranh. Hồi sáu bẩy ở Kon Tum nằm nghe o vê mười phát loa chiêu hồi ê cả người. Nó bay chậm, thấp, nhai nhải, nhất trí quan điểm mình không dám bắn tức phát điên. Rồi có thằng phát điên làm một băng, thế là bom phá, bom khai quang dập cha mẹ ơi là dập. Có lẽ tôi phải cái thằng khoèo này độ ấy. Tiểu đội trưởng tiểu đội bốn là Dĩ, người Thái Bình, đánh nhau giỏi nhưng máu chó dái, đi đâu thoắt cái đã đánh chịn được. Thôn ấy có cô bí thư chi bộ xinh gái chồng đi nguỵ, ông tỉnh đội đang chấp chới, chúng tôi dừng có một đêm mà nhất trí quan điểm Dĩ chớp được. Ông tỉnh đội tức kiện hắn tội làm hỏng cán bộ, Dĩ chết không được giải quyết liệt sĩ. Hồi ấy tôi đại đội phó chính trị, lên chính sách kêu không được. Sau bẩy lăm về quê, bà mẹ cứ ơi hời giao con cho anh mà anh để nó chết tủi, đau lắm ông ạ. Máu dê mà bảo vệ tổ quốc thì vẫn phải được tính công trạng chứ, bao năm nay tôi cứ phải nghĩ. Mà cô kia vắng chồng động đực, nhất trí quan điểm trai trên gái dưới đồng chí đồng tình chứ có phải Dĩ ép buộc đâu…
Thoắt lại chuyển sang chuyện quê hương, kỉ niệm bắn ra như cái máy, như thể Bẩm sợ động đến sự sống hôm nay, cái phần lão kinh sợ nhất. Trai làng tôi quanh năm đánh dậm, bìu dái đen như cứt phơi ba nắng. Tôi nhớ đình làng quá, mái đao cong lên ngọn đa đầy búp. Tôi trồng cây đa ngoài đồi kia đấy, mới ba tuổi mà đã cao tưng nây, ít nữa ông bảo có cớm lũ bắp cải không, có nên đẵn đi không? Giá được tiên phật phù hộ đắp cho bức đình ở đây, tôi làm ông từ đi ra đi vào lo hương khói. Nhất trí quan điểm thành hoàng làng tôi toàn độ cho người có thôi, ông bảo thế là ra làm sao…
Độc một người nói. Rồi cũng đến lúc Mai bê mâm lên, toàn món dưới xuôi, thêm cá suối rán, bảo đáng nhẽ đến mai mới hoá vàng nhưng có khách thì làm luôn hôm nay. Khoèo được soạn bát riêng; không có nó trong mâm thì Tăng đã khó ăn uống lắm. Thằng cu con, chả hiểu ra sao, nhất định đòi ngồi vào lòng người khách mà ông nội bắt gọi là “ông”, còn bà mẹ trẻ bảo là “ông “ hay “bác “ cũng được. Bữa ăn bì bì, ít lời, thành thử “món” chính lại là việc nhắc nhở thằng bé. Mai ngồi đầu nồi chạy ra chạy vào, lúc bảo bố đừng gắp để Tăng tự nhiên, lúc quở con đừng sờ râu bác thế. Rượu ngấm, hai người đàn ông bắt đầu râm ran thì bỗng nhiên Tăng thấy quần ướt sũng.
“Đã bảo mà. Tại anh cứ chiều quá. Cu Nính hư quá. Anh phải thay mới được. Mặc tạm quần bố em, hơi ngắn nhưng không thay thì ăn nữa thế nào”. Líu ríu trong phòng tắm, là khoảng bếp ngăn ra, Tăng bỗng thấy từ ngày mất vợ mình chưa được ai giục thay quần áo. “Nom anh buồn cười lắm, chẳng ra nông dân, chẳng ra ông giáo”, Mai cười rũ ra, mắt long lanh.
Táo mèo vào tì tì. Tăng thấy mình khù khì như con xấu hổ một dạo ông nuôi ngoài ban công. Rồi biết thêm ông hơn Bẩm hai tuổi. Lão già quái đản còn bị trời hành hơn mình.
Dù sao, bữa cơm đã có nhời nhẽ đu đưa.
13.
Leo khỏi dẻo đồi trồng rau, Tăng tốc ngay lên khách sạn Hoa Ban. Đi nhanh như bị rượu đẩy, áo ngoài phanh ra, tóc xoã xợi. Ông phải gặp Hưng cuốc vào mặt nó. Đểu cáng quá. Phải gọi là lưu manh mới đúng, đuổi người khỏi đất sống rồi lại dang tay làm từ thiện. Ngoài chòm Hà Nam còn bao nhiêu người là nạn nhân của nó? Nó có uy tín đến giời ở tỉnh cũng không vời được mình cộng tác mở lớp đào tạo cán bộ. Mình sẽ nắn gân, doạ già, đem báo chí, các mối quan hệ dưới xuôi ra tố cáo, ngăn chặn lũ đê tiện. Ai mà ngờ được thanh thiên bạch nhật, dưới bao quang minh chính đại…
Những bước chân chậm dần. Tăng đứng lại dưới một gốc cây để sắp xếp các ý nghĩ khác đang bò ra. Liệu mình có làm gì được Hưng với những anh trên tỉnh của nó không? Đem những thế lực tin cậy dứơi xuôi lên đánh chúng nó là cả một câu chuyện dài. Tăng vẫn tới toà soạn báo K. gửi bài, rất được tôn trọng. Nhưng kéo họ vào cuộc lại là chuyện khác, dù việc nghĩa đấy cũng vẫn có chút nhờ vả, vì tình riêng rồi. Lên đây xa xôi, lấy được tư liệu, điều tra ra sự thực sẽ mất thời gian và tốn kém. Mà chắc gì họ đã lên, đâu đâu chả có chuyện tiêu cực. Ngoài báo chí, ông sẽ còn phải cậy đến ban bộ này nọ, đa số là học trò cũ nhưng cùng nhau đi hồng binh vào chốn hùm beo này là cái sự không hề đơn giản. Chao ôi, mình chỉ quen, đã chỉ quen dậy dỗ, mới nghĩ đến việc tổ chức một dây vào cái cuộc trượng nghĩa này đã thấy mệt quá. Chưa biết là dưới gốc cái cây Hưng trồng nên kia, bộ rễ ăn sâu, lan toả đến đâu đâu…
Thôi thôi hãy gác chuyện đánh đấm lại. Trước mắt phải gặp Hưng để chửi. Không thì tức chết đi được. Nhưng một giáo sư sẽ đi chửi với cái quần của thằng Bẩm tưới rau a. Sự áy náy mới giảI thoát Tăng khỏi những ý nghĩ nhọc mệt. Gì thì gì, phải về thay cái quần đã.
Nhà nghỉ ắng lặng, may chả ai để ý đến áo quần Tăng. Phải tắm cái đã, bãi đái cu Nính còn dính dáp lắm. Tăng bật bình nước nóng ngồi đợi, nghĩ ngợi mãi mà không quyết được một bề.
14.
Chiều đến, Mai lên nhà nghỉ. “Cu Nính thấy bảo lên bác Tăng cứ đòi theo. Kể ra anh có duyên ra phết. Mà em bắt đầu ngại, nẫy bà chủ nhà nghỉ cứ nhìn. Em mang quần lên không anh thành ông nông dân trồng rau mất. Giặt rồi hong trong bếp, bị oi khói đấy”. Mai líu ríu, không để ý đến Tăng đang đăm chiêu. Ông đã quyết vào cuộc bảo vệ gia đình cô cùng xóm Hà Nam đấy, giờ vẫn còn ý định ấy, không phải là đã buông đâu. Thương sót, đồng cảm ứa đầy ra đây này, nhưng còn phải nghĩ đã. Cái kiểu nghĩ này dằng dịt lộn xộn thật, chả minh triết rỡ ràng như tư duy khoa học. Đăm chiêu, một phần cũng vì không biết có nên nói chuyện Bẩm đã biết con gái đang thêu thùa thế nào… Rồi Tăng quyết định không. Chả phải sự thật nào cũng bổ béo, cha con họ đã chẳng đủ nỗi rồi sao. Kể ra buổi trưa ông có hơi quá đáng, bị thế này luôn Bẩm chết non mất. Lão già cùng đinh, khố rách áo ôm, đứa nào xéo chả được. Nhưng cái chính, không thể nói ra bây giờ, là bên ông có người con gái, và trời đất ngoài kia lại diệu huyền làm sao.
Quanh thị trấn có những quả đồi tròn lúp xúp cây, rất vắng. Họ chọn một chỗ yên tĩnh ngắm tà dương, ờ à con chim gì nó bé tí mà lích chích đến đanh đá, ngạc nhiên sao cây cỏ kia cứ đùa với gió máy cả đời mà không chán nhỉ. Cảm giác phấn chấn về thiên nhiên đánh thức đòi hỏi trong Tăng, Mai cũng chỉ ừ hự gọi là, sợ nhất là xung quanh có người. Trong ánh ngày đã nhạt, Tăng oà mặt vào ngực cô, hít hà cái hõm dính mồ hôi ngầy ngậy, nhủ rằng đây là bầu vú mạnh mẽ, bao dung và thuần khiết nhất trên đời. Ai mà ngờ được mình, bao nhiêu năm như đoàn xe lửa chỉ chạy đúng trên hai thanh ray, mẫn cán, bươn bả để dành lấy bằng sắc, danh hiệu này nọ, lại làm tình giữa đất trời. Không thể ngờ được. Và cái chính là nó vô cùng tự nhiên, thảo mộc, gần như thánh thiện, chẳng giống gì những nhẽ nhời, bóng hình bay lượn hàng ngày. Người đàn bà bên mình giống sông Mẹ mênh mông xứ nào cũng có, mỏi mệt chảy, hứng chịu bao nhiêu cặn bã của dòng đời mà chẳng hề nản lòng, cứ thế bươn ra biển.
Khi cơn thoả mãn đã qua, chúi đầu vào ngực Tăng mân mê cái cầm lởm chởm, Mai thầm thì: “Cười cái gì?”.
- Buồn cười lắm. Chả biết nên thấy em giống vợ hay con gái anh…
- Em thì lại không biết nên coi anh là chồng hay cụ chồng đây.
- Cùng một lứa bên trời lận đận, gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau…(*). Em biết không, ông nhà thơ dở hơi bị lưu đầy gặp cô gái lấy phải thằng chồng buôn chè chỉ biết tham lợi, họ thở than…
- Em chả thích thơ. Em chỉ thích hát. Bài của chúng em, chứ không phải hát với khách trước khi “vào đời” đâu.
cùng nhau ta đi vào cõi sướng
xong rồi anh chuồn
để em tơ hơ nằm trên giường…
Và ngày nào cũng thế
và tuần nào cũng thế
i à a í a
ơ à ơi ái ơi
Giọng hát đến là nghịch mà làm nẫu ruột. Người con gái trẻ này, đã bao nhiêu nước chảy qua cầu rồi? Thôi đừng hát nữa, trời đất đang đẹp đây này cô ơi…
- Trí thức văn nghệ các anh nói chuyện thì thích nhưng làm vợ chắc khổ, Mai rù rì. Em có con bạn đẹp, ông hoạ sĩ mới đến chỉ tình tang, sau thành mê mệt. Nó cũng yêu lại. Rồi vợ thuê người theo dõi, bắt quả tang trong khách sạn, ông ấy hèn ơi là hèn. Ngữ anh cũng thế chứ gì?
- Anh chả biết. Anh chả phải loại dũng cảm. Lúc vợ còn sống anh cũng yêu, không ngoái đi đâu, về cuối đau yếu anh chăm cẩn thận.
- Thế anh tưởng em không yêu chồng à. Người ấy cũng tử tế, yêu vợ con, phải đã nghiện thì thành khốn nạn ngay. Giờ mà cai được, về em cũng cho về.
- Sáng nay anh vừa cho tiền ông nghiện, ngồi chợ…
- Không rách rưới lắm, áo xanh, da trắng môi đỏ, lông mi rất dày chứ gì? Chỉ ngồi với cái mũ trước mặt, không xin, chứ gì? Chồng em đấy, giời ạ. Da không trắng là vì lười tắm đấy. Em cũng vừa đưa cho ít…
- Có bao giờ quậy hai mẹ con không?
- Hiền lắm. Cũng biết điều, biết là mình hỏng làm khổ gia đình, nhưng không cai nổi. Chỉ có cái em cấm về thăm con. Anh chả biết gì, đi cai cũng tốn kém cho trại mới được ở, mà đã có ai cai nổi… Em vẫn gửi cho đấy. Không muốn nhận đâu, nhưng sợ chết hơn. Đàn ông “sĩ “ nhiều nhỉ, như em đi khách mãi chả sướng gì nhưng cũng không xấu hổ nữa.
“Nghĩ cũng lạ”, Mai nhìn vào mắt Tăng, “em không ngờ mình còn sung sướng được thế này. Mà lại với anh chứ, có còn trẻ trung gì đâu. Anh đã rất tình cảm, cho em sự tin cậy. Lần đầu, trong nhà nghỉ, đúng là em trả ơn. Nhưng bây giờ thì em thích thật. Em sung sướng quá. Không ngờ là mình còn được cảm giác thế này, sau bao nhiêu lần tiếp khách. Mà anh cũng tợn thật, đâu có lù rù đâu nhỉ… Thày giáo có hay thế này với các cô trẻ trung không hả?”.
- Có đi hát, nghe nhạc não tình, nhưng chả thể nào so sánh với em…
- Bốc phét. Em chả tin.
- Em khó tin là phải. Nhưng anh đang thấy thế…
ánh chiều tãi lên người cô những sợi vàng li ti, màu rơm, làm nổi cả lớp lông tơ mịn màng. Ôi cái toà thiên nhiên. Tăng đang mơ màng nhấm nháp cái vị ngọt chết người, thì Mai trở dậy, đòi ông phải tề chỉnh. Rồi nhìn vào mắt, nghiêm nghị:
-Anh nghe đây này. Chuyện chúng mình đến đây là hết. Không gặp nhau nữa.
-Sao lại thế. Về Hà Nội anh lại tìm em.
-Không tìm tiếc gì hết.
- Anh…, anh… có tiền mà.- Tăng nói rất khó khăn- Có cần em trả ơn gì nữa đâu.
- Tiền không thành chuyện. Anh có thể sòng phẳng trả, mà em vẫn cho không anh được. Nhưng nghề em có lệ, là không dính sâu vào khách quá.
- Em nói thế nào…, Tăng hoảng hốt. Anh rất muốn gặp em, chuyện trò thôi, chả cần thế này.
- Thế càng không được. Thương một tý là khổ. Em đi làm ít tháng, để dành đủ vốn phải quay về làm ăn rồi lấy chồng chứ. Làm mãi thành cái giẻ chùi chân ai người ta lấy nữa. Anh có lấy em được không? Đấy nhá, có trả lời được đâu. Mà em cũng chả yêu anh. Anh tốt lắm, nhưng chỉ vậy thôi. Có tình cảm thì để bụng, gặp lại rồi chán ngay ấy mà.
- Anh chưa thấy chán.
- Lại còn phải đợi đến lúc anh tìm em ở nhà nghỉ, chờ em tiếp khách chán chê xong rồi “nói chuyện” á. Lúc ấy anh có vui được không?
Tăng cứng họng, đầu cứ gục gặc. Niềm hoan hỷ đang hay thế tõm vào nẫu ruột. Mai ôm lấy mặt ông, thật dịu dàng nhưng cương quyết: “Thế anh nhá. Mai về xuôi nhớ mang cái khăn thổ cẩm này cho con gái. Không thích thì làm giẻ lau hay vứt đi cũng được”.
15.
Tầu xuôi đông vô kể, ăm ắp nỗi niềm xa quê kiếm ăn, những bé mọn khốn nạn. Giữa ồn ào chộn rộn, Tăng nhấm nháp hương vị của chuyến đi. Có mấy ngày mà bao nhiêu nước chảy qua cầu, những bất ngờ lạ lùng này có ứng ngộ gì? Nào đâu chén đắng, nào đâu chén ngọt, ta yêu đời hơn hay chỉ càng chán ngán, chả biết. Ta có bắt tay vào hành động tấn công lũ xấu xa không, lại càng chả đoán ra. Chỉ hay rằng trên giảng đường ta sẽ nhắc nhớ chúng, và đám sinh viên sẽ hiểu.
Có cái vòng chỉ ngũ sắc của người H’mông, Tăng cho cháu ngoại, bảo con gái “bố đi chơi một mình chỉ hơi buồn”. Thuỷ không trách bố nhưng đứng trước bàn thờ mẹ rất lâu, lúc về để chật một tủ thức ăn. Cứ làm như đoạn sểnh nhà ra ông đói khát khổ cực giờ cần ăn bù ăn cố.
Khắc khoải đợi qua rằm tháng giêng, cái đoạn Mai bảo sẽ xuống. Nhưng đến quán karaoke, mấy cậu đánh đầu đít bảo cô xuống mấy hôm trước, mang hết đồ đạc đi rồi. “Giờ làm quán nào chả biết. Bác thử sang Ngã Tư Sở xem”, đám bảo kê ngạc nhiên trước vẻ bơ thờ của anh khách già.
“Có con, hết mầu hết tuyết hay dạt đi xa, có khi sang phố Cầu Đuống rồi, bác ạ”, cậu giữ xe bảo Tăng, rất thông cảm.
Ngã Tư Sở. Thanh Xuân. Gia Lâm. Bao nhiêu là gội đầu, cà phê thư giãn, nhà nghỉ. Những cô xóm Mít mắt nâu môi trầm. Những cô lông mày không tỉa. Những cô đồng bãi da phù sa dịu dàng. Những cô xóm Chùa điệu nghệ Attila kính hất ngược lên trán. Những cô sỗ sàng đòi trả tiền ngay. Những cô hát giọng ngực cười ròn khanh khách, chắc là xóm trại… Sao mà chỗ nào cũng trơn tuột, không có cái mà người con gái Tăng đi tìm có.
Đêm đêm ông lại tự tử, bắn cả tràng liên thanh đại bác vào người, để sáng ra thấy mình còn sống nhăn.
(*) Tỳ bà hành, thơ Bạch Cư Dị
Những ngày bó bột đầu xuân Bính Tuất, tháng 2 – 8/ 2006.
Nguồn: HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM - phienbancu.vanvn.nethttp://phienbancu.vanvn.net/News.asp?cat=33&scat=&id=690
[...]
Có lần, nhân anh than là đang buồn vì một chuyện gì đó, tôi lại viết dài: “Thôi mà, để chị kể chuyện mà chị vừa nghe trong chuyến đi Hà Giang nhé.
Ở miền núi có gia đình kia rất nghèo nên cô con gái 18 tuổi chưa một lần được xuống chợ. Thương quá, mẹ dành dụm mãi mới có 2000 đồng cho cô và dặn: mai con xuống chợ, muốn tiêu gì thì tiêu, nhưng khi về nhớ mua cho mẹ gói muối iôt. Cô bé đi chợ, ăn 1 bát thắng cố , mua 1 cái kẹp tóc hết 1500, còn lại 500, cô mua gói muối cho mẹ rồi ra về. Vào rừng, cô quay lại phía sau thì thấy có một anh chàng đi theo, sợ quá , cô bỏ chạy, thằng kia cũng chạy theo, cô càng sợ, chạy nhanh hơn thì chẳng may vấp ngã, cô nhanh tay giấu gói muối của mẹ vào bụi cỏ, thì đúng lúc thằng cha ập tới, đè cô xuống. Xong việc, nó cười, cô cũng cười, mắng: “Tao cứ tưởng mày đuổi theo để lấy gói muối của mẹ tao, nên tao mới chạy, chứ cái đấy, mày không lấy thì thằng T.C viết “Táo mèo” nó cũng đuổi theo đòi à”…
PHAN THỊ THANH NHÀN
Đào nguyên
Trần Chiến
- Bố ơi, ở nhà có bác Thọ ra, với cả bác gì bí thư xã nữa.
Nghe thằng Tùng thông báo, Thông cảm thấy có “dấu hiệu mệt mỏi” ở lưng, chỗ năm kìa tai nạn. Ông Thọ là trưởng chi kiêm trưởng họ, hồi trẻ công tác xã hét ra lửa, đi bộ đội về thì đổi nết sang “âm lịch”, thích ăn trầu thuốc và nghe các cụ kể tích xưa, chả bao giờ rời quê đi đâu. Bí thư xã là ông Mật nói năng như đánh trống, rất hay dùng những từ “chính trị” hệ trọng. Hai bác ra, là có chuyện tày trời rồi.
Làng Bùm quê Thông ở miền Trung, giải đồng bằng hẹp chạy ngoằn ngoèo bị kẹp giữa những dãy núi thấp cằn cỗi. Sông Đỗ nhỏ, dốc tưới mát cho ruộng đồng nhưng cũng lấy luôn đất mùn, phân gio mỗi mùa lũ, đá sỏi đổ xuống dọn cả tháng mới hết. Nghèo kiệt, những sắn với khoai bắt nạt hạt cơm hiếm hoi trong nồi, chả có lấy mống khoa bảng, nhưng dân Bùm lại mơ mộng, chế ra điệu hát “Tiễn chàng lai kinh ứng thí” nổi tiếng. Tổng Lại Xá tít đầu tỉnh có họ Nguyễn Đức đỗ đạt nhiều nức khắp vùng, làng Bùm muốn chiết lấy một cành bèn chọn cô gái sắc nước hương trời gả cho con trai Nguyễn Đức nhưng bắt ở rể. Cái hạt giống sang trọng ấy chả may lại lép, trai Nguyễn Đức đẻ ra ở Bùm cũng chỉ đến đi sau đít trâu ặc ặc là cùng.
Thành hoàng đầu tiên là vị Lạc tướng thời Hùng Vương đi đánh giặc “đỗ” lại lấy một bà vợ ở đây. Các triều vua sau, tuỳ vào sự yêu ghét của mình, lại thay đổi liên tục, lúc ông quan văn mặt mũi khó hình dung như công tích, lúc tổ một nghề giờ chả còn dấu vết gì. Cách giờ đôi ba trăm năm cả vua Lê chúa Trịnh ngoài Bắc Tây Sơn mé giữa trong cùng chúa Nguyễn, dân chúng rất chi lúng túng, cuối cùng “bầu” lại ông Lạc tướng. Những năm sáu mươi chống mê tín dị đoan quét tàn tích phong kiến, Thành hoàng thoạt kỳ thuỷ ấy bị thổi bay cùng ngôi đình bé nhỏ. Sắc phong, hoành phi câu đối bài vị gia phả đốt tiệt, tượng lớn tượng nhỏ bê bỏ lò nung vôi. Những vị chủ trương, những ông thực hiện, những thằng chống phá phong trào hồi ấy giờ chả còn ai. Thế là đứt, là tiệt cả rễ con rễ cái từ quá khứ đâm lên.
Thời chiến, Bùm là cái túi đựng bom đạn ác liệt, khi bộ đội mở qua làng con đường tiếp đạn cho địa phương. Những cửa nhà ngả ra chống lầy cho xe đi, những thanh niên không trở về. Ngày xã nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang, Thông đứng trên gò Luỷ nhìn xuống đám đông, thấy những đàn bà trắng khăn tang, có cảm giác rất lạ.
Rồi cũng đến lúc yên hàn. Được yên tâm gieo cái cây mình muốn, quay vòng gối vụ trên thửa ruộng của mình, chả giàu được nhưng cũng đủ ăn. Được đi đó đây cất nhà, bế con, chạy xe cho thiên hạ, có anh lên bằng đường ăn học. Ngôi nhà to nhất là của lão Phái, hai nhiệm kỳ con dâu cứ vừa đẻ là đi sang bên Đài Loan, mang theo bầu vú căng sữa lành. Cất mình lên để được có xe con về như làng Hầu lắm quan, tấp nập thương lái về cất hàng dệt tay như làng Nhự, là một giấc mơ lớn. Vì chửa có gì, nên dân Bùm luôn luôn phải mơ ước, đắm đuối một ông Thánh lớn vọt lên hay phát mỏ người tài ra ngoài ăn to nói lớn cưỡi đầu thiên hạ. Mỗi lần một anh thoát ly về phép, nấu nồi chè tươi to đùng và nửa thúng kẹo cu đơ, cả xóm đến nghe kể chuyện làm ăn xây cất nơi khác, hỏi những kinh nghiệm ấy nọ, uống no nước đi đái lại hỏi tiếp mặc cho anh kia mót vợ. Mà anh nào mang về nửa túi dứa bánh mỳ đem chia thì được quý ơi là quý.
Rời làng từ mười bẩy tuổi để vào đại học, thi thoảng mới về ngắm hàng tre lơ thơ đầu sông máng, những nóc nhà đã lợp ngói nhưng lè tè thấp, Thông thấy mình nhiều cảm giác trái ngược. Thương vì đơn sơ, phong cảnh cứ trụi thùi lụi, nhưng “tắm” hẳn trong tình làng xóm thì lại rất vướng víu. Tôn ty thứ bậc, những dò hỏi râm ran của những con người cả đời sống trong luỹ tre như tấm màng vô hình mà dầy chặt, dai dẳng vô cùng khiến kẻ ở phố về rất khó xử theo ý mình, như muốn thăm ai lại sợ người không được thăm trách, quà cáp thế nào cho “bình đẳng”. Kính nhưng mà xa, anh dùng cách ấy để “gián cách” quê nhà mà không bị đứt gốc, nộp đủ đồng cười đồng khóc đồng họ đồng hội nhưng không ý kiến ý cò gì bao giờ. Để các cụ nghị luận với nhau cho sướng, anh trung niên nhiễm thói thị dân tự nghĩ tự quyết xác định, mình cứ góp phần to hơn người khác là được, nhưng hơn chút đỉnh thôi, quê ta không thích chơi trội.
Nhưng hai bác ra tận nơi là không lẩn được rồi. Thắm sẽ về muộn, nên Thông qua Hàng Buồm mua sáu lạng thịt quay hàng mấy cô trắng ngậy mịn mỡ, cả kiệu muối, giò chả, ghé góc chợ Hàng Da lấy nửa con vịt có tỏi tía pha nước chấm. Không đơn giản được, dù biết các cụ chả ăn được bao nhiêu. Nghĩ thế cơn oải đã dồn lên.
2.
Té ra thằng Tùng báo cáo không rành. “Báo để chú biết là tôi thì đã nghỉ cả mấy chân công tác, chỉ còn chăm lo việc họ việc làng, nhưng bác Mật thì đã lên huyện mấy năm nay rồi, tiến bộ rất nhanh. Cánh Tàm Thôn chia nhau các phòng giáo dục, văn hoá thì Bùm mình có ông Chược phó bí thư thường trực, bác Mật là trưởng ban tuyên huấn huyện, lại còn chỉ đạo họ ấy chứ”, ông Thọ nhanh nhẩu. Và kéo Thông ra nói nhỏ: “Chú phải giáo dục cho vợ con thế nào, tôi đã nói thế mà thằng bé chỉ pha nước rồi trốn biệt lên phòng. Bọn trẻ là dễ hỏng vì ba cái thông tin trên mạng lắm đấy”. Thông ậm ừ lễ phép, lại đi thay tuần trà còn đặc cắm tăm nhưng nghĩ bụng: “Thế này là thành sự lớn rồi đây”. Ông Thọ lớn tuổi hơn ông Mật, gọi theo vai trên cũng phải, anh con bác đằng vợ kia mà, nhưng tính về đằng mẹ thì vẫn còn trên ông Mật, xưng hô thế là nể trọng người đi công tác thôi. Nhưng sa vào cuộc phân ngôi thứ tôn ty quê mình thì hoạ có là điên. Bèn gọi con xuống trách qua loa, bảo nó đi mua rau sống có cả hành hoa với lại đủ chanh ớt nhá.
- Rượu thì thôi.
Ông Thọ lôi trong ba lô ra cái can ba lít, túi gạo nếp, đỗ xanh, một lũ gừng tỏi tươi. “Rượu nhung hươu. Các thứ trồng được cả. Cho trẻ con biết món quê hương chú ạ”. Ông nói hiền lành, nhưng Thông vẫn cảm thấy sức ép đang dồn lên, bèn lễ độ “các bác xơi nước, em đi chuẩn bị, hôm nay mẹ cháu về muộn”. Khác với mọi khi ăn to nói lớn, ông Mật đối xử điềm đạm, vẻ của người thoát ly, lên huyện chứ không phải hạng phong trào hô to là thắng. “Chú không phải vẽ quá, chúng anh định mượn chén bàn công việc là chính”,
Bữa rượu đang độ thì Thắm về, rất rối rít với những ông anh quê chồng. Giỏi thật đấy, về đâu mấy bận mà hỏi thăm được tận cụ Ứng già nhất họ và lũ lỹ con cái ông Thọ, cứ như dân tổ chức. Rồi Thắm càng mừng rỡ khi biết xã có thế trong các cuộc bầu bán ở huyện, “chắc chắn được thế là nhờ ở uy tín bác Mật rồi”. Sang vì vợ, Thông thấy hởi lòng hởi dạ tuy biết chắc “thủ trưởng” của mình đang nghĩ lung đoạn khách ở bao lâu, phải giúp giập cái gì đây. Sự thính nhậy đàn bà, nó cứ là phải thế.
Cỗ to, khách ăn ít nên thừa ú hụ, cất vào tủ lạnh thì mai không thể đem ra đãi lại nữa. Phải món mới và thừa mứa. Cái sự tiếp khách quê nó phải thế, không thể khác, dù chả tiếc tiền nhưng lại là cái cách rách cho chủ nhà. Thắm hăng hái tiếp cho hai bác nhiều quá, làm Thông phải “phanh” lại. “Mình cứ để tự nhiên, bác ăn gì thì gắp…”.
Hỏi han những chuyện bao đầu, thì biết năm nay lúa mất nhưng đỗ lạc được. Cây cao su, cây quế đang được “phát động” sau cây keo, còn bạch đàn đang “triệt để”, nghĩa là hạn chế trồng. Làng khuất nẻo, chả có thế mạnh nào đẩy lên làm “mũi nhọn” được, cũng chẳng ai về cắm dự án, nên cứ tằng tằng vậy thôi.
- Còn ngót dăm chục hộ nghèo chú ạ. Điện đi qua bìa vườn mà không câu dây vào nhà được. Một tồn tại không nhỏ là mấy năm nay bão lũ không héo lánh đến nên tiền của cứu trợ không ai rót nữa.
Ông Thọ nói bình thản, nhưng Thông hơi nhăn nhó: “Nhưng em thấy lắm khoản đóng góp quá, đồng đình đồng họ ăn hết vào đồng điện”.
- Đấy lại là cái các anh ra muốn bàn với chú. Nhưng uống cái đã.
Ông Thọ ngửa cổ rồi đặt phịch chén xuống. Kể thì rượu quê pha nhung hươu êm thật, tuy có hơi khê nhưng nói những chuyện phải nghĩ nó không hợp. Dù biết tẹo nữa phải nghe những chuyện để lo với lắng, Thông vẫn cạn hết chén thứ năm. “Mà bác Mật chả uống mấy cũng ít ra lời là thế nào, anh em mình ít khi gặp nhau bác ơi…”. “Thôi chú thông cảm anh là Mật nhưng từ ngày lên huyện sáng chào buổi sáng trưa giao lưu tối liên hoan sắp vỡ mật rồi”, giọng rất tỉnh.
* *
Hai bác bảo không cần pha chè nữa vừa mất ngủ vừa thận yếu tiểu đêm. Rồi vào chuyện, khi Thắm đã dọn dẹp xong, xin phép lên gác, còn thằng Tùng thì rút vào cái “ổ” để liên lạc với thế giới từ lúc nào.
Ông Thọ nói trước: “Như chú đã biết, cách đây gần dăm chục năm tỉnh ta đi đầu trong phong trào triệt để đình chùa, chống mê tín dị đoan quét sạch tàn tích phong kiến. Mà làng ta lại hăng quá, đi đầu tỉnh, phá sạch miếu mạo với những nơi thờ phụng. Giờ nghĩ lại chả biết phải hay chẳng phải, chỉ biết là rất hãi. Ông Phụng bí thư thời đó cả nhà phát điên, dân quân chặt cây đa lấp mắt rồng thì anh dở người anh đẻ con quái thai. Giờ an lành rồi, bên Đông bên Đoài xây lại đình chùa, ta không thể không làm. Lần chú về thì đình mới đã tụ nóc, lợp ngói, nay thêm tường bao, trồng lại đa đề với đào ao cho nó soi bóng xuống. Nhưng bên trong thì rỗng, hoành phi câu đối đã đem thưng chuồng trâu ráo, nhìn vào hậu cung trống toang rất sốt ruột. Nghe bảo ông cụ Thụng ngày xưa đem giấu được bài vị thờ ông Lạc tướng tôi mừng quá, đến xin thì ông ấy bảo đấy là cụ Thậm, mà cụ Thậm chết từ tám hoánh, con cháu chả biết gì”.
“Giờ thì phải có nội dung để thờ. Chưa có chùa thì các vãi ra đình kể hạnh cũng được. Nhưng khách đến hỏi thờ ai, không có câu chữ Nho kể công tích các vị với phong vị sản vật quê hương nào cả. Nói tóm lại là phải đầu tư tiếp. Chú vừa bảo quê nghèo mà phải góp nhiều quá, kể cũng đúng. Nhưng thế lại là không hiểu tình cảm làng nước rồi. Người tỉnh lắm tin tức nghe cứ loạn cả lên, nhưng ở làng thì phải có cái để tin theo chứ. Anh muốn bàn với chú huy động tiền của hảo tâm để hoàn thiện được cái nội thất bên trong đình”.
- Em tưởng truyền thống thôn trưng cả trong nhà văn hoá rồi mà, Thông nói.
- Nhà nước cho những nhà văn hoá thôn đấy nhưng có ai đoái đâu. Khách không bao giờ, người làng nghe đài xem tivi chả ra đấy rặt mấy tờ báo cũ. Bao giờ họp bổ thuế, phổ biến phí khuyến nông phí thuỷ lợi phải quét bụi đến khổ. Đấy là việc xã, anh nói ngắn thôi, để bác Mật phổ biến chuyện huyện…
Nhưng Thông chưa sẵn sàng để quán triệt ông Mật, còn dùng dằng tiếc ngôi đình xưa nhỏ mà đẹp quá, em học xa chỉ nhớ mùi nhang với mốc thếch trong gian thờ, trồng nụ trồng hoa trước cây đại, chứ có nghĩ đến nhà văn hoá bao giờ đâu. Ông Thọ bị cuốn theo cơn nhớ nhung quá khứ cứ “thì thế” “thì thế”, muốn à ơi tiếp nhưng thấy ông Mật đã bắt đầu căng cứng thì ngưng ngay.
- Báo cáo với các đồng chí là tôi xin thay mặt huyện uỷ, uỷ ban quán triệt đến các đồng chí phần thứ ba trong nghị quyết của huyện ủy ra tháng trước, ông Mật mở đầu, và đã được hội đồng nhân dân huyện nhất trí thông qua. Như các đồng chí đã biết, đặc điểm tình hình huyện Thanh Hạ có nhiều thuận lợi cũng như khó khăn, nhiều cơ hội tiến lên xong cũng không ít phức tạp. Quyết tâm của huyện là phải tìm ra một mũi nhọn làm đột phá khẩu về kinh tế xã hội, cho nên sau rất nhiều các bàn thảo và một loạt những lấy ý kiến…
Đến đây thì Thông nhũn nhùn nhùn. Cái cảm giác đi họp quen thuộc, cuộc rượu làm mắt anh sụp xuống, may mà ông Mật mải “giở băng” không nhận thấy. May là anh kịp tỉnh để nghe mấy câu kết thúc.
- Trên cơ sở mục đích yêu cầu, những thuận lợi khó khăn như vậy, chủ trương tận dụng mọi nguồn lực, huyện quyết tâm…
* *
Khách quê ra đi đường mệt, sớm ngáy pho pho, nhưng chủ nhà trằn trọc, uống rượu khát một phần, phần chính là vì câu chuyện. Thấy chồng khó ngủ, Thắm bảo ban nãy căng da bụng chùng da mắt lắm cơ mà rồi ngó lơ lên trần. “May là em không có quê”.
- Em bỏ quê thì có, Thông lầu bầu.
- Gốc một nơi, các cụ bỏ đi sớm, đẻ một nơi rồi lớn lên một chỗ, quê còn biết mình đâu mà lý lịch cứ xưng ra. Em khai quê Hà Nội chả thấy sao cả.
- Nhưng anh thì khác. Anh rất muốn đưa thằng Tùng về mà nó chả tha thiết gì. Cội rễ là cái vô hình nhưng rất quan trọng. – Thông chuyển sang giọng hài hước - Đứng về mặt triết học, nó giải quyết câu hỏi “Ta là ai, ta đi về đâu?” đấy.
- Thằng Tùng thì đừng mong gì quá. Anh cứ đưa nó về như đi du lịch trước đã.
- Ừ, có lẽ thế hơn.
Thông đáp, cảm thấy vợ có lý. Mắt đã hơi díp díp thì Thắm lại líp nhíp: “Hôm nay em đưa một đoàn khách văn hoá Trung Quốc thăm Văn Miếu, họ rất thích thú khi đọc được những chữ của mình. Em thì phải bấm bụng tự bảo “Các đại trí thức của nước tôi đến đây lại chả đọc được gì”. Cũng là một cái gốc đấy, nhưng ta đã bỏ rồi. Hôm hội thảo quốc tế về bản sắc văn hoá, một Việt kiều thế hệ thứ ba bảo tôi không có khái niệm quê hương, giờ tôi là người quốc tế, nghe bất nhẫn nhưng cũng khó có thể khác”.
Những lời của vợ làm Thông bối rối. Chả tìm đâu ra câu đáp, chả nhẽ đem những “lý luận” kiểu “quê hương là chùm khế ngọt, cho con trèo hái mỗi ngày” ra đáp lại. Mà Thắm có tranh luận đâu, chỉ rỉ rả kể. Bèn đáp lại: “Nhưng các bác đã ra là hệ trọng rồi, mình phải cố giúp hết sức, ít nhất là chu đáo trong những ngày các bác ở nhà mình”.
- Em thấy chả sao cả, nhưng em rất bận, hôm nào về muộn anh lấy thức ăn trong tủ ra nấu, kẻo vợ anh lại mang tiếng hẹp bụng.
Câu đáp làm Thông nhẹ người, nhưng lại tiếc những buổi thể thao rồi ra bãi bia ăn tục nói phét. Kể cũng lạ, đàn ông bằng tuổi mình ở đây còn bóng banh nhố nhăng chạy theo gái trẻ, mà ở quê nghe câu nhiếc “thằng này đ. biết đẻ con trai không cho nó vào mâm” là có thể đánh nhau được. Nghĩ đến đấy lại muốn, bèn quàng tay sang vợ xoa xoa. “Mà cũng phải xem quê hương thế nào chứ”, Thắm bắt đầu thích nhưng còn cố nói.
Buồng dưới nhà thức dậy rất sớm, phần nhớ thuốc lào, phần lo việc. Ông Thọ điểm lại phần quà cho những người có thể gửi gắm, ông Mật nhắc chú đừng để đình làng át mất di tích khi anh quán triệt cho họ hàng và hàng huyện, cứ thế rỉ rẩm.
3.
Cuộc họp “sơ khởi”, “tiên phát” – như cách ông Mật gọi - đồng hương Thanh Hạ, ngoài Thông có ba người, tất nhiên đều đang đảm trách những vị trí danh vọng nhất ngoài Hà Nội. Thanh niên, dù đại gia nứt đố đổ vách gọi sau, vì “chúng nó ít máu quê hương”, cứ để cha mẹ điều động. Theo lời hẹn, họ đều sớm có mặt khiến “ban tổ chức” yên lòng. Đó là đại tá Bùi Thế Nhiệm, trước khi về hưu là phó chủ nhiệm chính trị binh đoàn X. Ở tuổi gần bát thập, khổ sở vì bệnh suyễn, ông nói ngay “đừng hút thuốc lào nhớ” và rất ít ra lời. Bài là giảng viên đại học, có tên trong chấp hành một hội nghề nghiệp gì đó. Và Phương, phóng viên văn hoá ở một toà soạn, bài vở đã vài lần nhắc đến sông núi, truyền thống quê nhà.
Sau tuần trà nước, ông Thọ gửi mỗi người một túi lạc “gọi là quà quê”. Ông Mật thay mặt đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong Thanh Hạ cảm ơn sự giúp đỡ bấy lâu của những người con xa quê hương, rồi mở đầu. Ông nhắc đặc điểm huyện nghèo, “giê đê pê” tính ra thấp nhất tỉnh, đa phần xã ở diện một ba lăm, bao năm qua lãnh đạo tìm một hướng đi lên cho huyện, phải nói là rất bí. Kinh tế ngoài bốn “lờ” là lúa lợn lang luồng thì đủ ăn là may, chả trông vào đâu cả. “Nhân lực trước là một thế mạnh, chiếm nhiều vị trí chủ chốt trong tỉnh, nhưng mấy nhiệm kỳ vừa rồi đám Cù Khê, Ba Lạt cậy kinh tế khá lên ào ào, những quyết định, dự án quan trọng họ lôi về hết, mỗi lần họp tỉnh không khỏi tủi. Huyện quyết tâm đi lên bằng chính trị, cụ thể là xin cho bằng được cái di tích thời chiến tranh chống Mỹ hay chống Pháp đều được. Có thế mới tạo ra thế mạnh, người ta đi đâu về đâu đều ghé chỗ đấy ôn lại truyền thống, ta mở dịch vụ phúng viếng bên cạnh như ở các nghĩa trang liệt sĩ quốc gia, tuyên truyền mạnh mẽ trong nhân dân và thanh niên cả nước. Dần dần, Thanh Hạ khôi phục được vị thế trong tỉnh, động viên được nguồn lực đỡ bên ngoài…”
Ông Mật lục cặp lấy ra mấy tập giấy. “Đây là nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện mới thông qua, tôi đã gạch dưới những câu liên quan đến điều vừa truyền đạt tới bác và các anh”. Nhìn cách tiếp nhận nghị quyết của các “đối tượng”, Thông thấy ngay là hỏng rồi. Anh đảng viên ngoài phố khác ở huyện, càng khác anh trong luỹ tre chứ. Mà không biết mấy ông này, trừ bác Nhiệm, có phải đảng viên cả… Nhưng lời kết luận của tuyên huấn đã vang lên:
- Như thế gọi là đi lên bằng nội lực. Các bác các anh người đã nghỉ người còn đương chức nhưng đều có sẵn các mối quan hệ và hiểu biết. Bát máu đào hơn ao nước lã. Huyện rất cần sự đóng góp của các bác các anh, bằng chất xám trước, chứ vật chất thì sau đã.
Ba vị khách đều im phắc. Ông Nhiệm và Bài còn liếc vào tập nghị quyết chứ Phương đã gạt phắt sang bên, hỏi ngay: “Thế huyện định xin lập di tích ở đâu?”.
- Cũng chưa rõ lắm. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp, đâu đâu trong huyện cũng có đóng góp, hy sinh, làng nào mà chẳng vài mươi liệt sĩ.
- Chưa có địa điểm cụ thể thì khó lắm, Phương lúc lắc cặp kính tổ bố.
- Thật ra thì chọn ngã ba ở thị trấn huyện là tốt nhất. Chiến tranh, đấy là túi bom, đường hành quân vào Nam đi qua, địch nhất quyết đánh phá, ta nhất quyết thông đường, hy sinh nhiều vô kể kể cả bắt được phi công Mỹ. Bây giờ chỗ ấy chụm vào thêm mấy con đường nữa, có cái kỉ niệm, tượng đài chẳng hạn, người ta dễ dừng lại thăm viếng.
- Người cũ còn ai không anh? – Phương lại hỏi.
- Tiếc là không. Ông Oánh huyện đội trưởng hồi ấy mất năm kìa, ông Chống xe thồ bà Yên hát Ví làm cọc tiêu sống đã đi cả. Còn độc cụ Diểu dân quân thì lẫn lộn. Tôi mới tìm hiểu đến đấy.
- Thế thì anh phải đi tìm thôi, lấy lại lời người sống sót. Mà nhanh lên kẻo các cụ đi cả.
- Rồi huyện sẽ làm, giọng ông Mật đã dịu lại. Nhưng trên này các anh biết ông nào đóng to mà trước kia chiến đấu ở đấy, hoặc chỉ dính dáng thôi…
Ba “đối tượng” chính nhìn nhau. “Nghĩa là chưa có gì để lập hồ sơ chứ gì? Thế thì lại phải đi tìm”, Phương lẩm bẩm. “Còn phải mất thời gian đấy. Tôi biết rõ chuyện chạy bằng di tích, chả phải nói xuông, có sự thực sờ sờ mà được đâu”.
- Thế thì huyện mới cậy đến các bác các anh ngoài này. Chuyện tốn kém quà cáp trong ấy cũng liệu là phải có rồi. Nhưng bây giờ xin sang nội dung của xã ta. – Ông Mật chuyển sang ông Thọ - Chú trình bầy đi.
“Luận văn” miệng của ông Thọ được “soạn” kỹ rồi, nhưng chuyện của cấp huyện to tát mà cũng nhiều vấn đề quá, nên ông quên mất. Nhãng một lúc nó mới xếp lại mạch lạc được, giọng quê rề rà như nói chỉ cho mình nghe, ý chân phác nhưng lại được “khán thính giả” chăm chú hơn.
- Bốn mươi năm thờ cúng đứt mạch, giờ mới thấy đuổi thần thánh đi là sai, thấy mình như cái cây trốc gốc. Hội hè làng nọ xã kia mở lại cả, các bà làng mình ngày rằm ngày một chả biết kể hạnh thắp hương ở đâu. Ngôi đình đã dựng lại còn đơn sơ quá. Cái bia năm “triệt để” đập mất, chả biết gốc tích ra làm sao. Làng nghèo, thôi thì trăm sự nhờ các bác các anh góp tay mở miệng vận động người họ người xã đi đâu đâu công đức cho bằng người. Cứ nghĩ đến hội bên làng Phủng vạn người nô nức mà tủi, mà thành hoàng bên ấy chỉ là anh nhặt cứt trâu, sao bằng Ngài nhà mình. Lời quê dông dài, thế cũng là nhiều đấy ạ…
Những lời rất nhũn nhặn mà chả ngờ lại làm ông giảng viên đại học bùng lên. Sự phản ứng dù được kiềm chế vẫn rất khó nghe:
- Tôi nói thế này không đúng chỗ, vì các bác không phải người gây ra. Nhưng hồi tôi có giấy gọi đại học, chính quyền xã ỉm đi không cho gia đình biết. Không có người lên Hà Nội dò danh sách gọi học có mình thì tôi giờ cũng là anh chân đất mắt toét đi theo đít trâu còn gì.
- Chuyện xưa rồi anh ơi…
Thông cất lời cản nhưng Bài lơ đi. “Mà tôi được gọi đi nước ngoài. Không được đi Tiệp hồi ấy trong diện viện trợ cắt lại cho lưu học sinh thì gia đình cũng chả nuôi được tôi học trong nước. Trần xì mỗi tháng mười tám đồng ăn học thế nào được. Giữ giấy gọi lại là ông anh của anh đấy”, Bài chỉ tay vào ông Thọ. “Hồi ấy chủ tịch xã quyền thế, yêu ghét ai là lấy tay che cả mặt trời được”.
Bài đứng phắt dậy đi nhanh ra cửa, rồi quay lại cũng nhanh như thế. Ừng ực hết cốc nước cho cơn giận xuôi xuống, vẫn đứng thế, ông lại xả:
- Tôi biết các bác không có lỗi, không liên quan trong chuyện này. Tôi cũng biết quê ta nghèo, muốn có danh cho thiên hạ tỏ mặt vua biết mặt chúa biết tên. Nhưng không nói không chịu được. Làng nghèo nhỏ bằng cái teo mà mang danh cách mạng ra đè nhau quá đáng quá. Đúng là giống kỳ mục kỳ nát có quyền là cậy quyền. Hồi nhỏ ở làng tôi khổ đến nỗi bây giờ ngửi thấy mùi khoai là buồn nôn. Không thoát ra được thì là khố giây chứ còn gì, mà giờ các bác lại bảo chúng tôi là những niềm tự hào của làng Bùm. Thôi tôi nói thế thôi, chứ cũng yêu quê hương chứ. Tôi sẽ góp tiền làm đình và gặp ai thì bảo họ làm giống mình…
Giọng đã dịu lại. Những lời đã ra làm đại biểu quê hương khấp khởi, thì Phương lại gây chuyện, có ôn tồn hơn.
- Hôm nọ tôi về nhà, ra ngắm qua đình mới rồi. Làm đúng nền cũ là phải, nhưng so với đình xưa thì trơ trẽn, trống trải quá. Tôi có kỷ niệm rất đau hồi chống mê tín dị đoan, xã buộc ba con trâu vào cột đình kéo đổ, bà cụ tôi ra can bị lão Phụng bí thư hét dân quân trói gô gốc duối. Cụ nhìn cảnh phá đình đau đớn phải ngất đi, tỉnh lại cứ nói sảng chết thôi chết thôi sao ác thế. Tiếc là những đứa phá đình không sống thì cũng thân tàn ma dại rồi, không tôi nhét cứt vào mồm nó. Thử hỏi cái trụ sở ủy ban, nhà văn hoá với nhà cộng đồng thôn, xây chả phải bằng tiền dân đấy, nhưng ai đi xa về gần có nhớ đến không? Chả báu lắm đấy. Người ta chỉ biết mái đình la xuống đầu đao véo lên, tiếng chuông chùa lan xa thôi. Thế mà tiệt mà đứt, giờ phải tính cất lại thì có ngu nào ngu bằng. Đang nhiên đem thằng mới về vứt tổ tông đi.
Ai nấy lặng ngắt. Ông Thọ mặt đuỗn ra, ông Mật xám như chì mẹ cha cái tụi thành phố nó chửi chúng mình dễ quá. May mà ông Nhiệm cất giọng, dù chậm rãi mà rành rọt, những điều ai cũng phải lắng nghe:
- Nếu kể tủi hờn ra thì tôi cũng góp được đấy. Năm 53 đang chính trị viên tiểu đoàn, về đến đầu làng gặp cụ Sức bảo anh quay đi ngay không đội cải cách bắt. Nhà tôi gieo mầm cách mạng đầu tiên, cuốn sử Đảng bộ xã ghi gì đâu, cứ phe giáp mình mà kể. Nhưng thôi. Lịch sử nào cũng có nhiệm vụ của mình, vì lẽ riêng mà chỉ nhớ đến điều dở thôi là không nên. Đánh giá, rút bài học này nọ là việc của trên và các ông chức năng, ta là những con người bình thường thì hãy quan tâm đến việc bình thường, như nguyện vọng của huyện hôm nay… Anh Phương vừa hỏi một chuyện rất thực tế. Điều tôi muốn hỏi anh Mật là một thực tế khác: thời buổi làm kinh tế, sao Nghị quyết lại xác định đi lên bằng chính trị? Tính thế liệu có hợp không nhỉ…
Vừa giãn nguời ra vì câu ủng hộ, ông Mật phải co ngay lại. Cái điều, cái giọng của con người từng ở ngôi cao ấy làm ông phải so đo. Câu trả lời bật ra không ngờ lại rất “nôm na”.
- Nói thật với bác lâu nay Thanh Hạ ta lép về khoản cán bộ so với các nguồn khác trên tỉnh. Như các bác đều biết tỉnh ta có ba vùng miền núi, đồng bằng và duyên hải. Trong chiến tranh cơ quan tỉnh rút lên miền núi ta, sau này nguồn cán bộ cũng lấy từ đấy. Nhưng sang thời kinh tế thị trường thì bao nhiêu rường mối về tay đám đồng bằng với thị xã cả. Tổ chức, phó bí thư trực bên Hạ Câu, ngân hàng, bưu điện, hải quan béo bở không Cù Khê thì Ba Lạt, còn lại ta chỉ văn hoá xã hội èng èng mà lại dưới trướng phó chủ tịch người Vạn Hoa. Họ có ghế rồi đưa con cái, phe cánh về ùn ùn, chiếm hết chỗ ngon. Đại hội Đảng bộ tỉnh bầu khoá mới rồi bí thư huyện ta may mà vừa đủ phiếu vào tỉnh uỷ, mà ông này người nơi khác, cử về một nhiệm kỳ làm nguồn lên chỗ mới thôi, còn những anh gốc Thanh Hạ bầu cho nhau thì được phiếu nào hay phiếu ấy. Tay lẻ khó vỗ là thế. Đi đại hội về chết giấc vì tức. Mà thời chiến những chỗ ấy ít bom đạn, hy sinh sao bằng Thanh Hạ ta. Có một di tích hoành tráng trong huyện để rồi trung ương, cả nước biết đến, ta không thể không lưu ý các vị mỗi khi đại hội phải bầu bán này nọ là đừng quên cái nơi đã chịu đựng cho cả tỉnh trong chiến tranh mà dành hết các vị trí về mình. Trả giá rồi thì phải đòi lại chứ, các anh huyện khác hưởng hết à? Đấy là cái điều không ghi vào nghị quyết được ạ.
- Ra là thế…
Người đáng kính nhất chỉ buông vậy, rồi ngả hẳn mình không nói năng gì nữa. Sự im lặng của ông nặng như núi ngàn cân đè chịt những người khác khiến chẳng ai mở mồm nổi.
4.
Cuộc “họp” vãn, hai ông chủ trì đều nặng trĩu, chả biết kết quả là thành công hay thất bại. Đi thuyết phục đám đồng hương ra phố này không dễ chút nào, ông Mật cáu. Tức nhất là cái thằng Phương, tuổi kém mình bề bề mà nó cứ cật vấn ra điều phải lứa, dễ những lúc được hỏi ông bộ trưởng ông uỷ viên cũng láo thế được chắc? Thằng Bài trí thức dậy đại học mà không biết nhẽ, sao cứ quàng vào chúng ông những chuyện người trước làm không phải. Nhưng anh ách nhất lại là ông Nhiệm, nói năng như không còn gì là người huyện người làng nữa, nghị quyết đã nêu mà cứ vặn. Mà lại đã qua quân ngũ, phải biết thế nào là sự lãnh đạo, ra trên dưới chứ.
Ra là đồng hương rồi nhưng đã mất gốc, không trông cậy được. Họp không đi đến đâu là do tuyển chọn nhân sự, những gương mặt mời đều do Thông nêu ra. Nhưng đang ở nhờ, ông Mật chỉ bảo “Lần sau không bảo mấy vị này nữa”. “Đây mới chỉ là dạo đầu bác ơi”, Thông cười hơ hớ. “Còn phải đi gặp gỡ, thuyết phục, trình bầy, nhất là phải nghe, không nghe người ta không giúp đâu”. Càng ở lâu, ông Mật sẽ càng thấy Thông có lý. Nào ngờ được là khi đi thực hiện sứ mạng huyện giao, còn không ít lần, ông còn phải đối đầu với câu hỏi “sao lại chính trị đi trước?” ông Nhiệm đã nêu. Mà có phải lúc nào cũng thưa lại thật thà như lần này được đâu.
Bí, tức mà không trút đi đâu được. Lại sáng ra chả có con văn thư sai nó pha nước…
Không trầm trọng như Mật, ông Thọ cảm thấy sau những cắc cớ vặn vẹo nêu ra, mấy vị tỉnh thành có cái nỗi niềm gì na ná mình. Họ đi nhiều hơn, thấy nhiều hơn, hẳn thế, nên nói ra phải ít hơn, ít nhưng có chiều gần gụi. Đêm đến, nửa tỉnh nửa mơ, ông sống lại ngày ra quân ấy, cái rằm tháng giêng cách nay hơn ba chục năm.
Sáng sớm, các vãi ra đình ngạc nhiên thấy trung đội dân quân tập hợp đằng đằng dưới gốc đa râu ria lòng thòng, bên cạnh ba bốn con trâu lực lưỡng. Xã đội trưởng Cù Đại súng khoác vai oai vệ bảo “Đã quán triệt mấy tuần nay mà các bà còn làm lễ là thế nào”.
- Ơ, tôi tưởng chỉ nói chứ làm thật?
Nghe bà Câu lơ ngơ, Đại làm nghiêm. “Từ nay triệt để. Dứt khoát với tàn tích phong kiến”, rồi vào gian giữa nhổ nắm hương mới thắp ở chính điện ném ra mắt rồng. “Chúng tôi làm nhiệm vụ, các bà cản trở đừng trách. Chính quyền là ở trên đầu ngọn súng! Các đồng chí...”
“Chát! Huỵch!...”. Dưới sức lực điền, tấm bia sau tam quan bay ngay diềm mái. Sau đợt nghỉ, phần thân có chữ ngoằn ngoèo vỡ vụn, rồi đến lượt ông rùa cõng bia. Tất cả rồi sẽ vào lò vôi xây trụ sở.
Dây thừng buộc vào cột đình, trâu kéo người du, mãi mới đổ. Câu đầu cửa võng khuỵu trước, ban thờ bài vị nhào sau. Trong đám bụi mù, Đại phát hiện ra ông chú lén ôm mấy ống quyển đựng sắc các triều phong cho ngôi đình, bèn hạ lệnh trói gô lại. Tội nghiệp lão khoá sinh thi trượt kỳ Nho học cuối nằm dưới bụi chuối râu tóc tả tơi, mặt ướt tràn trụa, khóc không ra tiếng. Từ đấy ra người câm.
Những giấy gỗ vải lụa cho vào lửa, xiêm áo Bà Chúa cháy vèo. Đức Ông, La Hán đắp đất nhào xuống mắt rồng mắt trâu. Còn pho Quan Âm bằng đá bên chùa, xã đội Đại lệnh Thọ buộc vào đít trâu kéo đi. “Cho lên bờ mương”, chả bảo kéo đến đoạn nào thì cho thỏm.
Pho Nghìn mắt nghìn tay ấy rất đẹp, thấy bảo một bà buôn dâu con làng Bùm cung tiến thời còn vua. Giật đùng đùng, nẩy tưng tưng, cái đầu Phật ngần ngật sau hai con trâu đực. Chốc chốc một cánh tay đá vướng gốc duối long ra, con mắt trên bàn tay như chớp chớp đến là vui. Ra giữa đồng, gần tha ma gốc gạo, Phật lăn tòm xuống mương, trâu đánh mấy không lôi lên được. Mệt rồi, thôi nhà người nằm đấy vậy.
Sáng sau Cù Đại phê bình Thọ không “triệt để phong kiến”, để cái tàn tích ấy nằm lại trên đất thôn là không được, phải ra vớt lên vứt ra xa. Nhưng “nhà người” đã không còn ở đấy.
Thọ đi bộ đội đánh nhau rất lâu, không xanh cỏ cũng chả đỏ ngực nhưng về được, mà lành lặn. Ngày hấp hối, bà cụ gọi anh đến bảo tao giấu Phật dưới búi tre ông Đà, biết thế để sau này thỉnh về thờ lại, không thế thì sao mày về được con ơi. Nghe thế, vâng dạ thế nhưng cứ để nguyên thế không động đậy gì đến. Cù Đại đã hoá rồ suốt ngày cởi truồng đi rong mấy lần cóc chết cho vào mồm. Mả điên phát từ đấy, con cái Đại cứ tàng tàng chả kinh gì hôi tanh. Ông Phụng bí thư không chỉ huy cụ thể “chiến dịch” nhưng là người ra chủ trương vợ bị chó dại cắn chết thảm.
Rồi ra những người có liên quan nữa… Rồi ra xã ấy thôn nọ ở ngay bên cạnh với cả những chỗ rất xa xôi, thấy bảo không thiếu chuyện tương tự. Mình không duy tâm đến mê lú nhưng không tin không sợ tý nào là không được, là dễ ra ác độc, cứ con đấu cha trò vả mặt thầy như hồi bé mình đã xem, sau này mới biết là cải cách ruộng đất, là ác chứ còn gì.
Bao năm không ngờ lại ra thế này. Ông Thọ tỉnh giấc mơ rất kinh, bảo Thông cho lên bàn thờ thắp hương. Rì rầm khấn, ông nhủ Thần Phật với các cụ rằng bàn thờ nhà Thông không có các cụ nên con chỉ vái vọng thôi, rằng con sợ lắm, hối hận lắm rồi vì đã làm những việc không nên làm, may là mẹ còn để phúc lại, nay con phải để phúc lại cho con con và cho con chúng nó. Lòng con đang rất không ổn. Những điều hôm qua còn sáng rõ nay tù mù, đáng ngờ, những bất di bất dịch long lở lả tả. Lại những thứ đã đem chôn lù lù hiện về ám quẻ, xua thế nào cũng không đi.
Thật lắm thứ nữa không thể nói ra. Những nỗi niềm tràn ứ không thể hở ra với bác Mật bên cạnh đâu, bác ấy nhiều lý luận, phê bình cho mà toé khói ra...
- Tưởng bác duy vật hẳn rồi… Thế bác tin hẳn vào “các cụ” à?
Câu hồn nhiên của Thông hoá ra lại rất ác, “ác” chả kém câu ông Nhiệm cật vấn ông Mật. Phải một tý ông Thọ mới ậm ờ, chả ra trả lời: “Chưa biết tin đâu thì bấu vào các cụ”, và lảng sang chuyện khác. Tôi thấy nhà chú sinh hoạt lạ, sáng vợ đi đằng vợ chồng đi đằng chồng, thằng con suốt ngày trong buồng, được cái đến bữa xuống nấu rồi mời hai bác ra ăn rồi cháu đi học ạ. Tối cũng thế, chồng thể thao vợ nhảy nhót về rất muộn, toàn ăn vào cái lúc người ta đã ngậm tăm. Chú để thằng khác ôm vợ mình quay quay ngoài sàn không sợ à… Thông cười hơ hơ làm ông thấy mình đang lo bò trắng răng.
5.
- Ai đấy?
- Em ạ. Em ở làng Bùm.
- Làng Bùm nào?
- Làng Bùm trong Thanh Hạ.
- Thanh Hạ nào?
- Tận miền Trung cơ ạ. Làng em đang xây lại đình chùa, xin các bác phát tâm công đức cho Thành hoàng làng em và Chư Phật có chỗ ngồi. Cái chỗ ngày xưa bị phá đi mất rồi.
- Sao lại phá chỗ các Ngài?
- Dạ, là những ông ngày xưa phá, không phải chúng em. Giờ các Ngài vất vưởng đâu đâu không được, làng quyết tâm xây lại, mời về để thờ, nhưng thiếu mất một chút.
- Thế đây, tôi xin ủng hộ. Không cần phiếu công đức đâu.
- Em xin bác. Cảm ơn bác ạ.
* *
- Hôm nay có thi môn gì đâu mà mua hương.
- Đâu. Có hai bà nâu sồng đến bán hương xây đình chùa ở quê.
- Lại có cả giấy công đức. Xem nào… Làng này ở đâu chứ có phải làng mình mà góp!
- Nói giọng miền Trung, đi ra cũng xa xôi nên mua cho họ.
- Chín thẻ à?
- Ừ, họ bảo đàn bà thì chín.
- Thế đưa bao nhiêu?
- Ít thôi.
- Ít là bao nhiêu?
- Đã chả muốn nói lại cứ hỏi. Chín mươi nghìn.
- Ôi giời! Cậu có căn tu đấy.
- Mất tiền thì không tiếc, nhưng tức là như là mình bị lừa.
- Đã công đức còn so đo, đúng cái đồ…
- Thôi không nói nữa!
- Lần sau ai vào họ xin cả người, cho luôn!
* *
- Ai bấm chuông đấy?
- Tôi ạ, xin các bác phát tâm…
- Thôi đi đi! Sáng ra đã nhiễu.
- Làng trong quê xa, tận miền Trung bão lụt, muốn làm lại ngôi đình, chúng tôi có giấy giới thiệu của uỷ ban với sổ chứng nhận công đức mà.
- Tôi biết các vị rồi. Kiểm tra bể phốt với bình ga ông bà nào chả có giấy tờ. Nhiễu!
* *
- Ôi giời làng Bùm à? Tôi chả biết Bũm Bùm nào, nhưng quê tôi cũng thế, đuổi các vị đi rồi giờ rước về, phải tội lắm nhưng còn hơn không. Đây tôi cúng một ít…
* *
- A di đà Phật!
- A di đà Phật! Hôm nay khuyến thiện thế nào?
- Bạch thầy cũng được. Có bà mời vào nhà hỏi han, cho uống nước. Nhà có bàn thờ Chúa, biết con đi quyên tiền làm chùa, ở nhờ nhà chùa mà vẫn đưa tiền, con thấy lạ.
- A di đà Phật, thì cũng người Nam ta cả…
* *
Tấp tểnh, thất thểu, các vãi làng Bùm đi xin lộc khắp nơi. Lạ cho giống đàn bà. Đàn ông chỉ độc chủ trương, chứ sang xã bên, lên tỉnh huyện, ra tận Thủ đô, vào miền Nam, chỉ có họ đi được...
Có người về ngay, thất vọng trước sự bàng quan của người đời. Những đứa phũ hắt cả chậu nước vào mặt không ác bằng kiểu từ chối lịch sự nhưng nhìn người ta như không nhìn, hàng tháng trời không quên được kiểu tử tế ấy. Có người hớn hở bị dốc bị tiền cho ban kiến thiết để Ngài có chỗ ngồi cho con dân được lạy tạ, bao nhiêu mệt nhọc nhịn nhục lậy lục quên hết . Dân phố lỵ, tỉnh thành cũng lạ, sống trên tiền, trong bụi bặm lâu năm, góp của đấy nhưng chả mấy người mời vào nhà cho được cốc nước. Tội nhất là bà Năm xóm Tám đi cả tháng nhịn đói khát không dám phạm vào lộc Ngài lúc về rộc như con mắm, chỉ đôi mắt sáng trưng.
Ông Thọ là trưởng ban kiến thiết, ngồi thu tiền luôn. Thỉnh thoảng bị tiếng riếc “báng bổ thần thánh, đem đập các Ngài đi giờ phải rước các Ngài về có nhục không”, ông chả lấy làm điều. Lo nhất là các Ngài có về, về rồi có phạt không. Dù sao công sức các vãi có kết quả, tiền bòn mót được cứ mỗi rằm mỗi một dầy thêm một ít, tuy đa phần bạc vụn. Ông bàn với các cụ thôi có ít làm ít, cái đình đơn sơ thôi, Thành hoàng ở giữa bên Đức Ông bên Chư Phật còn điện Mẫu lui sang hẳn bên, chỉ thấy ậm ờ. Bốn chục năm vô thánh vô thần chỉ họp hành kiểm điếm đấu tố giờ quay lại thờ cúng ngọng nghịu quá. Nhưng ngọng còn hơn không chứ, các Ngài xá tội cho. Làng mình nghèo có vậy làm vậy có khi lại may, chả biết những chỗ tiền đè chết người người ta tính tiêu pha ra sao nhỉ. Đã chả có anh tiêu không minh bạch phải đem nhau ra xử đấy à… Những nỗi lo, niềm vui nhỏ nhoi làm giấc ngủ của ông khấp khởi bồng bềnh, như được gần một cõi huyền bí ít ô trọc hơn.
Ông Mật thì không được vậy. Hồ sơ xin di tích lập lại ba lần các “cố vấn” ở Thủ đô vẫn kêu “không cụ thể, bên văn hoá về kiểm tra thế nào nó cũng hạch”. Cụ thể thế nào được, vì “nhân chứng” thời chiến không còn, còn thì không ngọng cũng lẫn. Khó nhất là “vật chứng”, tức cái địa điểm phải “bầu” lên làm anh hùng, huyện nhất trí ở ngã ba thị trấn rồi, nhưng tại sao ở đấy, dịch lên dịch xuống sang ngang vài trăm mét có được không, thì trả lời rất khó. Người Thủ đô họ giúp đấy nhưng phải trên cơ sở phù hợp với luật Di sản với những quy định dưới luật gì đấy cơ, chứ có nói không rằng đây là trên cơ sở nguyện vọng của huyện uỷ, uỷ ban và toàn thể nhân dân trong huyện được thể hiện qua nghị quyết huyện uỷ mà thuyết phục được à. Đến lúc tàm tạm rồi, hồ sơ họ nhận rồi thì lại phải chờ, chờ và xin địa chỉ đến thăm chị và các cháu tận nhà, người cành lộc hươu người miếng mật gấu kèm theo.
Lâu lâu lại thăm một người “có liên quan” ở cấp cao hơn. Hơn hai năm trời ném đá xuống ao bèo, xin có cái “chính trị” mà trời không thấu.
Tức nhất là cái thằng trên bờ không thủng cho thằng dưới nước. “Tôi tưởng chuyện ấy đơn giản”, bí thư huyện nói vẻ bâng quơ làm ông uất khí. Cái thằng trẻ ranh từ công tác đoàn mà lên chỉ toàn tay không bắt giặc, cứ thử cho đi như ông xem. May là còn có nhà Thông. Hết sức thông cảm, phòng riêng ở bao lâu cũng được, thân tình rồi thì có gì ăn nấy, nó giúp được gì thì giúp còn việc mình mình cứ đi. Tiện nhất là vợ nó bận bịu đi cả ngày, thằng con chào bác xong cun cút lên phòng bật máy tính, mình đỡ giơ cái mặt ra. Nhưng cũng có cái phiền, mình thích rượu nó chỉ uống bia, ban đêm thèm thuốc đến chết phải chịu, đang thu cả hai chân lên ghế thấy vợ nó về thời hạ xuống, ngậm cái tăm vứt vội đi. Chả phải là ai bảo, tự ông thấy thế thì ngượng.
Gần hai năm giời đi lại chỉ nhúc nhích được tý. Hồ sơ xin di tích xếp hàng bên cơ quan di sản cao bằng núi.
Rồi cô vợ đi suốt ngày của Thông, ngang qua bàn nước ông nào ông nấy đăm chiêu ngỗng ỉa, đánh rơi câu:
- Sao anh không đến cái Lan con chồng dì Bỉnh, anh con cô con cậu với em dâu nó là thư ký ông Tĩnh…
6.
Pha được cốc nước cam nóng, bà Hợp đem vào buồng ngủ, thấy chồng đã duỗi dài, mắt khép lại, bèn đặt nó xuống đầu giường. Ông Tĩnh vẫn khoẻ nhưng hay bị tiệc tùng tiếp khách, có tý bia vào là thế, khiến cái bản năng thầy thuốc của bà phải cảnh giác. Năm ngoái bộ trưởng Đ. mới nhậm chức đã chả xuất huyết não sau phen quá vui là gì. Chồng bà sắp nghỉ, cũng là đoạn lắm tâm sự cần chú ý. Bà Hợp tắt đèn, sang phòng riêng của mình, nơi có một núi sách và những cây bút, giờ thay bằng máy tính.
Nhưng ông Tĩnh chưa ngủ, chỉ lơ mơ thôi. Chất men, một chút thôi, đem lại cảm giác thật dễ chịu, để mà khỏi phải nghĩ đến đại sự ở tầm quốc gia. Còn một năm nữa là hết nhiệm kỳ, biết mình sẽ không tại vị nữa vì quá tuổi và vì vài lý do nhạy cảm nữa, ông hay cho phép mình lơ mơ. Để mà sống lại với quá khứ có thật và nhớ những điều chưa từng xẩy ra, thật kỳ lạ là nó cứ trộn lẫn, và cũng hình dung đôi chút về tương lai lui về. Nghỉ nhưng không phải hưu hắt, còn khối chân danh dự, những hội nghị thắp sáng quá khứ soi rọi tương lai cần ông có mặt, kể chuyện xưa hay đơn giản chỉ đứng lên đáp lễ. “Hạ cánh từ từ”, không sốc, thế là quá hợp lý với độ tuổi của ông rồi.
Chiến tranh, những ngày này, hay hiện lại không quá ùng oàng máu me, trung đoàn rút về hậu cứ còn được phần ba là may. Nó lại nhỏ nhẻ những chi tiết vụn vặt, như giấc ngủ ngon lành không bị trợ lý tác chiến đánh thức, củ khoai bếp trung đoàn để giành. “Đi cho đoạ hè”, mạ Quảng Trị nói sao mà khó bắt chước. Rất hay gặp là một khoảng rừng quang đãng, không quá chói nắng, có con suối vắt qua, ông cùng ban tham mưu làm liều thuốc lào say ngã ngửa. Rừng sáng và mát mẻ, ráo mồ hôi lại tỉnh táo đi tiếp được. Cuộc chiến có thằng về thằng không, ông là kẻ may mắn, ngưng súng đạn lại lên một lèo đến cái ghế quyết định nhiều việc trọng của đất nước bây giờ.
Cuộc gặp sáng nay với đại biểu từ địa phương lên làm Tĩnh thấy xốn xang. Cậu trưởng ban tuyên huấn huyện, khá rụt rè, đặt vấn đề trước đây anh đã tham gia chiến đấu ở Thanh Hạ, đem lại cho quê hương niềm vinh hạnh lớn. Giờ đây Thanh Hạ muốn phát triển lên thành vùng kinh tế du lịch văn hoá trù phú, ngặt nỗi thế mạnh chỉ có lúa lợn lang luồng. Dân cư nghèo kiệt chất phác, chiến tranh xẻ nhà xẻ cửa ra cho các binh đoàn kéo qua, đến bình thời mới phát hiện ra mình chả biết cách làm ăn giầu tẹo nào. Tắc đường kinh tế thì phải lấy chính trị làm mũi nhọn. Huyện uỷ, uỷ ban, các ban ngành đoàn thể họp hành mãi, chỉ thấy quá khứ vẻ vang thời chiến là đáng đẩy lên làm mũi nhọn nhất. Ông Tĩnh đã chiến đấu ở Thanh Hạ hồi chống Mỹ, vậy nên huyện đề nghị giúp cho một cái di tích cách mạng.
“Chúng em chọn thôn Ba thị trấn huyện làm nơi đặt di tích. Vì thứ nhất, đấy là chỗ giao nhau giữa quốc lộ và hai tỉnh lộ, nhiều khách hơn chỗ khác. Thứ nhì, thủ trưởng hồi chiến tranh về huyện nhà mở đường thâm nhập vào phía Nam, sau này xe tăng, tên lửa, cơ giới ta tập kết về chuẩn bị cho chiến dịch K. thắng lớn, đẩy lui lớp phòng ngự tuyến đầu của địch tạo thế dằng co cho tới ngày tổng tấn công thắng lợi. Thứ ba, huyện giờ chả biết trông vào đâu để mở mày mở mặt, như tỉnh bên họ có ngã ba Đồng Lộc, nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang Đường 9 khách về nườm nượp như một điểm hành hương về nguồn. Đi lên bằng chính trị nó có nhiều ý nghĩa ạ. Như giáo dục lớp trẻ trông vào đấy mà tự hào về quê hương. Dựng một tượng đài lên, là các đôi cưới xin có thể ra chụp ảnh. Và trên hết, kéo được khách về thăm, đem lại nguồn thu cũng như các ý tưởng đầu tư cho huyện phát triển lên”.
Trưởng ban tuyên huấn Thanh Hạ ngưng lời, đợi ý thủ trưởng. Ông Tĩnh im ắng dăm phút, sắp xếp các ý nghĩ rồi phát, các ý kiến dầu chỉ là “sơ khởi”, “của cá nhân tôi thôi”, nhưng làm người nghe tá hoả:
- Tôi rất trân trọng chủ trương của huyện. Nhưng còn mấy băn khoăn thế này… Một, là đường vào phía trong lúc tôi vào mở lớn trên nền đường mòn mà các anh đi trước mở từ cuối những năm năm nươi. Mình chỉ là người đi sau, gắn liền với giai đoạn đánh lớn có hoả lực mạnh, làm sao dám nói đấy là điểm mở đầu của đường vào chiến dịch K. Tôi cũng quên khá nhiều rồi. Hai, là sao lại chọn chính trị làm điểm đi lên. Đang là giai đoạn làm kinh tế, huyện chọn cách nào kéo được người ta đến làm ăn chứ, chỗ này thì tôi có thể ủng hộ được vài dự án.
Khách huyện im bặt, trời rét mà chân tóc ướt rịn. Tởn vì lời nói điềm đạm mà có gang có thép, nhưng nghĩ đến nhiệm vụ huyện giao, ông Mật ngập ngừng: “Dạ, nhưng chúng em trộm nghĩ là thủ trưởng đang ở vị trí có thể quyết định được đâu là điểm khởi đầu của con đường lịch sử mà báo chí thế giới phải nhắc đến”.
- Anh nói thế không đúng. Phải tôn trọng lịch sử, làm thế là xoá công người đi trước. Hồi ấy hai trăm người đã bỏ mạng để mang được ba tấn súng đạn vào trong kia, mình dẫm lên thế nào được.
Giờ thì im hẳn, nghe tiếng chuông đồng hồ điểm như tiếng súng. Khách muốn rút nhưng đã ra cấm khẩu đành ngồi im chịu trận, may anh thư ký nhẹ nhàng bảo: “Thôi các anh cứ về. Thủ trưởng mới phát những ý đầu, còn cân nhắc tiếp. Dù thế nào thủ trưởng cũng không quên sự khó nhọc của các anh đã ra đây”. Tưng nấy lời là kết quả của chiếc mật bò tót được tặng.
Bèn líu ríu đứng dậy chúng em không dám quấy quả nhiều quá, có gì xin thủ trưởng bỏ qua, chỉ vì đây là nguyện vọng của đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong huyện. Chợt ông Tĩnh quay sang: “Thế huyện mình là huyện gì?”.
- Dạ, chúng em Thanh Hạ.
Năm phút im phăng phắc, ông mới lẩm bẩm “Ừ nhỉ, ừ nhỉ…”, mặt chìm vào xa xăm, chỉ anh thư ký nhắc khách cứ về đừng tắt hy vọng. Ông Tĩnh dặn anh nhận hồ sơ di tích Thanh Hạ, tiễn họ về ân cần, tình nghĩa, nhưng tâm trạng còn không ngừng xao động.
Không xao động sao được. Đấy là một trong những bí ẩn lớn nhất của chiến tranh, của đời ông kia mà…
7.
Năm 197…, trung tá Tĩnh đuợc lệnh đưa một tốp tinh nhuệ vô Trung dọn một cái “ổ” chuẩn bị đánh lớn vào sau lưng địch. Trợ lý trinh sát, bản đồ, trinh sát pháo binh, phòng không, y tá, thông tin, anh nuôi, toàn lính tráng thứ quý hơn vàng. Cấp trên phái đến một trung uý rắn đanh, nhỏ người nhưng mới nhìn đã biết rất thiện chiến. Tuấn đã trinh sát thực địa vài lần, làm việc với địa phương các phương án dự phòng, giữ bí mật, đảm bảo hậu cần... Địa điểm đóng quân ở Thanh Hạ, làng xã nào không biết, chỉ là những dấu đánh số trong bản đồ. Người già trẻ em sơ tán lên giáp biên giới Lào cả, còn độc dân quân ở lại. Trung đội ấy trang bị súng bộ binh chả khác gì quân chủ lực, cả thời gian đóng quân gần như không thấy anh đàn ông nào, kể cũng hơi hơi đáng lo.
Nhưng cái gợn ấy tan ngay khi người chỉ huy bộ đội thấy trung đội được tổ chức rất chặt, biết rõ việc. Đêm xuống, sau bốn tiếng hành quân, Tuấn liên lạc được với huyện đội, dẫn Tĩnh cùng hai trợ lý tham mưu xuống làng. Gọi thế, nhưng toàn hầm là hầm náu dưới những thân cây lực lưỡng. Chui vào một căn, dù ánh đèn dầu rất yếu, họ vẫn kịp thấy hai cô gái, một thút thít khóc, cô có tuổi hơn đang rất giận dữ.
- O Thim.
Anh huyện đội gọi ngập ngừng, chưa muốn giới thiệu ngay. Cô lớn tuổi bảo đồng đội: “O về kiểm điểm lại quan điểm. Đang bom đạn lại có hành vi thế à”, nhỏ thôi nhưng vẫn căng. Cô có lỗi đứng dậy chào lí nhí rồi trèo khỏi hầm.
- O Thim ni xã đội. Còn đây là thủ trưởng Tĩnh, các anh trợ lý. Anh Tuấn thì gặp rồi…
Nghe anh huyện đội vắn tắt, Thim đứng nghiêm “Báo cáo thủ trưởng chúng tôi đã sẵn sàng. Ta đi ngay ạ!”. Nhưng Tĩnh muốn nghỉ. Đôi giầy chật phản anh, phải rút chân ra một lúc cho máu thông lại đã. Câu chuyện giữa anh huyện đội và Thim loáng thoáng lọt vào tai anh câu “o Niềm luyến ái với lái xe, tôi gọi lên chấn chỉnh trước, kẻo mất kỷ luật toàn trung đội”. Ôi giời các bố lái xe, không có các bố ấy thì chết, mà có các bố ấy cũng chết. Anh huyện đội động viên o ngăn chặn trước là phải, đây không trực tiếp quân giặc nhưng vẫn là chiến trường, cái nhiệm vụ chúng ta sắp làm đây còn quan trọng hơn trong chỗ có địch, phải quán triệt thật kỹ.
Họ đi dưới tán rừng tối om độc một giống cây, hỏi thì “Chúng em gọi “nhọ nhẹ”, bên dưới rất ít bụi. Trèo lên một khoảnh đồi lúp xúp đất đầy rễ con, người phụ nữ mang cây tiểu liên, thắt lưng đầy kẹp đạn rất dẻo dai, chốc chốc dừng lại đợi thủ trưởng đau chân. Chỗ này dân đã di cả, các đường vào đặt chốt chặn, có suối, tán rừng rậm, có thể đặt sở chỉ huy. Chỗ kia cằn cỗi chỉ ẩn được một trung đội. Kể thì đơn vị lớn quá, rừng núi hẹp đóng sẽ rất chật, nhưng đành chịu, đào hang mà ở thôi. Xen giữa những tính toán và cái đau trong giầy, Tĩnh ngửi thấy mùi mồ hôi chua nồng, nhưng không đến nỗi khét như của lính.
Họ đi hết đêm, sáng ra thì phân tán để ngủ, thường hai anh một “phòng” khoét dưới đất, mình thủ trưởng một nơi. Chả ai biết trời đất gì nữa, đến khi dậy thấy vách hầm xung quanh hoạ báo dán kín. Ăn cơm trưa, mọi người bảo ngửi ra mùi gì lạ lạ, lạ nữa là hơi khó ngủ.
- Chỗ đàn bà mà”, Tuấn lẩm bẩm rồi hít mỗi nơi mỗi tý. Thủ trưởng không biết chứ trinh sát bọn em thính mũi hơn chó.
Trưa hôm sau Tĩnh bàn xem có thể đi ban ngày được không, vì đêm hôm nhìn rất loáng quáng và lệnh trên muốn tập trung đại quân sớm. “Có cả hoả lực mạnh”, anh chỉ nói thế mà không nhắc đến pháo phòng không, pháo mặt đất và có thể cả tên lửa sẽ kéo vào. “Chia làm hai tốp đi cho nhanh, tức là ít nhất hai người dẫn đường”
- Thủ trưởng để em thu xếp. Hơi ít người đấy ạ.
Thim nói rồi con cón ra phía cuối rừng. Hẳn là dưới một gốc nhọ nhẹ, các cô có căn hầm của mình. Giờ thì Tĩnh mới ngắm được kĩ, Thim vào loại đàn bà to xương, cao lớn, gò má nhọn, thân hình không thể nói là mỡ màng. Ngoài kia, vượt xa khỏi những túi bom như đây, đàn bà cũng mỏng mình “tờ giấy viết thư còn gọi bằng cụ”, nhưng dù sao cũng nhiều nữ tính hơn. Kể thì thương thật, không có chiến tranh họ hương sắc khác chứ. Trong khi Tĩnh vân vi những ý nghĩ ấy thì Tuấn đánh một câu: “Mẹ kiếp, lưng dài như chó liếm cối l. bằng lá tre, chồng đi vắng khó lắm…”.
- Cậu tăm nhanh nhỉ, trợ lý bản đồ cậy đất bám trên báng súng cười gằn.
- Tớ còn biết cả vấn đề của các em kìa. Trung đội có cô kêu trời nóng quá cởi quần áo ra suối cười, không dốt riêng lây cả hầm.
- Bốc phét. Những chỗ ta qua cũng đầy nữ dân quân làm gì ra có.
- Tớ chả biết. Nhưng mà đây có.
Chuyện của cấp dưới cứ thủng thẳng, còn Tĩnh lo thắt ruột vì những bãi đáp cho hàng đống xe pháo to lồ lộ. Nhưng khi Thim trở lại với một cô gái vuông vức bánh chưng, anh không khỏi ngắm kỹ dáng người cô. Quả là cứng. Lưỡng quyền cao, dóng chân dài. Vai vuông đeo quân hàm chắc đẹp. Cả ngày anh đi theo cái lưng dài miên man đến con chó liếm cối, nó liếm cơm nóng giã muối vừng chắc. Thim có giác quan thật nhậy, có lúc hô cả đám thục mạng vào tán cây, mấy giây sau chiếc trinh sát mới vụt qua. Có lúc vượt qua bãi trống Tĩnh muốn chạy gằn thì cô thủng thẳng “không phải giờ của nó đâu thủ trưởng ạ”. Lúc nghỉ ở bãi đá ven suối, nhá miếng lương khô mằn mặn, Tĩnh thấy mình thật khó rời mắt khỏi đám tóc rối sau gáy Thim. “Tóc không rụng, chả biết kinh nguyệt có đều được?”, suýt nữa chàng trung tá để câu ấy trôi khỏi miệng.
Chuyến trinh sát có kết quả tốt. Ngày đi, đêm về làm việc trên bản đồ, đánh dấu những bãi đáp xe, chỗ náu từng trung đội, tiểu đội một. Khó nhất là địa điểm đặt pháo phòng không, kín đáo, bất ngờ nhưng phải đủ thoáng để ngắm bắn và có đường “biến” cho nhanh lúc nó tập trung không quân giã. Giữa những quãng ngưng là tuần chè rừng chiêu khoai lang khô dân quân cho. Tĩnh luôn phải thán phục cái bản năng sống của Tuấn, vùng trống mênh mông, không dân mà có hôm lôi ra chai rượu sắn.
“Em chỉ cần cái bật lửa và con dao là sống được”, Tuấn nói tránh khi anh hỏi kiếm đâu, rồi chuyển sang những câu tếu táo. Đôi khi hắn đẩy “cử toạ” vào tình thế rất khó xử. “Thứ nhất rượu say ngà ngà, thứ nhì công tác đường xa mới về”, tôi đố mọi người là gì nào?”, làm gáy Thim ửng như phải phát. Quả là cái kho vĩ đại chuyện đực cái. Những anh về phép phải vợ hành kinh. Những bọ mạ thắc mắc bộ đội ngửi mồm con gái. Hôm nghỉ ven suối hắn hát “Ta là con của bố ta mẹ ta, nhớ nhà là ta phắn ta chuồn…, đố là gì đấy?”. Rồi tự trả lời: “Là lính đào ngũ. Tôi cũng đã từng đào ngũ, rất sợ…”
Chả biết có phải vì nghe mãi, mà giữa giấc ngủ mê mệt, Tĩnh hay mơ gặp vợ. Hợp tình tứ mà đoan trang, kín đáo, khi cười chưa bao giờ khoe hết hàm răng trắng đều tăm tắp, hình như luôn muốn giấu nét tươi lồ lộ đi. Và anh, trong những kỳ gần gụi hiếm hoi, vẫn chưa bao giờ đòi được vợ “trong giờ hành chính”. Chỉ là đêm sẫm, khi con ngủ say, và chả bao giờ được bật đèn cho anh ngắm mê muội vưu vật.
Chỉ có bất chợt trưa ấy về, nghe tiếng dội nước sau nhà. Cửa buồng tắm bị giật toang, một miền đẹp đẽ, sáng đến chói mắt khiến Tĩnh ngỡ ngàng. Con đực bước đến vục mặt vào đám đen đen xoăn rối lấp lánh những giọt nước...
Những giấc mơ như giọt sương làm dịu ánh ngày khắc nghiệt. Làm quên đi những lần hút chết, nỗi lo lắng binh đoàn giấu quân, nó cũng khiến Tĩnh như không khi thừa biết trong cái hốc nào đó, Tuấn đang làm gì với cô dân quân mình trắm bánh chưng. Hồi ở doanh trại nhìn lính trẻ sáng dậy lòng khòng “đi tìm chổi” Tĩnh đã rất buồn cười, mà giờ đây nửa đêm, trong hầm, thèm vợ đến nóng dẫy, anh phải ghì chặt đống ham muốn cứ trỗi dậy. Ôi giời, Hợp trần truồng, cuống cuồng, đâu có ra cô trí thức vẫn làm anh tự hào.
Chuyến đi nguy hiểm này dính chút hơi mái vào, không ngờ làm Tĩnh chơi vơi, đêm đêm hụt hẫng “tiếp đất” không vững chút nào. Những mình trắm mật mẩy. Những tóc rụng xơ xuộm kinh nguyệt tắt. Những má xạm gót nứt mà múi to múi ngỏ ngần ngật … Đồ ngu, quân hại thủ trưởng, càng che nó càng lấp lánh con suối.
Nhất là cái mồm thằng Tuấn bảo con y tá dân quân “hôm qua thủ trưởng anh lên cơn sốt mà em lục lọi khiếp quá”. Thảo nào đang rét run mà chỗ ấy của anh lại ấm ấm. Đồ mất dậy! Quân thảo mai! Lúc mình tỉnh nó xoen xoét hôm trước có hai mẹ con đi lạc vào trận địa thằng bé xinh ơi là xinh bọn em cho ăn đường với lương khô rồi thi nhau sờ chim đứa nào cũng bảo của tao của tao. Liệu nó có bảo của mình giống con giun chết? Người ốm không dậy được cười khùng khục nghiêng hầm.
8.
Nhiệm vụ hoàn thành. Trên cử một đoàn xe tải vào thử, tất nhiên ngày đi đêm nghỉ. Khỏi phải nói sự gieo neo của quân và dân Thanh Hạ khi chín cỗ đại xa bắt đầu lăn trên đất huyện. Những mệnh lệnh thay đổi liên tục. Quân kéo vào rồi lại kéo ra, đều để nghi binh. Nhà cửa, giường cưới, cánh cửa lớp mẫu giáo tháo xuống. Những chàng nàng chưa kịp buông lời đã phải lao đi xoá giấu vết. Sau này, sau bao nhiêu năm, đã ở ngôi bực tót vời, ông Tĩnh không hiểu sao tất cả những hy sinh anh hùng ấy đều chỉ hiện lại lờ mờ. Còn sót lại, rất rõ, là tiếng hô trong tối xẫm của Thim: “Xe đến rồi. Ra vác đạn các o ơi!”.
- Đạn đâu mà vác. Chỉ có pháo thôi. Bọn anh mỗi thằng mỗi khẩu. - Giọng đàn ông vạt vào đêm.
Quần quật, huỳnh huỵch, rồi tất cả chìm vào giấc mê mệt, thây kệ ngày mai ai mất ai còn, chúng nó có phát hiện được gì… Nhóm trinh sát chiến lược của Tĩnh sẽ di chuyển vào trong, nơi rừng rậm muỗi vắt kinh khủng hơn. Và có thể trong vài tháng tới không còn gặp dân, gặp thì phải giấu mình thật kỹ. K., cái căn cứ lớn trên định nhổ bất ngờ làm thay đổi một tương quan trên chiến trường đã sắp ở gần quá rồi. Trong đêm, những người lính dầy dạn không nghĩ đến những gì đang đón họ. Nghĩ mãi rồi, quên rồi.
Hai ngày sau máy bay trinh sát địch quần y ỷ, nhưng bom đạn thì không. Xe cộ giấu thế là ổn, đám lính lái sinh hoạt rất có kỷ luật, cứ thế này có thể kéo cả binh đoàn vào được. Nhưng không có dân, chỉ độc trung đội của Thim thì “gãy lưng” mất. Chỉ ướm trước được đến thế, vì trên đã lệnh tốp của Tĩnh vào sâu hơn, sát chân căn cứ bộ tổng định “hót” bất ngờ.
Đang riu riu trên sạp nứa thì có tiếng bước chân bên ngoài. Ngọn đèn bão chập chờn một cô Thim cứng cáp, tóc xơ và thưa, quần ống xắn ống không, nách áo xẫm cả mảng.
- Mai các thủ trưởng đi hè.
Thim dựa khẩu súng vào vách, ngồi xuống sạp, toả ra mùi chua chua ngầy ngậy làm Tĩnh choáng váng.
- Ừ. Đời lính nay đó mai đây… - Nhận thấy mình đang “mềm yếu”, Tĩnh cố tự chủ, chuyển sang những câu cần thiết phải nói trong tình huống này, tuy anh đã nói ban chiều – Trong những ngày qua đoàn đã được trung đội dân quân các o giúp đỡ rất nhiều. Không có thì không biết xoay xở ra sao nữa. Nói cảm ơn thì không đủ, chúng tôi rất nhớ, và sẽ báo cáo cấp trên để biểu dương khen thưởng trung đội o Thim.
- Nhiệm vụ mà thủ trưởng, chúng em chỉ biết hết sức mình. Có gì khuyết điểm mong đoàn thông cảm.
- Có gì mà phải thông cảm, Tính ngạc nhiên. O nói làm tôi áy náy…
- Thì là cái việc hôm đầu o nớ giăng mắc với anh bộ đội, rồi bệnh lây cười, chị em có lúc không làm chủ được mình trong quan hệ. Thôi, thủ trưởng đi ngủ lấy sức mai hành quân.
Thim đã với cây súng, thì bất ngờ cái mùi kia lại quất vào óc Tĩnh, đòn mạnh chí tử. Anh chồm dậy kéo cô đổ xuống. Họ vật nhau trong căn hầm chật chội, dúi mũi vào nách áo đẫm mồ hôi, mồm chun lên ngột ngạt, tay gạt tay, chân lùi dúi dụi, nhưng tịnh không kêu. Rồi cuộc đề kháng tắt ngấm, mặc cho đôi tay đàn ông lục lọi. Không thể dìu dặt, Tĩnh phủ lên cô những cuống cuồng nóng dãy, nhưng tấm thân thênh thang trắng loá vẫn cứng quèo, dù rất ấm nhưng không thể gọi là cộng hưởng. Anh đã tắt rất nhanh, hổn hển lăn ra sạp, ngượng ngùng đôi chút nhưng lập tức kéo bễ.
Chả biết bao thời gian đã qua, thân dưới Tĩnh lại nóng lên vì bàn tay chà đi chà lại, cả dìu dặt lẫn mạnh tợn. Thim thành phe chủ động, lên trên anh, hít hà, hổn hển, tham lam đòi rút hết tuỷ. Tội nghiệp anh lính chiến, sức vóc bao nhiêu đã dốc cả cho những ngày qua. Giữa bóng tối đen kịt chợt bật lên tiếng khúc khích, người này lan sang người kia, làm đêm man dại loãng đi một chút.
- Thủ trưởng đi hè!
Trong những tia sáng đầu tiên của ngày rọi qua cửa hầm, Thim đứng vấn lại tóc, tay ve vẩy cái chun, những bộ điệu thật đàn bà. Cô trung đội trưởng khắc khổ gương mẫu vụt biến mất, chỉ còn tấm thân cao, thẳng như dóng tre bánh tẻ đang khoác lại khẩu súng. Từ đôi mắt sâu chảy tràn xuống dòng ánh sáng chan chứa phả phê. Cái hình ảnh ấy, của hạnh phúc, Tĩnh biết mình sẽ đem theo xuống dưới mồ.
Chuyến vô trong rất không may mắn. Dọc đường, y tá, nuôi quân, trợ lý tác chiến lần lượt nằm xuống. Không có dân, bộ đội địa phương yểm trợ, với sự lì lợm chưa từng thấy, những người còn lại vẫn nắm được bố phòng của căn cứ K.
Trở ra hậu phương chỉ còn Tĩnh và trợ lý bản đồ, cùng những tài liệu trả bằng xương máu.
Nhưng K. cũng không tồn tại. Còn thế nào được, khi bộ tổng tập trung một lực lượng lớn cả quân số lẫn hoả lực quyết tâm “nhổ”. Địch bất ngờ, các căn cứ xung quanh muốn ứng cứu nhưng sợ mình cũng mất luôn. Con đường ta mở từ Thanh Hạ ngoằn ngoèo, thắt như ruột gà ngày cũng như đêm rung bần bật nhưng dai nhách, thông được vào một vùng rộng lớn có dân và những cơ sở cũ. Chiến dịch thắng lợi, trung tá Tĩnh về một cơ quan tham mưu cấp cao hơn, nơi anh lãnh những nhiệm vụ gian nan chẳng kém, cùng những cơ hội được vua biết mặt chúa biết tên.
Chiến tranh lớn kết thúc rồi đến vài chiến tranh “nhỏ”, rồi công cuộc xây dựng. Là người lính thật sự, Tĩnh “húc” hết, từ kiểm tra tuyến phòng thủ đến làm đường chiến lược cho kinh tế vừa cho quốc phòng, luôn luôn ở các vùng biên giới. Từ đó đến vị trí bây giờ thì cứ tằng tằng mà tiến, không phải lanh lợi thăm thú kết giao nhiều quá. Đơn giản là Tĩnh có cái người ta cần, và công lao, thứ mà ông luôn biết có xương máu những người đã cùng đi với mình góp vào. Hoà bình về, vài lần công tác, ông ghé vào Thanh Hạ, tìm không thể ra khu rừng ngày ấy. Kể lại, thì người ta bảo các o dân quân lừa anh, làm gì có cây nào là nhọ nhẹ. Trí nhớ bội bạc, và mình cũng bội bạc như sự bội bạc của cậu trợ lý bản đồ - không còn giữ được tấm bản đồ đánh dấu những cao điểm xưa.
Giữa những săn đón chăm sóc thủ trưởng trung ương về thăm lại chiến trường xưa của cán bộ Thanh Hạ, ông có những ngơ ngẩn xuất thần, uống nhiều và mệt cũng rất nhanh. Quay lại với kỉ niệm là cái đoạn con người ta oải, muốn nghỉ rồi. Năm sau. Không, vài tháng nữa thôi, nhiệm kỳ của ông kết thúc. Tổ chức đã nhắm người khác, và ông cũng muốn buông. Buông là phải, những quan hệ dân sự làm anh đàn ông cả đời làm lính chóng mặt rất nhanh. Giai đoạn “hạ cánh” có chức năng chuyển giao là chính, nên ông có nhiều thì giờ. Tĩnh không thích viết hồi ký, thấy những người ấy hay “nhớ lại những điều chưa từng xảy ra”. Ông cũng đã quên nhiều quá. Giờ là lúc sống lại. Nhưng ký ức lại tàn nhẫn xoá đi nhiều quá, chẳng hạn ông không thể nhớ mình đã ra khỏi chiến tranh như thế nào, cảm giác đầu tiên về thành phố miền Nam đầu tiên mình tiến vào…
Lại có những câu hết sức “vớ vỉn” như cách bọn thanh niên con ông nói bây giờ, thì gột thế nào cũng không đi. Trong một thị xã bị tàn phá, bà cụ nhai trầu bỏm bẻm ngắm ông bảo “Chú này có chữ “Thọ” sau lưng. Rồi sẽ lên rất to”.
Và Tuấn, cậu trung uý nhỏ nhắn rắn đanh. Ngày rời khỏi căn hầm “với Thim”, Tĩnh đã hành quân theo cái cách không ngửi được, luôn tụt lại dù mang nhẹ nhất. Nheo nheo cặp mắt soi mói, Tuấn tửng tửng “Đầu gối thủ trưởng có vấn đề rồi…”. Đúng là dân trinh sát. Kệ mẹ mày, tao đang ngất ngây con gà tây đây, Tĩnh cười trong veo, đủng đỉnh đi. Hết chiến tranh ông về nhà Tuấn, không kể chuyện con của mẹ đã lĩnh nguyên một quả mìn trong hàng rào ở K.
9.
Việc nặng tình với ký ức phả phê dưới hầm dục Tĩnh chiều nguyện vọng của Thanh Hạ. Bao năm nay, giữa những lý giải rõ rành được về chiến tranh, binh nghiệp, cuộc sống bình thời, ông phải dừng bước trước bao câu hỏi khác, dù nhỏ nhoi thôi nhưng bao nhiêu là bí mật.
Như về Tuấn, đã mất mà còn làm Tĩnh không thôi ngạc nhiên vì lòng yêu đời không bao giờ cạn. Những câu chuyện đực cái kể giữa hai trận bom, những phát hiện về em ấy em nọ hé mở cho ông một nguồn mạch khác, khiến khi nghĩ về nó, ông thấy mát lành, đỡ đi những áy náy trong công việc, quan hệ trên dưới. Như về các o dân quân cười không thể dừng. Bệnh điên tình dễ lây.
Và tất nhiên, về Thim, sao lúc đó bỗng đẹp rực rỡ. Cả ông nữa, mắt mũi tay chân, tất cả các bộ phận của cơ thể của ông đều “nói” khi hoà vào cô, nhưng cả hai đều không ra một lời nào, là làm sao? Bao năm nay ông tự hỏi nếu mở mồm thì sẽ là câu gì, đều không ra. Có người vợ đẹp đẽ, trí thức và đàn bà đều đến nơi, ông chưa từng khao khát một ai khác, nhưng đã không thể quên những ấm nóng dúi dụi dưới căn hầm xưa. Không ít lần, giữa những lớn lao tót vời, ông tưởng mình bắt lại được cái mùi chua chua ngầy ngậy nọ, rồi buồn rầu thấy nó lẩn mất. Đúng ra thì là ông không bắt lại được nó.
Với sức tác động lớn từ Tĩnh, cơ quan duyệt cấp bằng di tích chiến tranh cách mạng nhanh chóng làm việc với huyện Thanh Hạ. Dù chưa thuyết phục lắm, sau vài lần bổ sung gọi là, hồ sơ xếp hạng được thông qua với chữ ký của thứ trưởng phụ trách di sản. Rắc rối cũng có, như khi người trợ lý bản đồ cũ hỏi Tĩnh sao lại lấy thôn Ba thị trấn huyện làm điểm khởi đầu cho chiến dịch đánh K.? “Thì nó bắt đầu cho giai đoạn đánh lớn. Còn những nơi người đi trước bắt đầu cuộc gùi thồ vũ khí vào trong ta cũng không quên, nhưng địa phương lại chưa đề đạt”, Tĩnh giải thích. Vài ba tờ báo đăng thắc mắc về điểm khởi đầu chưa thuyết phục, sau vài nhắc nhở nội bộ liền tạnh. “Lịch sử phải luôn luôn được viết lại”, kinh điển nói thế cơ mà, ta cứ “viết đi” cái đã.
Một tượng đài hoành tráng dựng lên giữa thị trấn Thanh Hạ, nơi mấy con đường cắt nhau, đắp nổi nữ dân quân vác đạn, lính tráng các binh chủng, cả tên lửa, xe tăng, pháo phòng không. K. là chiến dịch hiệp đồng binh chủng, mở thông huyết mạch vào một vùng rộng lớn sau lưng địch kia mà. Bên cạnh là nhà lưu niệm, tất nhiên phải có xẻng cuốc đào hầm, mũ sắt, dù pháo sáng, nhưng con người thì không được cụ thể mấy. Lèo tèo vài tấm ảnh, loại tìm được ở bất cứ bảo tàng nào. “Huyện nghĩ đến việc xin công nhận di tích khi chiến tranh qua đã lâu, những nhân chứng vật chứng, rất tiếc là không còn tìm được”, bí thư Thanh Hạ áy náy nhận trong lễ khánh thành di tích.
Hôm ấy cả nhà Thông có mặt. Về quê trong ngày vui, để cho thằng Tùng biết thế nào là quá khứ vinh quang, dĩ nhiên. Và vì lời biểu dương của ông Thọ: “May là họ ta có cô dâu Thắm lắm quan hệ”. Ngày ông Thọ với ông Mật ra dầm dề ngoài Hà Nội, hết họp đồng hương quán triệt tới tong tả chạy cửa này công đường nọ mà không ăn thua, đã nản lắm. Đến lúc chán chả buồn nói thì Thắm “đánh rơi” mối liên hệ đến thư ký ông Tĩnh. Ở nhà thì tằng tằng nhì nhằng tròn vai, nhưng đến cơ quan, Thắm là một đấng “siêu thủ trưởng”, tết nhất thay mặt sếp đem quà đi biếu đủ các cửa. Đang tuyệt vọng mà lại vớ được cái cọc, trúng phóc. Đâm ra sang vì vợ, Thông nghĩ mình có nhẽ phải đi xem tử vi có thân cư thê không.
Buổi lễ diễn ra như thường thấy. Diễn văn tưởng niệm của bí thư nhấn mạnh Thanh Hạ có thế mạnh về chính trị, sẽ đi lên từ truyền thống của quá khứ vẻ vang, hy vọng các đoàn du lịch lấy cụm di tích làm điểm nhấn, mang lại công ăn việc làm và nguồn thu cho huyện. Các o áo dài bưng khay đựng kéo cho quan chức cắt băng khánh thành. Máy ảnh máy thu hình điều như chong chóng. Trong số đại biểu các ban ngành trung ương, tỉnh cùng về, tiếc rằng không có người có công kiến tạo tương lai tươi sáng ấy. Tĩnh gửi thư ký mang lẵng hoa về chúc mừng. Rất bận, hẳn thế. Và vì cả cái hội chứng chiến tranh chẳng giống ai của ông.
10.
Nhà Thông rồi tất tả về Bùm. Ngày tốt khai trương di tích cũng là ngày khánh thành đình thôn. Nhỏ nhắn, không hoành tráng nhưng tử tế, từ xa, nó đã đem lại cảm giác quen thuộc, với bộ mái xà xuống thấp, những bức tường xây gạch già để mộc. Cây đa còn non bắt đầu xoã xượi bộ râu, hứa hẹn một sức sống khoẻ khoắn. Bên trong thờ Phật, Thánh Mẫu, riêng ban giữa, bài vị trên ngai còn chưa viết gì. “Còn phải cử lại Thành hoàng chú ạ. Đuổi đi rồi, nay vời lại không biết các vị còn về…”, ông Thọ trầm ngâm trước câu thắc mắc của Thông.
- Mà cũng không biết các vị tên tuổi công tích thế nào, vì bài vị xưa đốt tiệt. Thành thử ngay cả hô thần nhập tượng cũng không biết hô thế nào. Tượng Thành hoàng chưa có, ngôi Nghìn mắt nghìn tay cụ tôi giấu, tôi đào lại dưới búi tre ông Đà.
Ông Thọ nói thêm. Ông bận áo the khăn xếp mới, chân dận đôi dép lê tổ ong rung rúc, thằng Tùng bảo trông chả giống ai nhưng lại cứ thích đi theo.
Ngày trọng. Việc trọng. Các cụ khăn áo tề chỉnh, ăn nói can hệ, nhưng phải cố giấu vẻ rầu rĩ. “Cũng là vì trùng dịp khánh thành di tích trên huyện, các ban ngành đều tất tả trên ấy nên chả ai về”, lại là lời giải thích của ông Thọ. Nhưng Thông thấy chả sao. Đình là đình thôn, dân Bùm từ nay đã có chỗ đi về, chả phải họp hành bình bán nhau chỗ nhà văn hoá cộng đồng vừa lạnh vừa lạ thế nào. Rồi sẽ đào ao mắt rồng, trồng thêm gốc đại gốc đề, xây tường cho trẻ khỏi lùa trâu vào. Rồi sẽ vận động con cháu đi xa góp những cuốn thư, câu đối, bức hoành, cả tượng nữa… Bao giờ có lên có thể làm cả hai dãy tả hữu vu. Đấy là những việc phải lo, nhưng ngày rộng tháng dài, khắc tự thân khắc lo được. Làng nghèo, chịu vậy. Có điều nghèo quá thanh niên bỏ đi hết, người ở lại rất lo khi chết có được mấy mống đưa…
Bên gian thờ Phật, các vãi xếp bằng kể hạnh, bắt đầu ngượng ngập vì bao năm chả ề à, rồi dần có đà, lời lẽ sinh sôi ra. Thông ngạc nhiên thấy Thắm và cả thằng Tùng xà xuống chiếu các vãi, ngồi nghe không thôi nhưng thành kính, thỉnh thoảng xua ruồi bâu trên phẩm oản khoanh khoai. Anh đã và sẽ còn góp tiền về công đức cho ngôi đình ấm áp của mình, của dân Bùm mình. Và không bị Thắm kèo nhèo cho chỗ không đáng, hẳn thế.
Lễ “hạ” ngôi đình đơn sơ, thủ tục giản tiện bởi các cụ, tự làm lấy theo lối vô sư vô sách, đã quên tiệt những lề thói quan viên xưa, không có cả tượng để hô thần nhập vào. Nhưng ai nấy thành kính. Đều là ở chữ “Tâm” thôi.
- Sao không thấy bác Mật? Nãy trên huyện em cũng không thấy, tưởng đang ở làng…
Nghe Thông hỏi nhỏ lúc đợi cỗ, ông Thọ trầm ngâm rồi nhỏ nhẻ: “Là bệnh tư tưởng. Lúc nãy trên huyện chú có thấy rước tấm bằng di tích chỉ là bản phô tô thôi không? Ngày chạy được bằng, bác ấy khai quà cáp tốn kém, tổng chi ra bốn triệu, nhưng huyện chỉ thanh quyết toán có hai triệu rưỡi. Bác ấy tức mình chỉ đưa ra bản chụp thôi, còn bản chính còn giữ trong nhà. Mà tay bí thư cũng tệ, chạy xong xuôi rồi quyết bác ấy phải nghỉ hưu đúng tuổi”.
Ông Thọ hỏi “cũng không có trên huyện à?”, rồi lầm bầm: “Hội các cụ cũng vời ra việc làng đấy, nhà người không ra chả biết là vì sao. Tôi đoán bác ấy đang công tác, khăn xếp áo the không tiện, thôi thì lúc về hưu lại áo the khăn xếp vậy”.
Việc làng việc họ với lại việc huyện té ra là còn rất ngổn ngang. Nghèo kiệt, trống toang, ngơ ngác, và run rẩy khi bị hò đóng góp, nhưng dân gian lại có vẻ yêu ngôi đình, rộn rịp đi lại xúng xính thưa thốt. Thế còn với anh thị dân lúc nào cũng toan tính tất bật thì sao? Có lẽ nó sẽ níu giữ ta, cho chút tĩnh tâm giữa ồn ào tranh chưởi, sẽ làm vợ con ta muốn về, dù chỉ để chơi thôi. Những ý nghĩ làm Thông thấy chóng say hơn, và vì ngoài kia, ngoài trời, mưa lây phây làm lá với râu cây đa tơ thẫm lại.
Nguồn: HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM - phienbancu.vanvn.net
http://phienbancu.vanvn.net/News.asp?cat=33&scat=&id=2286
http://phienbancu.vanvn.net/News.asp?cat=33&scat=&id=2321
http://phienbancu.vanvn.net/News.asp?cat=33&scat=&id=2333
Bácbara kiêu sa (Như phim)
Trần Chiến
Đu đưa trên đôi chân dài đi giày cao gót vàng, cô gái bay lượn từ lũ áo dạ hội sang đồ lót thêu đăngten. Hông rất dẻo, tay đánh thõng ra tận đít, lại thêm một “đặc điểm nhận dạng” nữa: kiêm người mẫu. Người mẫu lướt cái nhìn qua tôi như qua bộ ấm chén, “yết kiêu” ra gì. Ngược lại, tôi điểm qua cái eo thon, đoán rằng bộ ngực có tý mút rồi trở lại với Pie. Chả phải không thích ngắm mà là một thủ thuật, không vồ vập để khách thấy mình cũng “cành cao”. Tôi “tia” rồi, ví đính dây dài khoác vai dù mác Lui Vúttông cũng chỉ là hàng Tàu, cùng lắm trăm rưởi bọ.
Đong đưa mãi cũng dừng chỗ tôi. “Anh có thể tư vấn cho em được chứ?”, rất đúng điệu. Tôi làm bộ sẵn sàng nhưng cố để lộ tẹo miễn cưỡng.
- Cô biết mình muốn gì chưa?
- Em không rõ lắm. Em sắp đi một dạ hội, có khách nước ngoài, vài đại gia, đại loại là những người khó tính.
- Em làm ở đâu?
- Em là Ngân đến từ Công ty Luni Livơ, anh biết chứ?
Luni Livơ là công ty mỹ phẩm nổi tiếng, ai lạ gì. Nhưng cái lối hỏi coi thường làm tôi cáu tiết. “Thế mà tôi cứ tưởng cô đến từ Chà Coong”.
Đòn mạnh làm mặt phấn đỏ gay. “Ơ, sao anh biết?”.
- “Chà Coong xì sẳn, sảm huôi”, bản em bốn gò ba suối chứ đâu. Anh đây Chà Me, em đái xuống Nậm Phơn là anh được uống.
- Khổ thật, em đã cố giấu mà anh vẫn đọc ra vở.
- Ai bảo pha tiếng, quá bằng chửi cha. Chắc em được ra nước ngoài thì không nhận mình người Việt.
- Sao anh biết em muốn ra nước ngoài?
- Đoán thôi. Mặc đẹp chắc muốn câu thằng Tây già…
- Anh ác thật. Mà chắc anh cũng muốn được con nái xề giầu có.
Lần này thì Ngân nói đúng, chắc bộ điệu nó tố cáo tôi. Nên câu chuyện trở thành giản dị, sau khi cho nhau biết tên thì đổi sang tiếng Thái. Bản cô phía nguồn Nậm Phơn, chỗ từ Lào chảy sang, phát nương trên đồi, quăng chài dưới sông, giữa thi thoảng có mạch vàng, nghĩa là không thể đói. Nhà còn bố mẹ và em trai, phải đi thế này phải xinh đẹp thế này là có chuyện gì, tật gì rồi… Tôi ở chỗ Nậm Phơn pha nước vào sông Cà, vùng bán sơn địa chó ăn đá gà ăn sỏi, trồng sắn mãi càng gầy kiệt, mấy năm nay phủ keo, mỡ vào mới mọc lên đôi bụi cỏ. Tôi theo anh Khảm làm phụ hồ từ mười lăm tuổi, hát “đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn” đến lúc anh Khảm bảo mày thế không làm phụ được. Bắt đầu quăng thân vào gió bụi, kể ra thì rất mất thì giờ cô bé ạ, đại loại trước Tết về quăng cục tiền cho mẹ rồi lại đi, có khi về không.
Hai đứa buôn ề à. Đồng hương gặp nhau đáng phải vui, nhưng vì đang diễn vở mà bị đọc vị nên ngượng chứ. Càng ngắm tôi càng thấy Ngân đẹp, eo thắt, lưng mềm cong cong như con ong chăm chỉ. Con gái Chà Coong đâu có giống da trắng thế, chỉ tội lông mày tỉa kỹ quá khí trơ. Nhưng bì thế nào được với Bácbara.
* *
Tôi biết Bácbara năm ngoái, khi cô dẫn về cửa hàng thời trang. Nhưng phải kể lên đoạn trước đã. Hết đời phụ nề, tôi đưa bún, buôn gà chó, có lúc nằm kho vì cắt trộm cáp điện, rồi lại đánh thuê cho các đội bóng chuyền nghiệp dư khi có giải của ngành bưu điện hay ngân hàng gì đó. Thủ đô như cái chảo khổng lồ, hành mỡ thịt chó bánh chưng nhân mắm tôm vứt vào đảo lên ăn được tuốt. Vận tôi sang quý dần, đang phập phù đi dán tờ quảng cáo thông tắc bể phốt thì thằng Tá bảo mày mét bảy lăm, người dẻo thế sao không vào vũ trường. Kể tôi cũng có khiếu nhảy múa, có lẽ vì thuở bé dập ống bương xuống sàn ngọ nguậy suốt đêm quen, nên một tuần thuộc bốt tông, hai tuần thạo cha cha cha, hết tháng đã quay van ngược thuần thục. Sàn nhảy xanh đỏ đèn quay, rất thơm, mồ hôi quyện với phấn, chả ai ngửi ra mùi gà mùi trại ở tôi. Các cô trẻ đến thường có đôi và “giãy” sành điệu rồi, các bà cô là phần của trai nhẩy, cứ dìu dắt tận tình, đúng nhịp chưa cần đẹp là có thưởng. Tôi không làm trai của riêng ai, ai gọi là ra, nhờ vậy mà tránh được cái lối sở hữu, tuy có thể kiếm nhiều hơn nhưng ối phiền phức. Chảy máu có khi!
Rồi cô gọi tôi ra bảo về làm riêng cho hiệu thời trang thu nhập còn hơn đây. Nhân viên toàn nữ: Ônga tóc vàng rơm, Mácgarít quăn dính lấy da đầu, Mađônna tròn mẩy, ai cũng cao lớn, ít lời. Mình mình đàn ông, kể chọn lựa cũng sướng. Nhưng khi cô giới thiệu Bácbara thì ý nghĩ ấy tắt ngay, tuy chưa biết vì sao…
“Để xem em có duyên bán hàng hay không rồi sẽ tăng lương…”, cô bảo tôi, thay đổi cách gọi. Công việc không tốn mồ hôi như ở sàn nhưng phải dẻo mỏ, mách bảo khách thật “máu” chọn hàng, với người tinh tế lại hờ hững, chen vào hăng quá họ chán. “Tư vấn là nghề tâm lý mà. Nhưng em đừng lo, cứ xem các sâu truyền hình và tạp chí thời trang là sẽ vỡ ra”. Tôi lo đâu mà lo. Đang quay cuồng nhễ nhại mà được ngồi xem tivi lên mạng suốt ngày, có khách mới phải đứng dậy, khéo béo hú con lợn mất. Tôi sẽ ngủ chung với nhân viên, đỡ hẳn tiền trọ, sáng tối quét dọn đóng mở cửa, việc hàng ngày hàng mùa họ mặc gì không mặc gì là của cô. Cứ biết thế đã.
Đêm đầu tiên, tôi duyệt đàn tiên của mình. Ônga đẹp lộ liễu, Mácgarít nhìn một lúc ra mũi hin. Mađônna hứa hẹn dục tình sôi nổi. Nhưng khi giáp mặt Bácbara thì tất cả tan biến. Làn da bánh mật, tầm vóc vừa phải, tóc đen, nghĩa là chả khác đàn bà ta mấy. Nhưng có cái gì đấy trong cái nhìn vừa quen thuộc vừa bí ẩn, trong bộ điệu ngập ngừng. Lúc nào Bácbara cũng ngập ngừng, chả ra lời bao giờ mà cứ như hứa hẹn, lại như sắp từ chối, đẩy mình ra xa. Khi tôi nói điều ấy với nhà tạo mốt thời trang tư vấn cho cô, ông ấy bảo có lẽ đó là hiệu ứng “Người đàn bà xa lạ” hay La Giôcông gì đấy. Tôi nào có quen biết đám ấy, chỉ thấy thích, bị hút vào Bácbara thôi.
Nàng thật mạnh mẽ, xải những bước dài, dứt khoát trên sàn diễn thời trang. Ánh sáng dập dìu trên đầu, đôi mắt đang tối thẫm thoắt chuyển sang lai láng rực rỡ. Rồi nàng bước dưới nước lên, những hạt óng ánh trượt trên làn da láng phủ lớp lông tơ nâu nâu. Lúc khác, nàng là công chúa chạy trong rừng thưa, hoàng tử tôi đuổi theo, tóm được nàng sau một thân cây. Chúng tôi hôn nhau say đắm… Những hình trôi ru tôi ngủ quên tắt tivi. Sáng ra tôi dậy sớm được, dọn dẹp hàng họ kịp nhưng cô bảo tivi còn ấm đấy sau không được ngủ muộn, giọng chẳng gay gắt.
Đêm thứ hai tôi tàn bạo khám phá. Mađônna vú bánh dầy tròn trịa. Mácgarít chũm cau thanh thoát, Ônga núm còn hồng. Nhưng tới Bácbara thì chịu. Đang mùa hè, nàng chỉ áo hai dây màu cánh sen quần bò mài, mà khiến tôi không sàm sỡ. Không phải sợ ăn tát đâu, chỉ e nàng sẽ không bao giờ mở lời nữa. Ai thế, ai gieo vào đầu tôi hy vọng rằng đến một hôm nàng sẽ nói những lời yêu đương. Cho mày chứ còn thằng nào!
* *
Sang tuần thứ hai cô đến buổi tối, lúc tôi mắt lướt oép mắt canh tivi. Xem xét chi thu sơ sài rồi cô lên gác, ới tôi mang cho bộ bikini mầu đỏ tái trong ngăn kéo thứ ba tủ bên phải. Tôi chả lạ gì những trò dâm ô nên lột phăng ngay hàng họ ra dúi vào. Xong xuôi rất nhanh, cô có vẻ thất vọng, chớp chớp hàng my xanh lơ: “Anh không thể ngập ngừng, lãng mạn hơn à?”.
- Thì cô thuê cháu chỉ để làm việc này còn gì.
- Làm việc gì thì cũng phải có phương pháp. Mà còn cô với cháu gì nữa, chỉ là trước mặt người lạ thôi, em nói thế anh có hiểu không?
Tôi hiểu ngay, đóng vai người tình mê văn mẩn say thị đắm. Cô khen “có thế chứ”. Tôi được thưởng sau mỗi lần mệt mỏi, có tiền dúi về quê cho mấy cái tàu mồm há không bao giờ đóng lại được. Nhưng lại hờn dỗi với Bácbara. Những lúc ấy, sao nàng không chạy lên cản lại để con nái xề khỏi giúi vào ngực tôi thổn thức “em thiếu tình cảm lắm”. Cô tàn nhẫn lắm, biết không Bácbara?
* *
Ngàn (tôi đã biết tên thực của Ngân, cũng như cô giờ gọi tôi là Phủng chứ không phải Phong nữa) trang điểm sơ sài, cổ áo loe xoe đống đăng ten, rõ ra con ở mặc áo chủ thải ra. Đi lại chán, không thể dứt được tủ áo tủ váy tủ giày tủ đồ lót, nó ngồi xuống ghế nệm bắt chéo hai chân hệt “em xy” trên vô tuyến. Và vớ một tạp chí thời trang nghiên cứu truyện diễm tình - thể nào cũng có bờ vai bờ môi nước hoa chanel 5 và hoa tặng ngày valentin. Và mưa, thiếu thế nào được.
- Em chưa được ai tặng chocolate với mời uống caphé cả.
Ngàn tuyên bố rồi bất ngờ chấm chấm mắt. “Yêu nhau dăm năm trời rồi bất ngờ chia tay thế này, em thương lắm”. Cái lối mủi lòng bất ngờ làm tôi điên tiết: “Đã bán chôn mà còn…”.
Ngàn thỉu đi như bị cú đánh ngang người, một tẹo nổ “oành”:
- Đồ đĩ đực!
- Đồ đệm thịt! Chăn ba bẩy độ!
- Thằng chó! Mày thế nào chả phải khen con chó cái béo hú ấy là người nó chuẩn hơn á hậu chỉ thua mỗi hoa hậu.
Chúng tôi đứng cả lên, đối diện nhau, mắt long xòng xọc, những câu chửi đầy cả mồm không câu nào chen ra trước được. Mắt Ngàn có cái gì đấy làm tôi xụi xuống: “Mày nói đúng đấy. Tao rất hay phải khen nó”. Ngàn bất ngờ dụi đầu vào ngực tôi, tay đấm thình thịch: “Đồ ác độc. Anh ác hơn con rắn cạp nia!”. Tôi chỉ còn biết ôm lấy cô vỗ về “thôi mà thôi mà không thì em lại giống mấy bà thất tình trong báo thời trang báo người đẹp rồi”, đến một lúc thì lần tay xuống dưới.
Chúng tôi vào trong nhau một cách quá đơn giản. Chả có lời lẽ nào, không hôn hiếc, ngay dưới sàn đá, chó đực chó cái cũng chỉ ư ử đến thế là cùng. Cuốn tạp chí bị đạp rách toang. Thật ra tôi không được thoải mái lắm, nhỡ ra cô đập cửa. Bèn bảo Ngàn về lần sau mình đi chỗ khác.
May. Cô đến thật, lúc về nhìn dò xét: “Anh trả bài kém lắm. Hay là mực đổ đi đâu…”. “Ở nhà báo mẹ anh bị bỏng”, tôi nói tránh, “nhưng cũng chưa cần về ngay đâu”. Cô cẩn thận hỏi han mãi mới đẩy xe SH ra cửa.
Người tôi rũ như đem bỏ chảo rang, quắt hơn miếng thịt trâu hong trên bếp ở quê. Đã thỉu đi thì chuông reo, tiếng Ngàn: “Em muốn gọi anh ngay nhưng có khách. Phải tiếp hai thằng một lúc, chúng nó trẻ, mệt quá. Em đi tắm chỉ sợ anh gọi đến. Anh mệt à?”.
- Bà béo kiểm tra sức khoẻ. Không đạt!
- Anh khoẻ bỏ xừ!
- Em tiếp khách bao lâu rồi mà còn “máu” thế?
- Chỉ sướng với anh thôi. Hai thằng rồi bảo em như cục gỗ cục băng cục cứt.
- Có trẻ con à?
- Con chị Hiều, em trông hộ chị ấy đi khách. Thôi em hôn anh đừng bảo em giống trong báo thời trang nhé…
Tôi lê ra quán mua góc chai, khật khừ xem tivi mãi mà không ngủ được. Chợt nghe tiếng hì hì Bácbara bảo: “Tôi rất đẹp hơn hai con kia”.
- Nhưng chị kiêu lắm.
- Chuyện… Làm thế là để cậu còn phải phấn đấu.
- Tôi chả phấn đi đâu hết. Con Ngàn nó đang rủ tôi về.
- Thôi nào. Cậu không thể từ bỏ ước mơ dễ thế. Người cậu rất chuẩn, lên sàn diễn thời trang đẹp, chỉ phải tập cho đỡ cứng.
- Ư... ừ…
- Rồi còn lên phim. Cậu đuổi, tôi chạy vòng qua bụi hoa ba lần thì bắt được, chúng ta hôn nhau hồi hộp, đầy bỡ ngỡ. Bọn trẻ trong rạp phát điên lên tìm cậu xin chữ ký, khối con muốn sờ vào áo cậu mà không được.
- Ờ... ờ…
- Không cần tôi nâng cậu lên cho bằng cho hơn người khác nữa hả. Thôi thế thì thôi về xó rừng thân yêu của cậu đi.
Câu tàn nhẫn làm tôi tỉnh hẳn. Ối giời ơi tương lai ơi đừng bỏ tôi. Nhưng Bácbara đã ra khinh bỉ nhìn tôi như thằng phỗng.
* *
Nhà nghỉ Ngàn hay vào chỉ lấy nửa tiền. Sau cơn mệt mỏi phần tôi là cơn tâm sự bên kia. “Thuỷ điện có lợi đâu đâu, chứ với rừng núi quê em như phải cây gậy ông khổng lồ Ải Lậc Cậc dộng xuống. Lộn phộc lên hết. Bao nhiêu gốc rễ trốc cả. Dân về chỗ mới chật chội, thiếu nương, không có sông quăng chài với rừng măng. Anh nhớ nậm pịa(1) không? Mẹ ốm, bố buồn uống rượu, thằng em dở người. Con gái đi cả. Em là đứa thứ mười chín. Mà con gái Chà Coong đẹp có tiếng, anh biết rồi còn gì”.
- Ờ. Em biết mầu kem dâu thế nào không?
- Anh điếc à? Em bảo này chúng mình về với nhau được đấy. Em có ít vốn rồi, cả hai đều có sức, không ngại làm là sẽ khá. Mà chả ai biết chúng mình đã làm những nghề gì. Anh không ghê em chứ?
- Về với bố nghiện em dở à?
- Ở riêng chứ. Thỉnh thoảng thăm thôi, bố chả xin mà sợ.
- Bácbara bảo anh sẽ đóng bá tước.
- Thế thì đi với cái con chó cái ấy của anh đi, cả con chó cái béo hú nữa.
Tôi không gặp Ngàn nữa. Cô đã đi trại, bị “ết” hay thành chủ cửa hàng may? Tôi đi khỏi quê chả có lý do nào thì có cớ nào để mà về. Trai gái quê tôi đua nhau đi cả, người già ở lại lo đám ma chẳng còn ai theo khóc lóc.
Cô đến, long xòng xọc. “Anh gọi điện nhiều quá. Cái số 09… này một tháng sáu lần, là của con nào? Anh biết tôi kéo anh từ sàn nhẩy về để làm gì chứ? Nếu chỉ trông cửa hàng thì chả đến lượt. Mà lần nào anh cũng như con giun chết, là vì con nào? Con nào?”
- Thưa cô, Bácbara ạ.
- Này Bácbara!
Áo phông kem dâu đứt phựt. Những mảnh nhựa tung toé, rơi xuống sàn nảy tung lên. Bácbara vỡ tan. Cái con manơcanh Bácbara ấy.
Ngàn đi rồi. Tôi ra đê. Chết như trong phim.
(1) Món ăn của người Thái.
Hết
Nguồn: HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM - phienbancu.vanvn.netvanvn.net
Như phim: Báo đại biểu nhân dân
Bay lượn thử nghiệm
Trần Chiến
Bình rơi vào trạng thái bứt rứt. Ngứa ngáy vô kể, trong tâm lí. Như người lở nước gãi nhiều thì trầy da, choét loét, mà không gãi thì hoá phát điên. Là bởi vì chuyện lại đến từ một trong những cải tiến của anh.
Anh đã giãy giụa để làm bớt đi chừng nào những điều anh thấy rất chi chưa ổn trong trường mình, rộng hơn là trong bộ máy giáo dục đang vận hành ngon trớn của đất nước. Cải tiến hay cải lùi chẳng biết, giờ thì điều bất ổn lại tò tò xuất hiện từ người bạn anh quý báu, có chiều nể phục, anh đã cưu mang, che chắn. Mà lại không thể trách móc, đúng ra là khó bề trách móc hắn. Khi xét đoán những trò hắn làm với một thái độ nước đôi, anh không thể không có chút thích thú.
Nhưng anh là hiệu trưởng. Anh phải chịu trách nhiệm.
Tất cả xuất hiện từ một nhận xét của Bình, về tình trạng tồn tại lâu nay trong cái nghề trồng người này. Đó là quan hệ giữa giáo viên, người đào tạo, dạy dỗ, với học sinh, và đằng sau là gia đình chúng. Rất không dân chủ. Giáo viên cứ phán xét, vuông tròn thế nào mặc lòng, không thể cãi. Chẳng đồng ý về một bài chấm sai, về một sự hiểu nhầm ư, cứ là phải dằn lại con ơi, thầy cô ấy thế nhưng lại cho con lên lớp hay không đấy. Và 20 tháng 11, tết lễ cứ phải đến cảm ơn cảm huệ, mong mỏi với quà cáp nữa. Mà thầy cô, anh biết chứ, đâu phải những người máy mẫu mực, với bao nhiêu thiên tính, hay ho cũng hết mực mà hẹp lòng hẹp dạ cũng thật đến độ. Ai chứ anh sao không biết những bực dọc, nín nhịn của phụ huynh đối với cô văn này tìm mọi cách để trò phải đến lớp học thêm của mình, thầy toán nọ ra đề kiểm tra cho một lớp ngoài giờ, chạy xô đến một lớp ngoài giờ khác rồi nhảo về chốn cũ thu bài. Và cô giáo dục công dân cũng chả kém, phụ huynh nào không thăm nom đầy đủ thì giờ hồn môn phụ. Từ cái nhận xét vu vơ tai hại ấy, Bình đề ra một biện pháp: vào cuối mỗi học kì lấy ý kiến của phụ huynh đóng góp cho giáo viên, không cần ghi đích danh. Gọi là để tham khảo thôi. Anh thừa biết những phản ứng của giáo viên. Anh không tôn trọng, không bảo vệ chúng tôi. Anh đánh thức những ẩn ức của phụ huynh, sẽ kèm theo vô vàn đòi hỏi vô lí cho mà xem. Bình vừa làm vừa dò dẫm sự phản ứng.
“Vụ gặt dân chủ” đầu tiên đã kết quả không ngoài dự liệu của hiệu trưởng. Đa số nhận xét thu về trùng với đánh giá về từng người của Bình. Tỷ mỷ cân nhắc, nếu thấy cần, anh tìm cách chuyển những thông tin đến “đương sự”. Những người tìm cách bắt trò học thêm ở lớp của mình phát khùng nhưng giảm hẳn các “thủ pháp” quái quỷ. Người được ngợi khen phấn khởi, càng hết lòng vì học trò. Buồn cười nhất là khi anh tủm tỉm bảo Thư, biệt danh “Bánh chưng” vì vẻ ngoài ục ịch: “Em bảo nhận xét thế này thì chúng nó khó nói quá còn gì…”. Chả là cũng thích biết ảnh hưởng của mình trong học sinh, Thư cho chúng nó viết “ý kiến “ về mình. Phiếu thu về có hai lá làm Thư nổi giận khi tả cô là “thanh mảnh”, “nhẹ nhõm”. “Em không thật thà!”, cô lôi đình làm hai đứa sợ hết hồn. Đúng là chúng nó không thật. Nhưng đa phần không đả động đến dáng vóc cô thì có thật không? Chúng nó làm sao tìm được hai chữ “đầy đặn” để thế cho cái ấn tượng “thùng phi di động”?. Mà Thư, thì còn bao nhiêu tai quái, hạn hẹp nữa chứ. “Làm vừa lòng cô mà vẫn giữ được trung thực không dễ đâu!”, Bình mới nói có thế mà Thư đã có vẻ chịu.
Điều không ồn ào, chỉ xuất hiện trong lá phiếu, nhưng làm Bình thú nhất, là về Toại, thầy dậy văn. Toại được khen vì cách dậy gợi mở, đặt những câu hỏi để trò suy nghĩ rồi cùng nhau đối đáp, xây dựng bài. Anh không áp đặt các nhận thức cần thiết vào học sinh, nhưng lại khiến chúng tự rút ra những điều ấy, để rồi không quên nữa. Cách cảm thụ về nghệ thuật cũng tinh tế. Trò thích giờ thầy Toại vì không phải chép nhiều và học thuộc lòng như nhai rơm.
Cách đây ba năm, về một chốn xa xôi, Bình gặp lại Toại, đang dậy lớp chuyên văn ở trường tỉnh. Hồi ở trường sư phạm, Toại học không giỏi nhưng tỏ ra nhiều sáng tạo, có những ý kiến rất độc lập. “Tớ muốn cậu có chỗ thi thố, đây dù sao cũng là tỉnh”, Bình cám cảnh nói, cậy cục lôi bạn về với mình. Và bây giờ anh phấn khởi là phải. Ông bạn lơ mơ, có vẻ ít chú ý đến mọi sự bên ngoài ấy chả mấy lúc khẳng định cách nhìn người của Bình. Tổ văn vớ được người tài, sang năm thứ hai đã cử Toại dậy lũ học trò giỏi đi thi quận, lèo cả giải thành phố. Trường có giải thì tín nhiệm tăng, quận được sở đánh giá cao hơn, tức thị hiệu trưởng là tay già, và hẳn nhiên cái tiếng lôi người về kết bè cánh trong hội đồng là thị phi, vô cớ rồi.
Đợt thu phiếu nhận xét cuối kỳ hai đang làm Bình đau đầu. Điều tệ hại nhất không phải là dẹp yên những hệ luỵ của vụ việc trước mắt, mà nó đặt ra cho anh câu hỏi: có nên tiếp tục cuộc thử nghiệm dân chủ này không, có nên bỏ cuộc thử thách giáo viên đi chưa? Tức thị, đặt lại, đúng chỗ cũ, học trò và cha mẹ chúng vào cái thế chỉ được nghe chứ không được nói như muôn đời. ác nhất là nó nẩy nòi từ Toại.
Bạn anh bị có ba lá phiếu phê bình, nhưng các ý đều chụm, và nêu những điều khó khoả lấp. Đó là sự chểnh mảng khi giảng một bài thơ trong sách giáo khoa, đánh giá nó ngoài hành lang là “nghệ thuật rất thường, chưa thoát khỏi những nội dung khẩu hiệu”. Lần khác, Toại ra đề cho học sinh giỏi chuẩn bị đi thi quận, chứng minh nhận định của B., nhà phê bình rất nổi tiếng. Cái nhận định đến là chối, lũ trò giỏi vừa than phiền vừa hùng hục làm. Khi giả bài thầy phán “nhận định sai mà em nào cũng cố chứng minh”. “Đó là sự đánh đố. Học trò không đáng bị lừa như vậy. Phải gieo vào đầu chúng những điều hoàn toàn đúng chứ!”, ba phụ huynh phản ứng, nhất loạt cho là phương pháp thầy Toại áp dụng lâu nay “có cái gì làm chúng tôi không yên tâm”.
Rõ là bạn anh đang phiêu lưu, đẩy tới những thử nghiệm của mình. Bình hoang mang, thấy mình vừa thích vừa e ngại. Một mặt, nó đúng với tinh thần coi học trò là trung tâm mà ngành đang muốn làm, phát huy sự chủ động, độc lập. Mặt khác nó động đến nền nếp, hệ thống hết sức chặt chẽ của nghề, như chức năng của giáo dục là chỉ nói cái đúng, như không thể gieo vào đầu trò những ý nghĩ nghi ngờ sách giáo khoa. B. vĩ đại. Vậy thì ông ấy phải toàn bích. Những điều đã viết ra không thể sai.
Tóm lại là phải gỡ món bòng bong này ra. Để mà tránh những hệ luỵ hết sức lôi thôi. Mà lại phải thận trọng, tế nhị. Toại có tài lắm, sự góp ý không thể áp đặt, bằng mệnh lệnh. Và kiểu gì hắn cũng là bạn anh. Bình nghĩ tới lui, rồi thông báo trong buổi họp hội đồng hàng tuần: giám hiệu và liên tịch sẽ dự giờ bất chợt trong tuần này. Giáo viên cứ giảng theo chương trình, chúng tôi sẽ chọn lớp nào tuỳ ý.
Sau vài lần “tuần thám” ở các lớp, tiết cuối của sáng thứ năm, Bình đổ bộ vào giờ văn của Toại, kéo theo hiệu phó chuyên môn, tổ trưởng tổ văn, và thư kí công đoàn, một người tính cách rất nguyên tắc. Làm vậy là có ý muốn “tranh thủ ý kiến tập thể lãnh đạo” rồi. Bình chả muốn một mình chịu trách nhiệm cáI vụ tinh tế này tẹo nào. Một thủ pháp nữa là sẽ vào chậm năm phút để Toại không thể đổi giáo án.
(...) Chỉ thông báo vắn tắt: “Hết chương trình, tôi ra một trò chơi. Có thể các anh sẽ ngạc nhiên…”. “Càng tốt!”, Bình chào học sinh rồi xuống ngồi cuối lớp.
“Tiết chơi” càng lúc càng làm anh ngạc nhiên. Ông bạn, ông thuộc cấp của anh quái dị thật, nghĩ ra đến là lắm trò oái ăm. Đề “bài”, hắn nhắc lại, là về Sơn Nam Văn Công Củng. “Đấy là một nhà thơ kiệt xuất, nhà sư phạm vĩ đại, người truyền bá những tư tưởng mới đầu thế kỉ trước. Chúng ta sẽ thảo luận về ông, ai nghĩ gì nói nấy. Thẳng thắn, cởi mở. Không chấm điểm mà sợ. Tôi muốn các em tự khám phá… Nam nói trước nào!”
- Thưa thầy, ngoài bài thơ trong sách giáo khoa, em không biết gì về thơ ông ấy.- Cậu bé bị chỉ rụt rè.
“Đấy là vì lỗi của các nhà nghiên cứu và người soạn sách, bỏ qua một giá trị lớn. Ngoài cuốn “Sơn Nam thi tập”, ông ấy còn cả một kho tàng lớn”. Toại cao hứng đọc một đoạn phú của Văn Công Củng. Tác dụng thấy ngay. Những mái đầu đen nhưng nhức ngẩng chờ, tai vểnh ra như nuốt. Anh nhịp nhịp khuyến khích. Một cô bé có đôi mắt dại dại vì không chịu mang kính ngập ngừng:
- Năm ngoái em về quê bạn, cùng làng với Sơn Nam Văn Công Củng, thấy bảo gia phả nhà ông ấy chép về ông ấy rất sơ sài. Ông cụ soạn gia phả bảo có nhiều chuyện ông Củng làm không muốn đưa vào…
- Thế em có hiểu nhiều về cụ Tổ nhà mình không? Chỉ cần năm đời thôi. Không chứ gì. Thế cũng là dễ hiểu. Viên ngọc quý cất vào tủ liệu có ai biết đến? - Toại chuyển sang giọng thông cảm. - Không trách được em, vì dòng văn hoá Hán Nôm của ta đã bị đứt.
Lại phăng phắc im. Lại khuyến khích “không nên đắn đo lập ý kĩ quá”. Rồi chỉ cây lí sự của lớp:” Chương, em lôi các thứ đang chạy lung tung trong đầu ra đi!”.
- Em thấy ông ấy thờ lắm chúa quá.- Cậu bé phát biểu tự tin- Làm quan cho triều Lê Trịnh, đến Tây Sơn vẫn làm. Khi Gia Long trở lại, tù tội chút ít rồi lại ra làm. Mà nghe đâu toàn chức to. Thứ nhì là hồi làm giám khảo khoa thi Hội, ông ấy chấm sai bị kiện mất chức ạ.
Toại phải “ngọng “ một lúc. Hỏi sao biết chuyện ấy, khen chịu khó đọc, hẳn hoi thừa nhận mình đang lúng túng. Rồi hùng hồn bảo vệ Sơn Nam Văn Công Củng. Rằng ông ấy cũng là một con người, có tài thì cần phải có chỗ thể thiện, không chấp nhận các triều chính khác nhau thì lấy ai, dựa vào ai để bộc lộ tài mình. Trong lịch sử khối ông ấy bà nọ thờ hai ba chúa mà vẫn được đánh giá cao đấy thôi. Rằng chấm sai bài thi là bậy bạ rồi. Nhưng có làm thầy mới biết, lắm sức ép lắm. Ai cũng muốn đỗ đạt để làm quan, vậy nên chạy vạy, đút lót đủ đường, có là gỗ đá cũng khó từ chối. Mà các em biết không, cái đức hiếu học của dân ta mà người ta hay nói ấy, phần nhiều là hiếu danh lí tài thôi. Xem các cụ được khắc tên ở Văn Miếu ấy, mấy người được nêu trong sách “Lược truyện các tác gia Việt Nam” đâu. Tức là phần nhiều học chăm để ra làm quan cả. Chương có gì không đồng ý với thầy nữa cứ nói ra đi.
Cậu bé mặt đỏ bừng “thôi ạ”. Làm gì mà chả chịu. Thầy đã giở lý này, sự nọ, chê bai, bảo vệ những hệ thống lớn lao hơn nhiều, trong khi nó chỉ biết điều bằng mẩy thóc. Thầy lại dẫn tư duy nó đi vòng vèo, liên hệ nối buộc lằng nhằng, lái vấn đề xiên xẹo, làm sao nó theo dõi được. Vậy nên “cứng lưỡi” là phải. May là đây chỉ là cuộc “trò chuyện”. Nếu chấm điểm, hẳn nó chỉ được một hai… “Hay thật”, hiệu trưởng nghĩ.
Còn dăm ba ý phát lẻ tẻ, Toại dễ dàng đàn áp. Hình ảnh Văn Công Củng được vuốt cho phẳng phiu, đánh bóng lên. Còn năm phút thì hết tiết, Toại hỏi ai còn ý kiến gì không, “đã tâm phục khẩu phục chưa?”. Rồi kết luận:
- Thế hả? Đây nhé, đây là câu cuối cùng của thầy… Là thầy thấy cái ông Sơn Nam Văn Công Củng ấy cũng chẳng ra quái gì cả!
* *
Trầm ngâm, im ắng không thể tưởng. Bình nhớ rõ không khí ấy nó đã đè lên cả phòng, đến nỗi mà mất một phút, “phái đoàn” mới đứng dậy cảm ơn thầy trò đã cho dự giờ. Về đến phòng hội đồng rồi mà còn ngổn ngang, chưa ai mở mồm “trao đổi” được.
Điều đầu tiên Bình thấy ngay là bạn mình đã chơi đúng luật. Hết chương trình rồi thì “chơi”, cái trò thể dục trí tuệ có vẻ đúng hướng phát huy sự chủ động của trò mà ngành đang muốn. Nhưng chân hiệu trưởng làm anh cảnh giác, dự cảm ra ngay những hiểm hoạ, Bình không biết có nên gọi thế- đằng sau. Và anh quyết định một chiến thuật, có thể không ngay thẳng lắm, nhưng cần thiết, là cứ để đoàn liên tịch “xi nê ma mồm” lại tiết học, không bình luận. Tập thể giáo dục, tự nó, sẽ vận hành cơ chế phản ứng, như cơ thể đề kháng với một tố chất lạ, có thể có lợi, lại có thể là độc hại.
Rồi là quan sát. Thấy rõ Toại đang rơi vào một cái màng vô hình nhưng hết sức lầy nhầy, dai ngoách. Những ánh mắt nghi ngại của đồng nghiệp. Cái nhìn ngạc nhiên của học trò. Những bỡn cợt kiểu “nhà phương pháp luận mới”. Hình như không ai ác ý, nhưng mọi thái độ đều ra điều “cậu đã xé rách một cái gì đó, làm nền nếp trở nên không ổn, bây giờ chúng tôi phải tìm cách vá nó lại”.
Rồi là thu thập, tập hợp ý kiến, đem ra thảo luận. Thư kí công đoàn được việc thật, với những đánh giá đầy tính nguyên tắc, tuy không hợp ý hiệu trưởng hẳn nhưng anh có thể tựa vào được.
Xem xét, cân đong từng lời, hình dung cả giọng nói, nụ cười. Hẹn Toại đầu tuần sau gặp giám hiệu sau buổi chào cờ sáng. Bộ tứ tề tựu, ấm chén bóng líu, chè làm lông nhẵn nhụi rồi mới pha. Uống nước đã chứ đi đâu mà vội. Hiệu trưởng hỏi han sức khoẻ hai bên nội ngoại, thằng cu nhà ấy có ham chơi điện tử không, ông phải cẩn thận lắm đấy. Rồi điềm đạm…
“Thế này anh Toại ạ, vừa rồi anh đã có một vài cải tiến về phương pháp truyền thụ trên lớp. Về mục đích, chúng tôi hoan nghênh, vì nó đúng với chủ trương mới của ngành. Nhưng trong thực tế thì lại nẩy sinh vấn đề. Cụ thể là tiết thảo luận về Sơn Nam Văn Công Củng. Trước nữa, anh cho học trò giỏi chứng minh một câu nói sai của B., nhà phê bình nổi tiếng. Liên tịch chúng tôi đã thảo luận rất thận trọng về phương pháp của anh…”
“Lớn hay nhỏ, đúng hay sai, chúng tôi đã quyết định là không bàn đến ở đây. Nhưng những vấn đề nảy sinh thì… rắc rối quá, anh Toại ạ. Cho các em thảo luận, phát huy độc lập suy nghĩ là tốt. Nhưng thế quen đi, liệu chúng có dẫn đến những quyết định khác không? Kết luận sai lầm càng hại”. Hiệu trưởng cân nhắc từng lời: “Có nên thử nghiệm một cái gì mới quá trên học trò? Chúng như tờ giấy trắng, cần phải viết lên đó những gì đúng đắn, đã được khẳng định. Thế thôi. Còn lờ mờ, hoài nghi, lật đi lật lại, đó không phải là điều nên làm trong môi trường giáo dục. Trên tinh thần rất trân trọng, liên tịch đề nghị anh trở lại với những gì chương trình yêu cầu, không mở ra ngoài nữa”.
Hiệu trưởng ngừng lời, nén một hơi thở rõ dài. Thư kí công đoàn biết đã đến lúc mình lên tiếng. Những lời ra thật kìm nén, không giống với bản tính cứng cỏi hàng ngày:
- Chắc là anh chưa thể đồng ý với chúng tôi ngay. Nhưng ông cũng phải nghĩ hộ cho chúng tôi nữa chứ. Phụ huynh bây giờ gớm lắm. Thế nào những cải tiến của ông cũng lên tới tai quận, tai sở. Để thanh tra chuyên môn cấp trên về liệu có ảnh hưởng đến bình xét thi đua cuối năm của trường ta không? Và ông thấy đấy, học trò theo nếp của ông, đưa ra những kết luận khác nhau, thậm chí nghịch ngược trong bài tập làm văn, ông sẽ chấm điểm thế nào? Không có thước mà đo đâu. Lúc đó sẽ ảnh hưởng đến việc dậy thêm của ông, dù dậy giỏi nhưng không có ba rem cho điểm thật sát, ông có kéo được trò đến học nữa? Mà tôi chắc ở đây, ông, tôi, đến cả anh Bình cũng cần phải dậy thêm. Đầy nồi mới tính sang chuyện khác được, ông ạ”.
Vài ba ý kiến nữa “củng cố”, “chốt lại”. Toại ngọ nguậy liên tục nhưng không mở mồm. Chẳng hiểu sao Bình lại thấy ông bạn rất giống cậu học trò Chương, cây lí sự hôm nọ trong “tiết thử nghiệm”. Thấy cần phải “xúc tiến” để khoá lại vấn đề, anh giục Toại cho biết ý kiến.
- Các anh tính trước hết thì tôi còn biết nói gì nữa…
- Thế ông đừng thử nghiệm nữa nhé…
- Vâng. Tôi chấp hành…- Giọng Toại rất mệt mỏi.
Ngày hôm sau, trong phòng hội đồng, khi đám giáo viên thi nhau kể chuyện tiếu lâm, Bình đến chỗ Toại, rất thân mật: “Ông xem, chúng ta mất dậy với nhau trong năm phút rồi trở thành tấm gương sáng cho học sinh trong bốn nhăm phút sau đó, lại chả hơn à? Ông cứ thử nghiệm ở chỗ khác, thậm chí viết bài tranh luận trên báo ngành, nhưng đừng làm ở trường nữa. Đây là tôi nói lối bạn bè, không sếp xiếc gì đâu đấy…”
- Vâng…- Toại đáp trong veo, như thể đang đối thoại với một người vô hình nào.
* *
Các “chuyến bay thử nghiệm” ngưng hẳn. Lớp học trở lại nền nếp, thầy nói trò chép, trò làm bài theo ý đã được truyền đạt, thầy cứ theo thang điểm mà chấm. Những phụ huynh đã lên tiếng về sự cải tiến yên tâm không thắc mắc nữa. Tổ văn yên lòng, liên tịch, giám hiệu yên lòng. Và dù sao, lớp Toại phụ trách điểm văn vẫn vào loại cao nhất khối, nên cuối năm học, anh vẫn được bầu lao động giỏi.
Nhưng sang năm, bầu đi thi giáo viên dậy giỏi trên quận, hắn nhất định từ chối. Rằng: “Tôi chỉ là thằng kiếm cơm thôi, giỏi giếc gì…”. Những lời làm Bình phải nhớ đến tiếng “vâng” trong veo hôm nào. “Vâng” gì mà nhẹ bỗng, như từ trên trời rơi xuống, làm sự an lòng trong thầy hiệu trưởng hoá chuyển sang bứt rứt.
Hết
Phần 1 - 29/09/2010
Phần cuối - 30/09/2010
Sư đồ
Trần Chiến
Cách nay mươi năm, khối tượng lù lù mọc tự dưới đất lên, khắp vùng cho là từ cốt nhục của Kỳ Thọ Vương Trần Lãm. Trước ngày ấy mươi năm, hưởng ứng hiệu triệu của Đức Hiến Tôn chí tôn dưới xuôi, tù trưởng Lãm lập đội thân binh đánh đuổi giặc Lặc ra khỏi bờ cõi, làm yên hàn một nẻo biên thùy xa xôi. Được nhà vua phong tước, ngài cai trị một vùng Quang Lộ ấm áp, thanh bình. Tượng ngài bằng đá trắng đứng ven sông, đầu ngẩng lên trời cao, tay cầm thi thư, tay giữ đốc kiếm, chòm râu dài rủ xuống ngực, đôi mày lưỡi mác xếch lên quá chỏm tai rất chi hiên ngang. Bên dưới là khối đá tạc thủ túc thân tín, sau được phong tước hầu: Trương Tộn, viên phó tướng quyền biến từng thay ngài áp trại, Ngọc Sum, người đàn bà cai quản quân lương, trông coi nội phủ, đều tươi tốt hớn hở. Pho thứ ba là Lã Bía, theo ngài dấy nghĩa ngay từ đầu, chả hiểu sao lại rầu rĩ, đơ đơ đứng riêng ra. Dưới nữa, khuất trong chim hoa lá cá là những gương mặt dân dã hằng theo ngài đánh giặc: hoặc dắt trâu đi cày, thợ thuyền cầm búa đục, hoặc thổ tù địa phương, đàn bà còn cho con bú, đồ tể vác dao nhọn, cả thư sinh mặt trắng... Mỗi vai mỗi dáng, thảy đều lộ vẻ thần phục, cung kính chiêm bái về vị thủ lĩnh trên đầu.
Nhóm tượng phải nói là tuyệt đẹp, ở chỗ nó cực kỳ sống động. Được vậy là vì nhân vật, trong cốt đá, thảy đều vẫn có chút tâm linh để mà cảm động, còn có thể ngây ngất hay phiền muộn vì những gì họ trông, nghe thấy.
Sừng sững giữa giông gió, mưa lạnh, Kỳ Thọ Vương Trần Lãm không mỏi mệt. Thế mà tiếng gà chiếp giữa đêm lại khiến ngài váng tai hơn cả chớp oàng sét giật. Mà con gà mẹ đến lạ, cứ nhớn nhác mãi, không biết lại đằng đây tìm. Đến lúc chịu không nổi, ngài buông xuôi tay kiếm, cúi đầu xuống dưới. “Mấy người cho ta xuống đi...”.
Đợi một lát. Mày lưỡi mác dựng lên. Chân giẫm bành bạch. Mới thấy bên dưới ới lên: “Gì thế ạ?”.
- Cho ta xuống. Chú gà bé bỏng đuối lắm rồi.
- Sợ là ngài phải bẩn gót chân, vai thổ tù nói ra từ trong chim hoa cá lá.
- Bẩn râu ta còn chẳng ngại. Sốt ruột lắm.
- Cơ khổ. Đã lên cao vời còn động tâm, thư sinh lẩm bẩm.
- Các người mới hiển vinh đến chừng nấy mà đã điếc trước sinh linh bé nhỏ, quá đáng quá. Đã vậy...
Kỳ Thọ Vương ngoẹo cổ, quăng thanh kiếm đánh thịch, chòm râu nổi tiếng xoã xượi. “Dỗi rồi kìa...”. “Để thế này sáng mai ra mang tiếng chúng ta…”. Tiếng bàn rì rầm, rồi phó tướng phẩy tay. Từ trong chim hoa cá lá, người đàn bà cho con bú lách ra, tìm cái thang kê lên chân tượng. “Rõ sướng không biết đằng sướng....”
Trần Lãm nét mặt giãn ra, tót cái đứng sững trên mặt đất. Dợm quanh mé tiếng gà, ngài định chân sáo nhảy đi ngay, thì thư sinh cất lời: “Ngài không định đánh lừa những kẻ này đấy chứ?”.
- Ta chỉ xuống chơi thôi.
- Cứ để ngài tự đi! - Trương Tốn hạ giọng rất khẽ - Tò tý te một chút thì được. Nhưng Vương tự biết cái nhẽ không trở lại leo lên trên ấy thì thế nào rồi đấy.
Trần Lãm ngẩn mặt, chừng như tẽn tò vì bị bắt thóp, đôi mày dợm cụp xuống. Nhưng đi đã. Bèn rảo về phía tiếng gà chiếp, bỏ mặc đám tùy tùng lắc đầu nhìn theo.
Công việc cứu vớt quá đơn giản. Chỉ cần lùa tay vào gầm phản thịt, ngài đã tóm được chú gà chỉ còn thoi thóp. Vài bước chân là đến đàn, nhưng ngài còn vuốt ve, cho nó chút hơi ấm trước khi thả xuống. Một con mạt nhanh chân nhảy từ đám lông ướt sũng sang chòm râu đáng kính. “Hé hé hé hé é é...”, Kỳ Thọ Vương cười ròn, gại gại mãi vào ngực. Quả lâu rồi, ngài chả biết ngứa ngáy là gì, trên đỉnh tượng chả hề có ly leo bụi nào. Nhin chú gà con cuống lên chui vào cánh mẹ, ngài âu yếm: “Chú chả cám ơn ta à. Nhưng làm điều lành đâu cần cám ơn, phải không...”.
Thế là ký ức một thời vụt đến. Những ngày nhức nhối chịu đựng giặc Lặc. Âm thầm chuẩn bị lực lượng, ngài đã phải cụp mặt giấu nỗi sục sôi trước cảnh giết người, cướp của. Rồi giả cách ngao du vượt biển sang tít đảo Đông học người có chí lớn, trở về thu dụng đồng hành đồng chí. Người đến đầu tiên là Lã Bía chí cả tài cao kiến văn đầy mình, khi chuyện trò luôn làm ngài phải hướng đến những ý tưởng sáng láng đẹp đẽ, sự hy sinh cho nhân quần. Chính Cáp đã dâng kế sách dựa vào sức dân không hẹp hòi đồng đảng, đánh giặc trước mắt cũng như xây cất sau này đều dựa vào đó mới nên. Khi gặp Trương Tộn, ngài nhận ra ngay sức mạnh thực tế, quyền biến bên trong vẻ an hòa rất mực. Giết ai thả ai, tâu bày hay giấu biến sự thực nào với triều đình dưới xuôi, nói gì chả nói gì hay nói gì mà không làm như gì trước bách tính, đều do Tốn bày đặt. Một luôn hướng đến những đẹp đẽ trong suốt, một không thể nhầm lẫn cái trước mặt, cả hai bổ sung cho nhau, hợp thành sức mạnh của hổ, sự cao sang của rồng cho ngài.
Đến sau cùng là Ngọc Sum, đúng vào chân nội tướng đang cần. Làm thế nào ra chục vạn hộc lương, muôn triệu tên giáo, hay đơn giản lo quả la hán cho vị Vương triều đình phái lên ngậm ho, đều do một tay ấy. Sau này, lại là những cống nạp kỳ Kinh đô có đại khánh…
Họ kết làm anh em, Lãm dĩ nhiên cả, ba người theo thứ tự Bía, Tộn rồi Ngọc Sum, cắt máu ăn thề xả thân vì đại cục. Cờ nghĩa giương lên ở Ma Lé, sau mấy trận toàn thắng đã rơi vào thất bát, bị vây tưởng không ra nổi. Rồi về đầu quân dưới cờ Đức Hiến Tôn anh minh, khối tự tin trong lòng trở nên chắc nình nịch, quân tự nhiều, lương tự đông, đánh đâu thắng đấy. Vào cuối cuộc trường kỳ, cái kiềng ba chân của ngài có dấu hiệu lay phay, Lã Bía như lẻ loi trong những cuộc luận bàn. Nhưng ngài cần cả ba, hay bàn gạt đi, rằng việc lớn nên cho là nhỏ, nhỏ thành không có gì, quả quýt mớ rươi biếu tặng nhau cho toàn đại cục là xong. Cứ thế cả bọn cùng đám tướng sĩ công bộc bên dưới đã cùng dắt tay nhau tới chiến thắng. Đội ngũ không thể sứt mẻ, để cho khúc khải hoàn - đỉnh cao là cuộc phong Vương cho ngài, phong hầu cho bộ ba - tấu lên trọn vẹn, rừng rực hùng tráng.
Kết thúc thế mới phải.
Trần Lãm đứng chân thủ lĩnh trên Quang Lộ dăm năm rồi tịch, vài năm sau đến lượt ba người em kết ngãi. Qua một đêm trời sôi ùng ục, đá đùn lên trên khu đất đầu chợ thành nhóm tượng như ngày nay. Trước sự thần kỳ, dân đặt đỉnh đồng, bát hương thờ cúng, qua vài tháng lại thấy mọc thêm tấm bia khắc công tích chống giặc Lặc ngày nào. Ghi rằng một thân vì nghĩa cả, hy sinh hết tình riêng không cả vợ con để tranh giành hạnh phúc cho con dân trong xứ…
* *
Kỳ Thọ Vương xoa đất lên người, chuẩn bị một bản mặt võ vàng để tiện bề hòa trộn. Những bước đầu tiên thong dong về bản Ma Lé. Tưởng tượng ra cảnh phong đăng hoà cốc, mùi cơm mới tỏa thơm trên lớp lớp nhà, ngài phải thỏm vào bối rối. Sao mà quạnh quẽ, mạt rệp. Trẻ bụng ỏng cởi truồng trong đông giá. Những lát sắn mốc đen chỏng chơ trên nong. Nồi niêu trống toác, hạt cơm cõng cả nuộc rau rừng, làm gì mà mặt người chả bủng beo. Ma Lé đấy ư, cái bản ăm ắp hùng tâm tráng khí phần phật cờ nghĩa thuở nào? Trông thấy một bản mặt quen, ngài xà xuống, giả cách hỏi về quá khứ, chả thấy hắn muốn nhắc nhớ gì. Dần dà ngài nhận ra tên lính từng vác cờ chạy ngay sau đít ngựa mình, lân la tiếp thì không được lời nào tốt đẹp:
- Trước kia từng tưng bừng lắm, ai cũng nhìn về một hướng. Nhưng giặc đi thì hết. Trần Lãm là thân đại lượng nhưng lên bậc á thần, yên hưởng vinh lộc rồi thì dưới làm gì khác ý cũng phải lờ đi cho yên. Ruộng vườn quan tướng tay chân ông ta cướp cả, làm gì mà chả đói. Mà cái nhà anh này sao rặm lời, có muốn chầu cháo củ chuối thì ta cho.
- Thế sao không bẩm báo quan trị quan nhậm?
- Ta trông anh sáng sủa mà hỏi lại ngu muội. Sao còn kẻ dỗi hơi vậy!
Viên quân hiệu phẩy tay, quay người nằm ngủ. “Tôi có thể nói lại với Trần Lãm được đấy”, ngài lay lay. Thì hắn thủng thỉnh: “Chính bọn Tộn Sum lấy hết ruộng vườn làm trại ấp, đem thổ sản về xuôi. Giống trâu của vùng này quý thế mà giờ chả còn một mống. Lãm chết rồi, giá thử sống lại thì cũng còn làm được gì? Trông gương Lã Bía đấy, thân tín vậy mà còn bị hại…”, rồi gọi không dạy nữa.
Lang thang trong ướt sũng, đâu đâu cũng vàng vọt. Ma Lé vắng tanh, chỉ còn người già. Thanh niên đi vợi, về nơi kiếm ăn được, gặp ở đấy những cô gái cùng bản đi bán mình. Gái Ma Lé nổi tiếng đẹp… Những ông bà, bố mẹ ở lại có chết, đám ma chắc chỉ lèo tèo. Đầu bản, chỗ đất tụ thủy, vẫn là nơi cúng Thần Suối Thần Mưa xưa nay, mọc lên tòa ngang dãy dọc, thấy bảo là của thuộc hạ Trương Tộn. Lại bọn Tộn, chỗ phủ lỵ chưa đủ với chúng sao?
Cơn rưng rưng thương nòi giống kéo lên trong lòng người đa cảm, kẻ trí lự vẫn được tiếng khoan hòa nhân hậu. Phải, khi đánh giặc Lặc, nhờ tha cho một đám lính hàng mà ngài thu phục cả đạo binh như hùm như hổ. Những tướng giỏi bên ấy, chỉ nghe tên quan quân đã tở cả mật gan, về hàng dưới chân ngựa ngài. Vương đâu phải quá dũng lược trong binh pháp, mà được là ở tấm lòng. Ngày thắng giặc, ngài được Đức Hiến Tôn ban chữ Nhân, một sự tưởng thưởng quá hậu hĩnh. Nhưng giờ, gì thì gì, ngài phải dằn lòng dẹp lại cơn xao động. Sự nghiệp Bất Tử còn đó, bắt Vuơng phải chế ngự cung bậc tình cảm. Tim phổi lòng mề không thể cứ hồn nhiên cuộn lên nữa, kia mà…
Ấy là vào lúc cuộc trường kỳ gian khổ sắp tạnh. Giặc Lặc suy yếu đánh lẫn nhau, phát ra những tín hiệu cầu hàng. Tù trưởng Trần Lãm, trước thế cờ tàn, biết mình phải lựa chọn, hoặc về Kinh thụ lộc, lẫn vào đám công hầu nhung nhúc, hoặc ở lại rừng núi đơn sơ mà thực là “đầu gà”. Trong một lát ngồi nhổ lông chân chọc ghẹo nhau, Trương Tộn chợt chắc giọng: “Các anh em, cây sung trước nhà đơm hoa, là lúc xứ Quang Lộ ta phải bầu lấy một người làm vua”.
- Dớ dẩn, Lã Bía bảo, vua dưới xuôi chứ đâu trên này.
- Anh chỉ thông tuệ đâu đâu. Vua dưới xuôi thật, nhưng từ Thái Tổ đến nay mấy trăm năm đã có triều nào lên đây chửa? Quang Lộ đất phẳng phiu nên còn gọi mường Mặt Ghế. Mặt ghế ai ngồi chả được, nhưng phi trong mấy anh em ta thì không thể.
- Thế anh vào đấy chắc…, Ngọc Sum phưỡn môi.
- Tớ đây ít học chỉ được chân thầy dùi. Cậu đàn bà đo lọ nước mắm là hợp. Lã Bía hay đọc sách thành thử suốt ngày đắn đo. Chỉ huynh trưởng là xứng!
Cả bọn dùi dắng, thấy Lãm đủ tư cách thủ lĩnh nhất thì hùa nhau bầu. Huynh trưởng ban đầu chỉ coi là trò chơi, dần dần ngộ ra sự nghiêm trọng, bèn đằng hắng: “Xứ này cần vua thật, tất nhiên phải thần phục dưới kia. Ta ưng lời anh em nhưng nghiệp lớn lắm e không đương nổi”. Tộn bảo chim hồng hộc bay cao là nhờ mấy sợi lông cánh, có anh em đây lo gì. Việc suy tôn thế là xong, lại bảo: “Vua thì cũng đến lúc chết, phải thành bất tử mới được, để mà còn thu phục được mười tám động rải rác trong mường Mặt Ghế, sau này chả ai quên ơn chúng ta, dĩ nhiên con cái cháu chắt được hưởng lộc đời đời”. Bèn dẫn về một dị nhân bảo hô phong hoán vũ là sự thường, nhưng có thể ban bất tử cho người ngồi ghế cao nhất. Trần Lãm mới đầu không ưng, sau lại bội phục ông thầy đọc vanh vách nỗi ưu tư trong bụng mình. Và rằng: “Chỉ ở đây thôi, chốn rừng xanh này, ngài mới không bị mai một, nhược bằng về Kinh nhòa nhạt ngay. Vả, triều đình cần phên dậu, một tên tuổi trấn an những mưu mô bất trị”.
- Bao giờ thì bất tử được? - Trần Lãm hỏi.
- Chết mới được. Lúc ấy ngài mới biết. Nhưng có những điều phải theo không dễ… Ví như ăn uống sam sưa, kiêng sắc dục…
- Cái đó dễ quá.
- Không xây cất đình tạ nguy nga, lúc chết chỉ hậu táng như một nông phu chỗ đầu chợ.
- Đấy chính là ước nguyện của ta.
- Điều này là khó nhất. Không để tâm can chế ngự. Tình cảm lúc nào cũng nào cũng phẳng lặng như mặt ao bèo, kể cả khi đã được dựng tượng, khắc vào bia. Đừng tưởng đá không có tâm tư đâu.
Trần Lãm lặng người, gặng hỏi: “Nếu không giữ được thì sao?”
- Thì nét mặt trên thần tượng sẽ méo mó, xấu xí, những lời tốt đẹp trên văn bia sẽ trở nên phỉ báng, rồi hậu thế cợt nhạo. Bậc bất tử phải muôn năm tĩnh mịch, không đoái lên trên, hoài xuống dưới.
“Đệ nghĩ điều này thật không hợp với người có Nhân như huynh”.
Bía đứng cạnh thưa vào, lời rất khẽ mà chẳng hiểu sao Tộn nghe được. Rất điềm tĩnh, viên phó tướng chọc ngón tay vào sườn Bía, khiến hắn phải ngay đơ ra. Trần Lãm biết đó là phép điểm huyệt nhưng không muốn có người bàn thêm, bèn để vậy tự quyết. Sau ba ngày thì đồng ý, được luyện phép Bất Tử.
Nhóm tượng mọc lên đầu chợ Quang Lộ có hình thù thật tương hợp: Kỳ Thọ Vương đứng trên cùng đẹp đẽ, vừa khoan hòa vừa oai vệ, vẫn có thể quan sát, cảm nhận, thậm chí so đo, nghĩ ngợi tý chút. Đám Trương Tộn, Ngọc Sum và bọn thổ tù, thư sinh mặt trắng, thợ thuyền vung búa có thể nhăng nhố hơn một chút. Riêng Lã Bía cứ trơ trơ như phỗng, trong một tư thế cứng quèo rất khó coi, trông đã thấy mỏi.
* *
Có cái gì đụng vào sườn. Tên thư sinh mặt trắng giật giật tà áo vải, lễ phép: “Đức Vương, ta về thôi!”.
- Ngươi cứ đi, ta rảo đằng này.
- Hạ quan đang viết sách về Đấng Bất Tử cho đời sau kính cẩn, mà Vương cứ ngọ nguậy thì bình thế nào được.
- Kệ nhà ngươi, ta còn chút riêng tư …
Vương lục áo dúi chút bạc lẻ, hắn để ngài đi. Cái chỗ hướng đến tuyệt nhiên kín đáo, ngoài ngài và vài tâm phúc chả ai hay. Hồi còn trẻ, chán nản vì bờ cõi kỳ cùng đâu cũng có vết tích giặc Lặc, Lãm cùng Lã Bía lang thang tới những xó xỉnh rất chi đáng ngờ như chiếu cờ bạc bịp, xóm câu trộm chó bán cho hàng làm thịt. Đang khi say tứ đổ tường, mà gặp Thắm, cô hàng cháo lòng ngõ Đặng, chàng phải mê man vì dung nhan quá đỗi dịu dàng, làn môi màu hoa đỗ quyên. Mỗi sáng ra, thưởng bát tiết canh nàng đánh, dù với cổ họng hay lát khấu đuôi, chàng đều có thể dùng đũa mà gắp lên được, không thể không rung đùi làm điếu thuốc lào cảm phục. Đáp lại tấm tình, Thắm đi lại khăng khít, có với chàng hai đứa con. Kíp khi giặc bị giặc săn lùng vì lan truyền câu “Trần Lãm phản nghịch” trong thiên hạ, chàng phải náu vào bóng tối, chả đoái được đến gia đình nhỏ đang tơi bời ra sao. Vì phải dấu tung tích, ai hỏi đến đời tư, chàng một mực “muộn màng vì còn sự nghiệp lớn”. Cứ thế mãi, đến khi giặc tan, triều đình dưới xuôi hỏi đến gia cảnh để ban tước Vương, bọn Trương Tộn chép lên “chưa hề vợ con”. “Ai lại thế! Giờ là lúc đón mẹ con cô Thắm về cho được gần gụi mới phải”, Lã Bía bàn. Ngài chưa kịp quyết gì, chỉ thấy mắt Bía trợn ngược lên, ra bị Tộn thò tay bóp dái. “Chả hóa ra đấng Bất tử trước sau không như một ư? Thê nhi như y phục, chỉ được cái quân tử vặt mà quên đại sự!”, Tộn phẩy tay. Đến thế thì thôi, dự vào nghiệp lớn thì hình ảnh mình không thể còn là của mình nữa. Từ lâu rồi, càng ngày ngài thấy mình càng phải biết điều với viên phó tướng này, tuy đến sau mà hắn đòi phen làm Lã Bía trớ phở.
Ngõ Đặng ra điều đang ngái ngủ. Đèn đường le lói soi lờ nhờ mặt đường khấp khểnh, ô cửa như con độc nhãn mở trừng trừng. Chân tránh những đống mảy ngô, xác chuột, bưng mũi trốn mùi thối rữa, Vương tiến sâu vào cuối ngõ. Quái, ngày nào phong quang, nức mũi dồi trần với húng ngổ cơ mà. Đôi tay nàng thoăn thoắt thái lòng xe điếu, hãm tiết, chả quên lo cho người tình múi chanh với dúm hành sống. Và đêm đến, ngầy ngậy, ẩm ướt, cái mùi chả đàn bà nào có được. Ngài thích ngửa ra vần con, mỗi chân mỗi đứa, trong khi mẹ nó sắp xếp mẻ hàng cho sáng mai, nụ cười sáng căn lều. Giá kể không có đại loạn, hoặc loạn xong thì bình thời, ngài chỉ thích được hưởng hạnh phúc vầy vậy. Giấc mơ đơn sơ, thế mà mỗi ngày mỗi xa…
Cuối ngõ lù lù đống khắm rinh rích. Ngài chọc đầu gậy vào tùm hụp áo tơi, ra lão ăn mày già. Rất lâu, chả biết tỉnh hay còn lơ mơ, lão buông nhời “Cháy rồi! Cái người xinh ấy tiệt đâu đâu…”, rồi lại ngủ vùi. Kỳ Thọ Vương đấm đá đạp, chỉ được thêm câu dắm dẳn: “Bèo dạt mây trôi, bàn tay xòe ra làm sao nắm được dòng nước…”
Vợ hiền của ta. Nào là tần tảo với bù trì. Nàng thật an phận với những hy vọng về hạnh phúc đơn giản cho chồng con, chả hề đoái vương nọ tước kia. Ai bảo đàn bà môi thắm quá khổ lắm, mà nàng lại còn đôi gót chân nứt, rất đau về mùa đông.
Sinh linh bé bỏng của ta, hai con ở đâu. Ta chả dọn khai thối, bế ẵm con trong những đêm ươn mình, chả khai tâm được chữ nào, lại còn giấu biệt, như chưa hề có chút chít ngồ ngộ ngốc nghếch nhố nhăng nào trên đời.
Bất Tử ơi hơ hơ hờ hờ…
Kỳ Thọ Vương rống lên, với chút ngạc nhiên. Còn có thể khóc như đứa trẻ sao, sau bấy nhiêu năm ngay ngắn cho thiên hạ trông vào, lời lời ra thảy bay lượn trong không trung như có cánh? Như một người điên, ngài thụi tơi bời vào thùm thụp áo tơi, bắt hở thêm điều gì nữa. Nhưng lão ăn mày đã thẳng cẳng, cổ họng dính ngọn châm rỉ ba giọt máu xanh lè. Kẻ hạ thủ chính là phó tướng, đã thành á Bất Tử mà thần lực còn kinh người.
- “Bẩm Đức Vương, ngài phải về!”, Trương Tộn nói, lời cung kính mà giọng đã gằn nộ.
- Chút nữa thôi. Ta muốn…, ngài thốt lên.
- Vương quên lời thề bất tử rồi à? Ngài chưa bao giờ có vợ con, chưa bao giờ hết! Hiểu chưa?
Một cái khoát tay mạnh mẽ. Từ trong bóng tối, lũ thổ tù, thợ rèn, đồ tể, cả Ngọc Sum chạy ra kéo Vương chạy băng băng. Mồm không thể kêu vì đã bị nùi giẻ tọng chặt, những ú ớ thoát ra, may chỉ có lão ăn mày đã mãi mãi không cất được tiếng là còn hay.
Đầu chợ Quang Lộ, nước sông còn rùng rùng lên. Ba bốn người hè nhau hết sức đẩy Trần Lãm lên đỉnh cột đá. Bên dưới, Trương Tộn lạc giọng: “Sẽ sàng thôi, đồ ngu. Ngài mà giận quá thì mặt sệch đi, văn bia sẽ trở nên sằng bậy đéo chữa được đâu!”.
Hì hục, hổn hển, tức mà không dám hỗn, họ cũng xong được việc. Khi tất cả đã trở lại vị trí cũ dưới chân tượng đài, bên cạnh Lã Bía vẫn trơ trơ như phỗng, Tộn thắp nén trầm to cho khói thơm nghi ngút, cung kính vái.
“Sự nghiệp Bất Tử to lớn lắm. Chả ai còn được là mình khi đã đứng vào đây, xin Vương nhớ cho điều đã thệ!”.
Nói rồi đứng vào chỗ của mình.
Mưa vẫn tràn trên núi xuống sông, nhưng không thể bén tới chân khóm tượng. Trên đỉnh, Kỳ Thọ Vương đã lấy lại tư thế vừa uy nghi vừa hiền từ muôn thuở, trong tâm còn lay động tý tẹo. “Mẹ cha lão già, làm mệt quá!”. Ngài biết khi nói câu ấy, Trương Tộn đang bóp vú Ngọc Sum...
Hết
Nguồn: nguoidaibieu.com.vn
http://vanhocquenha.vn/view.asp?n_id=2828&n_muctin=27
Trên từng cây số
Trần Chiến
Có một vẻ gì lạ lẫm nữa, mãi sau Minh mới “gọi” ra được, là đôi mày không tỉa tót tẹo nào, khiến gương mặt có vẻ tự nhiên và thành thật, thậm chí hơi cứng. Bình thường, Minh, vốn tự cho mình có mỹ cảm thanh thoát, chả bao giờ ngắm kỹ cái “loại” trung bình thế này. Nhưng bây giờ cô đang ngồi cạnh, trong anh bắt đầu cái “quá trình cảm nhận”. Dần dần anh thấy mình bị vẻ thanh tân hấp dẫn, nó toát ra từ làn da căng tràn trề, những vệt sáng bóng trên tóc tràn qua trán rồi đôi má, xuống cái cổ hé hé, vì xe đang chạy. Những bộ điệu ngượng nghịu, kiểu như hơi khép lại khi bị kẻ khác giới “soi”. Sức xuân thiếu nữ bao giờ cũng quyến rũ đàn ông, nhất là anh nào đủ trải để hiểu được sự bất lực của những kinh nghiệm với giỏi giang, kể cả, đôi khi thôi, sự giàu có hay quyền lực.
Đường lên Vĩnh Yên còn xa, có những chỗ đang sửa, mấy năm nay vẫn còn sửa. Quá trình “hỏi han và tự giới thiệu” bắt đầu, không đến nỗi quá uể oải. Cô gái nói khi người đàn ông bên cạnh không giấu vẻ quan sát mình: “Em tên là Tân. Tên con trai, phải không ạ? Là vì mẹ em sinh ra ở Tân Thế giới, về nước lúc hai tuổi”.
- Thế thì em của em là “Di” với “Lân” à? - Minh hỏi đùa, cốt cho cuộc làm quen khỏi cứng quèo.
- Không ạ. Em em thì chả còn dính gì đến kỷ niệm nữa. Nó là Yến, con gái.
- Chắc mẹ em về hồi sáu mươi, trở lại trên quê?
- Hưng Yên là quê gốc. Nhưng hồi về, Việt kiều không được ở thành phố, phải lên Yên Bái với Tuyên Quang cả. Ông bà ngoại có biết nghề nông đâu, cuốc đất trồng sắn đói quá xoay sang thợ may. Mẹ em với cậu em may mà học được chút ít, em thì qua hẳn cái trung học. Nhà em chả được trí thức như các anh... Sau lấy bố em thì về Vĩnh Yên ở, ông bà nội cho mảnh đất rìa thị trấn. Các anh có biết đầm Vạc không ạ? Em đẻ ở đấy.
- Nghĩa là đẻ xong mẹ vứt tòm xuống đầm “ông ơi ông vớt tôi nao...” chứ gì. Thảo nào anh thấy em có vẻ bơi giỏi. Người chuẩn lắm.
Minh khen tầm phào, nhưng không phải không có ẩn ý. Cánh tay Tân phủ lớp lông tơ nâu nâu, chắc là rất mịn. Giá mà được áp lên. Bên trên, Pháo đánh tay lái tránh chiếc xe tải nặng, tán với xuống đúng kiểu lái xe: “Thế em có định đi thi hoa hậu kỳ này không?”.
- Em bơi giỏi thực đấy. Có thể qua bên kia đầm, vòng đi vòng lại đến một cây. Hồi bé em đen như hòn than bóc nõn.
“Nói thật, anh rất thích người da nâu”, Minh buông lửng, cảm thấy nhục thể đang bò ra, đứng dậy. Chuyện trên đường, dù bâng quơ, dễ làm xa lạ thành gần gũi. Biết đâu, anh với Tân còn gặp lại trong một hoàn cảnh khác, những quan hệ mập mờ bắt ta phải phiêu lưu, hứa hẹn cả vui vẻ tươi tắn lẫn phiền phức, thậm chí nguy hại. Nhưng trước mắt thì chả có gì đáng phải “cảnh giác cách mạng” cả, cái tên con trai đảm bảo sự chân thật của cô gái lắm.
* *
“Sự thể” bắt đầu khi xe qua cầu Thăng Long. Đúng hơn, là vào chiều qua, khi Minh đề nghị đội xe điều đích danh Pháo đi Yên Bái với mình. Hai người là một cạ “trên từng cây số”: nói tục thoải mái, tậm tịt khi xa nhà. Trong phòng karaoke, Pháo hát rất dở nhưng dư dật chuyện tiếu lâm, sẵn sàng uống đỡ, một điều “sếp” hai điều “sếp”, nghĩa là phong độ ngoại giao vượt quá tầm một lái xe. Về phần mình, Minh chả bao giờ quên chia chác cho Pháo những gì gặt được - cái phần tất yếu của những chuyến đi. Đây là một lợi thế lớn của anh, so với Nhượng, cũng phó phòng, đang ngấp nghé chỗ của ông trưởng sắp về hưu. Nhượng đeo kính dầy, trơn như con rắn, bao giờ cũng “nhất trí” kể cả khi trưởng phòng chưa “phát” gì. Cánh lái xe chê anh ta “kẹo”, đã có lần cho nằm lại trên đèo Gió ở Cao Bằng.
Ngày cuối tuần dân ngoại tỉnh làm ăn xa về quê rất nhiều, tụ lại bắt xe khách trên đường lên cầu Thăng Long. “Nhiều ‘phanh nón’ lắm, anh có thích đón một cô lên cho đỡ buồn không?”, Pháo hỏi. Khi Minh ậm ờ, hắn tà tà chạy xe sát từng đám, “tia” xem có gương mặt nào dễ coi. Phải đến khi qua cầu thì mới “bắt” được cô gái, xin cho về Vĩnh Yên. “Em thấy xe biển xanh mới dám đi. Không phải người nhà nước sợ lắm...”, Tân nói khi Pháo hỏi sao không vẫy chiếc Mazda biển trắng đi trước.
- Khổ, thân gái dặm trường, em biết lo thế cũng phải. Lên xe sếp anh là đúng đấy, Pháo nói rất “tự dưng”.
Phần “tự giới thiệu” bắt đầu, qua những gạn hỏi chừng mực. Tân bảo cô đang theo trường cao đẳng du lịch, vì không có tiếng Anh nên không vào được lớp hướng dẫn viên, thành thử đành học chạy bàn, bán hàng hay làm buồng èng èng, sau này làm cho ông chú có khách sạn trên Vĩnh Yên. Nhà có đất vườn rất rộng thu hái được chút ít, sau phải giải tỏa cho dự án. Bố mẹ cô giờ chả biết mình thành phần là nông dân hay dân nghèo thành thị, nhưng cái nhẽ ôm cục tiền đền bù mà chả biết sống bằng gì thì rõ lắm.
Dự án nào thì cũng phải nhận con em những gia đình đã di dời để giải tỏa đất vào làm chứ? - Minh hỏi, dù biết câu trả lời là thế nào rồi - Anh cũng biết khối cán bộ tắc trách, cứ hứa hẹn cốt đuổi được dân đi là xong.
Thật ra em cũng được vào học nghề mấy tháng, rồi kiểm tra, không “chạy” nên nghỉ cho khỏe.
Tân nói với vẻ chả có gì ấm ức, rồi hỏi han các anh đi đâu, làm gì ạ. Minh bảo bọn anh đi công tác, kiểm tra một gói thầu trên Yên Bái. Nghĩa là cơ quan phải quản lý một chương trình thay đổi cơ cấu cây trồng trên miền núi, số tiền cũng chưa đến nghìn tỷ đâu, chia nhỏ thành nhiều hạng mục cho các bê, có khi là bê phẩy, bê phẩy phẩy phẩy thực hiện.
“Đi hùng hục, uống quần quật ấy mà”, Minh nói khi Tân bảo. “Thế thì các anh tha hồ được các bê chiều, em nghe đám làm khách sạn bảo thế”. Đúng là như thế thật. Nhưng làm sao anh kể cả cho cô những “chi tiết” khác, như mình nhận lại quả, còn các bố bên bê, nghĩa là bọn doanh nghiệp với quan chức địa phương có tiền mua đất xây nhà ở Hà Nội. Dĩ nhiên, phần cho dân làm vốn trồng rừng sẽ như quả cam chứ không được bằng quả bóng đá giống báo chí thổi...
- Anh chỉ bịa! Uống mà lại quần quật...
Cô gái rũ ra vì cười, rồi kể những điều làm Minh thấy lạ lẫm, như đứng bếp lớn thì đàn bà không sao theo được đàn ông nhưng cô nào biết uống rượu thì đàn ông chỉ còn biết xách dép. Rằng tiền “boa” của cánh làm buồng hẻo hơn ngoài quầy rượu nhiều, và rằng du lịch không có “sếch” thì không phát được, tuy chả bao giờ ngành ghi điều đó vào trong một giáo trình nào. Những trải nghiệm có vẻ đến sớm trước tuổi, làm anh nhớ tới một chân lý trong sách Tàu: “Vợ không bằng thê thiếp, thê thiếp không bằng đĩ, đĩ không bằng vụng trộm”. Về khoản đàn bà, Minh có những sở thích chênh với cạ của mình. Pháo rất dễ tính, chả dính đến ai lâu “rách việc”, cứ “bóc bánh trả tiền” xong quên ngay là tiện nhất. Còn Minh, dù chả bao giờ từ chối những cuộc chiêu đãi chân dài của các bê, nhưng không thể hứng quá trong những nhà thổ nhớp nháp, với những cô càng “tàu nhanh” càng tốt. Giao lưu một chút, thủ thỉ một chút cho nó có tình cảm vẫn hơn, dù luôn biết những “tâm sự” ấy chả thật được mấy nả. Trong thâm tâm, anh luôn hướng về những quan hệ có chút quý mến nhau, nói chuyện được, lãng mạn tý ty càng tốt, và đừng sâu sắc quá kẻo “nghĩa lộ”, lâu lâu lại “đổi gác”. Trong các cuộc họp lớn, phần giới thiệu đại biểu của ban tổ chức bao giờ cũng làm Minh nghĩ đến câu “kính thưa các đồng chí chưa bị lộ”. Mẹ kiếp, cái thằng nào phát minh ra hóm thật. Có biết bao nhiêu bậc đạo cao đức trọng trên đời này, khi chết điếu văn phải ca ngợi là “người chồng thủy chung, người cha nhân từ, người tình son sắt” mới phải.
“Bồ” là Thiên Thai. Nhưng phải luôn luôn có “khăn ăn Thái” để chùi mồm, thế mới cách rách chứ lỵ. Nhưng cô gái ngồi cạnh anh, sắp tới sẽ xuống dọc đường, lại đang gợi lên những hy vọng về một quan hệ thú vị, có thể là hơi hơi lâu dài. Dù thế nào thì cũng khác lắm vợ ở nhà, với những vết rạn trên bụng sau khi sinh nở, càng ngày càng nán lâu hơn trước bàn trang điểm. Nào đi bộ lắc vòng, nào xăm mắt cắt mý dưỡng da bằng mật ong mý sữa chua mý cả hoa hồng đắp lên mặt... Ôi dào, làm sao mà tin được những trò “trẻ hóa cán bộ” ấy!
Trước mặt đã là những thanh chắn của trạm thu phí cuối đường cao tốc. Pháo mua vé, tà tà chạy qua rồi hỏi một câu làm Minh không thể không chú ý: “Anh biết chuyện ông Nhượng chưa? Em nghe văn phòng bảo ông ấy lấy ở lưu trữ trung ương một chứng thực là đi thanh niên xung phong hồi hai mốt tuổi chứ không phải hai nhăm”.
- Đ. mẹ thằng chó!
Câu chửi bật ra làm người Tân hơi cứng lên, cố cưỡng cái nhìn sang người ngồi cạnh. Thế là cái thằng loẻo khoẻo luôn gật gật khi sếp trưởng nói ấy đã đi trước Minh một bước, lại là cái bước anh luôn cho là lợi thế của mình. Sếp trưởng ba năm nữa thì về, hai thằng phó đều vũ trang bề bề bằng cấp chính trị với chuyên môn. Chả còn cái gì chưa học. Chả còn đ. gì không hầu. Những áp tết gặp nhau huỳnh huỵch ở chỗ cần biếu, trong tết lại phải bắt tay chúc sức khỏe nhau đúng những cửa ấy. Minh kém Nhượng ba tuổi, tức thị nhỉnh hơn trong cuộc đua vào cái ghế sẽ trống kia. Nhưng giờ thì...
- Thế ông Thi bảo sao?
- Sếp chỉ “ờ, để rồi xem”. Anh lên thì mới công bằng, phòng em chỉ quý mỗi anh. Trình độ ông Nhượng sao bằng anh được, cả cơ quan bảo thế.
Cái chuyện “chỉ quý mỗi anh” và “cả cơ quan bảo thế” không làm dịu nộ khí đang phụt lên trong người được khen. Bao nhiêu công lao “trồng cây đức” nuôi sếp có ít đâu. Mà thằng già đểu quá. “Ờ để rồi xem” tức là cả hai thằng phó còn phải căng sức ra mà thi đua yêu nước yêu thủ trưởng trực tiếp mới lỵ những thủ trưởng trên thủ trưởng trực tiếp nữa. Thế mà tháng trước đi Lai Châu về, anh lại đem lạng cao hổ xịn được biếu đem cho bố ở quê. Cái thằng sắp hưu được tẩm bổ có khi đã không “ờ để rồi xem”, mà còn cho thanh tra nhân dân đi kiểm tra lại lý lịch Nhượng ấy chứ...
Mất tiên cơ rồi! Tưởng tượng ra phong cảnh Nhượng làm trưởng quá là điên tiết. Có nghĩa là nó sẽ nói những câu tù mù đa nghĩa, nặng về mục đích yêu cầu của công việc, mình căng tai lên đón ý, đưa thầu về đúng “cổ cánh” của nó. Và đi “gặt” phần lại quả đem về cúng, tất nhiên cũng dây máu nhưng chả thể nào bằng. Có nghĩa là tuần chay nào cũng phải có nước mắt, tết lễ đến nhà chúc anh chị dồi dào sức khỏe lãnh đạo cơ quan hanh thông, bình luận chương trình tivi ngày ông Táo lên trời năm nay không hay bằng năm kia. Có nghĩa là... Mẹ kiếp! Làm phó như chó dọn cứt, thằng nào đúc kết thế nhỉ?
* *
Cơn giận làm Minh bần thần, đờ đẫn. Chuyến đi hứa hẹn bao nhiêu cụp lạc thế là hỏng bét. Rồi anh chợt nhận ra trong khi “ông thầy” mải “tâm trạng”, thằng lái đã nhanh mồm tăm tia “nhân thân” cô gái. “Chúng em thuê trọ, ba đứa chung một buồng mười mét, tám trăm nghìn chia nhau, điện nước tắm giặt đóng chung với cả dãy. Đi học bằng xe buýt nhiều quá quen cả phụ lẫn lái, chả phải chìa vé tháng ra. Sinh nhật thì chỉ đến chầu ốc luộc đầu xóm Vọng là cùng...”. Những lời bỗng làm Minh tỉnh ra. Ngồi cạnh anh là cô gái nghèo, hẳn có nơi nương tựa thì rất tốt. Cái gáy chắc nịch có những sợi tóc rối, đám lông nâu nâu trên tay. Và thanh thanh hơi “véo” lên, cái giọng luôn luôn kích thích anh. Một con mồi tốt, thanh tân, vừa cứng cỏi vì phải sống xa nhà, vừa yếu ớt, tất nhiên, vì sẽ thật khó từ chối những “món quà nho nhỏ” kiểu chai dầu gội đầu, hứa hẹn bao thống khoái.
Cố gạt bỏ cơn phiền nẫu, Minh chen vào câu chuyện, hỏi Tân về mốt tóc cô đang để, cậu phụ xe buýt chắc phải quan tâm đến em lắm nhỉ. Rồi như là tình cờ: “Em có thể cho xin số điện được không, anh rất muốn biết con em những người mất đất cho các dự án đang sống như thế nào. Trong công việc của bọn anh có một nội dung là điều tra cái phần hậu dự án ấy mà...” Rất tự nhiên, Tân đọc số điện thoại di động, bảo Minh bấm lại vào máy của cô, cả số cơ quan “vì anh có thể đi uống nước trong giờ làm việc được đấy”.
Em cũng muốn được quen các anh để có những hiểu biết mới. Thật ra em biết gì Hà Nội đâu!
Cái câu nghe thật nhẹ nhõm. Chấp nhận liên hệ lại nghĩa là ngầm hứa hẹn một cái bắt đầu rồi, chầu trà Dilmah chẳng hạn. Sau những đưa đẩy là quà cáp, có thể là lọ nước hoa bé tý, loại chỉ để chấm một giọt lên gáy. Rồi anh sẽ đưa tiền cho cô kiếm chỗ trọ riêng, tuần đi ăn một lần. Sinh nhật sẽ có quà đều đặn, nhưng sinh nhật bạn thì đừng, chả phải vì tốn kém mà “hoạt động bí mật” nó phải thế.
“Nuôi” ấy mà. Cái cốt tử của cuộc chơi này là phải giữ một tiết tấu vừa phải, không để cho “đối tác” hy vọng nhiều quá. Nó mà sách nhiễu lắm khéo tan cả vợ cái con cột. Áp mặt vào đám lông nâu nâu, di di môi trên lọn tóc rối sau gáy. Những hình dung ái ân làm Minh đờ đẫn. Mẹ kiếp, cái thằng Nhượng mặt choắt tai chuột ỉa cứt sắt tháng chỉ trèo lên bụng vợ một lần, mày làm sao có được tý chút cái sướng khoái này của ông đây...
“Ai về mua vại Hương Canh, cho mai lấy trúc cho anh lấy nàng”, Minh khoái chí đọc khi trông thấy những chồng tiểu xếp dọc con phố nổi tiếng về đồ sành. Nghĩ về thằng Nhượng bây giờ thật lãng phí phạm.
* *
Đã gần đến Vĩnh Yên. Cái hình dáng đặc biệt của nhà thi đấu thị xã hiện ra, đằng sau là đường nét thô cứng xấu xí của các công sở. Lại sửa đường. Ô tô xếp hàng cả trăm mét chờ chiều xe ngược qua. Pháo hỏi to: “Em xuống chỗ nào đây?”. Trong gương chiếu hậu, cô gái chả nhúc nhích. Hỏi lần thứ hai thì “Em chả xuống đâu!”, nghe rất rõ.
- Thế kết sếp anh quá rồi à? Sếp anh ga lăng em chết là phải.
Câu đùa thô quá, làm Minh đâm ngượng. “Sắp về với bố mẹ hồi hộp quá chứ gì? Hay để bọn anh đưa về tận nhà?”, giọng anh nửa ân cần nửa bỡn cợt.
“Nhưng các anh cho tiền thì em mới xuống”.
Câu nói làm hai anh đàn ông sững người. Minh nhìn mặt Tân, ngoảnh đi rồi quay lại: “Em đùa đấy chứ?”.
- Em không đùa. Các anh thiếu gì tiền, phải cho em!
Im phăng phắc. Mà bên ngoài thì còi inh ỏi. Tân quay cửa kính xuống, thò đầu ra ngoài. “Anh cờ đỏ ơi giúp em cái...”. Gương mặt gầy sắt của người cầm cờ hiệu giao thông ngó sát vào. “Em sắp về nhà rồi, cho xe em đi trước đi!”. “Biển xanh nhưng cũng phải có giấy ưu tiên, không thì đến tối thế nào cũng qua được”.
- Thế thì anh giả em đi để em xuống.
Tân thúc rất to, giọng đã ra chiều gắt gỏng khiến “mặt gầy sắt” nhìn dằm dò, lá cờ trong tay thôi vung vẩy. Cánh tay có những sợi lông tơ nâu nâu đẩy mạnh vào người Minh khiến anh sợ hãi, bất giác lần túi móc ra tờ hai trăm nghìn.
Bốn trăm mới đúng chứ. Nhanh lên anh!
Sao lúc nẫy mình đưa nó cả số điện thoại cơ quan, ngu quá thế! Cái khung có tấm bằng Gia đình Văn hóa Mới phường cấp, vợ đem treo trên tường làm Minh rất ghét, bỗng hiện lên trong đầu. Đành móc thêm bốn tờ năm mươi nghìn nữa, tay chân rất lúng túng.
- Phần anh nữa chứ. Anh quên à?
“Tân” nói với lên trên. Nhưng Pháo đã xuống xe, giật mạnh cửa sau, quát vào mặt cô: “Mày có xuống không ông cho chết mẹ mày bây giờ!”.
- Chả thì thôi. Em cảm ơn các anh.
Cô nhét tiền vào túi quần, chỗ có cái điện thoại di động vừa reng reng, bước xuống. Quay lại ngó, thấy cái người vừa đưa tiền cho mình đã không nhìn theo mình.
Xe biển xanh không phải đợi “đến tối” như người điều khiển giao thông dọa, lên tới Yên Bái cũng sớm. Dọc đường, dù Pháo ra sức chửi bới “con mất dậy”, Minh chả nói năng gì. Sự thể diễn ra quá nhanh. Nó chọn đúng lúc đúng chỗ mình không ngờ. Không hiểu sao lúc ấy máu trong người anh lại đông cứng ra thế, cái cục nợ trở thành con giun chết. Anh sẽ không bao giờ đi công tác với Pháo nữa, hẳn là thế...
Hết
Nguồn: nguoidaibieu.com.vn http://www.nguoidaibieu.com.vn/Trangchu/VN/tabid/66/CatID/5/ContentID/53623/Default.aspx
http://www.nguoidaibieu.com.vn/Trangchu/VN/tabid/66/CatID/32/ContentID/53705/Default.aspx
Thị Mầu
Trần Chiến
Cắc tùng tùng tà rà tùng tùng tùng
Cắc tùng tùng tà rà tùng tùng tùng!
Trống dẹp đám khua đến lần thứ mấy mươi, làm rung động đám đông đang bắt đầu mỏi mệt vì đợi chờ, cuộc hành lễ mới bắt đầu. Các bà tế nữ quan vuốt tóc mai xiêm áo, sửa lại vành khăn, mặt mũi nghiêm nghị. Cụ Nhận thọ nhất làng được dắt ra khỏi cơn gà gật, nhấp hớp nước sâm hãm cố ngồi cho ngay lưng. Con bé cháu ngoại sau lưng cụ chăm chú đấm khẽ vào vai, vào lưng bà, chốc chốc cười một mình. Chả là Thắm vừa xem tivi, thấy mình giống thị nữ đấm lưng cho thái hậu. Thế thôi, còn đoạn lườm nguýt đứt đôi người chàng thị vệ thì chả biết.
Những ông đông xướng, tây xướng khăn xếp áo the, sau khi đằng hắng mãi, đã ngân nga:
- Khởi chinh cổ!
- Củ soát tế vật!
- Nghênh thần cúc cung bái!
Bảy tám lệnh được xướng ra, lâu quá làm cụ Nhận lại li bì thiếp đi, thì chủ tế mới đến lượt. Xấp giấy ông cầm trong tay là bản văn quan trọng nhất của lễ hội, cần phải được bố cáo rõ ràng, to tát, cho thấu đến tai quần chúng, cả bọn trẻ đang nô như giặc ngoài kia. Giáo dục truyền thống mà! Bởi thế, èm èm một hồi vào micrô, ông mới mở nó ra.
“Bùng Thượng thôn, Bảo Chung xã, Lương Nhan huyện, Sơn Nam tỉnh, Việt Nam xã hội chủ nghĩa cộng hoà quốc. Nhằm ngày mười tháng mười tết Cơm mới năm Đinh Mão tức mười sáu tháng mười một năm hai nghìn không trăm… Được sự lãnh chỉ đạo của Đảng uỷ, uỷ ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc xã cùng sự phối kết hợp tham gia của các đoàn thể thanh niên, phụ lão, cựu chiến binh, nông dân tập thể, bản chức hương xã cùng giai cấp nông dân Bùng Thượng dọn mình sạch sẽ, kính cẩn dâng hương…”
“Bà Chúa Chuối Buồng, tên nôm Thị Mầu, tức Ngọc Nga Quận chúa, tức Chiêu Hương liệt nữ, sinh ra trong một gia đình bần cố nông nghèo túng, cả nhà đắp chung tấm chiếu, kiếm ăn rất chi lần hồi. Khi mẹ lâm bồn, bỗng nhiên thân cây chuối ngoài vườn oằn xuống, buồng quả to vụt lên đánh thốt, dậy mùi thơm ơi là thơm. Bèn được đoán định một tương lai nảy nở, tốt nái, sinh mắn như gà, như hoa quả đơm bông. Bà gào to lắm, hễ không được mẹ nhét tấm vú vào mồm thì còn làm điếc tai cả tổng. Đến nỗi mà…”
Trong hậu cung, ban thờ Thành hoàng bỗng rực lên. “Cháy…! Cháy…!” Ông chấp sự hô líu lưỡi. Người đổ xô lại. Nhưng vầng sáng, như viên sét hòn lượn đi lượn lại, đã vụt qua lớp ngói dày bay lên cao.
* *
Trên đầu là khoảng xanh vời vợi, thăm thẳm, nhìn đắm con mắt. Dưới kia, bầy ong đông đúc lúc tăm tắp, lúc nhốn nháo theo lệnh trống chiêng. Và ta, bay lượn ở giữa, như con chim chiện cứ treo mình từ nghìn đời, hót mà chả ai lắng nghe. Ta là ai? Sinh ra lúc buồng chuối cựa mình chín tới thì đúng rồi. Nhưng những “quận chúa” với “liệt nữ” khó nghe quá. Thực tình ta muốn là cô bé Thị Mầu tóc đỏ đuôi gà đang chắt chuyền nghển nghển trong đám đông chứ chả phải treo mình thế này.
Ngày ta sinh ra có tràng hoa cuốn cổ. “Con bé không đanh đá nhưng đa đoan”, thầy bói phán ta có tương lai gieo neo. Mẹ ta cù mì như củ khoai ngất đi. Còn bố, thỉnh thoảng có dòm vào giường cô hàng xóm, quay ra chỗ khác. Bên ấy vừa lọt lòng con Thị Kính, phận phải bị đổ oan tình.
* *
Bài văn tế dừng lại, chẳng hiểu theo thể thức nào, nhưng chắc có phần để người đọc nghỉ lấy hơi. Trống chiêng rộn lên, đoàn tế nữ tiến hai lùi một cung kính. Thừa lúc ai nấy đều nghển cổ, Kễnh quỳ xuống chắp hai bàn tay xỉa rất mạnh vào đít thằng Cộ đứng đằng trước. Rất kinh hoàng, nó thấy tay mình ướt sũng, thối hoăng. Đám đông tán loạn.
Giọng đọc đã cất lên làm trật tự trở lại. “Vào thời Bà Chúa chào đời, Bùng Thượng là vùng đất bờ xôi ruộng mật. Hạt thóc lép vãi xuống cũng trổ cờ đâm bông oằn thân lúa. Hẳn là vì hấp thụ được linh khí trời đất mà tuy chỉ ăn rặt hương hoa, Bà Chúa vẫn lớn nhanh như thổi. Mười bốn tuổi, mình mẩy vươn thẳng như dóng tre, chúm chím đôi chũm cau, da dẻ ngọt lịm như phù sa sông Bùng. Mười sáu thì nhất làng rồi…”
* *
Mỗi khi ta ra giếng làng kín nước, đám đàn ông có vợ dán mắt vào bắp chân ta nâu hồng. Lũ trai tân thật ngộ, đứa hấp háy thảng thốt, đứa ngây ngây vào đám bèo ong. Chị Nhài con dâu ông Lý Mùi bảo “xưa chị nhất làng, giờ thì em ăn đứt…” Ta cười ngượng. Chị Nhài hai mốt, đã ba con mà môi ăn giầu cắn chỉ, răng đều tăm tắp, mắt sâu như lòng giếng. Nhưng chị buồn, ta biết, vì phải ông chồng cao to đen hôi vầy vợ như vần cối, chắc chẳng bao giờ được ôm ấp nâng niu. Và lũ em chồng. Sao mà những mũi xanh mắt ghèn tanh hôi. Sao mà những tám đứa. Mẹ chồng chị mềm oặt như manh giẻ, chùi chân còn phát khiếp. Dẫu sao, Nhài là chỗ mong ước của khối chúng chị em.
Ta với Thị Kính trèo lên cây cậy lấy nhựa phất diều. Cu Đán cầm lồng chim qua, bảo có đổi lấy diều. Ta bảo chả báu, chim trong lồng còn gì là quý, Kính tụt xuống ngắm mãi con sáo đá, “thương nhỉ thương nhỉ” mãi.
Đến thúc sưu, nhìn ta đập lúa ngoài sân, Lý Mùi bảo: “Con gái lưng dài như chó liếm cối, l. bằng lá tre, gả chồng đi thôi. Để ta nói với cụ đồ Phan sang hỏi. Có ưng không?” Cha ta ấp úng: “Dạ, con đang tính chưa ra…” Mẹ chạy vào: “Được chòi mâm son lại còn tính. Dạ, ông cứ đặt đâu chúng con ngồi yên không vẫy tai”. Ta giằng mạnh cái néo, quăng ôm lúa ra rõ xa.
Ông đồ họ Phan có con trai là Thiện Sĩ mặt trắng ẻo lả, tướng trói gà không chặt, suốt ngày nói chữ Thánh hiền. Đi giữa đàng thấy mảnh giấy bẩn có chữ Nho, anh ta rửa tay, giũ áo kính cẩn nhặt lên đem đốt, bảo không để gót phàm phu xéo vào. Chúng ta đang cấy dưới ruộng ới “xuống đây với chúng em cậu ơi”, thì đăm chiêu rằng “tôi chả dám. Đang học để sang năm nữa đi trường Nam thi Hương. Các chị nghịch lắm, để mà rơi mất chữ à”.
Thiện Sĩ được nhà giao phận sự thi đỗ, làm quan cho vinh hiển. Chả biết có quyết chí? Vì ta thấy ngủ nhiều, thỉnh thoảng ho khan, da bủng, nói năng không giống kinh sách thì cũng đối tỷ những câu không đâu vào đâu, cứ như thằng ấm đầu. Ta thích nho sinh như Đức Trường hơn, chẳng chăm chỉ lắm nhưng mắt nghịch ơi là nghịch. Giá thử Trường chưa có vợ… Nhưng ta là gái, có thế đã làm được gì sất?
Dầu sao Tết năm ấy ta đã ăn sêu của nhà đồ Phan. Thiện Sĩ có thích ta? Chắc là có! Mơn mởn thế này mà.
Sao mà ta chẳng biết mình có thích cậu chàng một téo…
* *
Chả hiểu tung toé đâu vào con gà mái già. Cậu trống choai theo sau lấy giọng bấy bớt hát đứt quãng, chạy vòng quanh rồi nhảy lên rất khó khăn. Cảnh ấy làm đám tế bớt trang nghiêm. Ông com lê com táo trịnh trọng hấp háy với ông răng thuốc lào hoành tráng: “Mái già thế mà chê thanh niên, nhể”.
* *
Ra giêng ta đi hội Sủi làng bên. Đang nô với chúng chị em thì gặp Thiện Sĩ tay cắp ô tay cầm quạt. Ai nấy tản ra làm cả hai lúng túng. Ta “chào cậu” rồi đứng yên, chỉ nghe tiếng phành phạch. Bỗng nhiên hỏi “cậu có thích chèo Trương Viên không?” Thiện Sĩ rạp người vái lên sân trò rồi quay lại ấp úng: “Nôm na mách qué ta không rành. Còn chị sao xắn cao quần, hổn hển làm vậy. Đức Khổng Tử dạy đàn bà con gái phải giữ lễ…” Mà sao mắt cứ cụp xuống không nhìn. Má ta đang rực cả lên, sao có cái giống không nhìn? Ta đứng ra bề chịu lời nhưng nghĩ đến mục quang của Đức Trường, sao mà sáng, phát lộ bề bề.
Chèo Trương Viên vui ơi là vui, xong rồi thì buồn, làm ta cười rưng rức. Những hề mồi, hề gậy dẹp đám, những cu Sứt cu Khoèo, giá cuộc đời chỉ toàn thế; một ngày Tết kéo dài cho đến lúc người ta lụ khụ rồi nhắm mắt xuôi tay, vui thế mới vui…
* *
Theo một thể lệ trong cuốn “Quy định về lễ hội” Sở Văn hoá mới phát ra, cuộc cúng tế chỉ bắt đầu ở đình Trinh Liệt, rồi dẫn rượu qua những nơi xảy ra các sự kiện trọng đại trong đời Bà Chúa. Lếch thếch, nhem nhuốc theo cỗ kiệu rước bài vị, cả ngàn người lèn trên con đường ra cánh đồng Đơm. Chen chúc quá, đến nỗi có người rớt xuống sông Tiêu. Số giẫm cứt trâu nhiều vô kể.
“Hiến Tông là một vị vua anh minh cao cả, thường vi hành trong dân gian để thị sát chúng sinh, xem chức sắc hương xã lãnh chỉ đạo thế nào. Nhằm ngày… ấy nọ, Ngài vi hành về Bùng, lập hành cung trên cánh đồng Đơm…”
* *
Ngày ấy nọ làm sao ta nhớ nổi. Chỉ biết lúc ấy đất trời đẹp vô tả. Ngoài đê sông Tiêu, buồm nâu trôi lững thững. Những con bách thanh lắm điều tranh nhau đống cứt. Lúa trổ thơm ngậy ngà đến rạo rực, đánh thức một cái gì rất khó nói. Ta vừa nhổ cỏ vừa đoán xem “nó” là cái gì, cái ta muốn màu hồng hay biêng biếc, mông chổng lên mà đầu phải gằm xuống, rất là không thích thế. Thì thầy lý Mùi dẫn một quan viên áo gấm thêu hoa thêu chữ tới, gọi cả bọn dưới ruộng lên.
- Ngài Ngự thích ăn chuối tiêu chín tới – Vị quan viên cất giọng the thé – Nhà các chị ai có?
Ta mau mắn dẫn hai vị về nhà. Hiềm vì cây chuối mọc sát chuồng tiêu, thơm ngon đấy nhưng dễ uế tạp. Ông lý rất băn khoăn, nhưng vị quan viên gạt đi. “Trong cung có kén được hoa thơm quả ngọt mọc ở đâu đâu!”
Vậy là ta bươn bả bưng buồng chuối mười sáu nải, đúng bằng tuổi ta. Đồng Đơm rạp cờ phướn võng lọng, hương xã và các chú lệ tất bật căng lều dựng hành cung. Ta xăm xăm xông vào đám, thì vị quan viên “họ” lại, bảo xuống ao khoả chân lấm với lại vuốt lại đám tóc mai ướt rượt mồ hôi đi. Ta đặt buồng chuối xuống, dù khẽ khàng mà một quả buồng sau vẫn rụng, toả hương bồng bềnh.
Có con đỉa bám vào bắp chân. Đương chổng lên, đắp nước bọt vào miệng nó thì có tiếng thét: “Không được quay lại! Quỳ xuống!” Ta luống cuống ngâm nửa người xuống làn nước trâu đầm, nghe nhồn nhột vài con nữa ở đùi, ở bụng. Mặt gằm sát nước, chỉ biết sau lưng có tiếng hia bước khe khẽ, giáo mác thậm thịch. Một tẹo thì họ trở lui. Chả ai bảo sao, cơ mà ta phải ngâm chốc nhát nữa mới dám lên.
* *
“Chính tại nơi đây, chỗ chúng ta đang dừng chân, tức cánh đồng Đơm, đã diễn ra cuộc trùng phùng với đấng quân vương. Bà Chúa được lâm hạnh…”
* *
Buổi chiều ta đang đẽo chạc ổi cho em Tam thì họ đến. Truyền rằng: “Thị Mầu con Binh Lượng ra hành cung hầu hạ!” Mẹ ta cuống lên bứt xơ mướp bảo cọ sạch chỗ nhựa quậy, xin phép cho cháu tắm gội tý chút ạ. Gì gì đều gạt đi, rằng không cần, nhà chị có phúc lắm mới được gọi vậy.
Ta tất tả đi. Mẹ khóc, không hiểu sao. Cha mặt cứ đuỗn ra, rít chín thôi thuốc lào ngã chổng kềnh. Nhác thấy sau búi tre đồ Phan và Thiện Sĩ, bố con đều nhàu nhĩ, thảng thốt. Ta không muốn. Hình như chả ai muốn. Nhưng nỗi sợ đã làm tất cả hoá đá.
Vị the thé bảo ta bước lại chỗ màn quây, bên trong có chum có gáo, bắt tắm rửa. Rồi lính khiêng đến thùng gỗ lớn kín đầy nước nóng, bỏ vào hương nhu, lá bưởi, sả nhánh, rễ hương bài, những thứ mẹ xông cho ta lúc nóng sốt. Trong buồng quây chỉ còn vị quan viên, ông bắt ta cởi hết xống áo bước vào ngâm. Thẹn đến chín người, mà ông ta như đứng trước thân cây gỗ.
Truyền rằng Mầu ngươi được đức Thánh thượng chọn. Hãy làm Ngài vui lòng, ngâm nước thơm cho bớt mùi nông phu đi. Không được làm gì uế tạp cho xú khí khỏi vương vào da dẻ. Vì thế mà ta muốn đi tiểu đến chết mà chẳng dám. Nhưng tránh sao được vài giọt nhểu ra.
Một người đàn bà, có lẽ là cung nữ gì đấy, quấn ta lại bằng vuông lụa bạch mát ơi là mát, chỉ để hở mặt mũi. Ba người lính nâng ta bê sang một “căn phòng” khác, cũng chỉ bằng mùng quây lại, đặt nằm ngay xuống đất. Quay sang trái rồi sang phải, té ra là triền đê sông Tiêu, chỗ ta hay cắt cỏ và nô nghịch, có khi lăn tròn từ mái xuống dệ. Bên trên, trời xanh ơi là xanh, chẳng gợn vảy mây. Ta khát khô cổ, chẳng dám kêu.
Rồi Đức Kim Thượng bước vào, bóc tấm vải bọc thân ta trần truồng, ngắm nghía giờ lâu mới ấp mặt hít hà. Tay ngài khô và lạnh, bộ râu lưa thưa quét trên da chẳng dễ chịu. Ngượng ngùng và sợ hãi, ta cứ nhắm nghiền mắt, cứng hết người. Mình rồng phủ lên người ta nhưng không đi vào, chỉ hít hà đám tóc rối, dụi trên cần cổ. Nhột nhạt không chịu nổi. Lủng lẳng giữa hai chân Ngài là đám bèo nhèo, mềm oặt. Được một khắc Ngài nhỏm dậy mặc lại long bào. Ta thu lu trong tấm lụa, gục đầu xuống gối chẳng dám nhìn.
- Cô là thôn nữ ở Bùng à? Da không mịn nhưng mình mẩy thơm lắm.
Đức Vua lẩm bẩm, không rõ là có nói với ta. Lấy hết can trường, ta ngẩng lên nhìn vào Ngài. “Bệ hạ có vừa lòng không ạ?”
- Trẫm xong rồi. Nhà ngươi vẫn là trinh nữ.
* *
“Bà Chúa đã đem thân thể trinh nguyên, hun đúc tú khí những hoa trái tươi ngon, bờ xôi ruộng mật, tiếng trống chèo rộn rã, mái rạ bốc khói chiều hôm của một nơi thôn ổ bình dị, của cả quê hương dâng lên trọn vẹn cho Đức Vua. Trên đồng Đơm, chỗ triền đê này, long thể đã chấp nhận chúng, hoá hợp lại, như một cuộc giao hoà giữa đất và trời, trên và dưới, âm và dương, lòng dân với ý thánh tôn cao cả. Nó cho thấy sự bình dị của ngôi sang, sự vươn tới thánh thiện của kẻ dưới…”
Giọng chủ tế ngân nga. Ông trưởng ban văn hoá xã, người soạn bản văn đứng cách mấy bước gật gù: “Có thế chứ. Đọc có hồn lắm!”
* *
“Người vẫn là trinh nữ!” Khỏi nói thì ta cũng dư biết điều ấy. Đức Ngài đã xốc xống áo, lấy lại vẻ cao vời bước ra khỏi buồng quây. Để lại cho ta một phận đàn bà (ta đã mất cái ấy rồi, trong mắt thiên hạ) với bao đa đoan, mình không còn là mình. Và là ai, thì chưa biết.
Trong chung chiêng, ta không được ở lại căn nhà có mẹ hiền đảm, bố củ mỉ cù mì và lũ em hôi hám. Ta không được như chị Nhài, sang hai nhăm đã năm đứa. Căn buồng bà đẻ kín mít, tanh tưởi, có thúng tro để các thức bẩn thỉu dưới gậm giường, nhưng chị được an phận là mình, làm con gà mái sòn sòn đến hết trứng chứ chả chung chiêng như ta.
Làng Bùng, rồi cả tổng Diêu Canh xúm lại dựng ngôi nhà cho cô gái đã thọ lộc vua. Tre pheo, lợp lá gồi, nhưng nó thoáng rộng, có kiểu cách chứ không bí rị như nơi cha mẹ. Bộ trường kỉ tre, cái sập gụ, lồng chim trước hiên, thật là thích. Ta ăn trắng mặc trơn, có một người tớ gái sàn sàn tuổi luôn “tâu lệnh bà”, dằn dỗi mãi thì rằng làng bắt thế. Mãi mới chuyển sang “thưa cô” được, mà chỉ lúc hai đứa với nhau. Thiện Sĩ chả còn là gì. Cái hôm anh ta tuân lệnh chánh tổng viết đôi câu đối đem đến treo, ta nắm tay (chả gì ta cũng có hơi trai rồi) hỏi: “Cái việc của em với chàng thì sao?” Sĩ rụt vội, mặt xanh xám nhìn quanh: “Phận ấy kể như không có. Coi là tôi mất phần sêu hai Tết”. Khinh khi anh chàng hèn hạ, ta chợt nhận thấy từ nay kinh khủng biết bao.
* *
“Bà Chúa có lòng nhân từ, hay giúp giập người xung quanh. Trong khi chờ đức Hiến Tông cho kiệu về rước lên kinh, nàng chữa bệnh cho trẻ, dạy dân nghề canh cửi. Một dải ven sông Tiêu mướt bờ dâu, cả tổng lách cách tiếng thoi đưa. Hiềm vì mình rồng ở quá xa …”
* *
Từ nay ta là kẻ trên trong làng, hơn hẳn bà chánh vàng đeo đầy người. Lũ vợ đám lý trưởng, lý mua càng không là gì. Sang thế mà xa cách, trống toang toàng toàng. Có đứa trẻ sài đẹn, ta mài miếng quế thanh cho uống. Sang nhà Nhài gỡ đám tơ rối, hăng hái, cậm cụi kẻo phát điên. Đêm về nhà như cái lồng hổng thênh thang mỗi bóng mình. Ta chạy về chốn cũ, ngả người trên chiếc giường con gái, nó ngắn ngủn để không thể nằm ngửa. Cha mẹ ra xua.
- Con lạy mẹ cho con về. Cám khoai mặc lòng, còn hơn nằm xuống lại nghĩ đến ma. Con còn con gái, chẳng nhẽ không được lấy chồng, hoa nguyệt rồi chửa đẻ nữa sao?
- Phỉ phui con ơi. Gì thì cũng đã rồi, không chữa được.
Chánh tổng, lý trưởng, cả đồ Phan đến, dõng dạc: “Cô nương đã là riêng của đức Kim Thượng, không thể tự nhiên như đám nụ cà hoa mướp ngoài kia nữa”. Ta lủi thủi về “nhà” theo chú dõng, mở lồng cho những sáo sậu vàng anh bay ra.
Nhà Thị Kính có đám hỷ. Anh chàng đã sêu Tết ta xống áo nghênh ngang đón cô ấy về. Chả hay đã quên ta hẳn…
* *
“Bà Chúa là người đức hạnh, ở vậy đợi chờ, một lòng chỉ tưởng đến Quân Vương. Ngài Ngự ở xa, trăm công nghìn việc toàn đại sự, chưa đoái lại nơi thôn dã từng dừng chân, qua đêm trên cánh đồng Đơm. Đến bữa Bà Chúa xới hai lưng cơm, một dâng lên Ngài Ngự đang ở xa, một cho mình…”
* *
Ăn không ngồi rồi rực mỡ, ta hệt mấy vợ lính vắng chồng, đêm đổ thóc ra xay, vần cối huỳnh huỵch, mồ hôi nhoẹt dải yếm mà không thể ngủ. Trời rét chết đám cải mới vãi mà phải ra ao trầm mình cho lũ bèo mơn man. Thân ta nóng ran khi nghĩ đến bàn tay người ấy mân mó đôi nhũ hoa, dù nó lạnh ngăn ngắt. Đức Vua không mạnh, điều ấy rõ, nhưng vẫn có hơi lạ khi phủ lên ta, mở ra một cõi chưa từng trải, chỉ có thể bước vào chứ không quay lại được. Ta tưởng sang đôi tay Thiện Sĩ lóng ngóng treo câu đối hôm nào, chả biết nó có nóng. Trời đất ạ, ta không được quyền tơ tưởng nhục thể kia mà.
Trong tốp thợ đến dựng nhà ngang có Đức Trường, trượt thi hương nên vứt bút lông sang cầm đục chạm. Chàng cởi trần cột tóc, không vai u thịt bắp mà mảnh mai, săn chắc. Lưng ấy chắc “đục” phải biết. Lúc Trường tra xong con xỏ, tụt xuống, ta bưng bát chè tươi lại, sóng sánh: “Uống cho đỡ khát, bác phó”. Chàng uống tự dưng, mắt không cụp, trong khi ta bất giác rụt tay lại. Rồi vắt vẻo trên cây đà mà hát.
Rằng:
Bớ cây xoan đào
sao cứ đu đưa
có biết con chiện
đã mỏi cánh rồi
Mỏi cánh rồi thì phải bay thôi…
Ới làng nước ơi
có thấu chăng cái nỗi bay bay…
Ta trở vào, hình như sắc mặt có dậy, ngồi trong nghe tiếng gõ khoan nhặt mà đoán người đang làm gì. Làm gì chả biết. Có một lúc lại vén ống quần lá toạ gí vào gốc chuối. Bố láo bố toét đến thế là cùng!
Đêm, đang lọc xọc cài then thì có bàn tay chặn lại. Đức Trường lách vào, sừng sững nhìn. Đương khi mắt ta lảng tránh thì sấn lại ôm thin thít. Ta xây xẩm như phải cảm, trong đầu có đám rối không cho chống đỡ. Cho đến lúc Trường xìu xuống, hổn hển trên người ta, ta mới hết cả hồn. May là con “thị nữ” đang tuổi ăn tuổi ngủ đã pho pho.
* *
“Những đêm vò võ, ngày khắc khoải chờ mong không làm mòn lòng thuỷ chung. Bà Chúa một mực chỉ hướng về Chúa Thượng. Nàng thường dừng tay đưa thoi, nhủ con hầu rằng: “Ấy, Ngài đang rong ruổi trên mình ngựa, chả bình Chiêm thì cũng là dẹp động Mán thôi”.
* *
Ôi chao là những run rẩy đợi chờ. Nghĩ đến là nóng ran. Gặp nhau là mê man rồ dại, điên cuồng ghì siết. Mắt ta long lanh, môi khô ráo, má dậy rực rỡ đến nỗi con hầu ngạc nhiên: “Sao hôm nay chị nhuận sắc thế?” Được cái là nó tốt giấc, chập tối đã díp mắt, ta bảo để bát đĩa đấy là lên giường không vẫy tai.
Đêm sau Trường đến muộn, khi đám dõng đã sát phạt trong điếm. Đẩy cánh cửa không cài then, chàng lách vào, đứng áp tường nhìn ta đăm đắm.
- Có chuyện gì ư? – Ta hỏi.
- Tôi chả ngờ cô nương vẫn còn trinh tiết.
- Em chỉ là của rơi của vãi của bề trên. Đức Kim Thượng có biết làm gì đâu. Có đâu như chàng. Em trọn vẹn là của chàng.
- Điều ấy làm tôi sợ. Bề nào tôi cũng đã có vợ, cô nương gì gì cũng vẫn là của cải của Vua. Đức Ngài đã rờ đến thì không thể chạm vào như hút cái điếu chung.
Ta chan hoà nước mắt. Sự khai mở vừa dồi dào đã vụt tắt. Sao Trường không thể coi ta như con Thị Mầu hái đỗ bẻ ngô bình thường. Nhưng chàng đã đặt tay lên vai ta: “Thôi nào, chả nghĩ xa xôi nữa. Đây nhớ đấy cả ngày, nhìn nước mắt mất cả vui”.
Sự thể còn hân hoan hơn hôm đầu. Ta đã dạn dĩ, chủ động hơn trong dâng hiến. Ta cũng kiếm tìm chàng, lắng nghe những đợt sóng của mình, biết chờ đợi, dâng nó lên đúng lúc. Ta đã là một đàn bà thành thục, tỏ rằng mọi bổn phận, đức hạnh đều chỉ là mớ rau con tép so với niềm vui này. Còn gì lớn hơn, trọn vẹn, thần thiêng hơn là đôi bên trọn vẹn trao gửi, dìu nhau đến tột đỉnh sung sướng, nó làm ta phải cố mà kìm lại tiếng rên dài. Mái nhà, con mèo cái ném tiếng tru vào đêm đen.
* *
“Trong hàng xóm có bao nhiêu vợ lính vắng chồng là bấy nhiêu nhà được Bà Chúa đến thăm, nhủ rằng phải gìn giữ tấm thân trinh liệt. Bà Chúa là tấm gương cho cả tổng Diêu Canh, có 142 đàn bà đêm ngày tằm tơ canh cửi cho chồng đang chiến trận hay sôi kinh nấu sử tận kinh đô”.
* *
Rồi ta tắt tháng, nôn khan. Chúm nhũ hoa thâm đen, đến kì không còn bẩn mình. Một đêm vuốt ve xuống dưới, Đức Trường ngẩn người thảng thốt. Chàng đã không còn hăng hái, hỏi chả bảo sao.
Mấy hôm không sang. Ta gọi lý trưởng bảo thay khung cửa, hình như tre ngâm dối mà chóng mọt. Đến đục đẽo là ông lão sáu mươi, bảo Trường đã bê vợ con làm ăn nơi xa, khéo đang kéo cưa lừa xẻ trên tận Hưng Hoá. Nghĩa là rừng xanh nước độc rồi…
Mình dưới lên lùm lùm. Làng mang đến những lá lẩu chết tiệt, bảo uống cho ra thai. Ta chẳng bỏ con. Nó chẳng những là máu thịt, mà còn là hồn cốt, kỉ niệm của những ngày đẹp nhất trong đời ta – mãi ta mới ngộ ra thế. Con của Trường ra đời sau những bẽ bàng, cô quạnh, nhưng thật xinh đẹp. Ta rờ rỡ vén yếm cho con bú, bầu vú thây lẩy, mọc gai gạo không còn gọn ghẽ, hề gì. Bảo làng rằng làm gì thì làm, ta tình cờ gặp bố nó trong buổi thăm vườn dâu. Gọt đầu bôi vôi lột quần áo dong đi khắp chạ, cứ việc!
Hương câm đồ điếc bàn mãi, mất ba chum rượu với lũ lĩ lòng lợn thịt chó, không nhất định được. Chả ai dám phạt quý cô nương đã được thọ ân sủng từ ngôi cao tót vời. Nhưng ta bị cướp mất con, đưa sang chùa. Ngực ta rừng rực tức, đêm tru như con chó cái. Con hầu cũ phải đòn vọt, đổi đi. Ngoài kia, người ta vuốt lại cho phẳng sự tình, yết với chúng dân là Bà Chúa đổ bệnh vì mong chờ Ngài Ngự lâu quá.
Được cái người nuôi con là tiểu Kính, bỏ lên chùa vì có chuyện gì đấy với nhà chồng.
* *
“Bà Chúa bắt đầu nhận con nuôi. Năm đứa trẻ vô thừa nhận được đem về, tắm táp khỏi tanh hôi, vận áo mới. Căn nhà sơ sài đầu làng sáng bừng lên trong tiếng ầu ơ bi bô, mặt mũi bà mẹ rạng rỡ vì bận việc công đức”.
“Chẳng bao lâu chúng lớn lên, bay nhảy, giúp bao việc có ích cho đời. Nhưng đi đâu về đâu thì vẫn nhớ về tấm lòng bao dung…”
* *
Ta đã bẩn mình, người gọn ghẽ trở lại, dù da bụng có những vết rạn như sóng bể. Gái một con long lanh, ta làm tức mắt đám đàn ông trong làng. Thật tội nghiệp, họ hau háu vào gáy, vào lưng, bắp chân ta, nhưng trước mặt phải “tâu lệnh bà”, mắt mũi cụp xuống. Cũng có gã táo tợn chằm chằm như sắp nuốt sắp vồ nhưng chẳng dám tiến xa hơn. Bố bảo chẳng dám dùng chung với Vua.
Nghĩ càng giận và thương Đức Trường. Chàng thật táo gan đánh cắp phẩm oản trên ban thờ, đánh thức nơi thiêng liêng những điên cuồng rồ dại. Bỏ mà đi thật hèn hạ! Nhưng chàng phải bảo toàn mạng sống chứ! Không sống còn đâu hưởng những hoạ phúc trên đời. ở nơi xa, trong lán xẻ giữa rừng sâu, chàng còn nhớ những đêm tưng bừng. Ơ này, giọt máu của chàng đang trong tay Thị Kính, cô nàng an phận cũng chả được số mạng tha nào…
Giờ thì ta đẹp cho ai, óng ả, giòn nẩy cho chó đực nào? Hẳn chẳng phải cho quân vương, cái gã người chả ra ngợm bèo nhèo một dúm vô tích sự, cái thằng nghìn lần đáng chết khiến ta nhớ đến phải nghiến răng kèn kẹt. Chị Nhài đã đẻ đứa thứ bảy, hôi như cú, vú thòng quá cạp quần, mà ta còn chẳng được bằng.
Thiện Sĩ lại sang, phết phẩy gì đó trên bức hoành, cụp mắt khi ta bước lại. “Chàng quên hẳn em rồi à?”, ta nắm tay mềm thượt trêu, Sĩ lúng túng giật ra rồi ù té chạy.
Giận đứa thư sinh mặt trắng. Muốn đấy, tiếc lắm mà chẳng dám nói ra. Ta lấy mai đào chỗ đất Sĩ đứng đổ chuồng chồ. “Choang!” Thẳng tay ném cối đá xuống sân, kình lực mạnh khiến nó vỡ đôi. Ta khoẻ thế ư?
Ngoài kia gươm khua. Đám khố đỏ khố xanh ra trận. Hương dõng làng cũng đi sạch. Những căn nhà trống toang. Đàn bà đêm đêm ra ao ngâm. Thơ giết giặc của Thiện Sĩ thật hào sảng.
* *
“Giặc đến. Bà Chúa nấu cơm trộn muối vừng nắm lại, bọc lá chuối chia cho quân sĩ ra trận, như muốn gửi lòng mình đến nơi đức Quân Vương đang xông pha”.
* *
Ta xuống tóc, bôi mặt, giận giày cỏ sung vào một đội lính. Việc khiêng vác, lăn lê huỳnh huỵch có coi vào đâu, chỉ tội nằm chung với mấy chú trống choai ngửi mồ hôi và rắm rít. Vui lắm, khi nghe câu “da mịn nhỉ, đằng ấy là gái đố thoát khỏi tay tớ”. Ta lui lại kịp khi bàn tay vô tư kia định thộp vào ngực. Cậu bé ấy ỉa đống cứt đến là lực lưỡng, hay hát những câu bông lơn như Đức Trường.
Tướng quân họ Đỗ xuống bếp khi ta đang lúi húi bên vại cà. “Ta biết cậu là ai”, nói rồi dằn xuống mạnh tợn. Ta đẩy ra nhưng mắt sâu râu rậm cứ ập vào nhột nhạt không thể tả. Xong rồi người ấy xuống lệnh “tối tối lên hầu ta ở quân doanh”.
- Nhà ngươi không sợ chết ư?
- Chết vì đàn bà là sướng nhất! – Họ Đỗ vuốt râu – Đất nước này lịch sử do ở tay đàn bà cả.
- Thế còn lính tráng, những người mở mang biên cương?
- Mở mang xong chả biết làm gì cả.
- Còn kẻ sĩ với những câu thơ để đời…
- Hạng ấy càng không đáng nói đến!
Được mươi đêm vui thú thì tong. Nhát gươm giặc xẻ tướng quân làm đôi, chỗ dưới bụng còn nằng nặng cứng cỏi. Ta quá sợ hãi không dám vào chỗ mai táng, nhìn xuống dưới hỏi liệu có ra thằng con rậm râu nữa…
Trên sức xuống, rằng tên Mầu ở đội hoả đầu phải xuất ngũ về quê. Chia tay với những mộc mạc mến thương chân chất và những đôi chân quấn xà cạp mùi rất nặng. Chú lính vồ trượt ngực ta hôm nào trao cái cối trầu, dặn “của mẹ tôi đưa để ngửi hơi, cậu đem về hộ, sợ rằng cũng không sống được lâu”.
* *
“Đồng Đơm để trống. Buồm ngoài sông Tiêu xếp lại. Làng xóm toàn khăn tang, những tiếng hờ ai oán”.
* *
Chùa làng chả còn tiếng trẻ. Kính Tâm, đã lên sư bác, bảo “đã thành con Bụt rồi là lẫn vào bụi trần. Còn chút máu thịt của chị, chỉ cần biết nó còn đang yên lành trên đời là được rồi. Mà Mầu chả được cái tích sự gì cả, chỉ làm mọi sự rối tinh lên. Tôi đã khuyên Mầu an phận rồi kia mà”.
Gươm khua mãi, người ngựa đều đã mỏi. Quân sĩ máu me đầy mình lê bước qua làng, mặt mày không đau đớn thì cũng buồn rượi. Trong những cơ đội lên thế chỗ có những gương mặt quá trẻ làm ta nao lòng. Khi thúng xôi, khi nong cà, ta tìm cách tiếp sức cho họ, để được mau trở về quê hương hoà bình. Giấc mơ hiền hoà yên ổn luôn xát muối vào lòng mỗi người dân. Cứ thế này thì bao giờ câu ca tiếng hát mới tỉnh tình tinh, những nhân tài bình tĩnh ngồi nghĩ việc lớn cho đời?
Có những chiến thương vào tá túc, được ta chạy thuốc, phục sức. Cậu lính cụt tới háng khóc rưng rức: “Chị ơi, đời đẹp vậy mà em ra vậy”. “Trẻ thì đây, chị cho biết sự đời”, ta nói sau hồi trầm ngâm. Chúng ta nhập vào nhau thật tự nhiên, không kiểu cách, như là để bù đắp những thất thiệt cho cả hai. Xong cậu bé roi rói tươi “giờ thì em chết được rồi”.
Một hai đận thế. Rồi thương binh không được dừng ở ngôi nhà tre gần đường cái quan nữa. Nhưng lính lên phía trước vẫn đi qua. Ta giao hoà với các cậu trẻ măng, mặt búng ra sữa được. Trẻ, khoẻ và vụng về trong ân ái, họ nâng niu ta lắm. Muốn thì chị cho, tiếc làm gì cái thuộc về người ta mà người ta không muốn giữ.
Những đêm hân hoan bi thảm. Chân cẳng chạy vội ngã dúi dụi trước nhà. Ấp a ấp úng, nhút nhát mà cuống quýt, vui không tả nổi. Xong rồi lại vội về với cơ đội kẻo mà lộ chuyện bị đấm đá đạp. Dầu vậy họ không thể nín miệng. Giấc mơ về ngôi nhà có người đàn bà đẹp một mình ám ảnh cả đạo binh lên phương Bắc.
Làng họp, tất nhiên chỉ toàn hương chức. Hương câm, đồ điếc ai nói nấy nghe. Lý Mùi lẩy bẩy. Đồ Phan bình tĩnh tách bạch: “Bà Chúa đã quá mệt nhọc với việc chăm sóc quân sĩ, nên nghỉ ngơi cho nhàn hạ, kẻo mà Chúa Thượng trở về phải nhọc lòng trước nhan sắc tàn phai”.
Tiểu Kính Tâm đã hoá. Con ta lẫn vào đám trần gian. Đương khi đau đớn tơi bời, ta bị gọi ra trước đám kì mục kì nát chứng kiến cuộc khấn vọng. Rằng, chúng thần bất tài vô hạnh, cố giữ cho tổng một tấm gương trinh liệt mà không được. Tâu Đức Hiến Tông đang chạy giặc nơi xa, sức đã cùng, lực đã kiệt, chúng thần phải quả quyết một chọn lựa mạnh tợn, kẻo rồi mai này bị quở.
Còn chưa thủng thì bị ghì xuống, lột ra. Đồ Phan, chính là lão già đủ nho y lý số ấy, quết vào cửa mình ta thứ nhựa sền sệt, đâu như để trám thuyền. Chân đè tay ghì, những lực lưỡng không cho giãy giụa, đến khi nhựa khô hẳn. Ta không đi nhanh được nữa, mỗi bước cất lên đau đớn vô cùng.
- Đồ chó má các ngươi. Độc ác, tàn ngược quá quỷ dạ xoa!
Ta điên tiết gào lên, nghĩ đến cái của nợ nó cắt tất cả mọi sinh lực, vui thú, làm mình ra tàn tật. Đồ Phan kính cẩn:
- Cô nương sẽ quen dần. Tôi đã để một lỗ làm chỗ bài tiết.
- Cha con đẻ mẹ chúng mày. Ta mắc tội gì mà khiến bạo hành?
- Chúng tôi chỉ là con chó giữ của cho Chúa Thượng. Cô nương dùng hoang phí quá phải bít lại.
- Ta là đàn bà. Ta muốn sống như buồng chuối kia qua thì chát xanh thời chín tới chứ không phải cái thây đi lại nói năng.
- Chúng tôi đã nhiều lần khuyên ngăn, cô nương chẳng thủng. Phàm đã được thọ lộc của Chúa Thượng thì phải giữ lòng son, làm tấm gương sáng cho chúng dân soi vào.
- Chúa Thượng nào? Chỉ là con chó không có dái, trèo lên bụng ta còn lẩy bẩy.
Hương chức thất sắc xông lên bịt mồm ta, lấy chỉ buồm ra khâu, để lại một chỗ đổ nước cháo. Đẵn cành dâu rấp kín chỗ ta đứng, chúng quay vào đám lòng lợn tiết canh, lâu lâu nhảo ra ngó.
Canh giữ là mấy chú hương dõng, có dao mác nhưng chả oai hùng gì. Dù vậy thì ta cũng hết sức làm loạn. Máu đổ ra các cửa. Ngực đỏ bầm cương lên rỉ sữa máu. Dưới đùi chốc chốc một dòng âm ấm, nhặng bu vào mà không thấy tanh.
Sáng ra có tiếng năn nỉ “Lệnh bà không uống tí nước cháo thì chết chúng con”. Ta đứng lên chuệnh choạng ra cửa đình. Trước mặt là đống bãi tươi non, sáo sậu líu lo, những câu trai gái ve nhau, vạn vật trong cơn sinh nở bất diệt
* *
“Bà Chúa thăng khi mới hai mốt tuổi, sau một cơn bạo bệnh, hai ngày đêm không ăn gì, hớp cháo cầm hơi cũng bỏ. Đến lúc mê sảng chỉ một mực đòi gặp Chúa Thượng. Làng làm ma nghiêm nghị, táng ở núi Sam, mối đùn mỗi ngày mỗi to”.
“Văn biểu nhận tội trình lên kinh do họ Phan chấp bút, rằng đã không chăm sóc, yên ủi được người con gái đã được thọ ân sủng của Đức Vua, xin chịu mọi hình phạt. Im phăng phắc chờ. Rồi có tờ sức về miễn tội cho chức dịch, nhủ cần đem tấm gương trinh liệt, trung thành với Đức Ngài của Bà Chúa soi sáng cho dân theo”.
“Bấy giờ đất nước đã yên hàn. Thanh bình trở lại. Làng kêu xin bộ Lễ, bộ Lễ trình lên ngôi cao vời. Đức Hiến Tông chả tiếc gì người con gái đã tận tuỵ vì mình, phong cho Bà Chúa Trinh Liệt chức Trung đẳng Linh thần”.
“Suốt mươi năm làng quay đi quay lại, thấy chả còn ai dũng cảm hy sinh, chả ai đi xa học nghề truyền lại, mà rặt những loại nông phu chăm chỉ, thầy đồ ăn dỗ trẻ. Bèn cật sức kêu xin nữa, thì được phong chức Thượng đẳng Tối linh thần cho Bà Chúa, làng được thờ phụng làm thành hoàng, ghi rõ trong sổ bộ Lễ. Bấy giờ mới cậy sức dân đóng góp xây nên ngôi đình Trinh Liệt nguy nga tráng lệ như ngày nay”.
* *
Phần lễ đến đây là hết. Hội dâng lên rùng rùng những trống chèo, lênh khênh đám cà kheo. Cộ muốn trả thù Kễnh, tranh thủ lúc nó dướn lên xem tụt quần xuống đầu gối phô bìu dái đen như cứt phơi ba nắng.
Cụ Nhận đã mệt, sai Thắm đưa về. Ông di tích gọi nó vào lấy lộc, bảo ôm cam quýt với chuối với sung vào lạy tạ Bà Chúa. Trong hậu cung, Thắm thất kinh thấy tượng Bà nhuốm máu toàn thân, nhỏ cả vào chân nó.
Hết
Nguồn: nguoidaibieu.com.vn
Phần 1
Phần 2
Phần cuối
Làm sao cứ phải tại sao
Trần Chiến
Có một điều làm Lanh luôn bứt rứt ngày về nhà cao tầng, là đi cầu thang máy. Chui vào cái “hộp” sắt, nhỡ nó tắt điện dừng nửa ngày, hay có thằng nào bất chợt lôi súng lục bắt tòi tiền ra như trong phim hành động Mỹ, chị không nghĩ đến. Mà lại là cái cách người ta tỏ ra khi đứng gần nhau. Những chủ hộ đăm đăm bắc bậc, những ông già bà lão biết ngay đang sống nhờ con, những nhân viên văn phòng..., sao phải lạnh lùng dù ngày giáp mặt mấy lần không trong “hộp” thì cũng chỗ để xe? Chị luôn luôn muốn hỏi han về giá rau sau trận lụt, thậm chí ở căn nào tầng mười mấy nắng tây chiếu vào có nóng không, nhưng mỗi lần muốn mở miệng lại bắt gặp cái nhìn lơ đi. Hỏi, thế nào người ta cũng trả lời, nhưng lại rất sợ sau đấy chả muốn đôi hồi thêm gì nữa. Những tranh quảng cáo luôn thay đổi trên vách chả hấp dẫn chị. Đã có lần, không mệt nhọc, Lanh lên cầu thang phụ, mệt thì nghỉ, đằng nào cũng tới nơi.
Nhưng cái gì thì cũng phải quen đi. “Hộp” là một chỗ dừng khi ta từ ngoài phố về nhà hay ngược lại, cuộc đời lắm chỗ dừng thế, tại sao không lấy đó làm chỗ nghỉ? Nghe thế, Lanh chả cãi chồng được nữa, nhưng còn cố đèo: “Nhìn những mặt người ở chỗ chờ đèn xanh em thấy kinh lắm...”. Đèn đỏ đèn vàng bến xe bến tàu đều là chỗ phải có trong đời con người ta chứ, và không nhất thiết phải bắt chuyện nhau ở những chỗ đấy; chuyện với chả trò của Lanh nó cứ vớ vỉn vậy.
Thế mà có lần cái hộp làm Lanh được thơ thới. Đón con ở mẫu giáo về, chị bước vào, cũng chả để ý đến ai. “”Na chưa chín con ạ”, chị bảo khi cu Bún cứ chằm chằm vào túi hoa quả, “bao giờ nó chín thì nó chín”. Đang khi thằng bé thất vọng thì có câu bay ra từ đám vô hình vô ảnh: “Nếu mà ăn hết một bát rưỡi thì na sẽ mở mắt...”. Bé nhỏ, tít trong góc, trông rõ là quê tuy quần áo chả hề tồi tàn, bà cụ ấy tiếp tục toả ảnh hưởng đến cu Bún: “Bé thế này mà ăn khoẻ lắm đấy. Na mở mắt tức là nó bảo cháu ăn đi, ăn được rồi”.
Nhưng mà chị phải thắp hương cho na mau chín.
Bà cụ nói khi hai mẹ con ra khỏi hộp. Nhìn số bấm cầu thang bên ngoài, Lanh nhận ra cụ đang xuống. Lên tới tầng của mình chỉ để nói chuyện thôi a...
Bữa chiều Bún ăn khoẻ, và Lanh thắp hương, cái việc chị chỉ làm ngày rằm ngày một. Sang ngày sau, ở trường về, được chén na “mở mắt”, Bún một mực bắt mẹ đi tìm “bà Na”. Không biết tầng, Lanh dắt con lượt phượt xuống các hành lang bên dưới. Đang ngần ngại trước những cánh cửa im ỉm thì Bún ùa lại cái góc có bàn tay vẫy vẫy. Đúng là bà cụ, ngồi sau cánh cửa sắt, bên trong là những đồ đạc sang trọng. “Thế na mở mắt rồi hả? Cháu bà ngoan lắm, xinh thế này thì cô giáo yêu lắm đây. Bà muốn ra với cháu nhưng chị Linh mang chìa khoá đi chợ rồi. Bạn Hồng bạn Khang bạn Định á, cô giáo Hà á, có khi bà cũng biết đấy...”. Chuyện rôm rả nhưng không thể kéo dài quá đôi bên cửa sắt và Lanh đã không thể quên bàn tay vẫy vẫy. Hệt cái lá. Người già là đoạn con trẻ thứ hai, có những “tín hiệu” đồng điệu với Bún, hay thật đấy. Những tầng chín, tầng mười sáu, hai tư, có bao nhiêu bà cụ ngồi sau song sắt đợi nguời qua bắt chuyện?
Lần gặp sau ở cổng trường mẫu giáo. Bà cụ đứng bên hàng rào ngó vào, trên gương mặt nhăn nheo, cái nhìn vừa rạng rỡ vừa đăm đắm một vẻ rất khó gọi ra. Cụ chả có cháu nào để đón, chỉ đứng nhìn cho vui thôi, gặp hai mẹ con thì mừng ra mặt, âu yếm thằng cu, kêu rằng má nó dính nhưng thơm lắm. “Cháu tôi lớp chín, hồi bé cũng y vậy, giờ không bi bô nữa mà suốt ngày “chít chát”. Thấy Lanh quan tâm đến cái túi trên tay, cụ bảo “tôi thắp hương ông Đường”.
- Ông Đường nào ạ?
- Hàng xóm trên quê. Có con đi xa cả, một đứa bảo làm hàng gội đầu nhưng có người bảo làm gái, một đứa tranh khách ở bến xe... Ông ấy uống rượu rồi chết đuối, hôm nay ba năm chả biết có đứa nào thắp hương...
- Bà ơi, ngày trẻ bà trắng lắm nhỉ, Lanh hỏi lúc cả ba giắt dây về Hai tư tầng.
- Tôi hát chèo, đóng Xuý Vân, còn ông ấy Kim Nham.
- Thế ông cháu đâu rồi ạ?
- Đi hồi tổng động viên, không về. Tôi muốn vào Quảng Ngãi tìm mộ lắm mà chúng nó bận quá.
- Thế tên bà là gì để cháu còn gọi. Thằng cu nó cứ gọi là bà “Na”, nghĩa là bà quả na ấy ạ...
- Thì bà là bà Na đấy, cũng như cháu là Bún.
Bà cụ quay sang thằng bé âu yếm, trong khi Lanh tự hỏi đời người ta mấy khi được cười rạng rỡ vậy. Hỏi rằng sao bà không lên cháu chơi, bà đáp, cửa nhà nào cũng đóng, gõ cửa hãi lắm. Nỗi do dự của cụ lan sang Lanh. Người thành phố nhất là những anh chung cư mới xịn ai về nhà chả đóng tịt cửa, chơi với người cuối tỉnh mà chả biết hàng xóm mặt ngang mũi dọc thế nào... Chị cẩn thận mời cụ lên quá tầng trên cho biết nhà, và lại dặn ngoài giờ chúng cháu đi làm thì cứ sang chơi. Người được mời không mời lại nhưng có ý bần thần. Nhưng thôi, chả hỏi thêm, Lanh nghĩ, giữ “kiến giả nhất phận” như cái câu Trân hay nói.
Những ngày sau, chị biết thêm về quê cụ, cái làng đất đai bị rửa trôi sau mỗi trận lũ chả trồng hái được gì, chỉ trông vào giống tre dẻo làm đòn gánh đỡ đau vai bán khắp các chợ trong vùng. Ông Đường vừa sang cát, giỗ to nhưng xong thì các con đi ngay. Và nhà bà Cung vừa mất con lợn, ăn phải đống vỏ sắn hồng hồng đâm say, tiếc thế. Đến lúc biết con cụ làm ăn được, ngày ngày đưa con đi học với vợ đến sở bằng ô tô, nhà nuôi một người ở chuyên dọn dẹp bếp núc với một cái Linh chỉ trông nom thằng bé giờ đã lớn gộc chả cho tôi làm gì thì Trân thủng chuyện, dặn vợ: “Em hay chuyện quá người ta bảo mình tọc mạch cho”.
- Cụ cứ nói chứ em có hỏi đâu.
- Thôi cụ nhà quê nói gì thì nói đừng bắt chuyện quá.
- Thì anh cũng nhà quê đấy thôi. Anh cũng muốn quên gốc gác à?
Lanh hơi bực, hơi hơi gắt, làm Trân phải thôi. Thôi là phải, chuyện chưa có gì đáng phải đôi co vợ chồng. Nhưng “cô bé” vẫn chưa yên: “Anh biết mấy đứa ô sin nói chuyện dưới sân thế nào không? “Quê mi mô?” – “Tau Hà Nội. Còn mi?” – “Tau cũng rứa”. Chồng còn đang cười lăn thì vợ chợt đứng dậy. “Em vẫn còn nhớ cách cầy bừa gieo hạt đấy, anh tưởng. Chỉ có cấy là sợ. Đau lưng chết thôôôi...”. Chị oằn người, giả bộ đấm đấm đằng sau. Cơn tức giận thế là qua nhanh, nhưng Trân vẫn nhớ dặn vợ “chuyện nhà người mình biết đâu để đấy đấy...”.
Lần khác, cu Bún xục tay vào chậu ớt cảnh rồi bôi bẩn quần mới. Bị bố rầy, nó bảo bà Na cũng làm vậy mà. “Tại anh bón ka ly gần gốc quá nó nóng, bà cụ bảo thế. Cụ làm lại đất nó mới tươi lại thế đấy”, Lanh vào cuộc. “Nhưng đừng để con trông thấy nó bắt chước vọc, bẩn dây ra”. “Dây thì dọn...”. “Nhưng mà lại để người lạ ra tận ban công à?...”. Cuộc cãi vã nho nhỏ tan nhanh khi Lanh là người kết thúc: tại anh dạo này hay đi quá, em biết vì công việc rồi nhưng mà vừa vừa thôi. Có lúc chị trở nên tự tin hơn với chồng thế. Trân cũng dừng, nhưng vào một lúc thư thoáng lại lựa lời bảo bà cụ lên chơi thì tốt thôi, nhưng khách khác thì nên “chọn lọc”. Vợ anh chả nói năng sao lại kể nhà dưới ấy có con chó đặt là Mím tên buồn cười nhỉ mà thằng bé con rảnh lúc nào là ôm khư khư lúc ấy, vợ chồng đi về chưa được câu gì đã khảo ô sin tắm cho “em” chưa. Chó có dầu gội, khăn tắm riêng, tắm xong dội dầu xả cho trơn lông, đứng trên bàn cho “chị” sấy khô trông như con sâu lớn. Buổi tối xem tivi hết chồng đến vợ ôm “em”, hôm nào chả bằng lòng nhau thì nựng cho bõ hờn. Toàn chuyện thế cụ kể cho Bún thì hỏi có gì mà đáng ngại.
Cu Bún ngày một quấn bà Na. Bà hay xuống vào buổi chiều tối, lúc Lanh tíu tít làm cơm, thủ thỉ với Bún những chuyện cù rù, một lúc lại lên. Quả là thằng bé ăn khoẻ hơn, má hồng rực vì “thế thì hoàng tử mới bước ra từ ông sọ dừa”. Vào một lúc hổn hển với vợ xong, không ngáy ngay như mọi khi, Trân ngửa mặt nhìn lên trần nhà bảo “không biết bà cụ nói dối thế có hay không nhỉ?”, làm Lanh chả biết nói ra sao. Chỉ có một điều rất chắc chắn: bà cụ xuống luôn thì chị thích, nhưng làm Trân phải bối rối. Bối rối thôi, nếu không thì đã “quyết một bề” cái gì đó rồi. Thực ra là anh rất yên tâm, đã có lần để ý bà cụ chuyện với con mình vợ mình, toàn những thức củ tỷ khoai sắn chả hư hại gì. Nhưng lại dặn “ hình như cụ xuống toàn lúc con cụ đi vắng. Em thử hỏi có phải thế... Nhưng mà thôi đừng hỏi nữa.”
- Nhiều lúc em cũng muốn hỏi, lại thấy cụ buồn buồn, có khi con không muốn mẹ đi chơi. Tội thật...
Tuần mọc răng, Bún làm mẹ phát sốt vì quấy. Phiền não quá, chị đánh liều xuống “bà lên với cháu tý ty...”. “Cái răng nó đang ngọ nguậy đòi ra chứ gì. Nó là em cháu, làm anh khó lắm phải không, cháu phải chiều nó thôi”, có ngần ấy câu là cháu yên tâm “làm anh” còn bà phải xuống ngay. Lần khác bà tự động lên, ra ban công ngắt cái lá vớ vỉn dí vào chỗ má tím vì ngã, xong chả thấy Bún rầy rà câu gì.
Bà cháu thế là dính nhau rồi. Nhưng có một điều thật rõ, bà không thể thường xuyên lên tầng trên, và mẹ cháu cũng ngại vô cùng xuống gõ cửa dưới ấy. Mà đã biết mồm miệng với tâm tính người nhà bà thế nào... Khổ nhất là đoạn cụ vắng cả tuần, Bún như cục thịt thiu trong nhà, đến khuya còn đòi bà sáng ra chả chịu dậy đi trường cho.
“Tôi về trên quê làm giỗ ông ấy. Chả biết mất ngày nào, báo tử có ghi đâu, thôi cứ thắp hương dịp xá tội vong nhân. Thằng con không muốn đưa về, bảo giỗ đâu chả được. Nhưng ông ấy chỉ về chỗ Kim Nham với Xuý Vân ngày xưa thôi, tôi biết thế. Doạ tao ra đi xe khách nó mới cho tài đưa về đấy. Giỗ ở tỉnh sõng sượt, tôi chịu”, bà cụ bảo Lanh, gửi cho cu Bún cặp bánh khúc “bà hái lá ngoài đồng Bông giã với gói lấy”. Nghĩ đến đoạn mang quà về quê cho tưng nấy xóm họ Lanh thấy phát khiếp, chắc cụ phải chuẩn bị trước cả tháng...
Lại hỏi con này bận thì con kia đưa về chứ, nhà người chả thấy nói năng ra sao. Những ngày sau, chả khảo mà tự nhiên xưng:
“Thật là nhiều lúc chả muốn sống nữa. Nhưng chết lại sợ. Con cái có đấy, đứa nào cũng đề huề nhà nọ xe kia ô sin vài bốn, nhưng mình cứ lẻ ra. Nó có nói chuyện đâu ạ, lúc nào cũng tất bật thăm đấy biếu đây. Thằng cháu đi học về lại học thêm, không thì đóng cửa buồng bật máy lên, giờ ăn mới thò ra. Nhà sạch như lau như ly, tôi muối vại dưa thì bảo đừng bớt việc người ở nó hư ra. Đánh được cây ớt vườn ra trồng nó cũng chê, sợ tưới ướt cái ban công. Nhưng tôi cứ trồng, ra phố mua chậu, xin đất, còn là cái thức mọc ở vườn quê của mình”.
“Có khi tôi lên ở chùa, tìm một chỗ xa ra. Ăn mày Phật chùa làng người ta này nọ rồi xấu con hổ cái. Ai cũng bảo tôi sướng, có biết đâu. Cái con mẹ Tích đến tệ, cho gói kẹo còn chê ra tỉnh chỉ có vậy thôi à. Mà có khi tôi sướng thật chị ạ, mà không biết đằng. ở quê giờ đồng đình đồng họ đồng cười đồng khóc lắm tội lắm”.
“Cây ớt mang xuống phải vào ở nhà vệ sinh rồi. Nó mua về một loạt phong lan với những gì gì, chắc đắt lắm. Thế nên ban ngày tôi đem chậu ớt ra hóng trộm chiều tối bê vào. Nhưng ngày nghỉ thì đành chịu”.
“Ông Hán bên cạnh chết khổ quá chị ạ. Cho vào hộp cầu thang chở đi, thấy bảo đem đặt vào tủ lạnh nằm đợi ngày. Thế là không được nghe con cháu khóc bên cạnh, nhìn người đến vĩnh biệt. Mà chẳng có kèn trống thì hồn đi thế nào được. Tôi đi mấy đám thấy điếu văn nghe thật hay nhưng cứ na ná nhau, quê hương họ mạc có cần đọc điếc gì đâu, chỉ bát cơm quả trứng mà thật là thật thà...”
Bà Na ngày càng hay nói về người chết, Lanh nhận thấy thế. Những lời mới đầu còn làm chị tò mò, lắng nghe, dần dần tai nọ tuột sang tai kia, phần vì nhiều việc nhiều chuyện nhãng đi, phần vì thấy cái câu chồng nói là đúng: “Ôi dào, chuyện củ tỷ ấy mà”, lâu lâu có nhớ ra kể cho Trân cũng chỉ lấy đó làm vui.
* *
Bún lên mẫu giáo nhỡ, vợ chồng sáng tất tả dựng dậy nhồi ăn đưa đến trường rồi vội vã tìm cái nhét vào bụng mình rồi đến sở, chiều gọi nhau anh đón hay em đón đây thôi anh đón em còn tạt vào chợ dạo này họ dẹp hẳn bên ngoài không tay giữ xe mồm mà cả mắt nhìn kẻ cắp được nữa. Gia đình như cỗ xe rì rì tiến lên, nghĩa là mỗi ngày mỗi người thêm ít tuổi, chả cần “tiến” nhanh quá mà lấy sự ổn định làm chính.
Mùa đông qua nhanh, mùa xuân qua nhanh. Mùa hạ Bún nhìn thấy cái mũ trên ngọn cây bàng. Mũ còn rung rúc, chắc các anh chị tiểu học đùa nhau vứt lên đấy con ạ. Câu giải thích ngưng lại khi Bún hỏi “Hoá kiếp cho mày” là gì hả mẹ?”.
- Là lúc người ta giết con gà thì bảo vậy. Sao con lại hỏi thế?
- Mím chết rồi.
- Mím nào?
- Mím bà Na.
Phải một lúc Lanh mới nhớ ra. “Con gặp bà bao giờ?”.
- Hôm nhà mình giỗ bác Chính. Bà lên thấy có khách không vào. Lúc bà về quê ra chị ô sin bảo Mím già quá, răng rụng hết, mắt mù hôi lắm, bác vợ gọi người đem đi, lại cho tiền mua đồng riềng đồng mẻ. Đồng riềng đồng mẻ là gì mẹ?
Lanh bần thần. Ngày giỗ ông anh chồng đã bẩy tám tháng rồi còn gì, sao không thấy bà cụ mà mình cũng chẳng thấy sao nhỉ. “Như con sâu lớn đứng trên bàn”, bà cụ đã so thế kia mà. Cái con Mím khốn khổ vào nồi đám cửu vạn hay bay tít lên xóm thịt chó rồi? Kiếp trước nó là gì mà trước sướng sau khổ, có khi là ông hoạn quan hầu vua rồi chết theo vua cũng nên.
Những ngày sau, lần mần với những áy náy, Lanh tìm bằng được ô sin nhà trên. “Bà chết rồi cô ạ. Chết ở nhà bác Nhự anh chú cháu, bà chuyển ngay sang đấy sau hôm ở quê ra thấy không còn con Mím. Các bác các chú thích đốt xác rồi để hoá thân hoàn vũ thăm thú cho tiện thăm nhưng bà bảo đốt thì đau lắm, thích nằm tha ma dưới quê hơn”.
“Quên, hôm sang nhà bác Nhự ở, bà gửi cho con cô cái gì ấy”, cô gái vuông vức như chiếc bánh chưng nói rồi lại quay sang buôn với đám chị em cùng giai cấp về Ri chôn ốc với Kim nhu mì phim Hàn Quốc, thi thoảng để mắt đến cậu chủ đang trượt pa tanh loang loáng dưới sân.
Đó là con chim gỗ xanh đỏ đính cườm làm mắt, một hạt đã rơi, chả có gì hấp dẫn, cu Bún cầm lên xem rồi bỏ xuống ngay. Thấy vợ để lên bàn thờ thắp hương lầm rầm khấn, Trân hỏi cái gì, nghe giải thích xong thì hì hì “em vẫn đúng là một cô bé, có thế mà cũng nghĩ đến chuyện chuyển nhà”.
Rất lâu, Lanh không đi cầu thang máy. Lò dò bước một với túi rau leo thang phụ lên tầng mười bẩy, chị nghĩ đến cái “hộp”, trong đó có người chồng hay cả người vợ nhà dưới đeo băng tang trên tay, sau đó chuyển sang mảnh vải đen trước ngực. Rốt cuộc thì họ có tội gì đâu. Và Trân nói đúng, cái chung cư Hai tư này đâu có dễ kiếm với một gia đình làng nhàng như mình, cho nên leo bộ thế này chỉ có mỗi cái lợi cho sức khoẻ mà thôi. Thế thì làm gì, bận gì mà phải hành mình thêm cho khổ...
Nguồn: Báo Đại Đoàn Kết
Không gian thích lắm
Trần Chiến
1.
Bốn giờ chiều, Lâm dắt xe ra cửa cơ quan. Ăn cắp nửa tiếng. Nhưng đây là đại sự, cuộc “chung kết” của đời người, cần dư dả thì giờ, để mà chuẩn bị một tâm trạng bình ổn. Bằng vào cứ cập rập vội vã, thì lóng ngóng. Đã chẳng có chuyện chàng nói lắp tỏ tình, cứ “anh anh anh…” mãi, đến lúc buột được ra “… yêu em” thì nàng đã bỏ đi xa, đấy à...
Mà Lâm thì không khéo léo, lại chưa kinh nghiệm bầy tỏ.
Nhâm xinh vừa vừa, da nâu mặn mà, chuyện rất hóm. Trong đám sinh nhật, Lâm hỏi “Sao em không ra nhảy?”. “Em chỉ nhảy cẫng thôi ạ!”. Chuyện có đà từ đấy. Khi đã sang đoạn thân thiết, giữa đám đông hai người thường trao nhau cái nhìn ý nhị, lúc chỉ có đôi lại rất ít nói. Đúng lúc Lâm muốn chuyển giai đoạn sang “trên mức bình thường” thì thủ đô mở rộng, cơ quan tách tách nhập nhập, Nhâm đi làm trong Hà Đông. Thêm có sáu bảy cây số nhưng đèo bao nhiêu mệt nhọc. Sự xa cách hay kèm theo nguy biến khó lường. Mất như chơi. Nên thỉnh thoảng Lâm tạ sự thả xe vào Hà Đông tìm em nói dăm ba câu hoặc kéo ra quán, nếu có thể. Càng ngày Lâm càng nghĩ nhiều đến Nhâm, có những câu chỉ muốn tỏ với cô, san sang người khác là vênh ngay. Tình cảm thế là rõ quá, anh phải “quyết một bề”, nhỡ đâu anh khác nó chen vào.
Buổi trưa, Lâm điện tối đi ăn nhé. “Em cứ ở trong ấy anh sẽ qua. Không sợ xa đâu, có chỗ mới mở, không gian đẹp lắm”. Hồ câu “Ngàn xanh” có rặng ổi rủ bóng xuống mặt nước tịch mịch, những căn chòi đủ kín đáo để tâm tình. Cô sẽ để xe lại cơ quan, anh đèo đi, lúc về quay lại lấy. Ăn nhẹ nhẹ, uống vừa đủ, kể chuyện đi Thanh Hóa tuần trước, rồi nhìn vào mắt nhau nói những lời cần thiết, thật ngắn thôi nhưng đủ hiểu, nhất là cảm nhận được nhiều. Cũng có thể không cần nói, mà chạm nhẹ vào đầu mấy ngón tay thon thon…
Nụ hôn sẽ rất dịu ngọt. Nhưng thôi, sao cứ tưởng trước… Sao cứ phải bí hiểm nhỉ, tình yêu ý…
2.
Ngã tư đầu đèn xanh, báo hiệu xuất hành tốt lành, hanh thông mọi sự. Xe bon veo véo, người tha hồ lá la la trong mũ bảo hiểm chả sợ bị ai bảo dở hơi. Đi một lúc thì dòng sông nghẹn lại, rồi lại thông. Nghẹn thông nghẹn thông nghẹn thông, giờ tầm nó cứ phải thế. May mình xuất phát trước nửa tiếng.
Nhà Nhâm ở Mai Hắc Đế, đường phố xinh xắn có hàng bàng mùa đổ lá rất đẹp. Hôm ấy có Lâm, Tâm, Khâm “gáo” và Trâm. Ông bố có vẻ hiền, chỉ chào bạn con bằng ánh mắt vui vẻ. Bà mẹ chốc chốc hành quân từ bếp ra hỏi han, thêm bánh trái hoa quả. “Cốm Vòng đầu nia đây, mời các cô cậu”. Một lát, Lâm biết bà đã tia ra mình là kẻ rắp ranh bắn sẻ. Phụ nữ hàng phố là thế, khéo léo mà lạt mềm buộc chặt lắm. Mẹ vậy thì con gái sao nhỉ…
Nhâm thích bún ốc, tất nhiên, như mọi cô truyền thống. Và lại hiện đại nữa: nghiện cà phê, lên mạng. Cả ngày ôm máy cơ quan, về nhà cơm nước xong lại mang máy xách tay ra quán có oai phai. Thế liệu có khó tích hợp với mẹ mình, vốn hơi quê quê… Lâm biết nhiều bà mẹ trẻ kiếm ra tiền, về nhà vồ vập con một lúc rồi quẳng cho người trông, tút ngay ra hàng nét. Nhâm sẽ thế chứ, dù đang lúc lương lậu chỉ đủ chi dụng?
Sau gáy Nhâm rối rít những lọn tóc loăn xoăn. Mềm như tơ, chắc thế. Nhưng mềm như tơ biến mất giữa còi rú, chửi thề với khí xăng. Cái kén đằng trước ngày một dầy dặn, chắc chắn, bổ sung thêm những ông xe máy láu lỉnh, ông ô tô bất chấp luồng đường. Giầu có, sang trọng mấy, Mẹc hay Cam ry, Ét hát mà đi kiểu ấy cũng là anh tiểu nông khôn vặt thôi. Không cảnh giác cách mạng và có tính chiến đấu cao, tinh thần bám trụ thì thằng Uây con Tám hai nó chèn vào đầu xe mình tắp lự. Thành quả kiên nhẫn là từng mươi phân một. Chèn, lách, giữa hai lần nhích lên tiến lên phải lia mắt ra xung quanh. Ngự trên Đai lần là thằng chọi con cằm có vết sẹo bôi xanh xanh, phía sau ba cặp đùi trắng lôm lốp, thật khó đánh mắt ra chỗ khác. Bốn đứa đều không đội mũ, tí tởn chuyện trò nhắn tin, tí tởn với tay ra sau kéo lại áo con, gãi gãi mảng vai trổ xăm. Lão già khắc khổ cạnh Lâm luôn miệng gầm gừ, bất chợt lại rồ ga tuýt còi. Không hiểu sao Lâm cứ phải nhìn mãi vào bắp chân đằng trước. Ngắn, nần nẫn, lằn trong lớp tất trong màu da như món chân giò rút xương quấn, có vết thâm thâm hình e líp. Úi giời ơi, quả bỏng bô này thì thơm hơn chả nướng Hàng Mành. Ai bảo Em ơi Hà Nội váy, hả mợ.
3.
Hôm nọ Nhâm bảo “Em lĩnh dăm triệu mỗi tháng chủ yếu để đến cơ quan thôi, còn làm thì chả mấy”, ra ý việc chỗ cô trì trệ lắm. Giờ kẹt cứng, Lâm lại thấy thêm điều mới. Ngày nào cũng dí dị, chen chúc, gục gặc thì kinh thật. Tháng hai hai ngày, năm cho là ngót ba trăm ngày sáng đi chiều về, đời thế thì ra khúc quân hành, ta thành người lính còn gì. Cứ thế cho đến lúc về hưu mới được ngưng chiến đấu, nhưng không có Gia đình vẻ vang.
Có lần Lâm phải nhăn mặt khi đọc câu thủ đô như cái tổ kiến. Ví von so sánh gì mà khinh bạc. Nhưng giờ thì không thể không liên hệ, dù kiến thức về loài bọ vỏ cứng ấy của anh không vượt qua những gì ông Tô Hoài đã kê trong “Dế mèn phiêu lưu ký”. Ba cái xe buýt kềnh càng choán hết đường đúng là bọn bọ giọt độc ác, đốt ai nấy phát sốt. Lũ bốn chỗ, từ Mẹc bóng lộn đến La đa vứt ngoài đường chả ai thèm lấy đều là kiến càng hàm khỏe vô địch. Còn đâu là kiến đen kiến gió kiến cỏ, bầy đàn đâu ra mà như kiến thế. Giá được chọn, Lâm xung phong làm kiến cánh, tha hồ bay lượn chả lo tắc tỵ. Nhưng kiến cánh lại có nỗi sợ, là mưa.
Ai mà ngờ được giọt nước rơi xuống, ban đầu lác đác, sau mau mau. Đàn kiến nháo lên, lũ bốn tên Đai lần hú hít, rồ ga như phát dại, con xăm vai bảo nó mà lụt như năm kìa nhỉ, cống rãnh tắc bố nó hết còn gì. Bố khắc khổ khoái chí mở cốp lấy áo mưa. Mợ bỏng bô lo lắng chịu trận. Lâm cũng chịu trận, ai bảo nghĩ dế mèn dế trũi này nọ. May, trời chỉ đùa nhả, đái xuống mươi phút.
Lại sang chuyện dế. Lâm thường ngờ người thành phố mình đem đổ túa những ích kỷ, khôn vặt, tối tăm ra ngoài đường, dành sạch sẽ để trong nhà. Xác chuột, rác rưởi đã đành, “phi vật thể” là câu chửi, tiếng còi, rú ga, giành đường lộn ẩu. Những đứa vừa đi vừa chơi dế, anh chỉ muốn tát cho một cái. Lại còn rù rù nhắn tin, làm như trên đời chỉ có việc của mình là hệ trọng, chả để ý đến an nguy ai. Thế mà lần này, có điện thoại, anh phải móc vội ra nghe. Không phải Nhâm. Khâm “gáo” gọi ra bia Cường “hói”. “Không tao không đi được”, và dừng hẳn xe gọi Nhâm. “Em vẫn đứng đấy chứ? Đường tắc lắm, chắc muộn ít phút. Hay em đứng sang bên kia đường, dãy cây trứng cá ấy đỡ nắng mà cũng ít bụi hơn”. Đóng máy lại thì nhớ ra không hỏi màu áo Nhâm, kẻo bên kia đường không nhận ra được. Thôi không cần gọi lại, qua đấy cẩn thận là được.
Ngã tư C. Đèn xanh đỏ túi bụi mấy lần không thông nổi. Làn này đã đèn đỏ mấy ông cố vượt díu xoắn các lão mau mắn rướn lên bên làn chưa xanh. Còi cảnh sát loạn xạ. Chà, điều khiển giao thông giờ này khéo giống công nhân thoát nước cời bèo với rau muống sông Tô Lịch hôm mưa lớn. Những tảng bèo nặng chịch, phải tách nhỏ ra, còng lưng đẩy mới đi. Nhưng trên đường thì “bèo” vô số, xuất hiện liên tục, vất hơn nhiều, quãng tưởng là vắng cũng có. Chỉ cần hai ông tắc xi đồng hương gặp nhau, ông xe ôm bắt khách bất chợt là ắc ỵ.
Bên cạnh bỗng hập lên. Thằng đầu trọc ngất nghểu gắp quả than tổ ong đỏ lừ ra để miệng cống, ngay chân mợ bỏng bô. Lần ra sau, nó chễm chệ đặt cái bếp xuống bờ hè, cẩn thận xếp những rẻo cao su đã cắt rất cẩn thận vào, rồi nhóm lửa, đặt than, kéo quạt tai chuột xòe xòe vào cửa bếp. Khói đen khét lẹt cuộn lên, hòa vào làn khói xe tưởng đã không thể quánh hơn.
Này, em ơi…
Mợ bỏng bô cất tiếng yếu ớt. “Anh bạn ơi, hun nhau quá thế!”. “Không thấy cô ấy đang chóng mặt lắm à?”, Lâm và mấy người nữa đế theo, tưởng đầu trọc không nghe thấy. Ai ngờ mẹ nó đang bán nước vọng ra: “Vỉa hè để đâu chả được. Ai bảo cứ chết giẫm ra đấy!”. Thấy nó cứ lừ lừ, Lâm đâm chột. Không phải sợ. Mà đánh nhau không phải lúc. Công an mãi đằng kia, xa quá, lại đang mải “cời bèo”. May thằng chọi con Đai lần quay xuống: “Mày làm đ. gì đấy? Không sợ phải bỏng người ta à? Vỉa hè của riêng nhà mày đấy à?”. Con mặc áo hai dây xăm vai cứng hơn: “Vứt mẹ nó bếp nhà mày đi. Đ. ý thức gì cả!”.
Dàn hợp xướng đang vút lên, nhà bán nước đang chùng xuống, thì đằng trước giãn ra được.
4.
“A lô. Em vẫn đứng đấy chứ? Chả nghe thấy gì cả. Hay là ồn quá chóng mặt quá thì lui vào công viên đằng sau đợi anh vậy. Chỗ ấy có ghế đấy. A lô a lô…”. Cứ thế mấy lần không nối được. Anh trở thành khối căm hờn. Những đứa đứng chờ sao không tắt máy. Thằng áo hoa biết thừa không tiến được mà cứ bấm còi rú ga. Đừng tưởng tự do xâm phạm riêng tư người khác mà được, tao đây karate đai nâu tuy bỏ hai năm rồi nhưng chả sợ đứa nào. Chỉ vì giờ không phải lúc động tay. Nhưng nhìn quanh thì đâu đâu cũng khối căm hờn. Bên trong khẩu trang đều ninja cả, chả biết mấy đẳng. Gương mặt ninja vút lên, to ra, làm mờ vết sẹo rất mảnh chân lông mày bên trái của Nhâm. Đã bao lần Lâm muốn mân mê chỗ ấy, bên cạnh vành tai trăng trắng, nhỏ như con sò.
Không gọi được thì nhắn tin. Rồ dừng nhích dừng lách dừng, chả thiếu gì thời giờ. Nhâm bảo vẫn đứng đấy sắp hóa đá rồi, lát sau thì đã lui xuống ghế đá vườn hoa, có lão già cứ nhìn em cười cười. Điên lắm. Được cái yên tâm Nhâm đang không có gương mặt căm hờn.
Mấy hôm trước Lâm đi Vĩnh Đạo, việc cơ quan. Từ hồi đường cái quan mở vòng ra chỗ khác, thị trấn đìu hiu hẳn, lúc nào cũng như anh ngái ngủ, ngủ suốt đêm rồi sáng ra chưa buồn dậy. Nghe Lâm thắc mắc giá nhà đất chắc sụt ghê lắm, ông chủ nhà trọ khề khà: “Như cái bà Bùi bên kia đường, năm ngoái chồng mất, ốm ung thư mấy năm mới đi, đám tang chờ mãi về vẫn còn thiếu một đứa, đâu như nó làm trợ lý trợ liếc gì cho ông giám đốc bên xăng dầu hay đồ điện tử gì ấy mãi tận Đồng Nai à không hình như ngoài Vũng Tàu cơ…” Giữa những thông tin vòng vèo là thông điếu, rít thử, nhồi thuốc và châm đóm, đóm tre ngâm hẳn hoi, quý hơn vàng mà châm hai lần chưa hút, đến lúc vào câu bà Bùi rao bán nhà thì người nghe đã nhãng sang chuyện khác. Ở Vĩnh Đạo ba ngày mà Lâm thuộc và chào trước được hết các cụ cao niên, đọc nhẵn đống báo cũ của nhà trọ, bắt quen mấy thầy giáo trường tiểu học nên ra đường được lũ trẻ chào ỏm tỏi. Chậm chạp, bị bỏ quên, đúng thế. Chả bù ở Hà Nội ngày trôi nhanh kinh khủng, tuần qua sáng qua làm gì không thể nhớ. May là việc xong sớm, thoát cái “u tỳ quốc”.
Nhưng giờ thì lại bật ra câu hỏi: “Thế nhanh để làm gì, để dồn cục xoắn vặn dấm dứt uất nghẹn căm hờn thế này à? Ai cũng muốn nhanh nên đành chậm cả”. Giá anh và Nhâm sống ở Vĩnh Đạo, hay hẹn nhau tại đấy, đâu ra rơi vào cái búi rí rị này. Mà sao ai cũng dồn ra Hà Nội, ai cũng đua lên đời xe, nhà đang ngon lành đập ra nâng tầm mới làm gì? Thành phố cả chục triệu mạng nhìn nhau đo nhau thấy thằng đi Mẹc sang hơn thằng Cam ry, cưỡi con Ét hát nhân phẩm bằng mấy đứa Uây tầu. Nghĩ là nghĩ thế thôi, chứ mình về Vĩnh Đạo sống thì tốn đóm lắm, và Nhâm lấy đâu ra cà phê với lên mạng… Nhưng mà sống thủ đô thế này thì ai cũng thành chiến binh cả, nhìn giống nhau chết, chả thấy cá thể đâu.
5.
Em con dung day kg? Chiu kho doi nhe. Kho qua anh dang tuc dien len day. Van tac cho ay… Ba lần nhắn cuối cùng đều không trả lời. Lâm thảng thốt nhìn sang làn đường ngược lại. Nhưng làm sao mò được em giữa muôn nghìn ninja.
Nguồn: Báo điện tử Đại biểu Nhân dân
Truyện ngắn: "Ốc gió" của Trần Chiến
22-06-2011 10:47:00 AM
VanVN.Net - Phá tân một chàng binh nhất lính đảo là việc chẳng khó, nhưng phá tân chàng về mặt tâm lý, về tình yêu như là tín ngưỡng thì cô cave này thật cao thủ. Và nhà văn cũng thật cao thủ, truyện đọc nhuyễn như không hề xếp đặt…
"Ốc gió"
Trần Chiến
1.
- Nhớ tận hưởng cuộc đời, an toàn và trả đúng phép. Đi nha!
Anh Đích đập vào mấy bàn tay giơ cao, giống đám cầu thủ thường làm trên ti vi sau khi ghi bàn. Anh sẽ về xứ bán sơn địa ôm vợ, đọc “thứ nhất rượu say ngà ngà, thứ nhì công tác đường xa mới về”. Trường dặm vào những cồn cát ven biển, với mẹ từ lúc sinh ra đến giờ chả nhìn thấy gì ngoài cát. Sang có ít ngày cùng ông bố hậm hụi trong xưởng sửa ô tô, ngồi đến khuya với bạn cũ chỉ một chai pép si, nếu có con gái thì thêm khô mực. Niềm vui đơn giản, cụ thể lắm, dù ba trăm sáu mươi đêm rồi chỉ ao ước phép tắc sẽ làm gì. Phấn thì càng tù mù. Tận hưởng cuộc đời thế nào đây khi mà ta vừa có tự do vừa có tiền, không vung vinh nhưng không đến nỗi phải tằn tiện quá?
Minh họa của Vũ Huyên (Trang Đại biểu Nhân Dân)
Đảo Mang Mang rộng hơn trăm mét, công binh gầy lên ụ bê tông từ đá san hô, bên trong có hầm vũ khí, lương thực, máy thông tin. Chỗ sinh hoạt bên trên ngất ngưởng, đã thưng kính mà lúc nào cũng phừng phừng gió, ban ngày chói chang. Đóng một tiểu đội nhưng chỉ huy tận trung úy. Anh Đích “đảo trưởng” tốt nghiệp sĩ quan hải quân coi sóc ra lối nửa gia đình, sáng ra khua cả bọn dậy thể dục, thét “Thằng Trường thẳng người lên. Sáng ra đã “đi tìm chổi” thế à?”. Giờ cơm sáng nhắc Sang ăn chậm thôi, đừng áp dụng chiến thuật “đầy đầy mặn” hết suất thằng khác. Nhưng cũng chuyên nghiệp ra phết, nghĩa là lúc nào cũng lo cho quân có đủ việc, không cảnh giới thì lau vũ khí hay xới xáo mấy mảnh vườn bé bằng manh chiếu, tối đến nhất tề xem thời sự ti vi rồi hát. Lính, để rỗi rãi nó sinh lắm chuyện. May là lúc rút đi, công binh vứt lại những mảnh tôn, đem quây chắn gió cho cây rau mọc lên, không thì chỉ huy đến phải bắt chiến sĩ bê đảo đi lại cho đỡ rồi việc. Và có Ky, Quýt, Bống, ba con chó cái ôm đồm đủ các chức năng như chó nhà quê, kiêm thêm tha cá từ ngoài xa vào bờ. Để chơi thôi, chứ cá thiếu quái gì.
Ngoài biển và mặt trời rất thực, đảo tồn tại một tình trạng khác như là ảo mà rất khó chịu: chả ra thời chiến chả ra thời bình. Đang tranh chấp mà. Cách hơn cây số là nhà giàn đối phương ba tầng, có lẽ đóng cả đại đội. Pin mặt trời tha hồ nạp, ban đêm sáng trưng một vùng. Trang bị ác, chắc thế. Và tàu nó cứ lượn lờ, lắm lúc đang lượn thì xầm xầm đâm vào đảo ta, khiêu khích thôi nhưng thần kinh không lỳ không được. Bắn trước là “xong” với nó ngay. Mang Mang là tiền tiêu rồi, nên lính tráng phải toàn loại “chuẩn không cần chỉnh”. Nhưng chuẩn thế nào thì cũng vẫn con người, lỳ quá cũng có lúc rão ra lâu lâu mới hồi lại, như bị đùa dai đùa nhả.
Phấn năm thứ hai đại học thì đi nghĩa vụ, được anh Đích dành cho vài biệt lệ. Ngày ra đảo, người khác bộn bề đồ nghề bắt cá thì cậu lễ mễ hòm sách, nào truyện ngắn, tiểu thuyết, nào từ điển, giáo khoa, lại cuốn nhật ký. Sự riêng tư không nhiều, ghi chép hàng ngày khí dị biệt, có khi còn bị đem ra “soi” chung, nên sổ thành cuốn vở học ngoại ngữ là chính. Ngày đôi tiếng, Phấn được phép ngồi dưới gốc bàng vuông đã cưa ngọn để không chắn góc bắn, giở giấy vở ra. Đôi lúc Phấn thừ người nhìn theo khúc củi đang hụp lặn giữa sóng xanh, anh Đích đi qua lơ đi rồi quay lại dậm dộ Sang: “Mầy choành chọe thì đừng hỏi nó sao con cò có sức vượt mấy trăm cây số ra đảo nữa nha”. Giờ đi ngủ, anh bắt Phấn đọc sách dưới ngọn đèn sạc cho cả tiểu đội nghe. Khi sách hết thì đọc lại, đến nỗi Phấn thuộc làu tiểu thuyết “Ba người bạn” của ông nhà văn Đức. Khi nào chán nghe chán cả đọc, bèn chuyển qua từ điển, nó có tác dụng ru ngủ nhanh kinh khủng, mà vốn liếng tiếng Anh của Phấn càng dồi dào.
Nhưng cũng có những đêm dài ra phết. “Tao nhớ cái đít vợ quá, sao mà nó nhẵn còn hơn da em bé”, Đích bảo. Tiểu đội kêu rinh sao những Hoa Hạnh Hồng Đào báo Tiền Phong cho địa chỉ dạo này không viết thư cho chiến sĩ biển nữa hay đã lấy chồng cả rồi. Đảo trưởng hét “Ngủ đi, không lơ mơ lung tung nữa. Ngày mai thằng Tấc nấu cá cóc nhớ bỏ cái mật, nghe không?”, vẫn trằn trọc. Phấn không viết thư cho Hạnh Hoa Đào Hồng nào, cũng chán món canh cá cóc lắm rồi, nhưng vẫn phải nghĩ về phụ nữ. Dáng hình nào thì cũng giống mẹ với chị Nếp cả, sao cứ là mật ngọt cho đời, để ta phải tơ tưởng thế này thế nọ.
2.
Nhà tàu báo sáng mai có chuyến ra Bắc. Phấn không thích xe khách, ti vi đưa rất lắm hàng “cơm tù” dọc đường, nhưng cái chủ yếu là chả đi đâu mà vội. Quê hương chắc còn cũ hơn hai năm trước, đàn ông đi tiệt, đàn bà lo hết việc cầy bừa, ruộng không phân cho người mới thì vào hết dự án, còn bao nhiêu đâu. Phấn cũng chưa báo cho mẹ và chị Nếp, muốn dành sự bất ngờ. Vậy là còn hai mươi tiếng, sẽ lững thững một tý, ăn ngon mồm rồi tìm nhà trọ đừng xập xệ. Cậu có tiền, phụ cấp binh nhất mười hai tháng đâu ít, nhưng cũng không thể ở khách sạn. Sau mười hai tháng không tiêu pha, rất nên tự cho phép thè lưỡi ra nếm cảnh người ta tận hưởng cuộc đời thế nào. Mình đã ở bên ngoài cái cuộc đời này mười hai tháng kia mà, để canh giữ cho nó, như thủ trưởng tuyên huấn quân chủng đã dặn, và anh Đích nhắc lại hàng tinh mơ.
Thị trấn du lịch, giờ mới biết rất to, và đẹp lắm. Quân cảng gần đấy nhả ra những quân nhân đen nhẻm, chắc nịch, nên anh lính đảo về, khoác ba lô đi trong dòng du lịch chả mấy ai để ý. Ngoài ga có dẫy phố bán đồ nghề đi biển, người ta mời mua. Hôm sắp đi đảo, cả trung đoàn lính mới túa ra đây mua lưới, cước, kính lặn có ống thở, mỗi người được tặng cái lấy ráy tai. Kể cũng phí phạm, ngoài ấy không khí sạch sẽ, đâu ra ráy tai mà ngoáy lắm, sao không tặng ti vi hay cái điện thoại, hơn không.
Xôn xao trò cò quay, túm tụm cờ thế, gã thua rũ túi chửi “Toàn một lũ bịp bợm”. Qua dãy biệt thự tinh tươm ngoài vườn có chảo ăng ten trắng toát, những khách sạn cũng tinh tươm, trắng toát, Phấn gặp biển. Dọc bãi nườm nượp người, xanh đỏ ô dù trắng tím phao bơi bóng bay. Đàn ông ôm điện thoại tách ra, lúc hùng dũng giơ tay chém đứt đôi ngọn gió, lúc hạ giọng ướt rượt, đàn bà ngầy ngậy lo thay xống váy hơn xuống nước. Khó nhìn nhất là đám gái trẻ. Những thịt da chân cẳng trắng đến rức mắt, nhưng đâu phải dành cho mình, nên cậu tìm cái ghế đá chỗ khuất một tý ngả ba lô. Bữa sáng khá muộn ngoài ga để lại vị đậm trong mồm, khiến cậu nhớ thuốc lá. Điếu Ngựa mua lẻ, hơi đầu tiên sao mà tê mê cuộc đời. Cái gì cũng như là gặp lại lần đầu, như lần đầu hút thuốc, lần đầu uống rượu, đều “phê” khủng khiếp. Anh Đích bảo cưới ba năm mà về phép gặp vợ cứ như lần đầu, khiếp thật. Chả biết mình gặp người con gái để yêu thì sẽ “dậy” đến đâu. Nhưng tính đến đấy xa quá. Tôi đang ở bên lề, tôi xem các người thế nào, và tôi kể cho các người nghe cái tôi đã trải qua mười hai tháng qua, mười hai tháng Lê Văn Phấn đóng binh nhất, sau kì nghỉ phép này lên tiếp hạ sĩ, ngài hạ sĩ ra ngoài biển rất khơi xa, ngoài tầm nhìn của các vị du lịch và đợi tầu ngoài ga, để bảo vệ các vị. Thi vị không? Thi vị đấy chứ!
Phấn lôi con ốc gió từ ba lô, đưa lên miệng. To bằng nắm tay người lớn, trắng ngà, nó có những vệt nâu, thổi thật khéo bật ra tiếng u u như còi tầu ngoài kia, thật xa, vọng vào. Sang có thể động đậy ngón tay tạo nên những tiếng thanh tu huýt, tiếng trầm như tù và, rất linh hoạt. Nhưng Phấn chỉ tạo ra tiếng u ơ thôi. Kể rằng trong chỗ hơn trăm mét vuông nhô lên từ lòng biển ấy mặt trời rất chói, mở mắt to quá sẽ lòa mất, nên lại phải nhìn xuống nước. Mà nước không có bờ thì lúc nào cũng vòi vọi, lúc dễ gần lúc hung hiểm. Rằng ti vi chỉ xem vê một, rất chóng bị mặn ăn, nên lính tráng phải đi xuồng qua chòi hải đăng xem nhờ, có khi chỉ nói chuyện. Mỗi lần vậy lại dán mắt vào đám ảnh dán trên vách, đa phần con gái, tuy không lõa thể cả nhưng đêm không thể không nghĩ tới. Những giấc mơ đẹp ấy thường gắn với chiến trận. Cách có một giờ bơi, nhà giàn đối phương sáng lòa, súng ống đâm tua tủa, phát hỏa có dễ nhận chìm cả tiểu đội mình. Kể rằng… Mà các người cứ tí tởn trắng toát thế kia, những lời tôi tai nọ tuột sang tai kia thôi. Tôi, từ vùng biển tranh chấp trở về…
Nhưng mà lại có người chăm chú vào. Cô bé ba tuổi ôm búp bê, tay mân mê cái ba lô của cậu, đôi mắt đen láy chằm chặp nhìn, dễ thương không thể tả.
- Cháu tên gì?
- Em có dép.
- Cháu thích ốc à?
- Em bật đèn.
Những hỏi đáp âu yếm bay lượn, đỗ xuống. Ghế đá bên kia có cặp mắt ấm cúng gửi sang. Người mẹ, chắc thế, nhan sắc trung bình, đủ để đi qua quay lại nhìn một lần nếu ở chỗ đông đúc. Nhưng gương mặt níu giữ ở đôi mắt có quầng, như một vệt đậm dán vào. Ốc gió thổi lần nữa thì cô sang. “Con để yên cho chú ngồi”, miệng nhắc nhưng không dời đi.
- Không sao đâu, tôi thích cháu mà.
Phấn nói, bỏ ba lô xuống đất. Người mẹ trẻ chần chừ rồi ngồi xuống, cười tươi tắn. Tiếng ốc gió dịu hẳn, không còn hờn trách thiên hạ, mà vấn vít như cho mẹ con chị Nếp nghe.
- Chắc anh ngoài đảo về phép, đang đợi tàu Bắc?
- Vâng. Chị cũng đợi tàu à?
- Em cũng chưa biết có nên ra. Việc chưa xong, ở lại mệt quá.
- Chưa xong thì việc gì mà ra – Phấn ái ngại. – Kể thì mẹ con đi lâu cũng vất. Chị nhà đâu?
- Em Phú Thọ, về phải đáp hai lần tàu, bà ngoại cháu đang ốm mà chưa ra được.
- Tôi có thằng bạn ngoài đảo, bảo có thì giờ về thăm nhà nó trên Phú Thọ, cũng chưa biết thế nào. Mà ông xã đâu mà chị phải mang con đi xa?
Có cái gì trôi ra, như thể thở dài, làm Phấn phải quay sang. Đôi mắt bên ấy thăm thẳm ra biển, mi rất cong, làn phấn đánh nhẹ che không hết nốt tàn hương. “Biển có đẹp không anh?”.
- Thì nó cũng lúc đẹp lúc không. Vui nhất là buổi chiều, trừ người gác, cả đảo nhảy xuống tắm.
- Có người viết lính đảo tắm như một lũ trẻ, em đọc đâu đấy.
- Kể cũng đúng. Nhưng lũ trẻ ấy tắm trong tầm súng bên kia. Chị có biết hát mười hai không? Pằng pằng! Có khi chưa nghe gì đã nát như tương.
- Thế thì sợ thật. Các anh phải dũng cảm lắm.
Sự cảm động rất đàn bà khuấy động những sâu xa trong chàng trai. Phấn sôi nổi kể đảo nuôi chó, nó cứ bơi sang bên ấy rồi lại bơi về, rằng bắt cá cho đỡ rồi việc thôi, lôi lên lại thả xuống ấy mà. Câu chuyện lúc trỗi lên, lúc im lìm, người ấy ra điều rất muốn nghe, biết nghe. Đến đoạn anh Đích nghiêm thế mà cũng nhớ vợ không chịu nổi, thì bên kia bảo: “Anh có chỗ ở chưa? Chỗ em trọ cũng rẻ, mai ra tàu tiện. Tối có mươi ngàn là ăn được. Anh mà có vợ chắc yêu vợ lắm nhỉ”.
- Sao chị lại bảo thế?
- Em tên là Ngọc. Đừng gọi là chị. Là em cứ đoán thế thôi. Con em nó quấn ngay anh thế là biết anh sẽ yêu gia đình lắm. Thế anh tên gì?
- Tôi Phấn. Nhưng sao… Ngọc bảo tôi chưa vợ?
- Đàn bà mà anh.
Tiếng cười trong veo bật ra rồi thoảng đi, như thể không nên cười như thế. Im ắng hồi lâu, con bé ngọ nguậy, mẹ nhắc nhở chú bảo không sao không sao. “Cháu nó tên là Nhâm anh ạ, em đặt đấy, tên không kêu cho sau này đỡ vất như mẹ. Anh không biết đâu. Em bất hạnh lắm. Vất trăm đường. Em còn thằng anh nó đang để ở nhà trọ, mẹ con buồn quá dắt nhau ra đây chơi”. Đến đây thì Phấn biết thế nào mình cũng theo Ngọc về chỗ ấy rồi. Có gì đó gần gũi, như đang chơi với mẹ con chị Nếp, lại tồi tội, trắc trở gì đó.
Họ đứng dậy. Phấn ôm bé Nhâm vì nó cứ đòi, đi sau Ngọc đeo ba lô. Giờ mới thấy dáng cô nhìn được lắm, cao nhưng mềm mại, hông lắc không tự nhiên vì gánh nặng trên lưng nom vừa ngộ vừa gợi thương gợi xót, không thể nói là không làm máu chạy mạnh hơn. Đêm tầu nhặt quân từ các đảo về dừng ở vịnh để sáng ra cập quân cảng, cảnh tượng vô cùng nô nức. Thuyền câu mực như sao xa xung quanh, lại có các thuyền hàng bé tẹo, mang cóc, ổi, rượu lại gần, lộ dần những thân hình mềm mại. Lính tráng, tiếng là lính biển nhưng chỉ ở trên đảo, không mấy anh không say, nhịn đói đến chết không dám ăn gì. Giờ vào chỗ nước lặng, cả bọn túa ra tìm nước sôi chiêu mì tôm rồi ra mạn ngó nghiêng, náo nức quá trẻ theo mẹ đến chợ.
- Các em ơi anh đã về đây!
Một giọng Quảng Bình khê nồng lạc đi, rơi tõm xuống vịnh đen ngòm, làm ai nấy nắc nẻ. “Thằng đó điên rồi!”. Nhưng khi Sang, giọng ca của đảo Mang Mang lên tiếng thì cả tầu lặng đi. “Lồn ơi”. Cả vùng nước đêm rừng rực cháy lên. Đờ đẫn, sững sờ đến khi thuyền trưởng thét “Thằng nào đó?”. Chuyện nhớ ra làm Phấn nóng ran, nuốt khan nước bọt. Thôi không nghĩ xa, chỉ biết mình sẽ có một không gian đợi tàu có thể ầm ỹ, tốn kém nhưng thân thiện, còn hơn canh ti vi rồi ngủ khoèo. Đất liền có nẻo ấm áp chứ chả vô cảm như đám khách trắng hếu ngoe nguẩy ngoài kia.
3.
Chỗ trọ ở đường Lò Vôi, xưa nữa là xóm Lò Vôi. “Em cũng lạ. Xứ này có núi đá đâu mà có lò vôi”. Nghe Ngọc nói, Phấn lầm bầm rồi giải thích không mấy tự tin: “Có lẽ là vôi hàu, người xưa đập vỏ ngao vỏ ốc ra trộn với mật mía với muối có khi với cả rơm nữa, làm vữa xây nhà, những ngôi nhà đứng vững trước gió biển cả trăm năm”.
- Sao anh biết? Anh chả giống những anh bộ đội khác.
- Lính sinh viên mà. Ra đảo vác cả hòm sách. – Phấn nói, không nhắc chuyện có lúc tiểu đội phát điên giữa trời nước, cả anh Đích, còn mình rúc trong hầm đạn với từ điển.
- Anh chăm nhỉ. Thích thật.
Ngọc quay hẳn lại, nhìn chăm chăm vào gương mặt xạm nắng làm Phấn phải lảng tránh. “Anh đặt cháu xuống cho đỡ nặng, sắp đến rồi”, đôi hông lại đu đưa trước mặt. Lướt qua ông kéo xích lô, bà nắm than, cô gái đèo hải sản, những gương mặt của một xóm lao động. Dưới gốc trứng cá lăn lóc hai vỏ chai rỗng, ba lão xồm xoàm đều tới cả mà quả cóc gặm còn nham nhở thịt. Từ mái hiên thằng bé chạy ra nhìn chằm chằm rồi vụt vào. “A ha, phi công trẻ lái máy bay bà già”. Tiếng đàn bà la: “Thằng mất dậy. Láo lếu nó quen!”. Cả hai lơ đi như không nghe, không thấy bé Nhâm cười toét miệng. Trên đầu họ những tán bàng xanh lọc không cho nắng chói quá, nhưng đủ để tiếng ốc gió còn vi vút.
Nhà nghỉ Hương biển năm tầng, quét vôi xanh như mầu áo đội tuyển Italia, cách đường một khoảng sân. Giá khá rẻ làm nỗi băn khoăn binh nhất bay biến. Thằng bé lễ tân có vẻ ngạc nhiên thấy Ngọc dẫn khách về. Cái phòng nó chỉ ở tầng trệt ẩm thấp, chăn chiếu nhớp nháp, kể chả là gì với người đã ở cả năm ngoài biển, hơi muối chỗ nào cũng dính dáp. Nhưng tấm đệm rẻ tiền bốc lên mùi khăn khẳn, ngủ thế nào được. Nghe Phấn hỏi “Còn chỗ nào khác không?”, nó đưa lên cầu thang, mở cánh cửa chỗ chiếu nghỉ: “Nếu mà bằng giá thì chỉ còn đây thôi. Vệ sinh dùng chung. Nhưng phải dọn qua”.
Đấy là chỗ cho nhân viên dọn phòng, giặt giũ nghỉ, chắc thế. Bừa bộn đồ phơi, ấm nước, bàn là, giường trải chiếu sơ sài, nhưng sáng sủa và không khẳn mùi. Nhìn cửa sổ trông ra bờ vịnh, Phấn bỏ ngay ba lô xuống. Ngoài kia nước lặng, những vệt sóng trắng biến chỗ này lại hiện chỗ khác. Thấy Ngọc băn khoăn nó không ra cái phòng nghỉ, cậu bảo giống phòng trọ sinh viên ấy mà. Cô bèn bắt tay vào dẹp đồ đạc, lấy giẻ lau thật kỹ sàn gạch, làm mọi thứ tinh tươm hẳn.
- Em ở tầng bốn, phòng bốn linh ba. Em cho cháu lên ngủ, có gì anh gọi…
Ngọc đón bé Nhâm từ tay Phấn. Những đụng chạm mềm ấm, mùi da thịt ngầy ngậy làm anh lính bần thần. Đóng cửa nằm xuống duỗi dài, trần nhà bỗng chòng chành, chóng mặt không thể tả. Phấn muốn dậy lần ra phòng vệ sinh nhưng đầu quay vù vù, ốc gió rin rít, bao nhiêu thứ ăn ngoài ga tháo ra chân giường cả. Trong lúc người ngợm nhão ra, có gương mặt cúi xuống, vệt tối chỗ mắt điểm trên làn da sáng. “Anh cứ nằm. Con đừng quấy chú, chú đang mệt. Uống nước gừng nóng đi này”. Giọng nói lúc xa lúc gần, không phải của chị Nếp. Bàn tay đặt lên trán mát quá, mát hơn nước biển ve vuốt ngoài kia.
Minh họa của Vũ Huyên (Trang Đại biểu Nhân Dân)
4.
- Say đất ấy mà. Ai ở tàu mới lên bờ cũng bị, nhưng ít người say chậm như anh. Rồi anh khỏe ngay thôi, mai tàu xe vật thoải mái!
Ngọc bật đèn, hí húi lau chỗ sàn dưới chân giường, nói thêm như thể thanh minh sự quan tâm của mình: “Con bé nó cứ đòi xuống chú thổi ốc”. Trong ánh ngày nhập nhoạng, mọi thứ trở nên sáng choang làm Phấn tự dưng thấy ngượng. Đang mình mẩy dơ dáy quá, lại ở trần, bèn hỏi lãng đi: “Sao chị biết say đất? Chị ở Phú Thọ xuống kia mà”.
- Em lạ gì. Lính đảo về ai chả vậy. Mà anh đừng gọi “chị”, hơn kém nhau tý chút, gọi “em” cho gần. Anh cần dậy đi lại tý chút đấy.
- Là vì tôi chưa quen. Bạn nữ cùng học toàn mày tớ, mấy năm nay có nói chuyện với phụ nữ đâu. Ta đi ăn tối nhé. Ngọc dắt tụi trẻ đi cho vui. Tôi mời.
Phấn chuyển “kênh” dứt khoát rồi vớ khăn mặt ra cửa. Trong phòng tắm chung của khách bình dân, cậu kỳ cọ rất kỹ, vừa phì phì thở vừa cân nhắc chỗ ăn, sao khỏi lúi xùi mà đừng hao quá, cái “khoản” binh nhất. Nghĩ tới nghĩ lui không tới, câu “tận hưởng cuộc đời đi” của anh Đích lại đỗ xuống.
Trời tối hẳn thì họ ra đường. Ngọc trang điểm thoang thoảng, nốt tàn hương không còn nhưng mắt quầng không che nổi. Mà thế hay hơn, Phấn chúa sợ những gương mặt đã héo úa phấn đắp dày quá vôi. Nghe Ngọc bảo tụi trẻ đi quậy lắm, em đã cho chúng nó ăn rồi, em thích nói chuyện, cậu thấy nhẹ tênh. Cuộc sống đẹp và khó lường thật, ai mà ngờ vừa lênh đênh, trước nữa buồn đắng buồn cay mà giờ lại bên người con gái, tuy đã qua xuân thì nhưng giọng nói nhẹ nhẹ, dáng điệu cử chỉ mềm mại chứ không thô cứng lính tráng. Phấn thấy mình khắc khổ quá, sao cứ níu nít về túi tiền còm, sao lời lẽ ra không phải thủ trưởng thì cũng lại của đồng đội. Sự rung động làm cậu cứng ngắc, chỉ “Ờ” khi Ngọc bảo có chỗ này ăn được mà rẻ anh ạ.
Quán nhỏ tươm tất đề “Oanh Xướng - Hải sản vừa bán vừa cho”, không có bể kính tung tăng tôm hùm cả cân với cá song đắt đầu bảng. Khách là dăm ông xe ôm lai rai khô mực, ai đó vừa đắt con đề chắc, đám thanh niên nông thôn về học nghề bụng lép mà mơ xênh xang, hai cô xanh lơ tim tím. Mỗi bàn trống trong cùng, cạnh chỗ nước chảy, ướt át và thỉnh thoảng xộc hơi lờm lợm, nhưng còn là may. Dứt khoát như trong phim, Phấn kéo ghế cho Ngọc ngồi, hỏi cô ăn gì.
- Sò lông đi anh ạ. Một cân ba chục con hai nhăm nghìn. Đĩa ngao cũng thế, vùng này có bãi ngao.
- Sao không sò huyết đi! Sò huyết ngon hơn.
- Em sợ hết tiền của anh. Về phép phải mua quà cho u chứ.
- U có phần rồi. Cũng không cần phải tiết kiệm quá đâu.
Phấn gọi bà quán, dứt khoát nhất trí trăm phần trăm đĩa sò huyết nướng xong đĩa ngao hấp cuối cùng bát mỳ ăn liền nấu rau cải thịt nạc nhé. Cái “Vâng” quá nhỏ nhẻ, rồi chị ơi cho em nhiều ớt tươi với nước gừng nóng với cả sa tế nhé nhưng mà hết món này rồi mới sang món kia kẻo nguội đấy. Họ nhìn nhau đồng lõa, “thực đơn” vừa tươm tất vừa không phải chi đậm quá, đủ hứa hẹn câu chuyện “đi” được êm đềm. Chà, câu chuyện mới là cái chính chứ, Phấn nghĩ, gọi thêm rượu gạo. Đám du lịch ngoài kia nhậu một bữa bằng cả tháng phụ cấp của mình, chắc gì đã được hạnh phúc hơn. Ngồi trong góc thế mà hay, chả phải “hả hả” hét lên mới thủng được câu nàng nói, cái dí dủm định ra phải nhắc lại hai ba lần thì xìu rồi.
Bát nước chấm đậm gừng ớt, đĩa muối chanh quệt sa tế chả mấy chốc có tác dụng. Lông mày Ngọc đỏ lên, nước mắt dàn dụa, xuýt xoa suỵt soạt không thể dừng. “Anh ăn đi chứ. Vỏ bên em bằng ba bên anh đây này, ngượng quá”.
- Đồ biển ăn mãi rồi.
- Ngon quá. Em có thói xấu ăn quà như mỏ khoét, thấy ngon là không thể dừng. Ngon quá. Sao lại cười thế?
- Ấy giống cô bạn học của tớ.
Phấn đổi cách xưng hô, châm điếu thuốc thứ hai kể từ khi lên bờ. Kiểu này cậu dễ hút trở lại lắm, sau một năm nhạt miệng.
- Cô ấy giờ vẫn đợi anh chứ?
- Lấy chồng lâu rồi. Tớ thích cô ấy, chỉ là thinh thích thôi.
- Anh thích nhiều cô không?
- Cũng có. Đúng ra lúc thích lúc không, không thích rồi lại thích rồi lại thôi.
- Em tò mò tý. Nẫy anh bảo có phần cho u, là gì vậy.
- Con ốc gió ban sáng đấy. U chỉ cần mình ở nhà, suốt ngày hỏi ăn gì có mệt gì không, chưa hết phép đã rầu rĩ.
- Anh ra đảo u lo lắm nhỉ?
- Chuyện! Nghe đài đọc báo thấy tranh chấp biển căng thẳng lại phát ốm. Mà mình thì có thấy gì đâu. Xác định “nó” đông hơn mạnh hơn, sang thì pằng pằng hết đạn là xong.
- Sợ thật.
- Sợ cũng chả được. Ngán nhất là đơn điệu. Cả ngày nhìn biển có mà phát điên, nên chỉ huy suốt ngày nghĩ việc, không đọc báo thì học hát. Nhà thì bóng líu cứ lau mãi, súng ống cũng thế. Vườn rau bằng manh chiếu, lá lên bằng cái tăm chùi đi chùi lại. Nói chung ở đảo xong thì thấy quý cuộc sống lắm, sau này cuộc sống nó hắt hủi thế nào mình cũng chịu được. Cuộc sống tươi đẹp thật…
- Thế anh sẽ trở lại đảo chứ?
Câu hỏi làm Phấn phải ngẫm ngợi. Cặp mắt xẫm bên kia rất thúc giục.
- Có chứ. Nhưng sao hỏi vậy?
- Thì cuộc sống đẹp…
- Đẹp thì mình mới ra mà giữ. Mình không giữ thì ai giữ. Với lại sáu tháng nữa lại được cục tiền, quay về trường đỡ lo vừa học vừa làm thêm.
- Anh thấy nhọc không?
- Sao không! Nhưng đoạn nào biết đoạn ấy, lo trước làm quái gì. Mơ nhỏ nhỏ vừa tầm với thì dễ thỏa mãn, thế thôi.
- Anh rót cho em tí ti. Nào, uống vì cuộc sống đẹp.
5.
Chai rượu đã hết, Phấn vẫn tỉnh như không. “Khiếp, uống nhiều thế”. Cậu bảo ngoài đảo gạo trữ ba năm, chỉ việc đem men ra là nấu được, cũng chỉ uống lúc hóa kiếp cho “thằng” Mực hay Vàng thôi, trừ tên gác ra. Và trung đoàn kiểm tra thì liệu mà diếm cho kỹ. Bên kia nghe chăm chú lắm, đến đoạn thiếu rau, ngâm giá đỗ ăn cho nó mát thì tủm tỉm cười.
- Sao thế? – Phấn hỏi.
- Khó nói lắm. Là giá đỗ nó sinh… tinh trùng, mà ngoài đảo chắc chỉ toàn đàn ông.
Phấn ngẩn ra rồi cười sặc sụa. Thảo nào thằng Sang hay đi giặt quần đùi sáng sớm. Và cậu, những giấc mơ tiên. Ngọc cũng cười. “Em biết ngay mà”, rồi lảng chuyện khác. “Anh bị say đất nó vật mà thế là khỏe đấy, chứ em hai bận đẻ rão hết cả người, ngày trước chơi huỳnh huỵch ăn bốn bát anh mà đãi cơm em anh “chết” ngay”.
- Ngọc kể đi.
- Chuyện gì?
- Gì cũng được. Không phải chuyện đảo. Như anh xã ấy, hắn thế nào?
Bên kia bỗng lặng ngắt, vết quầng trên mắt như đậm hơn. Giữa tiếng “dzô dzô” quyết liệt bên ngoài, Phấn phải căng tai, câu kể lúc rõ lúc mất, chả khác gió ngoài đảo.
- Chồng em tệ lắm. Ham cờ bạc, có bao nhiêu ra quán ghi đề cả. Em phải chạy chợ, một mình mở phản thịt lợn, đêm đến lò mổ lấy về, đứng đến trưa thì hết, chiều lại xem trong xóm có ai thuê mướn gì. Ông chú mua chịu cái thủ, ba tháng mới đòi, ông ấy mắng mày cạn tình nghĩa, giỗ chạt tao không sang nữa. Anh bảo thế còn kiếm được mấy. Em đành bỏ, nhận ruộng của những nhà đi vắng, lấy công làm lãi chả được là bao.
- Thế cày bừa phải thuê chứ?
- Thuê thì hết thóc. Em làm hết. Mẹ chồng em bảo con này bừa ruộng nát như nồi cháo. Cũng chỉ đủ ăn.
- Thế ông ấy, ông xã ấy, làm gì?
- Em chả muốn động. Anh hỏi thì mới nói. Em đẻ cái Nhâm một mình, mẹ chồng cũng giúp nhưng chỉ kiêng được nửa tháng là đến mùa cấy. Khéo nói lắm. Đi bằn bặt, bảo làm thợ nhôm kính, hóa ra tán được con nào ở thị trấn này. Trẻ hơn, chắc thế. Mẹ chồng bảo tìm lôi nó về nhưng chả đưa đồng nào. Em ra đây nửa tháng, ban ngày thuê xe ôm đi khắp hàng nhôm kính nhà đang xây, cả quán gội đầu chưa thấy, tối về nhà trọ, tốn quá. Sáng qua gặp anh là lúc đang ngồi nhìn biển, nghĩ bụng giá mình chết được. Nhưng chết thế nào! Còn thằng anh nó bị tật từ bé, đưa ra ông lang Pháo bấm huyệt xem có khỏi.
- Đỡ được tý nào không?
- May cũng đỡ. Đã leo cầu thang nhà nghỉ được, nhưng xuống vẫn khó. Năm nghìn một buổi cơ mà. Được cái hai anh em ngoan, mẹ đi đâu lâu cũng không sốt ruột quá. Nhưng mệt lắm rồi.
Chuyện chùng xuống, không “đi” trôi chảy nữa. Những xót xa, dằn hắt thấm đẫm, mãi không say được. Trở về nhà nghỉ, Phấn lấy hai triệu trong ba lô đưa Ngọc: “Có chút chút để mẹ con lo vài ngày. Không nhiều đâu, đừng ngại, tôi còn đủ về nhà, mà về nhà cũng chả tiêu gì”. Đùn đẩy một lúc rồi Ngọc ngẩng lên, đôi mắt chứa chan: “Anh có cần bạn đêm nay không? Anh để đây đã, em lên gác một lúc”. Căn buồng lửng cho đám hầu hạ tự dưng chao mạnh, lúc thênh thang lúc co lại nhỏ tý, thắt chặt lấy thái dương. Không biết phải làm gì, không biết là có nên làm gì, Phấn bất giác nhìn cái giường, góc chiếu quăn queo quá, chén có mỗi, mà hình như hơi dơ.
Chờ lâu, bằng mấy thời hạn đóng đảo, dễ thế. Hôm tàu đón về phép, từ đêm trước đã thấy, sáng sau từ lúc nó thả xuồng đến lúc cập, thằng được về líu ríu như chim, thằng ở lại im như bịch thóc vứt trong hầm, cũng không lâu bằng. Nhưng đến lúc Ngọc hiện ra, thoang thoảng thơm, mặc đồ ngủ thì mồm miệng hóa bịch thóc, chân tay luống cuống suýt tan cái phích.
- Em phải đợi cho cu Tèo ngủ yên. Thằng lớn ấy mà. Nó dỗi mẹ đi lâu, lậu bậu mãi. Cái Nhâm thì ngủ ngay. Cả hai anh em đều ăn rồi. Anh thấy hai đứa con em ngoan không?
Nhưng “anh” không trả lời được. Ngọc đến trước mặt Phấn, đôi mắt có quầng lấp lánh, chỗ này đằm thắm roi rói, chỗ kia giễu cợt khúc khích. “Nào, binh nhất, hãy nhìn thẳng vào mắt em đi. Anh muốn em chứ? Anh đã muốn như thế này cơ mà, phải không? Thì cứ để mọi chuyện tự nhiên, cốt yếu là đừng vội”. Cô áp mái đầu vào ngực Phấn, lắng nghe trái tim thanh xuân đập vội vã như thể cánh chim chao. Còn cậu, đôi tay thõng thượt, chả biết làm gì, di di môi lên mái tóc thơm thoảng. Tràng cười vang lên trong veo làm anh lính càng ngượng nghịu.
- Anh chịu khó đợi nhé. Có hàng bánh rán đầu ngõ, chỉ bán đêm. Rồi anh sẽ đói rất nhanh.
Cô trở lại với túi giấy thấm mỡ, thơm ngào ngạt mà mồm Phấn khô không khốc. “Đang nóng, ăn ngay thì ngon”. “Anh chỉ muốn ăn em”, giọng cậu bạo dạn một cách khổ sở làm Ngọc lại cười. “Anh còn chưa biết hôn thế nào kia mà. Em phải ăn cái đã. Em háu đói lắm, vừa ăn xong lại ăn được ngay”. Cái miệng đang nói bị khóa lại, nụ hôn có lẽ giống trên phim, lưỡi gặp lưỡi, môi dính vào nhau. Nhân loại tạo ra điện ảnh có lẽ để dậy người ta hôn nhau thế nào, anh học trò tội nghiệp cuống quýt tít mù khiến cho “cô giáo” cứ phải “thế này thế này…”. Sự nghiệp đào tạo cứ lập cập mà cũng không lâu, ngón tay, mái đầu, đôi môi dính mỡ cứ tự lần đến, đặt đúng chỗ phải đặt. Những khám phá sững sờ, những mê cuồng quá phê ma túy, có lẽ thế, khiến chàng trai quên tiệt biển đảo, hành trình về quê.
Cho đến lúc Ngọc chợt gỡ tay Phấn, nghiêng nghiêng đầu lắng nghe rồi đưa tay lên môi. “Con em, chúng nó đi tìm mẹ”, rồi chạy ra áp mặt vào cửa. “Mẹ ơi, anh Đích Sang Trường tiểu đội ơi, sao mà những gò đống kia đẹp quá thế”, Phấn nhìn theo tấm thân trần trắng lấp lánh, thầm kêu. Mấy phút nín thở dài quá lúc theo dõi tàu chiến lạ, và chả biết có căng thẳng bằng, chả biết có chút hờn dỗi nào trong đó...
- May quá, chúng nó lên phòng rồi. Anh thấy con em ngoan không?
Ngọc ngồi đầu giường, cúi xuống, hai bầu vú đu đưa trước cặp mắt thèm khát khổ sở. Chẳng nghe thấy quái gì, anh chàng ờ hỡ đồng ý ngay. “Tội nghiệp chú bé, chờ chị lâu quá phải hôn?”. Mắt người đàn bà lấp lánh ánh tinh quái nhưng “chú bé” sá quái gì. Lại quấn lấy nhau như hai con giun.
6.
Thiếp đi bao lâu không biết. Mồm nhai tóp tép, cơ mặt nhinh nhích như bé em cười mụ dạy. Cơn mơ đang đưa Phấn ra biển, xanh nhức mắt như mọi ngày, thì Ngọc trở lại. Chả cần đụng chạm, chàng trai đã tỉnh như sáo.
- Em thấy anh cười.
- “Em biết như thế này em lấy chồng từ năm lên bốn, vì chiến tranh lan tràn thanh niên chết nhiều lấy ai làm chồng…”, Phấn hát ư ử. Em biết bài ấy không?
- Anh chỉ bịa.
- Trẻ con thế nào?
- Bé Nhâm dấm đài, phải thay quần. Anh cho tiền, mai em lại mua được bỉm, đóng vào đêm đỡ phải thay.
- Còn cu Tèo?
- Tèo nào? À, nó chưa ngủ. Trách mẹ về muộn. Phải xin lối xin lối mãi, nói dối lại đi tìm bố đây nó mới yên cho.
- Ngoan nhỉ.
- Cũng lại phải có quà nữa đấy. Em phải chạy sang đường, may hàng kem mới đóng cửa chưa đi ngủ. Mấy thằng xe ôm trêu “Ăn kem giờ này lạnh lắm em ơi”. Tưởng em nói dối à?
- Thì anh bảo sao đâu.
Phấn ôm lấy cô, thương ơi là thương. Tóc mềm chứ không ép này, mùi dầu xả này, mà da đầu rẽ ra cũng trăng trắng. Bao vất vả, đau khổ của người đàn bà, làm sao mà những xa cách thiếu thốn ngoài đảo sánh được bì được. Lính biển nghêu ngao, chưa biết tiếc đời, nó “đòm” phát là vô tư “đi” ngay, thế sướng hơn chứ. Ta thực may mắn biết em, được ban phát hạnh phúc nhường này không khéo lại chẳng sẵn sàng hy sinh như trước mất. Nhưng hy sinh cho Ngọc, mẹ sinh ra ta, chị Nếp và những người đàn bà khác, đáng lắm chứ. Những ý nghĩ thế này, các thủ trưởng chính trị viên chính ủy nói cho lính tráng, tác dụng còn bằng mấy quán triệt ba nên nhớ năm không với mười cần phải chứ lỵ.
- Những vết rạn này là do sinh nở. – Ngọc nói lúc Phấn di mấy ngón tay theo những vệt trăng trắng trên mình cô – Đàn bà xinh mấy thì xinh, hễ đẻ là bị thế hết.
- Thế á?
- Bao giờ anh có vợ anh biết. Trước bụng em phẳng lỳ, ngực cao, đi qua thế nào cũng ngoái lại. Cho con bú nó mới thế này.
- Thế này mà thằng chồng em nó bỏ đi được. Em đẹp như Phật Bà. Thật đấy. Anh mà có anh thờ suốt đời.
- Tại anh chưa thành đàn ông. Mới là con trai thôi. Anh chưa hiểu đàn ông bằng em đâu.
- Anh chả cần hiểu.
Phấn nói rồi rúc vào những khe trũng núi đồi, mải mê khám phá. Họ quấn lấy nhau, lần này là làm tình thật sự, không quá lúng túng hấp tấp vụng dại. Gần sáng Ngọc trở dậy. “Em đi lên đây. Chia tay luôn nhé”. Những thịt da trắng ngần biến dần sau lớp vải làm Phấn cuống lên. “Sao thế?”.
- Em mệt lắm. Thì cũng phải lên với con, rồi còn ngủ nữa chứ.
- Nhưng anh còn muốn ôm em. Có khi mai chưa đi…
- Thôi nào, chú bé. Anh còn phải về với u chứ, u mong anh lắm kia mà.
Nàng biến lên phòng rồi quay trở lại, nhìn chàng đang ỉu như tấm bánh đa gặp nước. “Thế này, chúng mình đã gặp nhau, rất vui. Anh cho em tiền, em sẽ nhớ sẽ ơn. Nhưng chỉ nên thế thôi. Em xin anh con ốc gió. Còn khăn này mới mua, anh mang về cho ai đấy. Ý em không dám nói là cho u hay cái cô sẽ làm vợ anh đâu. Có một chút kỉ niệm với nhau, chút chút thôi, thế hơn. Em còn có chồng cơ mà, nhớ anh quá làm sao được”.
Tàu Bắc chạy đúng giờ. Chàng lính trẻ lên đúng toa, ngồi đúng chỗ, đôi mắt, cử động của người mộng du. Cửa sổ tàu khách thả tấm lưới sắt phòng ném đá, đâm ra cả toa thành cái chuồng gà. Chuồng gà đêm đến lộng gió quá, Phấn lấy tấm khăn buộc vào cổ, gà gật theo nhịp xình xịch bất tận. Sao mà muốn xuống lộn về xóm Lò Vôi, căn nhà trọ có gác lửng ấy quá. Sao mà không nói được lời này lời nọ. Cậu đi dọc toa tìm điện thoại gọi nhờ số của Ngọc, tắt ngúm.
7.
Đảo Mang Mang mừng húm đón đám trả phép. Đủ người, đúng hạn, lại có quà có chuyện, cả sách vở làm gì chả cỡn lên. Sau lúc giao ban nghe tình hình “vừa qua”, anh Đích quét mắt đủ trăm mét vuông hầm hố công sự vườn rau, bảo: “Tớ thấy con Quýt béo ra”. Báo cáo rằng nó động đực, bơi sang nhà giàn lạ lấy giống, đi lặc lè hẳn. Lạ cho con vật ra biển, cũng nhu cầu này nọ, đánh hơi ngay ra giống đực cách xa cả cây số mà đâm sang, không hiểu trước lúc “chiến đấu” nó có mục đích yêu cầu ôn luyện yếu lĩnh với lại tỏ tình gì gì. Dầu sao, đây là một đề tài để rôm rả những lúc không phải nghiêm nghị quá.
Minh họa của Vũ Huyên (Trang Đại biểu Nhân Dân)
Anh Đích bảo hôm đầu tiên mua nửa gánh chè tươi, kẹo lạc, hàng xóm kéo sang nghe chuyện đảo đông vui quá, mình mót vợ quá mà các bố uống vào đi đái rồi lại vào nghe, bắt kể lại đoạn bị sót. Những đêm sau đến lượt con, cứ tranh nằm giữa, phải bao nhiêu dỗ dành bố ấy mới yên cho. Mà nằm ôm vợ thích mê tơi, gù gù như đoạn mới tinh, rất tốn giá đỗ với trứng vịt lộn mới cả rượu ba kích. “Hôm đi mặt buồn nhưng gò đống nó căng quá, cứ ho khan. “Ba kích” thế không nghén mới lạ. Mình an ủi thôi ruộng cậu gắng để hoang, nửa năm nữa về tớ cuốc bù, làm nó đấm thùm thụp”. Những câu chuyện làm đêm rực cả lên, giấc mơ đơn giản mà xa cách quá chừng.
Rồi lại quay sang cật vấn Phấn: “Anh thấy chú mày đọc truyện để đầu óc đi đâu. Giờ cảnh giới không tập trung cứ lử đử lừ đừ, hay cũng nghén giống con Quýt với vợ anh rồi?”. Phấn lảng không được, bèn tình thực kể tuốt ra, những là đã cố gọi Ngọc nhưng không được, sáu tháng nữa về đất khéo không gặp lại nữa. Làm cho trung úy đảo trưởng cũng thở dài thườn thượt. “Vậy sao không vào sớm một ngày tìm người ta?”.
- Em cũng tính thế. Nhưng định đi thì mẹ kể Kiều “chưa vui xum họp đã sầu chia phôi”, nghe rầu quá. Với lại cụ nhắm cho cô Bến xóm Trại, em nhất định không sang, cũng chả muốn để cụ buồn quá.
- Mày dại. Như thằng Sang bắt cá mấy tay, mồm yêu em này tay sờ tí em kia.
- Em không nhớ ai như nhớ Ngọc. Cũng thương nữa. Người ta bảo yêu có thể nhạt chứ thương thì khó dứt lắm.
- Ơ ơ cái thằng này, mày lại làm cơn thương vợ của anh nó nổi lên đùng đùng. Tối nay đọc truyện đừng có vấp đấy.
“Mà có khi mình dại thật. Mình có dại không? Ngọc chia tay rất dứt khoát thì mình nên biết thân chứ lỵ”, Phấn nghĩ lúc được một mình. Nhưng “xác định” là một chuyện, nó không thể cắt cậu khỏi những mơ mòng vẩn vơ, đôi môi ẩm ướt, khu rừng ẩm ướt, quầng mắt tối thẫm. Mà biển thì ngày nào chẳng thế, hết xanh ngăn ngắt đến nắng lóa mắt, yên ả xong lại trái chứng khó lường ngay đấy.
Ngày nọ có lệnh điểm nghiệm, tức kiểm tra tất cả quân trang đồ đạc riêng tư của lính tráng. Cả bọn xếp hàng, trước mặt là ba lô rương hòm, củ lỷ quần áo, sách vở. Anh Đích đi một vòng xem xét, nhặt phiến san hô của Trường lên: “Cái này để làm gì?”.
- Em đem về đất làm kỉ niệm đời lính đảo can trường dũng cảm vô cùng tận mà cô đơn quạnh quẽo cũng hết sức lâm ly kỳ.
- Không có chuyện ấy đâu. Tầu đem san hô đỏ dễ gặp nạn. Vứt mẹ nó đi!
- Nhưng ngoài thị trấn quân cảng bán đầy san hô kia mà.
- Mặc xác chúng nó. Đóng đảo mười tám tháng để lúc về làm mồi cho cá à, nằm dưới biển với kỉ niệm à. Mấy con ốc để lại được.
Đang riết róng thì Sang rú lên. “Thơm quá. Ái chà chà!”. Cổ quàng tấm khăn của Ngọc, tay nó lau lia lịa lên mặt.
- Này, thằng mồ hôi dầu.
Phấn nhảy bổ lại, nhưng Sang đã nấp sau hòm đạn. “Tao lau đít đây”. Mặt nó xanh như đít nhái khi Phấn đến giá súng vớ khẩu AK lên đạn cái rụp. Đờ ra một tí Đích mới hét được, giọng trấn áp sẵn sàng bắn bỏ, trong khi Sang bỏ lại chiếc khăn, lủi đi rất nhanh.
Tiểu đội tập hợp cấp tốc. Đảo trưởng đi lại long xòng xọc tôi cảnh cáo hai chiến sĩ mất đoàn kết đặc biệt là đồng chí Sang thiếu tôn trọng cuộc sống riêng tư của người khác như thế là rất thiếu ý thức. Các anh định làm loạn phỏng? Ai làm loạn tôi bắn bỏ! Hay muốn ra tòa án binh? Thử nghĩ xem, xảy chuyện bắn nhau thì hậu phương sẽ nghĩ ta ở đây làm gì, có còn tin tưởng tiền tuyến không? Đối phương nhà giàn bên kia sẽ hí hửng dường nào ấy quân đội ta vô kỉ luật. Nhận khuyết điểm chưa, quán triệt chưa? Hai chiến sĩ vô kỷ luật bắt tay nhau rồi lần lượt vác đế cối ba chục ký chạy hai mươi vòng quanh đảo. Hồng hộc thở, Sang rằng tớ có lỗi mà cậu cũng nóng quá, đằng kia còn hầm hầm không chịu ra lời nào, đêm xuống nhất định không đọc truyện.
Việc rồi cũng êm. Trung úy đảo trưởng không báo cáo lên trên, thanh tra thanh mẹ không chừng cả quân pháp xuống làm ầm lên nhọc lắm. Dính vào tòa án binh thì rũ tù mà cuộc đời trước mắt còn cơ man hứa hẹn. Và nhất là Phấn lại đọc truyện sau khi được Sang đền cho một tuần cảnh giới. Biển tưởng là dữ, thế mà lại quen được.
8.
Rời quân cảng, Phấn bắt ngay xe khách ra thị trấn. Vẫn quân phục trên người, ba lô sau lưng, mắt nhìn nắng nhiều rạn chân chim, nhưng đã là anh sinh viên đi vắng lâu lâu, sắp trở lại trường. Có tiền, chả kém lần về đất trước, là sáu tháng phụ cấp hạ sĩ tuyến đầu. Có thời gian, tha hồ thăm u với đây đó mới đến kỳ nhập học. Phấn chả có mục đích sử dụng tự do nào khác ngoài việc tìm lại chốn cũ. Những bước chân thập thõm, lúc chạy gằn hối hả lúc ríu lại bần thần.
Sáu tháng rồi, Ngọc còn đó không? Hạnh phúc quá lớn mà cũng quá mong manh khiến trái tim cậu trở nên non nớt, dễ vỡ như quả trứng.
Đang là mùa đông, thị trấn du lịch thưa khách. Quầy báo ế chỏng, giấy má bay phần phật. Một đôi thanh niên nhí nhảnh bước sang đường, cô gái eo ôi em lạnh. Một đôi nữa cọc cạch, có khi giám đốc và thư ký. Còn mình, sẽ là “phi công trẻ lái máy bay bà già” chắc? Kệ bố đứa nào bình phẩm, chúng mình chỉ cần gặp nhau là được. Bao nhiêu lần hy vọng gặp nhau thật đẹp, Phấn phải xác định những kết cục dở dang. Ngọc đã tìm được chồng, tiếp tục cuộc sống cam chịu, quỵ lụy. Ngọc đã đau khổ dắt con về quê lần hồi rau cháo hay phải chụp giật. Cũng có thể nàng còn đó, chân nấu nướng giặt dũ quét dọn, có thể lắm, nhưng vì hy vọng gia đình tái hợp lớn quá nên không thể chấp nhận sự có mặt của mình. Trong trường hợp này, liệu mình có đợi đến lúc Ngọc quyết một bề được không, ngài hạ sĩ có hóa đá như nàng Tô Thị được? Chuyện ấy cổ kính quá. Nhưng chắc là, chắc chắn là cậu hằng nghĩ về Ngọc nhiều hơn nàng nhớ cậu. Nàng thật nhiều nỗi, lúc gặp sẽ “Ơ, chú bé đấy à?”, còn cậu nghẹn ngào, những đói khát tranh nhau ùa ra lắp bắp.
Xóm Lò Vôi đã trước mắt. Những tán cây trứng cá lưa thưa nắng, quả rụng xuống bị giẫm bẹp dí. Những ông xe ôm đánh cờ. Rồi nhà nghỉ Hương biển, tấm biển mi ca xô lệch, chữ bay còn “Hương biể”. Bước dưới dàn dây leo, không rõ dây gì, Phấn tiếc không có cặp kính dâm, cái nhìn chắc nó tố cáo mình lắm lắm. Cậu hỏi còn phòng không, rồi lấy một chỗ không phải đắt nhất nhưng tươm tất, khiến ông chủ đòi trình ngay giấy tờ tùy thân. Lính tráng ít tiền, cảnh giác là phải. Cái cốt yếu là phòng tầng tư đó trông ra biển, để tạo không khí lãng mạn, hứa hẹn câu chuyện đẹp đẽ. Tự dưng Phấn thấy mình đang nhớ biển.
- Thế Ngọc còn đây không anh? – Phấn hỏi như bâng quơ.
- Ngọc nào?
- Cô có hai đứa con.
- Làm gì ra có.
- Lâu rồi. Cỡ sáu bảy tháng gì đó ở đây mà.
- Khách nhiều sao nhớ được.
Ông chủ nói rồi gọi người đưa Phấn lên phòng. Qua tầng trệt tối tăm, chăn đệm vẫn ẩm ướt. Qua gác lửng có “căn buồng hạnh phúc quá đơn sơ” dạo nào, vẳng ra tiếng cười khúc khích của đám dọn dẹp. Tầng ba rồi tầng bốn, bước chân sao nặng nhọc quá. Anh ngó lơ phòng của mình, vứt ba lô rồi phi vụt xuống dưới.
- Bà xã tôi bảo chỉ có con Phương Anh, nhưng một con chứ không phải hai.
- Tên Ngọc chứ. Đứa lớn có tật ở chân, con trai, đem ra châm cứu ông lang ở đây mà. Đứa bé tên Nhâm, con gái. Cô ấy có quầng ở mắt, đi tìm chồng thợ nhôm kính.
- Đúng con Phương Anh. Đi rồi. Nhưng chỉ có con bé con. Bộ chú trông thấy còn thằng què nữa?
- Tôi chưa. Chỉ mới gặp hai mẹ con. Anh biết Phương Anh nào đó đi đâu không?
- Các cô đến rồi đi như chim kiếm ăn, làm sao tôi biết.
Phấn quay người bước sang đường. Xế bên kia, hàng kem còn mở. Người bán hỏi đám xe ôm có biết Ngọc hay Phương Anh nào đi tìm chồng mang theo đứa con gái có khi còn thằng con trai bị tật ở chân không.
- Đi kiếm chồng á. Xóm này toàn cô thuê trọ làm gái, lấy đâu ra kiếm chồng.
- Tôi chở toàn cô đi khách thôi mà.
- Mấy tháng trước có Phương Anh thật, nhưng chỉ một con gái thôi. Đúng tên Nhâm. Thế chú không biết câu “đừng nghe con nghiện trình bày, đừng nghe ca ve kể lể” à?
Người cuối cùng ngẩng lên nhìn Phấn, vẻ thông cảm, rồi lại chúi xuống. Bàn cờ chan chát làm cậu xây xẩm.
Buổi tối, Phấn trở lại quán “Oanh Xướng - Hải sản vừa bán vừa cho”. Già đêm, bà bán bánh rán nóng cũng chỉ mang máng. Thấy cậu bơ thờ, sùng sục, ông chủ nhà nghỉ vẫy lại: “Này chú, có cần để tôi gọi cho một cô”, rồi im bặt khi nhìn vào mắt Phấn.
Thị trấn không có ông lang Pháo châm cứu bấm huyệt nào, chỉ có hiệu lang Hào chuyên bốc thuốc cho đàn ông bại thận do lắm vợ.
Nhiều năm sau, Phấn đã có cuộc sống ổn định. Một công việc cho thu nhập dư dả, một mái ấm để trở về, với vợ thuần hậu, con dễ thương. Những nghi vấn, cả dấm dứt lẫn căm hờn, liệu mình có dính “quả lừa” ngày nào chưa buông tha anh. Bé Nhâm, ốc gió, xóm Lò Vôi, chiếc khăn…, mọi thứ đều đã diễn ra thật tự nhiên không có vẻ gì xếp đặt kia mà. Nhưng chẳng lẽ những kẻ quanh đó đều nói dối? Người đàn bà ấy đã lấy đi sự trinh nguyên trong tâm lý của anh, sao nghiệt ngã mất tăm, để lại những câu hỏi, như là nàng có thật không, có thật nàng như thế… Toàn là dở dang không lời đáp, nên đêm đêm chúng lại hiện về, lúc dằn vặt khiến mất ngủ, lúc ngọt ngào chết người làm mìm cười như đứa trẻ. Rồi cũng đến một khắc Phấn hiểu rằng khi nào hết nhớ tiếc thì anh mới thôi không muốn trở lại xóm Lò Vôi, chúi vào căn gác lửng dành cho đám dọn buồng, nơi có đôi mắt quầng ngồi đợi.
Biển đảo, vì thế cứ lúc ngăn ngắt tím, lúc giàn giụa xanh, cánh buồm be bé.
Nguồn: HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM - 22/06/2011
Trang Đại biểu Nhân Dân (Phần 1 - 04/07/2011)
Chuyện trong truyện được kể bằng điệu nói dân dã với những ngữ cú rề rà, đủng đỉnh, với những tên đất tên làng tên người nôm na, mộc mạc, với bầu không khí nhuốm vào huyền tích, hư hư thực thực. Sinh thần là gì? Xưa lăng mộ xây sẵn cho người đang sống thì gọi là sinh phần.
Thế “sinh thần” là ban thờ lập nên cho người được phong thần phong thánh mà đang hiện sinh. Nhưng “sinh thần” cũng có thể nghĩa là đẻ ra thần thánh giữa cuộc đời lầm lụi, nhếch nhác. Dân thờ ai, ai thờ dân, Thành hoàng tên nôm hay tên chữ, lên ngai hay xuống ruộng, mọi chuyện cứ là xoay đảo đảo xoay trong đời. Đọc truyện mà thấy ra cái cười tủm tỉm rất riêng của tác giả ngoài đời làm thành cái cười hóm hỉnh thâm trầm trong văn.
Nhà văn, nhà báo Trần Chiến là con trai nhà cách mạng và nhà sử học Trần Huy Liệu (1901-1969). Anh đi lính xong về học văn rồi ra làm báo, viết văn. Tác phẩm của anh đã có Con bụi (tập truyện), Đường đua (tập truyện), Bóng nước (tập truyện), Cõi người (truyện chân dung), Bốn chín chưa qua (tiểu thuyết), Đèn vàng (tiểu thuyết)...
PHẠM XUÂN NGUYÊN
Sinh thần
Trần Chiến
Minh họa: Hoàng Tường
Đang lúc xuân tình dâng giáp đỉnh non, chính Téo phải bụm miệng Mỡ lại. Ngoài kia đám vịt cạc hành tiến, con đĩnh đạc giữa đàng, con vòng qua bụi chuối, lũ láu cá ùa xuống ao chổng đít mò ốc. Lão Củng tay khua cành rong ùa ùa chặc chặc, tay khư khư tích nước điếu cày đi sau cùng, oai phong như viên đại tướng. Mỡ nghển lên cười: “Tưởng ai. Ông Củng điếc lòi, em có rực mỡ nữa cũng chả biết”.
- Nhỡ mà ông ý trông thấy - Téo cẩn trọng.
- Có hét lên cũng chả ma nào lại. Ấp úng, vợ bảo lão suốt ngày nhai hột thị. Ấy ấy kìa...
Thốt cái đã ra cấm khẩu. Téo nhìn theo hướng đôi mắt đang lác xệch của Mỡ, mồm cũng đâm méo đi. Trên ban thờ Ông Trôi, bài vị rung bần bật, nghiêng ngả mà không đổ hẳn. Quả táo ủng trên mâm bồng nhảy phóc xuống đất, đĩa trầu cau vỡ tan. Có lẽ nào đoàn quân của lão Củng vịt làm được cơn động đất.
Lão Củng khuất bóng sau cây quất hồng bì cổng làng thì đất hết rung. Téo kéo Mỡ ngồi dậy, bao nhiêu mầm tình rụt lại không kéo ra được.
Minh họa của Vũ Xuân Hoàn
* *
Làng Bùm là đất trại thuộc tổng Nhu Liệt, nằm dưới chân núi Mua, xa xa uốn lượn dòng Củi. Đất mới khai canh, có gì thờ đó, khi ông nhặt cứt trâu lúc trẻ ăn mày chết tha phương, sau được Ông Trôi thương, dạt về cho mới có danh vị để sì sụp phụng sự. Ông Trôi gọi nghiêm cẩn là Danh Thắng Hùng Cường Đại Đại Tướng quân, mấy trăm năm trước phò vua diệt giặc, bị nó chém cụt đầu, tế ngựa về đến nguồn sông Củi có bà cụ bảo: “Đây rồi đây rồi... Ngài có hương hỏa ở đây, chả xuống mà yên hưởng còn chạy mãi”.
- Ta có đất hương hỏa ư?
Nói rồi ngã xuống. Dân đem chôn cất, đem vào đình lập làm Thành hoàng, xin vua cho sắc phong. Được ít năm trên ấy lụt to, mộ lở, xác không đầu trôi theo sông Củi về Bùm thì tấp lại, tươi như mới mất, dân trại rước về xây miếu thờ, gọi nôm na Ông Trôi. Mấy chữ “Danh Thắng Hùng Cường Đại Đại Tướng quân” trên bài vị chỉ mấy người đọc được, xướng lên tế Ngài ngày hội làng.
Những điều trên đều do ở mồm khóa Đãi mà ra. Đãi là con ông Đò, cháu cụ Đưa, ba đời sôi kinh nấu sử chỉ qua được chân khóa sinh, thi cao hơn cứ ngã oành oạch. Biết phận, Đãi chỉ dùi mài tiếp gọi là có miếng chữ bán cho trẻ trong làng độ nhật, thi thoảng chủ tế lúc có đám. Nhưng ở Bùm thế là bố tướng nhất, nên ngoài ba mươi đã được làng cử vào hội tư văn tổng, kỳ lễ lạt ngồi cùng chiếu lý mượn lý mua và các đấng mọc răng trước.
Bình thường sự hương khói miếu Ông Trôi rất đơn giản, mụ nạ dòng cả tin dâng phẩm oản hòn xôi vừa quay đi, đám trẻ xấc xược rinh ngay xuống mà chả bị vật bao giờ. Cho nên cu Téo mới dám kéo hĩm Mỡ vào miếu làm ô uế. Chuyện vỡ ra, làng phạt vạ. Nhưng Téo cứ cãi không phải tại cháu, chắc gì Ông Trôi đã giận, bèn bắt hai đứa ra miếu nhắc lại trò dâm ô, trước mắt tiên chỉ các cụ.
Lạ thay, chúng nó cứ chùn chụt chùn chụt mà bài vị ngay thẳng, mấy chén nước và thức quả trên mâm bồng yên phắc. “Thôi thôi lộng giả thành chân, ngứa mắt chúng tao lắm!”, thày lý Kiểm phải quát lên.
Đúng lúc ấy thì đoàn quân của đại tướng Củng diễu qua. Rầm rập. Quạc quạc. Hôi hám, bụi mù. Bài vị lập tức quay tít, chén nước mưa cùng ngũ quả chổng chênh, dựng lên lại đổ lại xoay. Đám ấy qua rồi thời ban thờ yên được.
Mấy hôm rình, đều thế. Động lớn rồi!
Đôi trai hư gái đốn thoát tội nhưng không thoát được mâm rượu, biện lên cho làng bàn đại sự. Và phải lấy nhau ngay lập tức, kẻo mà mang tiếng Ông Trôi quá lắm.
Đại sự bàn mãi, vợ chồng biện đến mâm thứ năm, bụng con Mỡ đã sưng bằng cái giá, khóa Đãi mới trình làng rằng: “Tôi đi xem ông Bốc Phệ chợ Xại, thầy Sính mù thác Củi, đều phán Danh Thắng Hùng Cường Đại Đại Tướng quân tức Ông Trôi đây là Du Thần, mỗi chỗ ngự một thời gian xong lại đóng Thành hoàng làng khác. Giờ là lúc Ngài mãn nhiệm, đổi đi phù trợ nơi xa, phải bầu lấy một Ngài mới, bản quán ngay đây để thờ. Nếu không tệ lắm”.
Sự đột ngột quá, ai nấy đều trầm ngâm. Du thần là gì, bản quán là gì, chúng dân Bùm vô sư vô sách không thủng, nhưng nhất định phải có một vị để thờ. Khốn nỗi làng mới, chưa ai công tích ra trò, biết lấy ai bầu chọn ai lên ngồi trên ban. Làng chửa có đình như nơi này nơi nọ, dù chỉ là ngôi miếu, vẫn cần thần chủ. Không có tức là chả tiên sư thánh sư nào, ra không gốc rễ, tổng nọ xã kia nó khinh cho thối mũi ấy chứ lỵ.
Nghĩ đoạn vác mồm đi ăn nơi nơi, không dám mời họ về khao lại vì chả biết cúng bái, thờ phụng ai, đắng lòng lắm. Không lẽ đem ông gắp phân với trẻ ăn mày lên sì sụp lạy.
Nhà Téo Mỡ phải biện đến mâm thứ mười mới nhất trí. Cũng lại từ mồm khóa Đãi ra. Ấy là lão Củng. Chính là lão chăn vịt, không dưng Danh Thắng Hùng Cường Đại Đại Tướng quân níu lại để trao chức vị còn là gì. Có vịt hay không có, hễ lão đi qua là bài vị nhảy cả lên, không ra thay thế thì ra thế nào. Lắm nơi thờ người đang sống sờ sờ, mình vầy vậy cũng được chứ sao.
Bùm ngẩn ngơ, đấu lý rồi đấu tình. Nghị sự mãi khiến nhà Mỡ Téo suy sụp, con ra càng sòn sòn càng đánh cãi nhau. Mặc lòng, làng phải có vị để thờ, như cái cây có gốc rễ, rễ bèo rễ rong ta cứ vun lên kẻo bên trên ngọn kếnh kềnh ra. Khóa Đãi xem ngày tốt, bắt Củng tắm táp kỳ hết mùi vịt, ra miếu cho làng tôn xưng. Lão chăn vịt không thể chễm chệ trên ban thờ, đành ngồi bên dưới, đằng trước, cho tiên chỉ hào lý vào lạy.
Bên trên, bài vị ghi “Sinh thần là Củng” rất chi sơ sài. Nhưng văn tế do khóa Đãi soạn tôn lão lên hàng sang trọng, liệt tổ suýt làm tuần phủ, thân sinh ưa làm phúc, bản thân Thần thật là hiền hậu, làm nghề cần kiệm khiêm nhường, bao nhiêu quan lộc từ chối hết. Quan viên hàng tổng, chức dịch làng bên nghe vậy ừ vậy, còn dân Bùm, từ nay có vị Thành hoàng chả giống ai, cầm lòng bái lễ.
* *
Củng đạp đành đạch khi bị điệu từ ngoài đồng về, khiêng lên bệ trước ban thờ miếu Ông Trôi, giờ thành miếu Ông Củng. Khóa Đãi phải gí mồm vào tai lão dằn giọng vứt ra sông Củi giờ, mới ngồi yên cho làng sì sụp. Ngứa ngáy lắm, cẳng chân lội bùn lâu ngày gãi tróc da, vảy rơi trắng bệ. Rồi xôi oản thủ lợn rượu tăm bưng ra, mình một mâm trên, lão lạy chánh Đình, lý Kiểm, khóa Đãi lên ngồi cùng, bèn tì tì chén. Chả có bao giờ được căng rốn thế, đến nỗi làng phải khiến trai đinh khiêng Thành hoàng mới về nhà, kẻo muỗi nó khiêng Ngài đi.
Ngày rằm ngày một, bữa đứa chửa hoang, hôm thằng trốn thuế, việc làng nhiều luôn được máy mắt ăn xôi máy môi ăn thịt. Bù lại lão chả được gãi, hút thuốc lào hay ngủ gật theo ý. Chả trốn đi đâu được, thôi thì ngồi yên cho chúng nó sai mình dựa mình. Được cái Thành hoàng Củng không vô tích sự hoàn toàn.
Nhà nọ con nổi mề đay gãi toét da, đến cạy. Ngài sai lấy lá lốt bọc cứt trâu đặt chỗ cỏ rậm, thân đến nơi thắp hương khấn “Lạy ông Tịt bà Tịt, ăn cỗ cứt trâu ăn trầu lá lốt đừng đốt con tôi”. Những chỗ rậm rạp phát đi cả, giát giường đem phơi, hơ lửa khe kẽ rồi đốt manh chiếu mục. Thằng bé đâm hết khóc.
Lại những đoạn sản phụ tắc sữa, Ngài ghé mồm mút chùn chụt. Ả vắng chồng đêm vần cối huỳnh huỵch bị quất roi dâu vào đít.., những cách trị giản đơn mà ứng nghiệm. Lạ nhất là chuyện trương tuần Nải. Nhà có mẹ già nghiện trầu, mà cây chay ra tí ti rễ, chả đủ ăn. Ngài đứng dưới giả cách khảo gốc cây: “Có ra rễ không thì bảo?”. Nải ngồi bên trên đáp. “Dạ, có!”. “Ra nhiều hay ít?”, bên trên lại. “Ra cả làng ăn không hết”.
Từ đấy cây chay ra rễ đầy vườn, mẹ Nải đem cho cả làng. Bùm trở thành đất nhuộm vải, nước rễ cây chay ăn vào vải bền màu đố nơi nào địch được. Nghề ấy đem lại mối lợi. Chợ quê nào cũng có thợ nhuộm Bùm, đem tiền về cúng miếu Ông Củng, xong chia lại cho kẻ khó.
Đất trại vụt nhuận sắc, mặt người già rờ rỡ, tiếng trẻ nô í a đến là vui tai.
Phú quý rồi thì phải tế lễ nhộn nhịp chứ. Bèn bàn xây đình mới, đất đúng ngôi miếu cũ, Đức Thành hoàng dĩ nhiên là Củng. Sau ba năm đình Bùm hoàn thiện, giữa hình cái vồ xung quanh tả hữu mạc, cả nhà hậu với tam quan. Trên bài vị ngự khúc rễ chay phủ vải đỏ, bệ dưới ông Củng ngồi, tha hồ sì sụp.
* *
Bùm trở thành làng văn hiến, chạy quan phủ cho tách khỏi tổng Nhu Liệt lập xã mới, nhưng việc ấy không thành. Xin cho Thành hoàng tước Thượng Đẳng Thần, trên phán có đâu nhẽ thế.
Từ thần miếu lên thần làng, cái sự thăng thiên biến ra muôn hình vạn trạng. Lão chăn vịt chả chữ nghĩa gì, có người kêu xin nguệch ngoạc ra giấy mấy nét, khóa Đãi “dịch” lại, là do bệnh tật ở đâu cơn cớ gì hàng xóm đánh cãi nhau, phải biện lễ những gì. Vào chợ, đi thi, mở trường, ăn khao đều định suất. Một chân nhiêu bán mươi nồi thóc. Vợ ốm để khỏi kỳ đắp đê thời đào ao lợp nhà cho hào lý. Thậm vô lý là cây chay mọc trong vườn nhà mà Nải muốn róc rễ phải biện chục cỗ lòng cá lăng cụ, lên mãi nguồn sông Củi mới câu nổi, vì thịt thà mãi làng oải rồi.
Tòa ngang dãy dọc mọc lên bên những lụp xụp bần tiện. Việc ăn chia chả phải lúc nào cũng toại ý ai ai, nên có kẻ thối mồm đặt vè
xua vào hố nẻ,
đem về làm thịt,
được ba mâm đầy,
quan viên ăn một,
khóa Đãi ăn hai,
nhúm lông khó nhai,
đem biếu ông Củng,
Củng hỏi con gì,
con nghé đang khỏe...
Bọn trương tuần hương dõng đi tìm, khảo hèo con trẻ, đứa nào cũng “không phải cháu”, tiếng khóc mếu cứ inh ỏi dòng Củi.
Thần hoàng phải xa vợ, kiêng thịt chó, tiết canh lòng lợn. Cả rượu. Không được ùa ùa chặc chặc nhảy cỡn lên. Thế thì chết đi cho xong. Cảm thông với Củng, khóa Đãi bàn với quan viên “hành thì cứ hành nhưng ngôn bất khả ngôn”, nhất trí để lão được ăn vụng. Mà Củng không biết điều, lắm hôm hành lễ mùi mắm tôm chanh dậy át cả khói nhang.
Lão béo ra, năng tắm giặt nên đỡ hôi hám, nhưng đám vẩy ở chân không tẩy được. Và nhớ đàn vịt quá thể. Bèn thảng hoặc cho người lùa sẵn đàn ra đồng, Thành hoàng lẻn ra sau tha hồ rì rì cạc cạc. Nhìn chúng rỉa lông, chổng phao câu trên mặt nước, mặt Ngài ra ngơ ngơ, chốc nhát lủi thủi về đình leo lên bệ. Nếu không được vậy y như là có chuyện, như nhất định bảo khóa Đãi dịch bố láo bố toét, hoặc thịt thiu rượu khê nước mắm không hâm đổ cho chó nó ăn.
Có nhà nước giếng bị thối, lão một mực bắt đổ đống vẩy từ chân mình xuống đấy, nhà ấy sinh tháo dạ. Khóa Đãi, chánh Đình, lý Kiểm bực bội, nhưng đã tôn xưng Ngài lên, bảo mồm Ngài toàn ra lời Thánh rồi, cãi lại giữa trời xanh khó lắm. Chiếu nhất giữa đình nhiều dịp nhờn mép mà thành ra như nhà đám, quan viên quay đít vào Thành hoàng.
Tệ nhất là đồng áng cần nước cấy, Củng đòi ngăn sông Củi kẻo thánh quở. Núi Mua rậm rạp làm vậy, Ngài khiến phát đốt cho quang quẻ để lộc trời đổ vào làng. Lộc đâu chưa thấy, mỗi trận mưa lũ trôi tuột nhà, cánh đồng đầy đá to tầy con trâu.
Bùm bỗng ra không đủ ăn, phải đi đong gạo ngoài.
Cây chay nhà Nải xùm xòa tươi tốt là thế, bị tận thu không đâm kịp rễ. Dịp tết Trùng thập nó đổ ùm. Thế là hết cái lộc làng. Đến tiền đong gạo ngoài cũng chả còn.
* *
Đói kém đổ đến cũng nhanh bằng khi phất lên, phong cảnh làng tiêu điều hơn thời còn miếu Ông Trôi đơn sơ. Người Bùm lang bạt kiếm ăn xa, rất xa, toàn làm đầy tớ bưng bô rửa đít. Thôi thì lại phải lập đàn cầu khiến, phí tổn bòn vét đũng khố thằng đánh giậm. Nhưng Đức Thành hoàng Ngài không linh ứng nữa, có dễ do lễ biện chỉ đủ một mâm.
Lại bàn kín, chỉ trong cụ chánh, ông lý với thầy khóa, rằng thằng chăn vịt hết thiêng rồi, thay Thành hoàng khác đi. Nhưng bầu ai tôn ai thì không ra, cứ cãi nhau vặt rất tốn đóm. Đâm ra giữa đàn con hôi hám, nhìn bụng Mỡ đã lại lùm lùm, Téo phải than: “Chỉ vì sáng ấy rửng mỡ mà giờ chả biết lấy gì bỏ miệng đây”.
Nguồn: Báo điện tử Tuổi Trẻ Cuối Tuần, 11/01/2012.
Làm đẹp cho đời
Trần Chiến
Tử vi ông Lãnh có sao chữ nghĩa. Thời đi làm phải luân chuyển luôn, đi đâu ông cũng dính đến giấy tờ văn bản. Chục năm cuối thì ngồi yên văn phòng bộ chuyên quán triệt rồi thảo bài nói chuyện cho sếp. Các chủ nhật ông nghĩ cách tạo ra “nguyên nhân khách quan” cho những sự cố dồn dập, vá lũ lĩ to tướng lỗ thủng gây sụt giảm sản xuất,
Rồi về hưu, vợ coi bằng cái đinh mục, đến cơ quan chả ma nào hỏi. Mà ông còn khỏe quá, ra các cụ rặt chuyện tiêu cực, nghiên cứu nhai dầu mè chữa bách bệnh với ngâm chân nước nóng phòng trừ phong tê thấp không hề ham. Khối u uất xuất hiện: lúc tại chức lắm nơi cầu cạnh hẹn hò lắm kia mà, sao giờ chả thằng chó nào héo lánh? Là tự hỏi thôi, vì biết mình đã qua thời.
Ngày đẹp trời ấy, anh trưởng phòng Tổng hợp cơ quan (cũ) lò dò sớm, vẻ mặt hết sức nể trọng. “Việc là thế này, cụ Tăng Trọng Pháo mới quy tiên, bác làm ơn thay mặt cơ quan viết cho câu tiễn biệt”.
- Điếu văn chứ gì! Tôi có viết bao giờ đâu mà sai.
- Mọi khi thì trưởng ban liên lạc hưu viết, nhưng cụ bắt đầu lẫn rồi, chúng em sinh sau soạn nhỡ thiếu sót gì sợ mang tiếng. Cụ Pháo làm bấy nhiêu năm, ưu khuyết thế nào bác nắm cả, bác cứ khảo cứu những điếu văn khác, rồi rập lại, gia đình đọc không thắc mắc gì là được.
Nói rồi vụt đi, phong bì ba trăm để lại. Ngồi một lúc, ông Lãnh lần ra đầu sợi chỉ. Hồi những năm bẩy mươi, cụ Pháo nói năng sai quan điểm thế nào đấy, phải “đi” mất mấy tháng, nhận một tạ lỗi thì về được, chuyển sang văn phòng nhong nhong công văn, gọi dạ bảo vâng như cái bóng. Giờ thời thế thay đổi, mấy anh tại chức chả biết nên nhìn nhận cái “phốt” này thế nào, đá sang cho đám lại già tự xử đây. Láu cá thật.
Bèn bần thần nhớ lại bài học ngày mới ra trường. Còn trong veo, bị đẩy ra soạn tổng kết, Lãnh bị cấp trên đánh giá “văn hay chữ xấu”. Bản ấy không dùng nhưng người viết lại chuyển lên bộ phận thư ký vụ. Ngoài xếp lịch làm việc, tiếp khách cho sếp, nghiên cứu chồng văn bản trên nóc tủ, anh phải tập viết chữ lại cho dễ đọc. Văn bản lớn đầu tiên được giao soạn là báo cáo cuối năm của tổng công ty, sếp cả ghi bên lề “Lý luận chưa đi đôi với thực tiễn”. Lãnh rất hoang mang nhưng ông chánh văn phòng lọc lõi chỉ bảo “Chả có gì đâu. Chỉ là cậu nêu lắm “khó khăn chủ quan” quá”. Sau vài lần ậm ờ, “khó khăn chủ quan” được “dịch” ra là những hạn chế yếu kém của bộ phận lãnh đạo.
- Nhưng cái đó có cơ mà…, Lãnh cãi hăng.
- Những cái có trên đời mà đưa hết có mà chúng ta còn tồn tại được ở đây à? Hay chú mày muốn đi công trường?
Thực tế văn phòng tất nhiên quan trọng hơn thực tế công trường, nên anh nhân viên mới bỏ luôn tì vết của lãnh đạo, thế vào những chỉ đạo sáng suốt quên ăn quên ngủ chả bao giờ có ngày nghỉ. Lãnh phục lăn khi ra hội nghị, sếp cả ngon lành nhận tất cả những đóng góp chân thành của cơ sở, hứa khắc phục chỗ này phát huy đoạn khác rồi chả ai còn thắc mắc gì nữa. Cuối năm sếp được chiến sĩ thi đua toàn ngành, qua năm sau đón nhận huân chương Lao động, tất nhiên báo cáo thành tích anh soạn…
Điếu văn được soạn ra trên cơ sở tham nghiên khảo lý lịch Trọng Pháo, trao đổi với cơ quan chuyên trách đã đưa ông cụ “đi” trước đây, truy sưu tầm những bản cùng thể loại khác, phết phẩy ý kiến lãnh chỉ đạo của sếp đương chức vào. Ngoài những câu “gia đình mất đi...”, “cơ quan nhớ tiếc...”, “ban liên lạc hưu trí thiếu vắng...”, nó đủ dài để người đọc - là sếp phó - bầy tỏ hết sự tri ân của người đi sau, đủ ngắn để người nghe chưa kịp chán. Còn cái điểm chính cụ ấy mắc, ông Lãnh gửi câu “sống hồn nhiên, nhạy cảm, nên không khỏi có lúc vất vả”. Thế vừa khéo lại đủ, ai biết hay không biết “phốt” ông cụ đều hiểu theo cách của mình được. Vậy nên được duyệt cái tắp.
Ngày đám, đứng trong đám đông, ông Lãnh không nghe ai ta thán gì. Về cái phong bì, ông thấy người cũ với nhau hay hớm gì mà thù lao câu khóc. Nhưng anh văn phòng bảo “thành chế độ rồi”, đã chi không ai vào lại quỹ. Bỗng dưng dôi mươi bát cháo lòng hay phở sáng, và tách cà phê sau đó, bèn thôi.
Ngày sau tang quyến lại cảm ơn cùng dăm bao thuốc, nửa cân chè Thái. Vẽ quá! Không ngờ cái sự chu đáo ra nhiêu khê đến thế... Nó làm ông bâng khuâng nhớ tiếc công việc, một ngày soạn vài bài nói cho sếp, thay câu “chào các bạn trẻ đang đầy nhiệt huyết” ở cuộc họp thanh niên thành “kính thưa các bác các cụ” khi ra hội nghị người cao tuổi, lại làm thế nhưng đảo đoạn giữa lên trên đầu ở cuộc họp phụ nữ. Phòng tổng hợp của ông cuối năm tổng kết đã tổ chức bấy nhiêu hội nghị, điều ngần nọ chuyến xe. Nhớ tiếc và hơi phát phiền, vì việc đến thế là hết.
Nhưng lực lượng hưu trí của cơ quan phát triển lên, lớn mạnh về quân số và trẻ hóa thấy rõ. Thường cứ dăm “bác” về (như ông) thì vài “cụ” nhập viện, rồi một người phải vô cùng thương tiếc. Lâu lâu chánh văn phòng lại đến, đem theo một cái trích ngang. “Nghĩa tử là nghĩa tận”, cái tinh thần ấy phải được quán xuyến trong mọi cuộc vĩnh biệt, tức là chết hay sống đều phải có khuôn khổ, không thể tự dưng ra dưng. Thành thử ai ra đi đều trong veo như pha lê Tiệp. Cụ V. sinh thời miệng lưỡi độc địa, có tên tục “Dũng sĩ diệt đồng đội”, trao đi đổi lại mãi, cuối cùng lời tống tiễn được thảo theo hướng “tích cực đấu tranh phê bình”. Cụ X. trót không thanh quyết toán được một khoản tiêu một mực được đánh giá “liêm khiết, thanh bần, chả tơ hào lấy một li leo xu hào”. Sở trường viết lách xưa, ông Lãnh phong cụ này chức giáo sư tiến sĩ, tặng cụ kia cả đống huân huy chương, kể lể “quá trình kinh qua”, các cống hiến, “hô biến” những giai đoạn “đáng tiếc”.
Cụ T., đùa nhả và dai nhất, nằm cả chục năm ba lần con cháu khóc inh cả lên. Bản đầu tiên hội hưu chê dài, cái thứ hai sau đó năm năm, anh con cả bảo tóm tắt quá. Coi như vốn chất xám bị “đọng”, lại tự trách mình lưu hồ sơ không tốt, thế mà bản thảo cuối cùng, ông Lãnh vẫn phải viết “tạo điều kiện cho con cháu tỏ chí hiếu”. Đáng yêu nhất là những cụ đi nhanh, ông thưởng câu “không muốn để thân nhân phải khó nhọc”. Đấy là “những thách thức” của thời kỳ mới, nó khiến ông phấn khích hơn, nghĩ ra câu giải quyết rất hài lòng. Có ai ngờ những cụ chân chỉ hạt bột cả đời chả ưu khuyết mạnh yếu nào trầm trọng lại khó viết nhất, chả biết thêm gì bớt gì vào các trích ngang.
“Mình được ăn lộc âm, giống anh tẩm liệm hóa trang mặc com lê com táo cho người chết ở nhà xác, nhưng sang trọng hơn nhiều”, mỗi lần nghĩ vậy ông Lãnh không khỏi thú vị. Ngoài khoản tiền chấp bút cơ quan chi, ông hay được tang quyến hậu tạ, chè thuốc đem ra hàng nước cuối phố. Chi tiêu thế là phải chứ, đám tang cùng trăm thứ bà giằn theo sau là để cho anh sống, chứ thằng chết còn lý gì được.
Dần dần ông Lãnh nổi tiếng, được hàng xóm nhờ vả. Trong phường có bà cụ vô gia cư chết hai ngày hàng xóm mới biết, ủy ban cậy ông, điếu văn vài lời thôi mà bao người dưng phải nhỏ lệ. Cái cảm giác mình làm ơn cho người thật thú vị. Nhưng sướng âm ỉ nhất là người ta lại cần mình, cái năng lực viết lách ngày nào chẳng bị để hoen gỉ, mình không rầu rĩ như sếp này sếp nọ về vườn chỉ một mực hậm hực cấp dưới không đến thăm. Đi hội cao tuổi, nghe giới thiệu “Bác Lãnh đây viết điếu văn hay lắm, bác nên chu đáo với bác ấy để bao giờ đến lượt bác…”, cái người kia đã nhìn ông hết sức nể trọng. Nên vào ngày trời lại đẹp, những câu thơ bật ra:
Ở lại thản thanh
Làm đẹp cho đời
Trào bao ý thơ
Chuyên gia khóc cấp phường, đôi khi là cấp quận, thấy mình phải xứng đáng với sự nghiệp mới. Nhà nào có người ốm nặng, ông mang sổ đến ghi chép sẵn, hỏi han (không thể trực tiếp được) ai đầu ban lễ tang để đăng ký sẵn, kẻo anh khác vuột mất. Mục “Tin buồn” trên báo được theo dõi kỹ, nhỡ đâu người ta cần mình. Cậu T. ở cơ quan đang tại chức chuyển sang từ trần, vợ cậy người viết câu khóc, khi mang đến thì ban tổ chức gãi đầu “bác Lãnh đã lo hộ rồi, rất chi mạch lạc”, đành xếp lại. Anh văn phòng phải ưu tiên ông chứ, chỗ dựa cậy lâu dài kia mà.
Nhưng lắm khi lại mang vạ. Có kỳ tăm tia người ốm, ông phải thằng con nó mắng “Cú dòm giường bệnh. Cút mẹ mày đi!” Đến cơ quan, bọn trẻ hỏi “Sao bảo bác đi cấp cứu…” rồi kháo sau lưng “Chim lợn cao quý đấy”. Một kỳ họp hưu trí, ông K. đốp vào mặt: “Lão Quýnh lái xe đi đâu vợ đấy mà ông vu là “người chồng chung thủy”, quá là oan”. Xung quanh được thể: “Thợ khóc bậc bẩy, ai chả là người cha nhân từ người con chí hiếu người bạn tri âm, phấn đấu thế nào cũng không được là người tình sắt son thằng con mất nết sất…”
Thế thì cái thể thống nó ra thế nào nhỉ. Ta làm đẹp cho đời cơ mà. Ra là cùng mục đích tốt nhưng sự đưa tiễn không đơn giản, có đặc thù của thể loại, còn khó hơn ngày xưa viết tổng kết nhiều. Càng nghĩ càng thấy đố đứa nào “đi” toàn thây được. Lão Quýnh đã chả hì hì bảo “Tôi tòm tem được chục cái bướm, ông cố kể vào đoạn thành tích nhá”, nhưng hội hưu kêu tởm quá. Có những nỗi niềm vợ con muốn đưa vào lắm nhưng ông trưởng họ hoặc trưởng cơ quan hoặc trưởng hội thọ phường xã nhất định bỏ ra. Ơ, ra sống còn không phải chặt chẽ bằng chết, có thể này này nọ nọ nhưng nằm quan tài là chỉ được vuông vắn ngay thẳng mà thôi.
Bèn chong đèn rút kinh nghiệm, đưa những sự phức tạp trên vào tham luận “Mấy vấn đề thực tiễn khi viết điếu văn”. Cách đặt vấn đề mới, giải quyết độc đáo, dẫn chứng ngồn ngộn. Nhưng ở Hội nghị Người cao tuổi quận, ban tổ chức trù úm thế nào đấy, nhất định không cho trình bày. Ông bèn sửa cái “tít” khiêm tốn hơn: “Thử bàn về công tác đưa tiễn”, gửi kỷ yếu ra dịp cơ quan tròn 50 tuổi. Thì “chúng nó” cũng không sắp vào.
Vào một năm hết Tết đến, ông Lãnh tính sổ, thấy lượng điếu văn sụt giảm bốn mươi ba phần trăm so cùng kỳ năm ngoái. Có những kỳ đưa tiễn, ông thấy câu khóc chả phải thứ của mình đã nộp. Hỏi cho ra nhẽ thì thằng văn phòng mới cứ “bận”, lên hẳn sếp phó nó cứ vòng vo. Dĩ nhiên phần quà sáng giảm hẳn, kéo theo khoản tang quyến cảm ơn.
* *
Tức thị đã có kẻ khác thế chân, chiếm cái lộc khóc sang trọng. “Chim lợn cao quý” đời mới có máy tính lưu dĩ vãng chúng mình, hẳn công khóc không mất nhiều bằng. Thời của mình đã hết. Thôi, không đấu tranh giành lại nữa, âu cũng là luật “bất tận hưởng”, chả gì ông cũng bắt đầu chuyển từ “bác” sang “cụ”, thường xuyên bay lượn giữa các phòng khám. Điều này có vẻ tiêu cực, nhưng nó bắt ông chuyển sang một “tứ” khác rùng rợn hơn: Rồi cũng sẽ đến lượt mình. Kẻ kia, con chim lợn mới ấy, sẽ quàng vào mình những cục chữ mòn nhẵn, mớ mỹ từ lố bịch mà ông hằng áp cho người đi trước. Ô mà nhỡ nó thù dai, tố đểu những chuyện này nọ ra… Ông đã nặn lại người chết theo hình hài người sống thích, có lý gì “thằng mới” nó sẽ không “tái nặn lại” ông theo cái cách ông không thể ưa được.
Không thế được. Mình phải tự đưa tiễn lấy. Trong đêm, ông Lãnh toát mồ hôi với ý nghĩ mới và bắt đầu cuộc kiểm điểm. Ngày làm sếp xấu mặt khi viết phải một từ sai, bị lên lương chậm một năm, đưa vào thế nào được. Đận ăn vụng vợ thằng Z. bị nó quả tang, chạy thầy thợ mãi mới khỏi đi cơ sở, cũng không thể. Và đoạn còn trẻ lang bạt kỳ hồ, làm sao mà ông không sa chân được vào hầm nọ hố kia. Bản tự khóc của ông không thể sáng choang như anh hùng vĩ nhân, nhưng nó cũng phải được là nhẵn nhụi. Không tỳ vết, cho con cháu soi vào khỏi xấu hổ, thậm chí có chỗ tự hào noi theo. Và cũng để con chim lợn cao quý mới chưng hửng một phen.
Ngày xấu trời ông Lãnh ra đi. Gia đình đưa bài khóc soạn sẵn đến cơ quan. Nhưng chánh văn phòng mới quan điểm mới đã mượn người làm bản khác, chả biết có thể gọi là điếu văn...
Nguồn: Báo đại biểu nhân dân, 05/10/2009.
Mùi chị
Trần Chiến
- Em thử với!
Tôi cũng nhăn mặt. Tanh tanh mặn mặn, còn mùi gì nữa đoán không ra. Niềm bảo đấy là mùi nước nậm U. Nậm U là con suối hai chị em vừa tát mớ cá, chảy vòng quanh bản Phiêng Cẩm của chúng tôi, róc rách dưới chân núi Chùn Chụt sau nhà ra sông lớn. Hồi còn sống, bà nội hay kể những chuyện thần tiên ma quỷ dính đến núi Chùn Chụt, nậm U, mãi không hết chuyện. Giờ vào đêm giữa tháng, trăng mọc từ núi lên soi xuống suối rất đẹp, sao tôi muốn ra chỗ mộ bà nghe quá.
Sáng ra là hai chị em dậy sớm, đi vòng qua bụi tre gai xuống chỗ mảng kết bằng bương. Rồi mấy đứa nữa đến, lên mảng chống qua bên kia, leo con dốc là đến. Lớp ba của tôi ngay đỉnh đồi, cô Chiêm dậy. Niềm leo vòng qua trạm xá, mấy ngôi nhà sàn, tới chỗ cắm lá cờ thầy Bảng đang đợi. Buổi trưa tất cả lại lên mảng trở về. Niềm cầm sào tre chống, người vươn thẳng như dóng tre, lúc lả xuống giống ngọn lau trước gió, miệng nhắc “Đói rồi. Nghịch ngã giờ!” Hôm lũ về, cả bọn bần thần trên bờ, đang thi nhau thia lia xuống dòng nước ngầu bọt thì con rắn bò lên. Tôi sợ cứng người, chị điềm nhiên huơ tay tóm gọn khúc vàng đen. Rồi thầy Bảng cõng từng đứa sang bên kia. Chị đưa con rắn, bảo thầy ra bụi sả nhổ củ xào lên, uống rượu khắc ngon.
Niềm hay gội đầu bằng nước gạo ngâm vài ngày, bảo thế nó mượt tóc. Quả thật tóc chị xanh đen, đánh chanh chách xuống lưng mỗi khi chẻ củi, mùi mồ hôi tỏa ra đậm đà. Ngày Tết mẹ hái lá bưởi lá mùi nấu nước gội cho, chị đứng đầu sàn quay quay mớ tóc nặng trĩu, những hạt thơm nức bay như hoa nước. Mẹ cười: “Tằng cẩu(1) đến nơi rồi”. Tôi bảo “Con không muốn chị Niềm sang nhà khác ở”. “Không muốn cũng không được. Ngày trước bằng này bố đã đến chọc sàn mẹ, có hôm chọc nhầm chỗ ông ngoại nằm chạy bằng chết”.
Ít lâu sau mẹ rời bỏ chúng tôi. Bố lầm lì vài tháng rồi trở lại bình thường. Bố là trưởng bản, đi bộ đội về cả bản bầu rất xứng đáng, không buồn bã lâu được. Chú Cầm trên huyện về nằm nhà mấy ngày, nói lâu về chủ trương gì đó, mặt bố hốc hác hẳn. Tôi đi qua nghe giọng bố loáng thoáng “Tức là không đi không được á?” Chú Cầm kiên nhẫn nhưng rành mạch:
- Tức nà ta phải hy sinh cho sự nghiệp chung. Có điện thì mới nàm ăn nớn được.
- Tôi lo lắm. Ra chỗ mới liệu có sống nổi…
- No thì đã có trên no, chúng ta không cần phải no. Anh nà cái đầu rắn, dân nà khúc thân, đầu do dự thì thân tiến bộ thế nào.
Nhưng bố tôi không muốn “nà” cái đầu rắn. Bố từ chức trưởng bản, nhận kỷ luật của huyện vì không muốn hy sinh cho công nghiệp hóa hiện đại hóa. Chú Tỷ lên thay, đốc thúc mọi người ra khu định cư mới rất hăng, được khen quán triệt tốt chấp hành tốt. Nhiều người bảo bố tôi dại, đằng nào cũng phải ra ngoài kia mà lại được tiền vận động. Đền bù, di chuyển trên cũng cho tiền cơ mà. Bỗng chốc cả trăm triệu rơi huỵch vào đầu, đâu có ít. Bố chả bảo sao, cứ gục gặc hút thuốc lào bên bếp, rồi đeo mõ cổ trâu thả chúng lên rừng, Tết ra vẫn gieo mạ cấy xuống ruộng. Nhưng nhà cửa dỡ xuống, cả chuồng trâu lán thóc lên xe tải chuyển đi, tôi ôm bát hương mẹ ngồi cạnh chú lái là lá la lì lí li.
* *
Bản mới, vẫn giữ tên Phiêng Cẩm, nằm đúng nôi gió. Ào ạt, vun vút, bất thường, chả thể nào đoán được chiều. Có nhà lợp dở, đêm nó bốc tấm tôn bay loảng xoảng. Mũi đầy đất, có khi ra máu cam. “Người Mông ăn sương người Thái ăn nước. Nước tắm còn chả đủ làm sao cắm cây lúa xuống”, bố lầu bầu. Nhưng tôi chả nghĩ, đứng xa nhìn bản mới sáng choang ngói “bờ rô” như trong phim, ra đường to nghe tiếng ô tô, đoán nó đã đến núi đãi vàng hay còn dưới lũng, thích chứ. Nhưng đêm lạnh. Gió đùa nhả đùa dai chạy rầm rầm dưới sàn, trên mái, luồn qua vách mà vào. Bố lại bần thần trước tấm chăn mới.
Bố cho tôi xuống huyện, vào ngôi nhà to lôi ra chiếc xe máy mới coóng, lượn vài vòng rồi dừng trước quán. Tôi tẩn bát phở ễnh bụng, hỏi sao bố không ăn, sao có hai triệu được xe máy. “Trả góp. Lúc hết thì hai bốn thành hai sáu triệu. Còn miếng chanh vắt vào, húp hết nước khỏi phí”. Chú Tỷ dẫn cô mặt trứng cá vận động mua bảo hiểm. “Nên nghĩ đến tương lai cho các cháu anh ạ”, cái mồm xinh uốn dẻo như nhai kẹo. Bố bảo “Tôi chả tương lai tương liếc gì”. Chú Tỷ dặn “Tối nay họp nhé”, bố đáp “Không họp. Hứa đầy tai rồi”, rồi phi xe vào bản cũ xem ruộng nương với trâu bò, thủy điện chưa ngập may còn bòn được vài vụ.
Niềm không đi học nữa, mở “quầy” thịt lợn bán mỗi hôm dăm cân, người bản bên cũng sang mua. Chú Tỷ đi qua vọc tay vào miếng mỡ, vuốt má chị. “Con bé này bắt đầu mẩy đây”. Chị tránh được, bảo chú còn nợ cháu cái chân giò đấy. “Hàng xóm thế à. Hôm này cúng bếp mới tao không sang”. Tôi cáu tiết quăng hòn đá rồi chạy, chú chửi “A, con thằng tiêu cực”. Anh Páo xông ra: “Ông chấp đứa trẻ à?” Người Niềm bắt đầu có mùi thịt ôi, người ta không mua thịt nhà tiêu cực nữa. Nhưng ít hôm chị thơm lắm, anh Páo đứng cuối gió lại gần hỏi sao không bán thịt nữa. Ấy là lúc cô Phài lấy chồng xa trở về, quà cáp mỗi nhà mỗi tý. Cô khen chị xinh, cho gói “xăn xiu” gội đầu thơm rực lên.
Trường chưa xây, phải đi học nhờ rất xa. Bọn trẻ “cũ” ban đầu không chịu nhường chỗ cho chúng tôi, phải thầy hiệu trưởng xuống nói mới xong. Cô Tâm Tâm viết lên bảng dòng chữ “Thế nào là người trí thức?” chả đứa nào ý kiến được. Cô bảo trí thức là người thấy trước việc người khác không thấy, rồi bắt chước chắp hai tay sau đít đi lại nghĩ ngợi, y như chú Cầm. Tôi thấy người trên huyện thế toàn nà trí thức, đích thị rồi. Bây giờ học rất cao siêu, khó theo hơn nhiều. Nhưng phải thế, chúng tôi cứ ở bản cũ bao giờ thành được trí thức. Dạo này tôi ăn ngủ trong sợ hãi. Niềm đã mặc áo gió đỏ theo cô Phài xuống phố, dặn tôi bảo bố đừng lo không phải đi tìm cho nhọc. Tôi trông theo nghĩ chị xinh thế khéo lấy được chồng dưới ấy. Nhưng mình thì không may, nhà bỗng rộng thênh ra như không có phên vách, gió tha hồ lồng lộn. Tối tôi gầy bếp nấu cơm ra vào tự nhủ “phải gan chứ không được khóc chứ”.
Bố về bảo con trâu mắt đỏ ngã chết rồi, may còn hong được tảng thịt khô. Bố đặt đĩa thịt trâu xào su hào lên trước ảnh mẹ, lầm lỳ. Sao về với tôi mà bố cứ lầm lì. “Trợ cấp lương thực mấy tháng hết rồi. Bố không chăm chỗ ruộng trong bản cũ thì chỉ còn nước lên rừng làm lâm tặc”. Nhà bên này bên kia đều phi xe vào chăm ruộng cũ cả, người không thế thì đi buôn thuốc phiện. Nhỡ bố cũng vậy, bị dựa cột “đoàng” cái. Không dám nghĩ nữa.
* *
Nhà tôi dần dần khá lên. Mỗi lần Niềm về là lòng tôi thỏa, lúc cho đôi giầy đến trường chúng nó phải tỵ, lúc tặng bố cái máy xát. Pành pành, người trong bản mang gạo đỗ đến xát, khen bố có con gái biết lo xa. Nhưng chị chỉ về lúc có mình tôi ở nhà, bảo bố cứ hay căn vặn rức đầu lắm. Hội Lồng Tồng (2) là lúc náo nức nhất. Mấy bản xa gần đến, chả ai xinh bằng chị. Môi hồng hồng má như cánh hoa đào, lông mày bé tẹo tỉa cong cong, tóc đỏ rực ép thẳng tưng, chị tung quả còn thủng tấm giấy điều trên cột, mùi phấn hay mùi “xăn xiu” chả biết, quyện với mồ hôi, hít mãi vẫn thích. Anh Páo đứng xa không mon men xòe, khắp (3) cùng chị, bảo “Niềm xinh thế thơm thế anh không dám trèo, càng không dám chọc sàn”.
Cuộc đời bơ thờ
Làm đẹp cái nghèo mà chi
Niềm cầm “mích” đu đưa, đang hát bỗng òa khóc như con dở, xong lại toe toét cười với anh Páo. Tết ấy là Tết vui nhất từ dạo mẹ mất, có lẽ thế. Bao nhiêu gió trên trời bị vít xuống chỉ quẩn quanh váy chị của tôi. Bố thái thịt trâu gác bếp, chú Tỷ sang bảo sướng thế mà anh cứ kêu thủy điện. Cô Phài te te đấy con gái xinh thế mang của về thế mà anh cứ trách em phải ơn em chứ lỵ. Rượu tràn qua mép xuống quả táo dưới cổ bố. Già bản kể “Sống chụ son sao” (4), những sự tích người Thái, bố giục uống đi ông ơi, chúng nó có nghe nào. “Biết thế, nhưng ngồi đầu sàn gió lắm”, già đáp.
Mùa mưa bắt đầu. Hồ thủy điện trong bản cũ dâng lên, ngủm nương lúa mái bếp rồi ngủm cây vả cả ngọn bương rồi con ạ. Nay mai đến mộ mẹ… Bố bần thần, chả còn gì về đấy nữa, đêm hút thuốc lào ho khùng khục, già hẳn mười tuổi. Phiêng Cẩm sáng dậy thêm vài ông lão.
Chị Niềm về hẳn, mới đầu còn đi lại sau nằm một chỗ. Bố tự tay nấu cơm đem vào xúc, không để tôi làm, cũng không cho vào thăm. Đôi lần tôi hé màn gian ngó chỉ thấy mái đầu trụi, tóc nhuộm phai bệch bạc, mùi dầu xoa cứ sực lên. Hôm bố hực lên xách dao đi tìm cô Phài, tôi vào hẳn trong màn, vén chăn lên dù chị không cho. Mùi tanh xộc ra, vừa giống vừa khác mùi máu cá hòa nước Nậm U từ hồi còn trong bản cũ. Tôi ra đầu sàn ọe, lấy dầu dấp mũi, xoa khắp người, rồi quay vào: “Anh Páo bảo chỉ cần chị đồng ý…”.
Tết thứ nhì ở chỗ mới, Phiêng Cẩm không làm hội Lồng Tồng nữa. Chưa có ruộng lấy đâu mà xuống đồng, dân vào trong núi xa cắm cây sắn xuống. Hôm đưa Niềm lên đồi gió tanh mùi máu, tôi tự bảo không đi học nữa. Tôi muốn đi xa.
____________
1. Tằng cẩu: đàn bà Thái búi tóc ngược trên đầu sau khi lấy chồng.
2. Lồng Tồng: hội xuống đồng vùng Tày, Thái
3. Khắp: ca hát
4. Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu): trường ca Thái
Nguồn: Báo đại biểu nhân dân, 19/09/2012.
Thành phố người đời
Trần Chiến
- Thế nào mẹ?… - Dân ngần ngừ sau khi đưa Nhạn về chỗ ở đậu.
- Xinh xắn. Khỏe mạnh. Tướng ích tử vượng phu đấy. Kể con chọn cũng phải… nếu chỉ lấy mình cô ấy.
- Mẹ bảo con phải lấy thêm vài cô nữa á… - Dân nói trong nỗi vui mừng.
- Là cái gốc nông thôn. Mệt lắm.
Sau này, bao lần nữa, Dân “giải trình” cho mẹ gốc nông thôn càng cơ bản chứ sao. Nhà mình chả khổ vì lý lịch có chút sở hữu nhà đất đấy à, thời chiến dân thành thị chả về nú náu nông thôn thì ở đâu... Nhưng bà cụ chả nói thêm ngoài câu “sống lâu mới biết!” Mẹ không phản đối. Đúng thế. Nhưng cái cách thưa gửi gia giáo lễ nghi khi ăn hỏi, nhời nhẽ trao cơi trầu dường như đã làm nhà gái phát khiếp, bố Nhạn có lúc lắp bắp gọi “bà” xưng “con”. Nhà trên miền đồi Yên Bái, chả phải xa quá nhưng họ đi lại thưa vắng, mỗi đứa cháu ngoại ra đời đều chỉ mang gạo nếp trứng gà xuống rồi về ngay vì “vội”. Gạo nếp ấy, mẹ Dân ninh với móng giò, sữa Nhạn tốt bời bời, Dân nhìn vợ hồng hào, da căng tỏa mùi ngầy ngậy, bên cạnh mẹ lụi cụi giặt đồ lót con dâu và tã cháu, thấy hạnh phúc vô tả. Mấy ai được vậy.
Rồi mẹ ốm liệt giường. Dân đi vắng luôn, Nhạn quần quật kiếm ăn, chăm mẹ chồng giường cứt chiếu đái chả nề hà. Năm năm giời cụ mới đi làm Dân phát khiếp, đến lân mình chả bịn rịn lâu thế làm gì, phựt cái cho xong. Nghĩ thế và nể vợ lắm, như ngày trước đã biết ơn mẹ vô cùng.
* *
Giờ thì con cái đã lớn. Nhà chả đại tướng đại gia gì nhưng ổn định, miếng ăn hàng ngày chả phải nỗi lo. Vào đoạn Dân đã phát tướng, trước bữa chiều ưa nhấm nháp ly rượu vang, hỏi vợ đang đi ra đi vào những câu biết ngay sẽ trả lời thế nào, thì có những chuyện xảy đến. Gọi là “kéo đến” thì ổn hơn, vì nó cứ từ từ, chả lớp lang to tát gì mà dâng mãi lên, không ngừng nghỉ một tị. Đều là từ đằng vợ. Làm Dân cứ nhớ, phải nhớ đến câu “gốc gác nông thôn” rất chi dùng dằng của mẹ.
Đầu tiên là từ con gái ông anh cả xuống ôn thi. Cao ráo, trắng trẻo, Phượng làm Dân khổ sở vì những gò đống cứ vun cao, lại hậm hực nghe nó bảo vợ “Kem này mà cô cũng dùng á”. Cả nhà thuê ô tô đi chơi, nó chả nói gì, đến lúc ra xe mới nhờ cô chú cho ra ga đón bà cô, họ rất xa bên mẹ ở Hải Phòng lên “rồi cho cô ấy đi nghỉ cùng”. Bà cô ấy mới mười tám nên Dân “chú cháu” ngon lành. Thì Phượng dứt khoát: “Cô bằng vai cô chú ấy, cứ gọi “anh chị” thôi”. Sau đó có thằng em họ “bắn ca nông” đến nhà, Dân bắt Phượng gọi “chú”. “Thế cô cháu hôm nọ có họ với chú đâu mà cháu bảo nó gọi chú bằng “anh”. Chú áp dụng đúng lệ làng cháu đấy”. Phượng chịu cứng, nhưng xử ra lối nhà cô chú có nghĩa vụ đóng mọi khoản chi phí của mình, chả biết có ăn phải nhời nào từ ông bố ở quê. Phượng dốt lòi tĩ, chả chịu học, Dân biết chắc chả thể nào đỗ nổi, nên hôm thi đại học nhờ người nhắc bài cho. Xã hội thêm con trí thức rởm nhưng anh tống được nó vào ký túc xá. Biết thế đã.
Hôm Phượng biến, nhà nhẹ nhõm hẳn. Sau cơn hổn hển, Dân thủ thỉ vào tai vợ: “Nó để quần lót trong nhà tắm cũng khổ mắt anh lắm”. Nhạn bảo: “Em biết. Mà thằng Kiên cũng lớn rồi. Em đã cãi nhau với anh cả về cái thói hỗn của nó. Mà nhà khó gì đâu. Ông ấy mua xe tay ga cho nó rồi”. Chuyện lắt nhắt về cô cháu gái đến đây là hết, vì suốt bốn năm đại học, Phượng chả héo lánh đến cô chú, ra trường chỉ nghe nói về chỗ kìa rồi chỗ kĩa kịa rồi, bắc bậc cao học rồi sắp thành bà tiến sĩ nữa không chừng. Được cái lấy chồng có mời, làm cô chú toi nửa triệu, mừng thôi chứ không dự.
* *
Chị gái áp Nhạn quặt quẹo lâu vì chứng hậu sản, sau rằm tháng bẩy thì đi hẳn, để lại lũ con rất tối tăm. Sót cháu mà chả thể trông vào ông anh rể nát rượu, Nhạn tuyên bố lúc đưa đám xong: “Dì sẽ có trách nhiệm với các cháu. Trước mắt con Nhài về dì ở, thằng Tuyến thằng Tuyền chú Dân tìm cách cho đi xuất khẩu lao động”. Ông cả giằn bát loa: “Con bạc phước. Mồ cha không thờ đi thờ đống mối. Tao thờ ông bà mà mày không giúp con Phượng. Giờ nó trưởng phòng sắp phó giám đốc rồi, có trắng mắt không”. Nhạn độp ngay: “Nhà cửa với ruộng ông bà anh lĩnh cả, mỗi lần giỗ lại bắt góp, đòi nỗi gì. Mà chú Dân không nhờ người nhắc bài con anh có vào được đại học á”. Ông cả cứng họng, chú bác lơ đi như không nghe. Dân nhắc “Thôi em…” rất chi nhẹ nhàng.
Việc lo cho mấy chị em mới mất mẹ tưởng nhọc, mà hóa nhẹ tênh. Cũng là nhờ gia đình cô chú khá khẩm rồi. Tiền Dân đem về, Nhạn mua đất làm nhà, tầng dưới dọn hàng tạp hóa, những bim bim sữa chua dẻo ăn dỗ trẻ con được lắm. Chạy chọt ít lâu, đi những cửa biếu gói chè rất nặng kèm phong bì nhẹ tênh, Tuyến, Tuyền được suất lao động bên Hàn Quốc. Cũng chưa nhẹ người được, vì thằng anh có tính hung hăng háo thắng, chưa chắc sang nước người đã khép mình vào nếp được.
Phần Nhài thì đơn giản. Nói thế vì nó hợp ngay với sinh hoạt gia đình. Nhài to xương, chân tay quềnh quàng, thêm bố nghiện và thằng em lấc cấc nên đã ba mươi mà ở làng chả ma nào rước cho. Được cái là chăm chỉ, phụ cô bán “sốp” chậm nhưng chắc chắn. Buổi đầu về, Nhài giặt tay cả chậu quần áo, đem phơi rồi thu lại một đống trong toa lét.
- Cháu đem gấp bỏ tủ. Nhớ vuốt quần áo cho thẳng, tất lồng đôi nào vào đôi nấy đừng để lẫn.
Dân nhắc cháu, rồi kể lại với vợ, kèm câu “Tự nhiên thành người hướng dẫn phong cách sống đô thị. Có những việc mình vẫn làm còn gọn hơn”. Nhạn bảo “Thôi mà, cháu nó vụng thì mình bảo ban, rồi mới thành người chứ”. “Anh chả thích thành “nhà giáo ưu tú”, Dân đáp, “đến tuổi này chỉ thích làm người tự do không phụ thuộc cũng không phải dạy dỗ ai”. Sự nghiệp giáo dục đào tạo cứ phải kéo dài, vì cô học trò chả vứt đi đâu được. Nhưng có những việc Dân phải sang tai để vợ nhắc cháu, như đang ăn đừng cho tay vào miệng móc chân răng, gặm cục xương (sao mà nó thích gặm xương thế hở giời, răng khỏe, xin lỗi nhé, như răng chó sói) cho xong, chùi tay vào giấy rồi hãy cầm bát xới cơm cho chú. Có những cơn cáu, cơn ngán ngẩm chợt đến rồi chợt đi, như khi món nào cũng bị mặn quá. “Nhà nghèo tốn muối, anh phải thương nó chứ”, Nhạn răn chồng, cũng chỉ một câu. Dân chịu ngay, cãi vợ một câu phải nghe thêm hai chục câu nữa, chả bõ.
Sự nghiệp hướng dẫn chỉ kéo dài vài tháng. Cậu Tuân ở cơ quan Dân gần năm chục mà chưa con, mẹ già rất khát cháu, xúi con bỏ vợ. Chính Nhạn tìm hiểu, xếp đặt cho Tuân đâm sầm vào Nhài, rồi giáo đi giáo lại lấy cháu tôi đừng có hòng mà bỏ mà nghĩ đến con khác đấy nhé mẹ xúi cấm có nghe nữa đấy. Làm cậu lái xe, vốn ngổ ngáo, hứa hẹn rối rít, đang “anh chị” với “em” xuống ngay vai “cháu”. Đám cưới diễn ra giản dị, Nhài về nhà chồng có kiềng vàng cho đỡ tủi thân, cô chú cho.
* *
Tuyến trở về. Quá nhanh. Nhìn ông cháu vợ chồm hỗm trong phòng khách, Dân ngao ngán. Cái mặt nó xấc láo quá. Tuyến chửi chủ Hàn Quốc ác, coi người lao động như con chó, mà bọn sứ quán mình bên ấy không bảo vệ đằng mình. “Thế sao thằng Tuyền không phải về?”. “Nó chịu nhục được”, Tuyến chửi thề. “Chắc mày lại vô kỷ luật, giở máu anh hùng…” Nhạn thấy chú cháu vào cơn khắc khẩu, gạt ngang để ăn cơm đã.
- Thế là chị Nhài có nhà rồi nhỉ.
Câu nói của Tuyến làm máu thuyết phục trong Dân nổi lên. Đặt bát, cố ôn tồn: “Chị mày chả vào được đấy nếu thằng Tuân có con rồi. Mà giấy tờ có tên mình đâu mà bảo có nhà. Nhưng tính con Nhài nó thuận, chả như mày. Chú nói thật đấy. À, hồi chạy đi lao động Hàn Quốc, có nhờ chú Biểu, chú ấy chả lấy gì. Tháng trước báo cho mày mẹ chú Biểu mất, mày bảo phúng hộ một trăm, chú cho cái gì thì cho chứ khoản này mày phải giả đấy”. “Chú nhớ dai nhỉ”, Tuyến rất thản nhiên làm Nhạn phải vào cuộc lần nữa.
Tuyến chưa làm lụng gì, ngày ngày ở nhà lần khân, thấy chú về vặn nhạc nhỏ lại, chửi ít đi. Nhưng cái mặt xấc láo không cất đi được. Mặt nặng mày nhẹ chuyển sang vợ chồng, khi Dân uống bia một mình, Nhạn bảo lấy cốc cho cháu uống với. Mà nó uống nhanh như chớp, vèo cái tớp hết già phần chai còn lại. Không nhịn được “chuyện nhỏ mọn”, Dân đem ra phàn nàn bị vợ day lại “em không ngờ anh tiếc cháu cốc bia”. Những buổi tiếp theo bia đắng không thể tả.
Mấy tối sau, vợ chồng đang nồng mặn, Nhạn thủ thỉ Tuyến ngủ dưới nhà mãi rất khổ em tính để nó ở chung buồng với thằng Kiên. Không ngờ là cái đống đàn ông của ông chồng hiền lành dụi ngay xuống, cơn cục nổi lên. “Cô điên rồi. Làm gì có chuyện ấy”. Hết điếu thuốc thì dịu xuống trong tiếng khóc dấm dứt của vợ:
- Cô nghe đây này… Đây là những điều tôi đã nghĩ kỹ… Tôi ra ngoài đường thấy người ngoại tỉnh rất lộn xộn, đến cơ quan những chân chủ chốt không họ hàng thì cũng người làng sếp. Tôi chịu hết. Nín hết. Nhưng về nhà thì không thể! Con trai tôi sẽ nghe nhạc sến với những câu tục tằn của thằng Tuyến á? Đêm đêm ngửi rắm xịt với hơi mồm của nó á? Mà tôi ngờ cô tốt với mấy đứa cháu đến thế còn là vì tức ông trưởng chiếm hết nhà cửa ruộng vườn của ông bà. Tôi làm người tốt có chừng thôi. Một vừa hai phải thôi!
Những ngày sau đá thúng đụng nia, mây dông đùng đùng phóng chớp căng thẳng không thể tưởng. Cuộc chiến tạm kết thúc khi Dân cho Tuyến cái xe máy, anh sắp về hưu đi làm bằng xe khách cũng được. Nhưng nó phải ra ngoài ở, không thì anh đi.
* *
Từ ngày bắt xe khách đi làm, Dân hay la cà hẳn. Ngôi nhà yêu dấu không còn bình yên, người đàn bà mặn nồng đã thay đổi không thể tưởng. Chiều nay anh ghé bãi bia, một mình, chọn chỗ khuất nhâm nhi củ lạc. Ngoài kia, đường phố đang là chiến trường, những đấu sĩ hung hăng chèn lấn nhau từng nửa bánh xe. Có bao nhiêu người từ thôn quê ra trong đó, ba hay năm triệu? Bao nhiêu góp cái tinh túy cho tỉnh thành, bao nhiêu thải ra cặn bã? Không có họ thì chết, mà có họ cũng chết. Nhưng chắc chắn là họ không yêu thành phố này bằng cái làng bé teo của họ. Quần ngư tranh thực. Thủ đô là mảnh ruộng lớn để khai thác cạn kiệt, chả có chuyện thâm canh chăm bón đâu. Hừ, vấn đề hay ho đấy chứ…
Đang phát triển lập luận, bàn bên, cách chậu cây, có tiếng văng tục quen thuộc, nhận ra ngay của ông cháu vợ:
- Mẹ nó chứ, dân Hà Nội đúng là nhẫn tâm. Sáng nay tao phải đánh nhau để tranh được một thằng già gần bằng thằng chú rể tao. Đang đi thấy con Mão xóm Bàng, tao bảo lên đi cùng, thằng già nhất định không chịu, bảo đã trả tiền để đi một mình rồi.
- Họ ích kỷ cả, chả biết tình người là gì - tiếng con gái trẻ - Em đứng phát tờ rơi quảng cáo chỗ đèn đỏ, có đứa chưa xem gì đã vứt xuống đất. Quá tệ.
Ắng đi một lát, như ngậm ngùi với cô gái, rồi người thứ ba lên tiếng, giọng già dặn:
- Trách móc chứ gì? Căm hận bọn người thành phố sinh ra đã sung sướng rồi rửng mỡ lên, muốn đuổi chúng về quê để mình thế chỗ chứ gì? Chúng bay cứ nghĩ xuẩn thế được bao lâu nữa? Đời giờ là cuộc chiến đấu nhá. Không thế được thì biến về quê đi. Đứa nào định về, hả?
Chả ai lên tiếng. Bên ấy nỗi nhớ thương xóm làng nghèo đói, thương phận mình ở quê ra đang tràn ngập. Để cho bên này lại phải thương cái thành phố của mình, tình thương cũng rất là ngổn ngang…
Nguồn: Báo đại biểu nhân dân, 25/04/2013.
Truyện ngắn này còn có tên: "Cái gốc nông thôn... mệt lắm!"
Dâm thần
Trần Chiến
Trống trưng binh ngoài điếm thúc quá cháy nhà. Em chàng xô cửa, mặt tái ngắt: “Đi! Tù mọt gông giờ!”
- Nhưng mắt trái còn chưa có mí.
- Thầy cai trói u bỏ mái đê rồi.
Mụa phủ tấm lụa đào lên bức tượng, nhào ra. Mé sông Củi i oai tiếng khóc, những người trai khoác tay nải buồn rượi. Chàng thụp xuống lạy phầm phập. “Có thế chứ. Gan bằng trời sao cưỡng việc quân”, thày cai vê râu mép, bảo đám chức việc cởi chão cho bà lão. Mụa cầm miếng gừng đánh cảm gió u đưa, chạy gằn theo hàng quân. Mái đê đằng sau u ngằn ngặt như điên dại, trụi cả cỏ.
Đêm hối hả dưới trăng mờ. Ngày mê mệt bên bờ tre gốc duối, trong giấc ngủ có tiếng giun dế nỉ non. Những trai quê vai khoác nải, tay cầm giáo ngày càng phong sương. Mụa làm việc quân gương mẫu nhưng rất ít nói, đến một lúc viên cai sắt đá phải chạnh lòng. “Ta có lời xin lỗi. Nhưng bổ thuế không thể thiếu một đinh, lính trưng tập sót là chết, lúc ấy ra tay có hơi nặng. Ta cũng thày u chứ, nhưng giặc đến, nước mất thì mái làng còn không…”
- Thầy khỏi lấn cấn. Em lắm nỗi quá.
- Chắc mới cưới vợ? – Giọng thầy cai đã ra thân mật.
- Mới sắp.
- Đẹp lắm hở?
- Da sần, tủm tỉm. Giá thử thày hoãn cho nửa buổi thì cân cái mí lệch bên trái.
- Thế nhớ làm đ. gì. Đất nước luôn năm chiến tranh, đàn bà thiếu giống.
- Nhưng em không quên được.
- Giống chó cái nó chả chờ đâu.
- Em chết nó vẫn.
- Mớ đời, chú mày…
Đám cháy đằng xa làm ửng một vùng đêm. Tiếng tre nổ lốp bốp, tàn lá bay ràn rạt. Thày cai phắt dậy đi củ soát, lệnh người này mài mã tấu mẻ, người kia thắt chặt nải kẻo lúc giáp địch ngoẻo vì nắm cơm ống nước, chả bõ. Ải Bắc đến nơi rồi.
Trận Mằng Lăng Mụa chém xả vai tướng địch, giết bảy tám tên quân, được thăng trông coi mười lính, người vốn hàng xóm, người là đối thủ trong hội vật tranh dải khố điều. Binh cứ vợi đi. Trận Cốc Là chàng chỉ huy trăm người, nhưng tuyền mặt lạ, giọng nói lạ, gom lại từ những cơ đội chả còn tên. Trong lòng chỉ còn tiếng mã tấu vút vụt, tiếng giáo thọc vào giữa hai dẻ xương. Làng Vân Ổ có mái đê trụi cỏ đã rất xa. Nhưng giữa hai trận chém giết, đôi mắt mí lệch hiện về tủm tỉm.
Trước mặt đã sông Cái. Phấn Oai tướng quân, tức chàng Mụa, chỉ huy ba nghìn lính cầm chân ngót vạn quân địch tràn sang trên hằng hà sa số bè mảng. Phải cầm chân chúng cho thuyền vua chạy ra mé biển, nơi sông lạch dày đặc nú náu dễ. Kíp khi quân cứu viện đến thì người chàng đã chi chít tên, nhổ ra hết thì chả còn hột máu nào. Xác chàng táng bên con sông biên địa, mối đùn to mãi lên, sau này đám người tham lam bên kia hễ trông thấy là mật gan tùng phèo lên cả. Bờ cõi nhờ thế mà yên hàn, tiếng canh cửi lại cành cạch sau mái tre.
Mái đê sông Củi mọc lên mái lá, bà bán quán điên dở thi thoảng ra đám cỏ trụi lăn lộn, bọt mép sùi ngằn ngặt. Khi Ngài Ngự khải hoàn, ban thưởng cho làng cỗ đình, được thờ thành hoàng là Phấn Oai tướng quân thì căn quán lẫn người bán chả còn vệt tích gì sất.
* *
Vân Ổ có ngôi đình để hương chức bàn việc làng, thằng mõ dao thớt trong đám hội, đấy là đại hỷ, nhưng cũng là việc phải có, như làng nọ tổng kia đã có. Thành hoàng Đức Ngài là vị anh hùng, khiến người phương Bắc phải kinh hồn táng đởm không dám kéo sang, dân cư rất đỗi tự hào, cũng là niềm vui bình dị trong đất nước luôn có xâm lăng. Thế nên ngày hóa chàng Mụa thật là nhộn nhịp, cả một vùng đua nhau vào lễ, mặt người đã dăm ba chén gặp gió sông Củi thổi vào ửng lên ánh điều.
Sự lạ, là bức tượng đá kết cứ ba chục ngày lại ươn ướt chỗ đôi chân gập lại, các già bèn cắt nhau tắm tượng. Vào dịp hội, đêm trước lễ trọng, thể nào bên mắt một mí cũng nhỏ những giọt bầm bầm như máu, không thành tâm thắp hương khấn thì chả lau đi được. Bèn làm cho nàng căn miếu, sơ sài thôi nhưng đủ bát nhang mâm bồng, bài vị chả biết ghi gì nên để trống. Hội làng không nói, ngày rằm ngày một, các già khấn bên đình xong thể nào cũng đáo sang thắp hương bên này. Cho mát mẻ, an lành. Hòn đá nhớ người đã nhập hồn cho mình là có tình rồi, nải chuối nắm bỏng dâng nàng là phải quá đi chứ. Phải thế mới phải. Tự đấy Vân Ổ phong đăng hòa cốc hẳn, rượu thơm nức tiếng một vùng, con gái đẹp quá đi qua phải ngoảnh lại. Lại thêm nghề chằm nón, thuyền trên ngược chở lá về đậu san sát bên thuyền cất nón xuôi, bến chợ đông vui không thể tả.
Nhưng mà lại sinh chuyện dở cười dở khóc. Số là Vân Ổ tách ra từ làng Điền Thượng, đi bộ cách nửa ngày. Mé ấy đông dân, ra đồng người cựa vào nhau chan chát, quan bèn cắt dăm chục hộ ra sông Củi khai canh. Vân Ổ trù mật, đình mới nguy nga thờ hẳn Tướng quân nhưng cứ là đàn em, dịp hội làng gốc phải rước bài vị Thành hoàng cùng mâm xôi thủ lợn về Điền Thượng làm lễ.
Đám rất dài, tám ông đi đầu phèng la ầm ĩ, đến cỗ kiệu dựng bài vị, đoạn hậu là chức việc xúng xính áo mũ. Qua miếu Bà Mý lệch, thốt nhiên thày lý phải ngộ, dớt dãi sùi ra, phải khiêng vào đánh gió. Lại có kẻ phát hiện bài vị trước tượng đá ngã oạch tự lúc nào, dựng dậy lại ngả ra, bèn thắp hương cầu có gì xin cứ dạy ạ. Chốc nhát, thày lý tỉnh ra, hối đưa cả bài vị Tướng Bà lên cùng cỗ kiệu với quan Tướng quân, mé dưới. Có thế mới phèng la ầm ĩ tiếp được. Cả ngày trời tiến hai lùi một trên đường, đến Điền Thượng làm lễ rất chi nhiêu khê, lúc quay trở về chả ai nhọc mệt gì.
Bèn cho đấy là điều phải, luôn năm thành lệ, Ông Tướng Bà Tướng dềnh dang, thêm lễ thêm việc, nhưng chả ai lấy làm phiền nhiễu.
Đáo xuân Kỷ Sửu năm Khánh Thụy thứ tám, vua Hiến Tôn ra đạo dụ uốn nắn hội hè, tránh những điều xằng bậy. Tuần sát vùng sông Củi là quan huấn học Chi Đạo. Trẻ tuổi tài cao, xuất thân chân Nho, ngài thậm ghét những nôm na mách qué, chuyện thần bí nhố nhăng. Những nơi thờ thằng ăn mày đứa gắp phân, kẻ trộm, giống dâm thần đê tiện thần phải cho tiệt nọc. Đến Vân Ổ, nghe chuyện “chàng nàng” sánh đôi trên kiệu, ngài cho là bịa tạc, nhưng muốn cùng vi hành.
Buổi ấy sương kết long lanh trên lá dứa dại, lúa mới cấy dưới ruộng xanh nõn nà, điềm báo đẹp trời. Đám rước qua miếu Bà Mý Lệch dừng lại, lý trưởng sắp sửa vào thắp hương thỉnh bài vị, quan huấn học ngăn lại. “Không thế được. Chỉ là hòn đá, công tích gì đâu mà rước”.
- Nhưng Phấn Oai Tướng quân sinh thời yêu tượng như người thật, lý trưởng bẩm.
- Nhảm. Anh hùng chỉ lấy đại nghiệp làm trọng, nữ nhi thường tình kể làm gì.
- E rằng Bà Tướng sẽ phạt, mà Ông Tướng chả vui lòng cho.
“Đáo để thế á”, quan huấn nói sõng, nhặt mảnh giấy dưới mương viết chữ “dâm uế” dán lên tượng đá. Lại quay ra bẻ cành dâu đặt ngang kiệu Phấn Oai tướng quân. Lễ phép mà rắn rỏi, ngài thưa: “Ngài là bậc anh hùng dũng liệt, nhưng tôi phụng mệnh vua, lại là người học đạo Thánh Hiền. Người quân tử coi rẻ chữ “ái tình”, ham hố chi nhục dục thấp hèn. Người nữ chỉ là nơi truyền giống, huống hồ hòn đá vô tri giác”. Đoạn quay ra “Khởi kiệu!”, tiếng hô rất dõng dạc.
Cỗ kiệu như nặng thêm ngàn cân, phèng la hô ủng chẳng được ngay ngắn, chiều về cờ quạt ủ rũ, chân cẳng thất thểu. Dầu sao mệnh vua được thực hành, những chỗ quan huấn học tuần sát tiệt hẳn thói thờ phụng nhảm nhí, những thần gốc đa thần chết trôi tiệt nọc cả.
Sang năm cũng thế. Rước xách long trọng, lễ nghi đúng sách triều đình định ra, nhưng tắt hẳn tiếng trẻ reo vui, người già quên bệnh tật ra ngóng Ông Tướng Bà Tướng. Vả, vui thế nào khi sông Củi đổi dòng, bên Vân Ổ thành bờ lở mất toi đám thượng đẳng điền bờ xôi ruộng mật, thuyền buôn lá cất nón chạy sang bến khác cả.
Làng xóm thất thểu, mặt người vêu vao tuy chưa đến nỗi chết đói. “Ấy là tại…”. “Phỉ phui! Phạt chết giờ!” Bờ tre gốc chuối lao xao tiếng oán thán nửa chừng. Nỗi sợ phép vua còn lớn gấp mấy những bé mọn nhân gian.
* *
Chi Đạo đã được thăng đốc học, một lòng đem đạo Thánh Hiền thực thi cho địa hạt trị nhậm thật phẳng lặng. Phải như đám cỏ gà thấp tè kia mới được, gió máy thế nào chỉ hướng về một chỗ thôi. Được vua tin dùng, đôi khi bộ Lễ nhờ tu chỉnh những bản văn chưa ngay ngắn, bậc chân Nho ngày càng cậy vào sở học, đức tin của mình. Ngài bắt dân gian thưa gửi vào khuôn phép, nói năng sàm sỡ là ăn vả, đâm trẻ con tựa đồ non cả mà người lớn cứ nghiêm như tượng. Cứng rắn, khắc bạc vậy, nên quan lộ thênh thang mãi ra, vài năm ngài đã lên phó trấn, mà quan tổng trấn đã già mõ đít. Phép vua, đạo Thánh Hiền, cứ một mực vào đấy, ắt ngài sẽ tới chỗ quỳ dưới mươi người mà ngả ngốn ỉa đái xuống ức triệu đứa được.
Có điều, có một cái điều, là trong lòng như có chỗ thủng. Đồng liêu ít thân mật, chỉ trao đổi trong chức phận khi cần. Những câu cợt nhả, hỉ nộ ái ố chẳng thấy đâu. Văn chương viết ra nhận lại lời khen rỗng tuếch, chén rượu uống mỗi mình nhạt không thể tưởng. Tệ nhất là võng lọng về quê, thấy con trẻ chẳng thi lễ, ngài quở hương lý một trận. Đêm ấy, người vợ hằng nồng nàn lạnh như khúc lim, gạn mãi mới ra lời rằng đứa trẻ bị phạt ấy là đằng nhà. Cho là chuyện vặt, những đêm sau ngài sang bà ba bà tư, độc thấy một lối tuân phục chứ chẳng hứng tình gì sất. Cái giống thậm ngu, sao mà không thể vừa khiếp đảm lại vẫn biết trân trọng, yêu quý ta cơ chứ.
Trấn lỵ có xóm Yên Hoa, nổi tiếng nhất là ca nương Mão. Hồi còn đèn sách, Chi Đạo hay ra đây tom chát, ai cũng bảo chàng cầm chầu chuẩn, đi với giọng thị Mão rất quyện. Mão mắt lá răm, rỗ hoa, có lần cười cợt với chàng giám sinh “Em kết chàng lắm, có điều hơn những năm tuổi”. “Nếu đỗ đạt, ta đón nàng về làm thiếp”, Chi Đạo nói thành thật nhiều hơn bỡn cợt. Chiều nay ở quê ra, bực mình với mấy con vợ lạnh lẽo, ngài chả thể công kia việc nọ. Chén rượu nào cũng chua loét, bèn cho gọi thị Mão cùng đám sênh ca đến. Tình cũ, trông đợi là cái chắc.
Thế mà tiếng hát sõng sượt, song loan gõ tựa băm bèo, mắt đuôi dài cùm cụp chẳng nét cười. Hỏi gì đáp nấy, thưa gửi đúng phép bề tôi, gạn làm sao thì em chả làm sao, chả hiểu sao trong lòng cứ như cơm nguội. Chi Đạo lấy làm bực, nhưng được chén rượu dâm dương hoắc cổ vũ, muốn kéo vào trong màn. Mão thưa em đang bẩn mình.
- Nàng chả được lả lơi như xưa. Hay có chỗ nào?
- Thưa, không.
- Sao xa cách thế?
- Đàn bà chỉ là chỗ truyền giống, huống chi lũ xướng ca vô loài ô uế cả.
- Nàng nói thế nào. Tình ta vẫn ăm ắp.
“Tình chàng là cái chi chi, tình quan tình cách còn gì nói không”, rồi dợm đứng lên. Chi Đạo cố níu lại: “Gượm. Bao giờ thì sạch?”, nhưng nàng chỉ lưu lại hương thừa. Quan phó trấn giận nhưng vẫn ham muốn lắm, đợi dăm hôm đến Yên Hoa thì Mão đã chuyển phường hát khác. Chỗ mới tồi tàn, giường chiếu hôi ẩm, nhưng nàng không chịu dời về cái nơi sang trọng quan sắm cho, nài ép nọ kia thì dứt khoát đương ươn mình.
“Giống mèo mả gà đồng. Phường con hát đâu được kiêu bạc thế”. Chi Đạo không còn chịu được, cho đốt nhà trò ấy, đói thì đầu gối phải bò đến ta chứ còn gì! Nghĩ vậy rồi bận lối học trò ra đám thợ cấy hò câu huê tình, thì bao lời óng ả xưa đã vón cứng, đêm về hậm hực đến chong chong.
Quan lộ khúc khuỷu chẳng biết đằng nào mà lần. Bỗng nhiên Chi Đạo phải điều thị phi, bị triệu về kinh hạch hỏi. Quá một tháng, ngài ra vô tội, nhưng ghế tổng trấn kẻ khác đã ngồi. Lỗ thủng thế là thành đám cháy rồi. Chi Đạo buồn bực, muốn đến xóm Yên Hoa mượn vui, nghĩ thị Mão sẽ dâng hiến ra sao, mình mắng mỏ câu gì, rồi ban cho mưa móc... có ửng lên một chút.
Chỗ căn quán cháy đã mọc lên ngôi miếu, ban thờ không lộ thiên mà kín mít. Chi Đạo phải khom lưng mới qua được cánh cửa bé tẹo. Dưới ánh nến lom dom, bức tượng đàn bà ngồi gập chân, hai tay sửa tóc quyến rũ như đang sống, soi kỹ ra chỗ chân mày bên trái chỉ một mí. Ông từ bảo miếu mới lập nhưng thiêng lắm, được phù trợ nhiều nhất là đàn bà, những giống phải bán trôn nuôi miệng. Khi phường hát bị đốt, thị Mão không chạy ra, xác cháy đen thui, hôm sau đất đùn lên thành mả, hôm sau nữa mả hóa tượng đá, dời đi không được. Rồi ca công các nơi gom tiền dựng thành miếu.
“Ơ, thế ra… Hay là? Chẳng nhẽ…” Quan phó trấn ngài đã ra ngơ ngẩn, thỏm vào cái tình nhăng nhố nơi thôn ổ.
Nguồn:
Báo đại biểu nhân dân, 28/08/2013.
Tổ sư gàn
Trần Chiến
Mặc Di dừng gần đỉnh quét cái nhìn xuống bốn phương tám hướng rồi ngước lên trên, trầm giọng thảng thốt: “Không xong rồi! Đã có cao nhân đi trước ta. Kia kìa...” Hướng tay lão chỉ, mạch đá trùng trùng châu vào một hình thù giống tấm bia. “Sợ là không giúp được ông. Chỗ đẹp trong quả đồi cao nhất Sơn Nam Hạ đã có người táng”.
- Đó là mộ tằng tổ họ Nhữ ở Bùng Thượng, kẻ Mỗ, giọng Trưởng Khẳn khản đặc.
- Nhà ấy đa đinh đa điền, chắc hẳn?
- Thưa vâng.
- Con gái môi đỏ đa dâm, mới có người vào cung, chứ lỵ?
- Đó là bà phi Tuyên Phổ, đem về nhà nhiều lụa và sâm quy lắm.
- Đích dòng thì chỉ lắm lộc, nhưng chi út thì đủ cả trạng nguyên bảng nhãn, còn loại tú tài tri huyện coi là bèo trong ao. Xem, chỗ tụ thủy ôm hai bên, không xói lở xâm phạm mà lại tưới tắm thường xuyên, đường quan lộc thế là thu hút cả. Không thể nào thất lộc. Không thể nào đâu!
“Công Mịch ơi Nhữ Công Mịch, lão luôn đi trước ta!” Trưởng Khoản hờ rợn người, mặt úp vào đũng quần khai khẳn của lão thầy bói. “Giúp tôi đi. Cả vùng Sơn Nam Hạ chỉ còn bác là hậu duệ cụ Minh Kinh...”
- Những chỗ đầu hươu mõm nai như kia chỉ đem lại sự bình ổn, Mặc Di khoát tay. Có một chỗ, xem ra đem lại cái danh cho hậu thế lắm. Nhưng tôi phải cắt đặt để bác rành. Đặt cụ vào đấy thì bác có đẻ bao nhiêu kết cục cũng coi là độc đinh. Có chức tước, được coi trọng đấy nhưng tai nạn luôn kề cận. Con cháu sẽ sáng láng mà có thể lại là thậm ngu tối, chí lý đấy mà quá là nghiệt ngã. Không ai hại được, chỉ có mình tự hại. Một tương lai lạ lùng, tôi chưa thấy đất đâu có huyệt độc vậy.
- Tâm nguyện tôi chỉ còn mỗi. Cả họ, các bậc trưởng thượng của dòng tộc hèn mọn này đều thế.
- Vừa rực rỡ vừa đen thăm thẳm, bác không sợ à?
- Sợ. Nhưng chịu được. Bác cứ cho!
“Tôi chỉ còn biết làm theo mệnh giời, chứ thực tâm không nỡ thế này”. Nói rồi Mặc Di rẽ lau vạc bụi, đâm lên nẻo đá mọc nhọn hoắt.
Cuối năm, nhằm ngày khô ráo, nhà Trưởng Khẳn bê hài cốt cụ tằng tổ lên gò Con Lân. Chỗ được chỉ không trông ra cánh đồng rộng có con sông trong mát, mà đâm vào lũy tre gai dày xin xít của làng Ninh Xá. Nhiều người bảo hãm nhưng Trưởng Khẳn quyết rồi. Được ăn cả ngã về không còn hơn cứ ù lỳ cối góc nhà tha hồ chó liếm.
* *
Trưởng Khẳn sang tuổi năm mươi râu dê phơ phất, lông mày chớm bạc, hàng ngày nhìn đàn gà mái trong sân te tác sốt ruột đến rầu rĩ. Lão lấy thị Nhiên năm hai mươi tuổi, đẻ tồ tồ ba cái hĩm. Đi hát Nhà Tơ trên xóm Chiếu, gặp cô đào Ngọt trổ ngón phách rõ khéo, lão xe luôn về, lại tòi ra đôi vịt giời. Bèn cưới thêm cô thợ cấy trắng nhễ nhại, ả hàng xáo tốt nái, thảy đều không đậu nên gả bán cho thuộc hạ như cho không. Mà cái đám hôi hám ấy “đục” khéo thế, cả hai ba cô đều đẻ đống con trai. Hay vì mình lắm vợ nó loãng khí đi?
Nhưng việc di dời tằng tổ đã ứng nghiệm. Kỳ sau tiết Thượng Nguyên trời cho lộc xuân rời rợi, Trưởng Khẳn đi ăn khoán về vào với vợ cả. Bà Nhiên lâu ngày không được nhòm ngó, để mình mẩy hôi như cú, rất ngại ngần khi chồng rúc vào. Nhưng khúc trứng vừa rụng gặp tinh dịch người đàn ông đã qua tráng niên lại giao hòa mạnh mẽ. Đận nghén, Nhiên ưa xơi hoa cúng, uống tàn nhang nước thải, đến tháng thứ tám bụng nhọn hoăn hoắt. Ngày khai hoa Trưởng Khẳn khóc tồ tồ mổ trâu khao làng. Sang nhà trưởng tộc Nhữ Ninh Xá mời, lão cười rung chòm râu thưa: “Quan bác mới chỉ có lộc, em thì trời cho cái danh...”
Thằng bé được đặt tên Kinh Luân, tỏ chí sau này sẽ đội đá vá giời. Bà Nhiên hiền hậu, chẳng phải ra uy ra oai mà thiết lập ngay được ngôi chúa giữa đàn mái. Bà ăn trắng mặc trơn, mình mẩy thơm mịn như tấm bánh dẻo, chồng vào luôn nhưng chẳng đậu nữa.
Tuy là đinh độc mà Kinh Luân không được khăng đáo sáo diều nhiều. Lúc bé bố chất quanh người toàn sách, đái dầm mủn cả kinh thư. Lên tám vào đồ Điếc xóm Nhồi học, mười hai tuổi nhá hết chữ tú Sụn tổng Vân Nhai. Tuổi mười lăm của cậu trải qua ở kinh kỳ, học cụ Thông Xương, bậc Minh Kinh an lão. Nuốt sách như thuồng luồng, ăn hết ba vụ thóc đồng nhà, Luân được gọi “cậu Tú”. Rồi vèo cái thi Hội, thi Đình, chiếm cái thám hoa. Năm ấy không có trạng.
Vinh quy. Trưởng Khẳn xin làng dựng cổng chào. Võng lọng đến gốc đa tía dừng nghỉ cả canh giờ. Trong thiên hạ đến xem không ít cái nhìn ghen tỵ của người họ Nguyễn toàn cự phú. Buôn tơ buôn gỗ, tiền bạc ự kho, liệu có lúc xênh xang bằng này, Trưởng Khẳn lâng lâng trên gió mây nhưng vẫn phải nao nao. Ngày tiễn Kinh Luân về kinh nhận nhiệm sở, cha con ngồi, bình tích ở giữa, lão kể lời thầy bói Mặc Di, giờ đã ra người thiên cổ.
- Tính con hiền hậu không hại người được. Ta không lo về đường âm đức, chỉ lo con bị hại. Càng làm nên càng bị nhòm ngó ghen ghét, thời phải lo chèn chắn trước sau kín đáo. Hãy lấy vợ sớm đi. Dăm ba người cũng được, nhưng đừng mong nhiều con trai. Cơ khổ, giờ cha mới thấm nỗi độc đinh mong manh.
Trưởng Khẳn dặn con lập gia phả gia hệ lấy cụ tằng tổ làm khởi thủy, nhưng bắt đầu nhánh độc đinh uy vệ là từ lão, truyền đời con cháu phải chăm chỉ nối phả, lúc khóc như mưa, lúc khanh khách như con trẻ. “Con xin vâng lời, nhưng biết đâu lời kia không ứng nghiệm”, Kinh Luân bối rối. Ông bố bịt mồm con: “Phỉ phui! Chớ báng bổ rồi mất cả người lẫn lộc. Là cái lộc có danh ấy...”
Kinh Luân nhậm tri huyện Bình Khê, chốn ngẩng lên gặp núi cúi đầu thấy suối, buồn tẻ vô kể. Vùng sơn cước thuần phác lấy đâu lắm kiện cáo mà phân xử, nhưng phải đói nghèo. Đói làm giặc giã nổi lên. Quan binh đánh dẹp, máu me chảy đỏ dòng Nậm Đún mà loạn vẫn đùng đùng. Tri huyện đi xem xét thấy toàn kẻ túng làm liều, bảo “nòi giặc đây chứ đâu”, bèn phủ dụ, dạy cho nghề trồng bông ươm tơ mà sống. Lụa Bình Khê ùn ùn kéo về xuôi, kẻ làm loạn được giàu có, nhún nhường quan binh chức sắc một mực, trở lại làm ăn nhu thuận. Vậy là yên một nẻo.
Trên kinh, tể tướng Đỗ Nguyên tâu với vua: “Kẻ ấy (tức tri huyện Bình Khê) cậy được”, ban thưởng cho hậu hỹ. Nhưng Kinh Luân thì vẫn phải canh bóng mình, đèn sách thâu đêm, buồn ngủ rũ mới đi nằm được. Được cái có viên lại già vừa cơ chỉ vừa sắc sảo tối tối cùng chuyện vãn, nghe những câu thơ nẫu ruột, khuyên nhủ dăm ba điều. Kinh Luân không dằng vào ả phiền nhưng thích rượu vô cùng.
Một tối viên lại già không đến. Thấy người con gái mắt một mí, mình mẩy tròn trĩnh, thưa thầy cháu ươn mình, có vò rượu tằm gia đinh biếu đem lên hầu quan. Chuyện vãn dăm ba câu, lúc ngà ngà quan huyện thốt nhiên thèm muốn, cầm tay nài ép. Người gái sợ hãi không dám cưỡng ý, để mặc chàng giày vò. Cuộc tan, thấy nàng còn đồng trinh, Luân đưa xóc tiền, bảo về.
Mấy hôm sau viên lại vào hầu, rất rầu rĩ. Nhưng có đám lở sông dân chạy như có giặc, cuối ngày Kinh Luân mới hỏi han được, nhắc chuyện có ý áy náy. Lại già thưa cháu được quan thương nhưng cũng chả đi đến hôn thú được nào, nên đã cho vợ dẫn về quê. Bằng không huyện lỵ sơn cước bé như cái đấu, chuyện mất trinh không giấu được ai, làm gì mong kiếm tấm chồng. Kinh Luân rất ái ngại, gửi thêm theo ít bạc nữa, rồi cũng quên đi.
Sang mùa hanh khô, tể tướng họ Đỗ kinh lý phủ lỵ trên ngược. Đến Bình Khê, ngài hài lòng thấy sổ sách phân minh, dân cư nghịch có tiếng đều thuận theo triều đình. Lúc rỗi rãi, ngài hỏi huyện quan còn làm được những gì... Kinh Luân dâng lên bức địa đồ chàng vẽ những lúc về làng bản, bao nhiêu hình sông thế núi xa xôi thu về trong trang giấy tựa nước trong giếng thả gầu xuống là múc lên được. Và mấy chục tập vở, cái ghi những đồng dao con trẻ, cái chép văn khấn kể lịch sử, tổ tiên từng làng bản, họ tộc. Vốn xuất thân thi thư, được bổ lên từ bộ Lễ, tể tướng thích thú vô cùng, vừa uống rượu vừa nhấm nháp văn quyển của Kinh Luân.
- Thầy không để mất nghề, là tốt đấy. Ta buồn là lắm anh giải nguyên, á nguyên hẳn hoi, làm quan lâu lâu đánh mất chữ, hay chỉ dùng nó làm phương tiện chăm chăm lấy lòng bề trên cốt leo cao hơn.
Ngài nói giản dị, Kinh Luân chỉ biết vậy. Nhưng ra giêng sang năm có trát đòi về nhậm chân tu thư ở Quốc Tử Giám. Tể tướng ưa người có sở nguyện lành mạnh, dán chàng vào chức ấy để chờ thời. Bấy giờ triều đình trên là Ngài Ngự, bên dưới tể tướng thái sư chia hai phe kình nhau rất ác liệt. Tể tướng có những thứ đấng quân vương cần là tầm nhìn rộng, đức chính trực, nhưng nhiều lần can gián quá phải lĩnh thịnh nộ. Đã có lúc đẩy ngài đi xa, nhà vua lại phải triệu về. Dẹp loạn ở châu Hoan, trị thủy chốn Sơn Nam, không tay ngài đố ai làm nổi. Phe thái sư đông đảo, biết nuôi nhau bằng những bổng lộc, hà lạm, kết rất chặt. Tuy không quy nạp được chính danh hào kiệt mà nắm hết những vị trí rường mối sinh lợi như coi ngân khố, thuế má, hầu hạ trong cung cấm. Ngài Ngự biết tỏng, vẫn để yên binh tình cho đôi bên khuynh loát nhau.
Tể tướng bảo Kinh Luân:
- Ta biết thầy chỉ thích trước thư lập ngôn, ngồi Quốc Tử Giám là hợp rồi. Nhưng thầy còn phải tham chính. Cùng là phò vua nhưng còn vô kể kẻ lợi dụng vị thế để đục khoét, lái con thuyền xã tắc theo hướng lợi riêng. Đưa thầy về kinh, ta không chỉ thỏa lòng mến, mà còn muốn thầy tranh giành, trấn trị.
- Bẩm, hạ quan thấy khó.
- Quyền lực là cái kẻ sĩ khinh rẻ. Nhưng quốc sự mới là trọng. Cứ ru rú mài mực viết cuốn thư phỏng đời được lợi gì. Việc ấy không nói nữa. Mà thầy hãy lo lấy vợ.
Thì ra quan ngài đã nhắm sẵn cả. Nói là làm. Nàng Thu Nhược, em con dì của hoàng hậu Linh Sơn đang độ bán khai, e ấp như bông trăng trước rằm ngày trời trong, không ít kẻ thuộc phe thái sư rắp ranh. Nhưng hoàng hậu chỉ cậy tể tướng. Ngày Nguyên Tiêu mưa phùn tưới đẫm những nụ nhài trước hiên, Kinh Luân đón Thu Nhược về. Nhà nhỏ, phận chẳng thượng quan phò mã gì, dầu sao từ đây chàng được cùng dự tiệc trong hoàng thân quốc thích. Hạnh phúc mới mẻ khiến ngây ngất, mà vẫn nhẹ bỗng một mối lo như có như không. Sự gửi gắm của tể tướng lớn lao quá, xung quanh hiềm tỵ bắt đầu dấy lên, dù chàng nhất mực nép mình.
Đêm Trung Thu, tiệc trong cung tàn, hoàng hậu Linh Sơn níu Thu Nhược lại. Nàng tỷ tê: “Chị hỏi em có thỏa mãn với lang quân không ư? Thật không thể mơ gì hơn. Chàng đúng là tu mi nam tử, kiến văn đầy mình, nói ra dễ nghe làm em thực chỉ thích chuyện trò. Những lúc cùng nhau, chàng không phải kẻ cường lực sung mãn, mà một mực dìu dặt âu chiều. Còn có gì không an tâm về chàng ư? Em chả biết đây có phải điều đáng không an tâm không... Chàng hay nín nhịn, chăm chắm vào cõi của mình, có lúc thảng khỏi thực tại. Mà xung quanh thì...”
- Thế thôi. Có một tấm chồng để ta yêu là quá đủ, em nghĩ chuyện thế sự làm gì mà sớm già. Kinh Luân trẻ thực, em hiền thục thực, làm ta cứ nghĩ đến thứ hạnh phúc giản dị mà một kẻ mẫu nghi không thể hưởng...
Hoàng hậu cười giòn tan, nhưng phảng phất một nỗi lo rất mơ hồ trong đâu đó. Quả thật, như mọi vương triều xưa nay trong xứ, thời trị vì của Minh Đăng Hoàng đế ninh ních quyền lợi của các phe đảng. Tể tướng Đỗ Nguyên, anh con bác hoàng hậu Linh Sơn, điều hành đất nước theo cách khoan hòa, nuông chiều những ý hướng tự phát của đám bần dân, dùng người hiền tài không kể xuất thân buôn bán hay từng mổ lợn eng éc ở quê. Chủ trương kích thương ức nông của ngài không làm đẹp lòng Hoàng Thái hậu Củng Vân, người đam mê lâu đài đình tạ, xây cất đền miếu. Ăn theo Thái hậu là ti tỉ hoạn quan, cung nhân, thổ ty nho nhỏ, vì cứ ba đồng quốc khố xuất ra, họ biện được hai đồng bỏ túi. Thái sư Hoàng Đổ không hà lạm nhưng một mực chiều ý Thái hậu, luôn trình vua những lời đẹp lòng bà lão tám mươi. Luôn năm có những bản tấu của hai vị đầu triều phản bác nhau. Năm thượng thọ Thái hậu, Thái sư bàn cất bẩy mươi nóc chùa để khắp dân gian cùng cả mừng, Tể tướng bàn rằng phí phạm. Vương phi Tuyên Phổ họ Nhữ gốc Ninh Xá là cháu họ bên ngoại Thái sư một mực tung hô Thái hậu, ỏn thót dèm bà Linh Sơn. Đến nỗi mà lần nào Thái hậu ban yến, sợ mẹ đẻ đánh thuốc độc con dâu cả, Hoàng đế cũng vào mâm cùng Hoàng hậu. Sự tranh chấp ngày càng dằng dịt, bốc thối, khiến đám thuộc quan khi ra lời đều phải nhìn ngó cả đôi bên.
Mùa thu năm Mậu Ngọ, đại sư Thanh Từ ở Sơn Nam Hạ lên, tâu Thái hậu có cây sung nở hoa, nên xây chùa Non Nước có bảo tháp chín tầng bên sông Sò. Tòa ngang dẫy dọc đang lên ùn ùn thì phát hiện đại sư tư túi mấy vạn quan từ công khố. Tể tướng vừa thu phục mấy chục thổ ty trên ngược, đang cả thế, bèn giết phăng Thanh Từ. Phe Thái hậu, Thái sư ngậm bồ hòn làm ngọt, giăng quanh Vua ba câu tán dương kèm một lời xúc xiểm. Đỗ Nguyên không hay đất dưới chân đang bị rút, tự tin quản quốc dưới con mắt ngày một hồ nghi của Ngài Ngự. Có buổi chầu đấng tột cao mát mẻ “Khanh lâu nay ứng xử mạnh tợn nhỉ...”, ngài không biết mà nhún mình. Lại còn xin cho thám hoa Kinh Luân vào bảo học thái tử Trọng Thủy. Hoàng hậu Linh Sơn vui lòng, nhưng Kinh Luân một mực giữ lề, nghiêm cẩn không thể tưởng.
Có hôm, Tể tướng hỏi Kinh Luân: “Thầy có biết thầy dạy hoàng tử Trí Điền bên cung Vương phi Tuyên Phổ chê thầy giảng sai chữ “Hiền” không?”.
“Dạ, có biết”. “Thế thầy bảo sao?”. “Hạ quan không cho “Hiền” chỉ là trong khuôn phép, ứng xử đạo đức hàng ngày. Mà còn là tầm nhìn xa, thoáng đạt, chấp nhận cả những gì ngoài ta, có thể không hợp ý ta”. “Chí lý thế, sao thầy không bẻ lại?”. “Bẩm, cãi lại kẻ hủ nho phỏng ích gì, trong khi đời rộng vô cùng, trời cao vô cùng”. “Nhưng mà trời cũng có thể nông hơn miệng chén. Cái lối khiêm nhường mà tự đại, tỏ ra hào sảng, không chấp nê, thầy phải cất đi, vì những lúc vắng, bên kia họ cứ bảo thầy không biết đường mà cãi”. Kinh Luân vâng dạ nhưng lơ mơ như trên mây. Hằng tưởng đến một trí tuệ mẫn tiệp vĩnh cửu, trong văn vắt, chàng càng là cái đinh trong mắt những kẻ cầu điều cụ thể.
Đêm Nguyên Tiêu năm sau, Minh Đăng Hoàng đế đi hội thả đèn trên sông Hát. Đang thưởng dòng ánh sáng trôi miên man, thốt nhiên có kẻ cơ bắp cuồn cuộn lông mày rậm cầm dao xông vào, bị võ sĩ trói gô cánh khuỷu. Treo lên tra khảo, đến lúc bị bẻ gần hết hàm răng chắc như của chó sói, hắn khai là người phe Tể tướng, được giao sứ mạng giết hôn quân làm phúc cho muôn dân.
Bộ hình luận tội, nghị án, trình lên nhà Vua. Án tru di ban ra. Thương cho ba họ, cả Hoàng hậu Linh Sơn chết thảm. Hay tin độc, Kinh Luân đưa vợ trốn lên Sơn Động. Chẳng bao lâu phe Thái sư hùng mạnh tìm ra, đem Thu Nhược đang bụng mang dạ chửa ra chém ngang mình. Kinh Luân không được chết ngay, bị giải về kinh. Bây giờ, chàng là cái nút thắt, gỡ ra được là sợi dây sinh mạng của thái tử Trọng Thủy sẽ đứt phựt. Hoàng hậu Linh Sơn đã bị giết cùng ba họ, thái tử mang máu rồng mà thoát, bị giáng xuống thứ dân, đày đi xa làm lính thú. Lá cỏ đã ngứt đi nhưng còn rễ, đấy là điều phe Thái sư chưa vừa lòng.
Kinh Luân bị rút gân, vặn móng, đập vỡ đầu gối, toàn những hình phạt kinh khủng nhất, chỉ thiếu nước lăng trì, voi giày, vì nó làm chết ngay. Câu hỏi duy nhất là “có phải Trọng Thủy xui tráng sĩ hành thích vua?”, mà hễ chàng nhận là sẽ được tha bổng. Đến ngày thứ chín, chàng nghe thẽ thọt, giọng Thái sư: “Thầy sao mà thậm ngu. Việc gì mà bảo vệ cho bọn Đỗ Nguyên, cứ bảo “có” như ta muốn là thoát chết”.
- Bẩm, nhưng thực việc ấy không có.
- Có hay không là ở mồm thầy. Xong, ta lại xếp cho một chân biên khảo tu thư tha hồ ăn kinh nhá chữ hợp sở nguyện.
- Bẩm, kẻ này không thể ăn không nói có.
- Kẻ sĩ chả phải chỉ biết nghe theo kinh sách. Mà phải tùy thời. Theo kẻ mạnh thì tươi tốt, nhược bằng... Ấy là ta trọng cái tài thầy nên bảo vậy.
- Thế thì xin được ngẫm nghĩ đến ngày mai.
Đêm ấy, đập đầu chết trong nhà lao, để lại dòng chữ máu trên tường: “Sống mà phải tự mắng mình, bầy tôi này không thể”. Thái sư thương tình cho bó chiếu đem về quê. Ông Trưởng Khẳn ôm xác con hờ: “Dòng ta tuyệt tự rồi. Thế mà lão Mặc Di bảo được độc đinh...” Đang nẫu nàng, có người đàn bà dẫn đứa bé chín tuổi chít khăn tang đến nhận là con Kinh Luân, có với nhau chỉ qua một đêm trên ngược, xin được để trở. Trưởng Khẳn ngắm kỹ thấy mắt đúng mắt ấy, mồm hệt mồm ấy, cứ khóc hai câu cười một câu. Rồi giở gia phả ra chép tên cháu nội là Bình Khê, là cái nơi đã sinh thành ra nó.
- Bố cháu cứ ở cái chốn ngẩng đầu lên thấy núi, cúi xuống thấy suối, ra vào với đám thổ mừ ngọng nghịu còn hơn sang cả chốn kinh kỳ. Nhớ lấy, tránh xa chỗ chen chúc bổng lộc cháu ạ.
Trưởng Khẳn dặn cháu, nghĩ đến cái nghiệp dĩ đã ứng nghiệm. Bắt đầu sợ. Bắt đầu kinh nỗi số phận. Nhưng chả nhẽ mới đặt cụ xuống chỗ ấy trên gò Con Lân lại nhổ lên ngay. Mà Mặc Di đã chết, biết đặt lại cụ xuống nao...
Mặc lòng tiên lượng, dặn dò, mặc lòng cản ngăn không cho theo nghiệp thi thư, cứ ở nhà theo mẹ làm hàng xáo, Bình Khê vẫn nức tiếng giỏi giang. Ông nội chết đi, để lại cơ nghiệp khả dĩ cho hai mẹ con, cậu chỉ được cho đi học đủ tam thiên tự. Nhưng thấy ông đồ khen quá, những là để ở hương thôn nó phí tài với quốc gia cần người hiền, bà mẹ tội nghiệp lại gửi sang tổng bên cho theo thầy cả tiếng hơn. Kịp đến khi triều vua mới lên, mà không phải là hoàng tử Trí Điền con vương phi Tuyên Phổ, xét lại án cũ thấy nhiều chỗ không tỏ, bèn giải oan, đặc cách cho dòng giống Linh Sơn Hoàng hậu được vào trường Giám, thì xu hướng ăn kinh nhá chữ như thuồng luồng trong cậu đã rõ lắm. Bình Khê lên kinh, trọ học phường sĩ tử, đi lại khăng khít với một con hát ả đào, để rơi giọt máu trong bụng người ấy. Ăn hết nghìn đấu gạo thu từ ruộng phát canh ở nhà, thì đỗ Phó bảng. Nhớ lời nguyền của ông nội, chàng từ chối ghế quan trị quan nhậm, chỉ một mực xin làm mọt sách trong Quốc sử quán.
- Thầy tính đến là hay! Người khác chạy ức triệu để có chỗ chỉ ngồi thu lộc xử kiện vài năm là lại vốn, thầy lại thích chỗ đuôi voi.
Đến nỗi mà, thượng thư bộ Lễ, lúc nhậm chàng về phải lạ lùng cảm thán vậy. Bình Khê thưa đây là chỗ sở học, sở thích, ngoài ra đặt đâu cũng thấy kinh với hãi. Gặn mãi, chỉ nghe thêm đấy là nỗi sợ mơ hồ lắm, nói ra e bị cho là hoang đường.
Triều vua tiếp theo là Minh Tông, người khoan hòa, khả ái, rất tâm đắc với phương cách trị nước của Đỗ Nguyên khi xưa. Cựu tể tướng được dựng tượng, in trước thư phát cho học trò, con cháu được phục chức, ban tước. Khắp hương thôn, ai có nói lời nghịch, chả những không bị đấm đá mà còn được vời lên nghe trái phải. Người ta có yêu, thông tuệ hơn thì mới phán bảo vậy, ấy là ý nghĩ của Ngài Ngự. Nhờ thế mà dùng được người tài, đặt đúng chỗ những sở trường sở đoản. Trong mười năm đầu Ngài lên ngôi, thượng du không còn thổ tù nổi loạn, châu thổ tưới tiêu đủ đầy, cư dân không lo lũ lụt, lại thu thêm được mấy châu phía nam, giữ hòa khí với Trung Hoa giậu bắc. Lúc bấy giờ mới nghĩ đến xây tòa dựng tượng, để lại tú khí cho đời sau.
Mà trong những thứ ấy, một bộ sử đàng hoàng, chính đại không thể thiếu. Ngày đi phủ dụ dân những vùng đất mới quy thuận triều đình về, Minh Tông ban yến, cho vời cả những bậc tiểu đăng khoa, đại đăng khoa mấy kỳ gần đấy. Bao lời tung hô dâng lên làm đẹp mặt rồng. Trong lúc cao hứng, Ngài Ngự kể về một thức bánh thổ tù ngoại vi dâng lên. Trong lúc các quan lắng nghe, chỉ chực dịp tán dương, Bình Khê bèn kể tắt lên, những là xuất xứ, ý nghĩa, cách chọn gạo, mật cùng là nấu nướng, tỏ rõ sự am tường về vùng đất mới quy phục. Minh Tông Hoàng đế cả mừng phán: “Khanh sáng láng lắm. Không để làm người chủ trương bộ Quốc sử thì còn chọn ai!”.
- Người này sống nép mình, bảo gì làm nấy chứ không chịu chủ động bao giờ, thượng thư bộ Lễ tâu.
- Không tranh đoạt cũng là cái đức hay. Triều đình cần cả người chinh phạt giỏi giang lẫn kẻ nhìn xa trông rộng. Người này sâu rộng đủ cả, tuy cách giảng giải có phần ôn hòa cho dân mới theo về quá mà thiếu phần nghiêm khắc, nhưng cũng là cái trẫm muốn thử.
Minh Tông quay sang Bình Khê ôn tồn: “Khanh biết nhiều mà ít chịu tham góp, cứ gọi dạ bảo vâng là thế nào. Nay ta muốn khanh chủ trì cuốn Quốc sử, để làm rạng danh non sông”.
- Bẩm, thần có nhiều ý riêng, có điều khó nói.
- Cho khanh tâu. Không bị phạt đâu mà sợ.
- Nhiều nhẽ lắm. Thứ nhất, những điều sử sách đã chép ra, những điều hằng dạy cho đám học trò, thảy đều quy công cho mình đương triều, không biết rằng cả trăm nghìn năm nay các triều trước cũng mong được thế, làm được thế. Thứ nhì, ta chỉ đánh giá cao những anh hùng đánh giặc, mở mang bờ cõi, trong khi những kẻ dạy học, làm sách, lập làng nghề, buôn bán, những kẻ trầm ngâm với toán thuật, nghĩ cách khai tâm cho dân chúng bằng câu hát, điệu múa, hoặc dám nói ra điều mình đang nghĩ trong đầu chứ không tung hô sáo rỗng cũng đã làm rạng danh đất nước. Thần trộm nghĩ vậy...
Nói rồi đứng im, mặt bạc phếch. Thượng thư bộ Lễ bên cạnh toát mồ hôi lạnh, lừ mắt mấy lần mà không can nổi. Ngài Ngự trầm ngâm hồi lâu mới ra lời:
- Kể ra thì không dễ nghe chút nào. Nhưng mà đúng cả. Đây là cái dũng của kẻ trí lự, cái xung quanh ta đang rất thiếu. Thế thôi. Ta đã quyết rằng Bình Khê làm chánh biên khảo bộ sách nói về đất nước từ thời khởi thủy.
Nói rồi rảo bước vào trong, bỏ trăm quan ngơ ngác. Có người trách móc sao phá hỏng ngày vui, Bình Khê cứ làm lơ, chỉ để tai câu nhủ của thượng thư bộ Hình: “Sứ mạng này trầm trọng lắm, thầy nhất quyết phải cẩn thận mới được”.
Những ngày xuôi nam nhặt nhạnh câu hát, phong tục vùng đất mới. Những ngày ngược bắc tìm gặp thầy cúng, già làng nghe thổ ngơi xưa cũ. Rồi là vào thư khố xem xét đồ bản, tìm lại hình thế dòng sông đã bị lấp. Hoặc lần theo vết voi ngựa chinh phạt của các tiên triều. Cuối cùng chọn ngày lành đóng cửa thắp hương mài mực, chấp bút những dòng đầu tiên. Trong hai năm, Bình Khê chả để ý gì đến cuộc sống bên ngoài, hồn vía để cả vào câu chữ. Những ý những lời dào dạt tựa sóng bể như làm chủ chàng, xô đẩy ngọn bút bay vèo trên trang điệp.
Quyển Thượng dâng lên, không qua thượng quan trực tiếp. Ngài Ngự không muốn để kẻ dưới bẻ lời bỏ ý, xem thẳng, thấy vừa lòng lắm. Rằng “khen chê có lý mà cũng có cả tình, không bắt người xưa phải xử như ngày nay”. Bèn chỉ phết phẩy qua loa rồi cho ấn hành rộng rãi. Từ đấy những cách học, cách dạy về quá khứ từ trong dân gian đến nơi quốc học nghiêm cẩn đều theo đòi những đánh giá của phó bảng.
Đức Minh Tông lại vui lòng đoái tới gia cảnh kẻ chép sử, thấy còn trống toang bèn gả cho công chúa Thục Đức. Bình Khê không thể không nhận lời, trước ngày vu quy tới xóm con hát tìm lại tình nương xưa, thì người ấy và đứa bé đã đi khỏi. Lại theo đuổi mãi, tới một chiếu cô đầu rách nát nơi thảo dã mới thấy. Người cũ đã nhầu, giọng khàn nẫu, thần thái sao mà khó nhận, phải trôi dạt từ nơi rẻ rúng này tới xóm xôi thịt khác. Bèn cho tiền bảo đi thật xa, giấu kỹ tung tích, khi nào yên chuyện hãy về quê ta ở nơi ấy nơi nọ nhận máu. Về thằng bé bảy tuổi thì cứ Cối Chày Cóc Nhái gọi gì cũng được, nhưng nhớ tên chữ là Bình Khang, ta muốn lưu lại chỗ gặp nàng. Nói rồi rảo bước, ra ngoài ngõ rất chi nhìn trước nhìn sau.
Về làng, lục gia phả, ghi sau những lời cay đắng lão Trưởng Khẳn để lại. Rằng: “Số phận cay nghiệt. Việc ta làm biết là tổn âm đức mà không thể trốn, chỉ thương cho những đời sau”.
Rồi lên kinh. Vu quy đông vui không thể tả, mà Thục Đức thấy tân lang như có nét rầu rĩ. Trong ba năm, công chúa đẻ liền hai bận, tuy toàn con gái cũng làm cho chàng vui được mấy phần.
Ba năm ấy cũng là đoạn đờ đẫn táo bón của Bình Khê. Quyển hạ bộ sử, bắt đầu từ Thái Tổ khởi nghiệp, mãi chưa được chữ nào, người viết lắm lúc mặt ngỗng ỉa cấm khẩu, vài ba bận mài mực rồi ngồi đuỗn ra. Trên cao vời có ý giục, có lần hoàng hậu hỏi Thục Đức về trách vụ của chồng nàng. Thưa rằng, bảo rằng, là khó viết! Thì cần đi đâu xem xét gì, cứ võng lọng ngựa xe mà dùng. Hay muốn tra cứu gì trong viện sách hoàng tộc? Lại thưa chả cần gì, chỉ chưa được tĩnh tâm. Lời hoàng hậu ban ra nặng như núi: “Thư thả cũng được, nhưng hãy làm đẹp lòng Chúa Thượng!”.
Một mùa hoa đào qua, tiếng vo ve nhằng nhặng hơn. Từ cõi chín tầng truyền gấp rút hoàn thành bộ sử trong năm. Nhưng không đợi đến hạn ấy, nhằm ngày oi nồng chó lè lưỡi ra thở, Đức Minh Tông không báo trước, tốc vào Quốc Sử quán, đi kèm có thượng thư bộ Hình và dăm viên thị vệ. Ngài gấp rút lắm, bảo mở cửa vào xem xét ngay. Viện trưởng Quốc sử quán cuống lên, tâu đang trước thuật rất khẩn trương, xin hẹn đến mùa thu. Thấy mặt rồng lạnh tanh, bậc trí giả mạnh tợn nhắc:
- Bẩm, Quốc sử quán là nơi Đấng Chí tôn không thể vào. Đấy là phép nước...
- Phép nước là ở nơi đấng tối cao, thầy quên à?
Thượng thư bộ Hình dóng dả, lệnh người xông vào. Viện trưởng ôm cứng lấy cây cột, bị một kẻ cao to đen hôi chém nát bét. Sự thể diễn ra nhanh quá, Bình Khê đang còn nhăn nhó trong thư viện đã thấy sát khí rít bên tai. Qua lúc hoảng hồn, bèn rập đầu tâu: “Thánh thượng bớt giận, thần còn mươi đoạn xin đúng hạn sang thu”. Ngài Ngự chả ra lời, cầm quyển lên đọc tại chỗ.
Đại để nhắc đầy đủ công tích đương triều, từ lúc khởi sự nơi rừng thẳm tối om đến khi đánh đuổi đô hộ binh hùng tướng mạnh. Thời bình trị thương dân, thi hành sách miễn thuế, mở thương cảng giao lưu, dạy những nghề bén giọt khiến trăm nơi sung túc chả còn tiếng kêu van. Đại để qua trăm năm với năm triều vua, câu hát chèo trong dân gian chả còn điệu ai oán, cứ chỉ véo von với phưng phửng. Nhưng đến đoạn cuối, mặt rồng sầm lại, chốc chuyển sang lạnh tanh. ấy là thấy chép...
Rằng Thái tổ khởi nghiệp chí cả lượng dày, tầm nhìn xa tít tắp, sau khi đánh dẹp ngoại xâm đã cho dời đô từ chỗ thủ hiểm ra đồng bằng, cốt để giao lưu cho khắp, mở rộng văn hiến chứ không khư khư khép lại mẹ hát con khen hay. Thế nhưng việc thu về quyền bính có chỗ chửa quang minh. Lúc non yểu thì hiệu triệu trăm nhà, những là sẽ cho bọn hào chủ tha hồ thông thương, thương binh cùng gia đình quân chết trận hưởng lộc điền. Những là kẻ sĩ được to mồm phản biện, muốn kết ai tội phạm phải có bằng cớ... Mà khi thâu tóm được thiên hạ thời thu vén cả về hoàng tộc. Những kẻ đồng hương đồng đẳng dốt nát được bổ dụng, trong khi người trí giả hễ có ý riêng thì nghi kỵ để cho han gỉ. Lại còn giết người khác phái, đổ nhựa sôi vào mồm kẻ nghịch ngôn rất chi sắt đá.
Rằng chính đức Minh Tông đương triều cũng khoan sức dân đấy nhưng thích xưng danh quá. Bầy tôi dâng tôn hiệu xôn xao năm chục chữ nhận cả, những là “anh minh khai sáng” với “chính đạo”... chữ nào cũng giòn tan, chả phân xiểm nịnh với trực ngôn.
- Thầy đáo để đấy. Đúng là tư cách chính đại! Nhưng cũng nể mặt ta chứ – Ngài Ngự cố mềm giọng – Hãy bỏ mấy dòng này đi, thế thôi, rồi đóng quyển được.
- Tâu, thần còn chưa chép hết. Còn đoạn...
- Việc thầy đến đấy là xong, ta không thưởng cũng không trị tội vì thầy còn là rể hoàng tộc.
“Cái tội để cho đương triều tiếng cho đời sau, thế là được khoan hòa lắm. Trông gương viện trưởng nhà ngươi đấy. Còn không quỳ lạy ân đức đi!” Hình bộ thượng thư ra lời, trong tiếng quát có chiều nhắn nhủ. Nhưng Bình Khê đã ra cấm khẩu, một mực ôm ghì lấy quyển thư không cho ai cướp đoạt. Kịp khi Ngài Ngự phẩy tay bỏ ra, chàng liền bị điệu ra ngoài cột chợ. Chém ngang thân. Coi bằng tội theo giặc.
* *
Liền tù tì mười đời, giống gia tộc Bùi ở Ninh Xá, Sơn Nam Hạ truyền lại đều độc đinh, mà toàn gieo vào những con hát, nhà bần cố đê tiện khắm thối, chứ những vợ cái, dù xuất thân vương hầu khanh tướng hay cự phú coi tiền bằng rác đều chỉ tòi ra bướm hĩm hay lũ quái thai kinh tởm. Những độc đinh ấy ai cũng sáng láng đỗ đạt làm nên, rồi nhận một kết cục kinh khủng từ tay kẻ mình đã giúp rập và đã ban ơn ban lộc cho mình. Cái mệnh truyền lại từ đời cụ cố Trưởng Khẳn rực rỡ quá và cũng ai oán quá.
Ngày nọ sáng trong, tiết xuân rờ rỡ trên từng cánh hoa ngọn cỏ, đầu xứ Bùi Vẽ cáo bệnh không đi hội cùng chúng bạn. Chàng là truyền nhân đời thứ mười ba của họ Bùi Ninh Xá - tính từ Trưởng Khẳn, giỏi giang nức tiếng, liền mấy kỳ thi đỗ đầu hàng tỉnh. Nay đến phen lên kinh thi Đình, Bùi Vẽ không mấy hăng hái ôn kinh tập sách, mà cứ phân vân một nhẽ chọn lựa. Ông nội chàng lập thân từ tài muối dưa cà, được vua biết mặt chúa biết tên, vào múa đũa tung chảo trong ngự thiện. Tai họa ập xuống khi ông cụ nhất định không chịu lấy thịt chó làm nhân bánh chưng, cho ớt vào chè bà cốt như lệnh Vua ban. Đời bố yên ả, chả có gì đáng nói ngoài tiếng tăm sát cá, buông câu thả vó trúng vô cùng. Thế nhưng Bùi Vẽ thì một mực nghi hoặc về phận số truyền lại trong gia tộc. Toàn bậc hiền từ, chân thực, chứ nào có phải ăn không nói có, cứ bị hại là thế nào. Bèn giở lại gia phả, cuốn vở đã tở, động vào không khẽ khàng là nát vụn, thất kinh thấy mấy chữ “gàn ở huyệt táng”.
Chàng cũng sẽ thế sao? Thi đình tiếp, đậu cái đại khoa, vinh hiển được mấy nả rồi lại án bằng theo giặc. Không cãi được. Tệ nhất là chỉ thấy mất người mà không có án. Thế rồi con cháu chàng, mãi mãi cũng chỉ vậy à?
Chí đã quyết, Bùi Vẽ bỏ cuộc lên kinh ứng thí, đeo tay nải đi bộ về nơi xuất xứ. Ngôi nhà tổ từ thời Trưởng Khẳn qua nhiều đời tôn tạo đón chàng thật đơn sơ. Bùi Vẽ thắp hương trước bài vị cố tổ, lầm rầm khấn, rồi thuê thầy thợ lầm lũi hướng đông trực chỉ. Chừng nửa buổi tới nơi.
Gò Con Lân sáng ấy còn một đám nữa, bên mộ tổ họ Nhữ. Bùi Vẽ nhận ra trong ấy có Đình San, một cự phú ở kinh đô, người quen chàng trong những cuộc rượu đến tàn canh. Hỏi thăm, San tỏ: “Xưa tổ tôi nhờ thầy địa lý bên Tàu để tằng tổ xuống chỗ này, con cháu phát về cả quan lộc lẫn tiếng tăm, quyền lực. Nhưng ở ngôi cao mãi rất chi là mỏi, không phải mưu mô quyền biến cũng bị người đời biếm nhục. Quan bác dòng thi thư không tỏ được điều ấy”. Bùi Vẽ nghe xong cười nhạt, rảo bước sang mộ tổ nhà mình.
Trải hơn chục đời, quãng ngoài trăm năm, nhờ được chăm nom hết mực, mộ tằng tổ họ Bùi Ninh Xá chân đám tre gai vẫn tươi tốt hoa cỏ, rộng rãi lối vào. Bức tường bao xây gạch già rất chắc chắn mà vẫn thoáng đãng, để chỗ cho tú khí lưu thông.
Bùi Vẽ thắp hương, khấn rằng: “Di dời mộ là chuyện tày trời, có tội với tổ. Nhưng để nguyên, mệnh di lại nặng nề quá, bao nhiêu đời hiền hậu khép mình mà chỉ toàn oan sai. Con cháu chỉ cốt hai chữ bình an, xin chịu tội với tổ. Cúi đầu lạy tạ!”.
Tàn hương, đám thầy thợ cắm mai xuống khai huyệt. Rất cẩn trọng, nhát một khẻ từng cục đất, đến sậm tối chả thấy gì. Đêm ấy chàng ngủ lại ngoài gò, hương khói không lúc nào để tắt, tâm nguyện một mực gửi xuống người âm. Hôm sau đào tiếp, huyệt xuống quá đầu rồi sâu bằng cái giếng, vẫn chả ra mẩu xương vụn vải gì, đến mảnh tiểu cũng không. Bèn hồ nghi cho kẻ tham đào trộm tìm vàng, thì có đứa trẻ dong trâu phứa qua ngứa miệng lếu láo rằng: “Tiêu vào cát bụi hết rồi. Có đào mãi cũng chả giải được mạng số nào”. Bùi Vẽ bần thần, rồi ra về nhà lại ứng thi.
Nguồn: Báo đại biểu nhân dân, Phần 1 - 24/01/2011.
Phẫu thuật thẩm mỹ
Trần Chiến
Đúng là Thuấn đang ngót dần, thong thả nhưng không ngừng, tý tý một năng lực sống. Ăn uể oải, hay giả cách để khỏi phải uống. Đối thoại với ai, nhất là thuộc cấp, rất khó nắm ý đối tượng, cứ ừ ừ thế à để sang tuần nha, dù việc phải quyết ngay tắp lự. Trước mặt cấp trên vẫn chả nhạy bén, phải căng óc ra mới đoán được trong bao nhiêu lời rồng cuốn rồng leo kia đâu là thông tin cốt tử, còn chém gió những đâu đâu. Nhưng công việc nó có đợi đến lúc ông tỉnh táo mới ập đến đâu. Những tết nhất đi thiếu cửa nào chết với cửa ấy. Thằng trưởng phòng A. chúa hay phản thùng, ông anh cùng cha khác mẹ vợ nó lên chức không thể không chia vui. Cậu lái xe hai vợ, một trong “lục thân phụ mẫu” về cõi vĩnh hằng lại thôi thôi anh bận quá chú thông cảm cầm về quê chia buồn hộ. Những việc có tên. Những việc không tên. Chả vụ nào đáng làm không đáng làm hơn nhau, chả bao giờ trốn được nào.
Nhưng những cố gắng, mọi cố gắng đều có giá trị của nó. Bộ trưởng mới đẻ thêm viện Chiến lược, đặt ông đứng đầu. Nhà cửa, dù đã qua thời phân phối, vẫn tậu được nhờ các chính sách khéo léo đền bù cho người có chức. Xe đưa đón, sự tôn trọng, đợi ý kiến mình để kết thúc những cuộc họp, dĩ nhiên thiếu quyền lực làm thế nào có được. Ban đầu ông vướng víu vì phải đáp lại những chào hỏi nhạt nhẽo, bảo thôi thôi đừng vẽ cứ cho hai chữ thoải mái giữ hòa bình thế giới. Nhưng sau sinh nhật thứ nhất của nhiệm kỳ đầu tiên thì thôi. Nhiều hoa kèm rượu, bánh, rất nhiều phong bì “giản dị”, người ta quý mình, từ chối thế nào được. Đến nỗi mà ông phải so sánh với viện trưởng viện Tổng thể. B. đẻ tháng chạp, ăn tết xong tổ chức giỗ bố, nghĩa là trong khoảng nửa tháng có đến ba lần được cấp dưới tỏ hiếu đễ. Nhận quà là một kỹ năng, vợ B. được rèn luyện ác liệt. Còn mình, sinh nhật áp Tết, có thằng đến mừng rồi đầu giêng “quên” lại chúc luôn. Và bố ông đang còn lù lù một đống, làm giỗ thế nào. Vợ ông so với vợ B. vụng dại, đần thối hơn là cái chắc.
Những băn khoăn kiểu ấy đang phải nhường chỗ cho nỗi hao mòn ngày một lớn lao, khi người ta sắp về. “Còn một nghìn không trăm ba mươi hai ngày…”, mới nhẩm thế thoắt cái nó đã sạt một góc. Cái đồng hồ đếm ngược tự chế trong đầu thoăn thoắt nhẩy, khiến trái tim bé nhỏ phải chịu những cơn đau thắt quá sức. Hưu trí. Hạ cánh. Vĩnh viễn chứ không phải tập dượt gì như lần suýt chia tay vợ để theo một cánh bướm mỏng chập chờn vào Nam. Rồi là về làng bằng cái gì? Đi mượn con biển trắng hàng xóm tò mò “Hết rồi à?” Góp giỗ ít hơn, ông trưởng họ xếch mé chắc. Đáp xe khách là hết chuyện. Nhưng thời buổi này giản dị làng bảo sợ xin tiền giả vờ đấy đạo đức giả thôi. Thị phi không thoát đằng nào, nghiệt ngã thật.
Nghĩ thế nên ông Thuấn chả hưởng được lạc thú phòng xông hơi, ra ngoài càng nhầu. Báo hại cậu phó phải băn khoăn anh bị bỏng à hay nó đấm không kỹ để em bảo đổi cô khác, biết đâu khuyết điểm là đẩy thủ trưởng vào chốn khỏa thân lần giở trước đèn.
* *
Chèn chống dưới ông Thuấn có hai viện phó. Vũ phụ trách chuyên môn, chăm việc và khó đăm đăm, nắm vững nhiều lĩnh vực nghiên cứu xa nhau, nhưng tin thế đếch nào được. Thảo luận một đề tài viện trưởng rất lơ mơ, tư cách thư ký khoa học cơ quan, Vũ hay quay sang “Để xin ý kiến anh Thuấn trước”. Thằng đểu ra ý ông tranh chủ biên những đề tài to, kinh phí lớn thì đùn đẩy, mặc kệ đấy mà. Thuấn đã có võ phát biểu, nhấn mạnh sự quan trọng của đề tài, những thuận lợi và thách thức đang chờ, các đồng chí phải thật cố gắng mới được. Nói thế và đẩy những nghiên cứu hóc búa, thậm chí đâm vào sừng trâu cho Vũ làm. Ông cứ túc tắc họp hành, cho ý kiến, dự đủ hiếu hỷ…, dưới quyền đến gãi đầu gãi tai thì thả xuống những căn dặn ai ai đều biết. Đề tài ông chủ biên bao giờ cũng an toàn, mang lại tiền và tên tuổi cho người tham gia. Mở những cánh cửa đã mở, nghiên cứu đã có sẵn mục đích, kết luận thì làm gì chả dẫn đến thành công. Nên chi Vũ, ra ngoài được đám học thuật đề cao, sinh viên cao học lắm anh nhờ hướng dẫn, về cơ quan rất ít có ảnh hưởng.
Phó hai mới gần năm chục, đẹp trai, tươi tỉnh, đích thân ông nhấc lên từ chân trưởng phòng tổng hợp. Đường chuyên môn không phát, vì có ngồi yên đọc sách được nào, hết tuổi miệt mài công tác đoàn, Túc sang làm công đoàn, thêm một phiếu sẵn sàng đồng ý với thủ trưởng trong bộ tứ. Túc triển khai các phong trào trong cơ quan, soạn tổng kết, lo xe đưa chị về quê, giải vây cho ông lúc bị chúc rượu… Nhiều vinh dự và trách nhiệm quá, đến nỗi bị gọi là “trung vệ dập” của viện trưởng, có đứa thối mồm đặt là “ca ve”, Túc không lấy làm điều. Ối chao, nghề ca ve có từ thượng cổ, muôn đời sau càng phát đạt, việc quái gì mà xí hổ. Kính thưa các đồng chí chưa bị lộ…, chả có câu ấy là gì.
Năm ta xồng xộc đến đoạn cuối. Bức bối vì quãng đời phục vụ ngót lại nhanh quá, Thuấn hẹn Túc ra giêng đi đền chùa. Thành ra viên phó hai như ăn Tết với gia đình: sau lễ sinh nhật anh, cả ngày hai chín chạp đưa chị lên đền Bà Chúa Kho trả lãi trong năm và vay vốn dùng năm mới, sáng ba mươi mang chai rượu ngon đến để anh tiếp khách Tết rồi nháo nhào về huy động văn phòng mang quà đến các cửa cần thiết. Mồng một Túc trực chỉ nhà ông chúc Tết anh chị mừng tuổi các cháu xong cùng anh đi các sếp vừa đến hôm qua. Mồng hai ở nhà, hôm sau đem xe lại hai anh em mình đi thôi cầu cúng tha hồ xe cơ quan biển xanh nhỡ bọn nhà báo chộp được đưa lên em thì chả sao chứ anh ảnh hưởng lắm.
Văn Miếu Quốc Tử Giám, nơi thờ Đức Thánh Hiền, liệt tổ liệt tông của trí thức Việt Nam, ông bỏ nửa triệu vào hòm kính đựng kinh điển Nho giáo, khiến thằng du lịch lông rậm tròn xoe mắt.
Chùa Bút Tháp, pho nghìn mắt nghìn tay đẹp nhất nước, Thuấn vái rất chuẩn, khấn lâm râm. Thừa lúc xung quanh không để ý, ông đút tờ trăm nghìn vào một bàn tay gỗ của Đức Quan Âm rồi lỉnh đi.
Đêm trước rằm tháng giêng, đền Trần Nam Định nghìn nghịt người, còn con kiến nào chắc bị xéo cả nghìn lần. Đầu năm khấn vái nơi nơi chả bằng được ban Quốc Ấn ở đây. Thiên hạ toàn thằng khôn nhưng gặp ông là dại rồi. Sức lực như thần, Thuấn xô vẹt hàng trăm thằng lực lưỡng, chui qua háng hàng rào bảo vệ, trổ công phu bay qua đầu các quan chức hàng tỉnh hàng trung ương cướp được lá ấn, là vuông giấy bản nhuộm vàng vẽ chữ Nho, triện đóng đỏ chói. Trong quán bún riêu ngoài đám hội, rách toang từ đầu đến chân, đầu rớm máu, thở như trâu nhưng hể hả, Thuấn húp bay hai bát bún riêu như múc trong chậu rửa bát lên mà giá gấp ba ngày thường.
- Anh giả tiền nhé. Năm nay anh làm gì được nấy.
Túc nói, cười cười sợ ông cho mình tiếc tiền. Nhưng Thuấn hiểu luật quá, lộc vào ông cả thì trả gấp năm gấp mười chả ra cái đếch. Thế mà trên ô tô, mặt ông thoắt rúm lại, nỗi xốn xang chả mơ hồ nhưng rất khó nói bóp thắt, tâm trạng ở cái đoạn không xổ ra khéo phát điên.
- Sao thế ạ? – Túc hỏi khi dòng xe cướp ấn đi ngược chiều đã vợi.
- Lộc gì thì lộc, tớ chỉ còn nghìn ngày là hạ cánh.
- Làm gì ra có chuyện ấy. Anh có cống hiến đặc biệt, còn tại vị lâu.
- Ông khéo an ủi. Tôi đã phải cài cắm ông với ban bệ thế nào để khi lên thay, tay Vũ nó không quên mình nhanh quá.
- Ối trời, anh lo cho em làm gì. Em một lòng đi với anh, tìm cách để anh tại chức lâu nữa.
- Lắm lúc mình tiếc sao hồi trẻ không chịu đèn sách viết lách hơn, giờ có cái phó giáo sư, không quản lý nhưng cũng về muộn năm năm.
Nguồn cơn tuôn ra, những “giá như” với “biết vậy” đang bất tận thì Túc chen vào: “Sao anh không phẫu thuật thẩm mỹ cái nhỉ? Các anh bên Cục Vĩ mô với Viện Tầm xa đều làm cả đấy thôi…” Thuấn há hốc mồm, thấy hắn chả có vẻ đùa.
* *
Hiểu là phó hai không thể trắng phớ ra, Thuấn quyết định cặn kẽ lấy. Gặp nhau ở bộ, ông thấy Oánh, viện trưởng Viện Tầm xa “đảo ngói”, hình như đi hút mỡ bụng gọn đi nhưng tóc thưa quá, thỉnh thoảng rút lược trong túi áo ra chải rất buồn cười. “Tôi năm năm nữa ông ạ”, Oánh nói khi Thuấn hỏi bao giờ hưu. Quái thật, hồi cùng bổ nhiệm, tờ quyết định ghi Oánh kém ông có một tuổi.
Bên Vĩ mô dễ hơn. Cục trưởng Thành là chỗ thân quen, Thuấn chỉ lên đầu ông ta bỗ bã “Dạo này lại ‘bán dâm’ kia đấy”. Thành cười lớ phớ tớ “dâm toàn phần” sợ vợ nghi mà cậu có dùng thuốc không đấy tuổi chúng mình không bổ trợ đứt lúc nào không biết. Quả thật lưng Thành thẳng tưng da chưa mồi phong độ chán. Chuyện râm ran cho đến khi Thuấn ngã người ra, rằng Thành còn kém tuổi mình.
- Đâu có. Hồi đại học cậu cậy hơn mình một tuổi bắt gọi anh cơ mà.
- Các cụ ở quê khai lên cho tớ học sớm. Vừa rồi so lại với sổ sinh của ủy ban thì tớ sinh sau bốn năm.
Thành chuyển sang cuộc hội lớp sắp tới kết hợp với hội khóa hội trường luôn, nội dung rất dầy không đả động những ấm ách của bạn. Nhưng đêm ấy, Thuấn phải chong chong. Oánh và Thành bổ nhiệm cùng đợt, tại vị như mình cũng đến như thế thôi, sao đều được kéo dài thời hạn phục vụ ra. Nào phải năng lực vòi vọi hay khéo vo ve trên bộ hơn. Gần sáng ông bật phắt dậy. Cùng một mẹo trẻ hóa cán bộ đây mà, cái Túc gọi là phẫu thuật thẩm mỹ. Ông phó hai kín miệng không huỵch toẹt ra, khiến tôi tốn thần kinh tìm hiểu quá. Ô, để có tờ giấy ấy thì đơn giản lắm, trong tầm tay ấy mà.
Ông Thuấn về quê tặng nhà văn hóa thôn dăm chục ghế họp, giỗ họ quan viên xã dự đủ mặt. Rồi ra đem về cả một dự án, lên huyện bàn bạc cách thức đầu tư, bù khú rất thân thiết. Xe cộ, quà cáp trong những chuyến báo hiếu quê hương ấy, tay Túc thu xếp chu đáo.
Năm ấy, năm sau, năm sau nữa, Thuấn rung đùi trên ghế viện trưởng. Phó một chả xin ý kiến, mặc lòng. Lái xe kêu vợ sảy thai không đi, gọi taxi. Chịu đựng hết những phản phúc, đến khi biết ông còn tại vị lâu, rất lâu nữa, chúng mày mới trắng mắt ra mà xem. Không có mẹo này thì ông chả biết đời nghiệt ngã, chả phân biệt đâu là tình thực với quan tâm giả dối.
Rồi một ngày đẹp trời, tổ chức trên bộ xuống họp toàn cơ quan, trọng thể công bố viện trưởng mới là Túc, người phát hiện em trai Thuấn ở quê, trong giấy tờ sinh trước ông hai năm.
Nguồn: Báo đại biểu nhân dân, 29/10/2013.
Hạ cánh
Trần Chiến
“Cơ quan còn ít việc nhờ tôi”, ông bịa tạc câu trả lời, rảo bước.
Ông Bột công tác ở văn phòng X, chuyên làm việc không tên. Viết bằng khen vì chữ đẹp, đánh máy vì theo đúng nguyên văn, báo đội xe ra sân bay đón anh Z., vì chả còn ai báo.
Ngót bốn chục năm qua, vô số cán bộ đã “kinh qua” bên cạnh, người lên chức, người bị đá, anh khác lãnh kỷ luật, lại cả anh lãnh án, ông vẫn thủy chung, vững vàng với lặt vặt hằng ngày, không có người lo dễ cơ quan không tồn tại nổi. Kiểm điểm công tác cuối năm của ông thường có câu “đã góp phần tổ chức (ngần này) hội nghị, bằng 105, 96% so với năm trước; tham gia ban đồng ca khối liên cơ quan trong hội diễn”.
Trụ lại ở chỗ nước chảy xiết, đơn từ kiện tụng, đề nghị bay như lá rơi, hằng ngày giáp mặt những chánh với phó rất dễ tai nạn, đấy là thành tích chứ. Là vì ông luôn nhắc mình không bao giờ được mắc khuyết điểm, cứ phải thật tận tụy mới được, thảng hoặc hai sếp trái ý nhau thì giả tảng câm điếc vâng vâng thôi.
Lần bị nhắc nhở duy nhất chả giống ai, mà ám từng giấc ngủ, miếng ăn. Sau hai năm đầu, chánh văn phòng gọi lên. “Hôm qua cậu đã nói gì phải không?”, hỏi đủng đỉnh, không nhìn.
- Nói gì ạ? - Bột như bị thôi miên vào cây bút chì đang xoay tít trong tay sếp.
- Không nhớ gì à? Thế chiều qua làm gì sau giờ làm việc?
- Em đi mua đậu phụ cho vợ, cắt ô phiếu số 43.
- Thế thôi á?
- Rồi ngồi đầu ngõ với vài bạn phổ thông, chỉ có một thằng bạn đại học. Thưa thủ trưởng, quả thật em không biết đã nói gì. Sao ạ?
- Chả sao sất. Thôi về sao nốt tài liệu đi.
“Lần sau nhớ rút kinh nghiệm đấy!”, chánh văn phòng vẫn chả nhìn, thủng thẳng. Quả là đáng lo, những kỳ nâng lương, kiểm tra nhân thân xếp loại công chức đang đợi. Bên phòng N vừa có người “đi suốt”. Nên dù không biết phải lo gì, cuối năm Bột vẫn tự kiểm điểm “phát ngôn không đúng lúc đúng chỗ”, có điều không cụ thể được nó ra thế nào. Danh sách nâng lương kỳ đó có tên anh.
Chà, ra là sếp không trù ẻo. Mình phải mua cái khóa Việt Tiệp, à mà khóa Minh Khai tốt hơn, bít kín mồm lại rồi ra giữa sông Hồng vứt chìa xuống, mới được.
Nhưng hình như làm vậy cũng phải trả giá. Ông Bột luôn năm chỉ lao động tiên tiến, sau này xếp loại “hoàn thành nhiệm vụ không sai sót” khi bình bầu thi đua cuối năm, chứ chả bao giờ chiến sĩ thi đua hay giỏi xuất sắc gì gì. Rồi hạ cánh. An toàn! Di sản để lại cho con cái vào đời có một lý lịch trong sạch, của quý đấy chứ còn đâu.
Và từ nay ta thành con người tự do đếch sợ thằng nào với thằng nào. Ngán chăng là mụ vợ lắm điều.
* *
Ông Bột lượn vài vòng rồi về cất cặp, thay bộ xuềnh xoàng, xong thừ ra. Chả còn ai sai bảo treo hộ áo mũ tôi vội quá, xách quà theo anh Y. đến chúc tết ban ngành này nọ. Ơ hay, thế ra chả ai cần mình sất a. Thế thì từ nay mình là thằng người gì, tồn tại thế nào cho có ý nghĩa? Đấy là những câu hỏi trọng đại khi ta “nghỉ theo chế độ sau thời gian đóng góp”. Nhưng không trả lời ngay được. Thôi cứ ra ngoài kia nếm náp thiên hạ xem ra sao đã.
Ngoài cửa, hai người hàng xóm chào rất phải phép. “Ông xem, dâu con gì mà sai mẹ chồng như đứa ở”, một bà vãi lời sang khiến ông hãi, dính vào mâu thuẫn gia đình họ khéo phải vạ. Người thứ ba buôn điện thoại mải mê khiến ông buồn cười. Đàn bà hay thật, mua mớ rau rẻ năm trăm khoe mất năm nghìn, những thông tin mới đắt làm sao.
Bèn sà vào “thông tấn xã vỉa hè”, là cái bàn tí teo dưới cây sấu mấy anh già gầy ấm chè mỗi sáng. Tối tối anh nào cũng canh tivi, sáng ra mua báo đọc sớm nên có đủ mọi chuyện để bình. Công an sao có thể mặc thường phục bắt kẻ vi phạm giao thông được nhỉ... Văn bản bộ X mới ra thằng chó nào soạn mà thậm ngu... Đại loại ý kiến đưa ra đều mang hơi hướng phê phán.
Sáng nay thông tấn xã có màu không quá gắt gao. “A bác Bột thế là đã hưu rồi đấy nhỉ” - ông Sữa chào.
- Thì đến tuổi phải nghỉ chứ còn gì nữa - ông Cháo khẳng định.
- Chà, cái cây này chỉ rậm rạp mà hình như không cao lên, phải không các bác - ông Bột đận đà.
- Không phải. Đấy là nó phát triển ngang - ông Cháo rất quả quyết, quay về đề tài đương bàn - Cái họng tôi dặm dặm ngàn ngạt, thầy thuốc bảo không phải do cảm lạnh mà là viêm tai nó thông sang mũi rồi xuống họng, mình lại nuốt nước bọt ấy vào. Phải uống limitixilin với nhỏ nước muối hằng ngày mới được.
- Đúng quá! - ông Sữa cắt ngang - Nếu mà bị trĩ thì đừng cố rặn, rặn nhiều nó càng lòi ra. Ngâm thôi, ngâm nước nóng với dùng thuốc nam ông lang Või, mà đừng chè rượu gì nữa thì đỡ.
- Bác nói chí lý! - ông Cháo tán thưởng - Bệnh họng mà rượu lắm nó càng nóng, có khi sinh ra ròn mạch máu tắc kinh mạch, xuất huyết não chưa biết chừng. Ông quay sang ông Bột: Thế bác đã có An cung ngưu hoàng hoàn chưa, tuổi này thể nào cũng phải vài viên để sẵn.
Ông Bột lễ phép cảm ơn, rón rén đứng lên. Ông này đau họng, ông kia đau đít, sao có thể càm ràm mãi thế. Ôi mấy anh già, quá là mớ đời. Nhưng ông phải tránh xa một bộ ba, toàn loại chết sẽ được quàn bệnh viện oách nhưng lại đang phê phán một chủ trương cỡ vĩ mô. Trong đám đông có nguy hiểm.
Lâu nay sếp nọ chê ông chậm, sếp kia ha ha trông vào anh mà anh chả nghĩ được điều gì mới à, những lời phê tạo động lực cho đời ông. Giờ tự do rồi tha hồ lựa chọn, tỉ như đội hình tán chuyện mỗi sáng phải vừa sướng mồm vừa khỏi lo tai vách mạch rừng. Rồi ông thấy đói. Tự do mà vẫn đói mới lạ. Về tỉ phú thời gian rồi, phải ăn sáng đủng đỉnh, phong lưu, như một nghi lễ mới được.
* *
Quán Liên Tươi có chiếc bốn bánh đậu, biển số quen quen. Đang tần ngần giữa tái và tái chín thì nghe ới. Bàn giữa nhô lên cái đầu trọc rất ngầu, gương mặt vừa láu cá vừa lấc cấc của Tý, thư ký sếp G. Trong “ngăn kéo cán bộ” của ông Bột, tên này thuộc loại hầm hố, giỏi việc, kiếm và tiêu tiền như mãnh hổ. Có tin đồn tỉnh miền núi nọ muốn gặp G để được phân bổ một dự án phải dành ngần ấy phần trăm cho thư ký. Trong nhà hắn cao hổ, cao ngựa bạch, sừng tê, rượu bao tử gấu... chẳng kể hết được.
“May quá! Lại đây với bọn em” - Tý gọi, chỉ chai Hải Hậu còn nửa, bên cạnh là bát gầu mỡ còn nóng dầm đẫm chanh và tương ớt. Trước mặt Tý là Sửu, cũng chuyên viên dưới quyền G.. Cặp bài trùng này nổi tiếng ỡm ờ, nửa đùa nửa thật chả biết thế nào mà lần.
- Toàn những thứ hại dạ dày...
Ông Bột nhăn nhó, nghĩ mình tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, nhưng Tý rất trịnh trọng. “Bọn em đang nghĩ tới anh. Cái thằng công chức bố láo này, hắn chỉ Sửu, phải lấy anh mà noi theo thì mới nên người được”.
- Em vừa bảo anh như người học võ bốn mươi năm không nghỉ chủ nhật nào - Sửu tủm tỉm - Anh về thì chả ai viết giấy khen với các văn bản đẹp đẽ, rõ ràng nữa. Chuẩn không cần chỉnh, có khi văn phòng phải triệu lại mới được.
Có một chút hân hoan làm ông Bột đi cạn chén cay sè. “Thiếu gì người tài mà các ông nói vậy”. Đang lâng lâng trên cao, ông tụt hủm khi Tý ghé tai: “Thế anh định giải quyết cái vụ “phòng nhì” thế nào?”.
- Phòng nào? - ông lo lắng nhìn quanh - Đừng có nói to thế!
- Anh khéo giấu. Em trẻ bốn hai đang rừng rực hồi xuân, chỉ có bà chị không biết. Bọn em còn phải đứng xa lạy bố.
- Đừng bịa thế phải tội ra. Đây gần nhà tôi...
Hai thằng ông mãnh khen ông cảnh giác cao, hoạt động bí mật giỏi rồi chuyển sang chuyện thời tiết, những dự định của ông Bột, có định viết hồi ký thì đừng đưa thằng em này vào thành nhân vật tiêu cực đấy nhé. “Thôi không đùa nữa! - Sửu bỗng nghiêm giọng - Sếp G. giao nhiệm vụ bọn em đến dặn anh đừng buông lỏng ý chí, tiếp tục phấn đấu”.
- Phấn đấu cái gì?
- Thì anh tự biết lấy chứ.
- Tôi làm sao biết được. Về nghỉ. Thế thôi.
- Anh nói thế nào... Hay là giấu bọn em như giấu bà chị?
- Khổ quá - ông Bột khổ sở - Có gì mà giấu. Thế sếp bảo gì?
- Cũng không cụ thể. Bảo là anh tự biết cả.
Bắt đầu cuộc tự kiểm điểm. Đâu như hội nghị ấy để lỗi trong phát biểu khiến sếp thành trò cười. Đâu như hôm thu công đoàn phí chỗ G. nói năng không dịu... Mặt mũi đang đẫn ra thì Tý lại thì thầm: “Anh nghĩ không ra đâu. Đây là do anh G. áy náy thôi. Sếp bảo không biết tôi đắc tội gì mà mời anh Bột đi ăn cưới con trai không được. Anh đừng nói là không được mời nhá. Em tra bảng lương phát thiếp mà”.
Đục thủng óc cũng không có chỗ nào chứa vụ mời mọc ấy, ông Bột nhăn nhó: “Có lẽ hôm ấy răng sâu nó hành...”. Thì Sửu bô bô: “Hay anh tiếc tiền mừng?”.
- Đừng nghĩ xấu cho anh Bột thế - Tý can - Thôi quên vụ này đi. Đại để là anh G. muốn anh giữ vững những phẩm chất khi còn làm việc, không giao du a dua kẻ xấu, chữa răng cẩn thận, lau sạch mồm sau khi ăn vụng. Không phải về rồi là muốn làm gì thì làm đâu. Cơ quan cũ và địa phương phối kết hợp nhau, vẫn có sự quản lý, anh đi đứng cử động nói năng gì biết cả đấy. Thế thế, anh ạ.
Giọng nhẹ nhàng mà ông Bột cứng người lại. May quá từ sáng đến giờ chưa mắc khuyết điểm gì. Phải tỏ cho đâu đó biết mình không có chuyện gì, không có ý làm cái gì đây. Bèn chỉ bát gầu còn lấp xấp: “Thế này nhá, để tôi trả. Coi như mời hai ông sáng nay”.
“Anh làm thế bằng xúc phạm tụi em” - Tý nói. Nhưng ông đã phắt dậy, xăm xăm ra chỗ dao bổ phầm phập xuống thớt.
Chia tay nồng hậu. Bên này cảm kích được bữa sáng, bên kia hứa quán triệt rồi biết để mà tránh. Tý, Sửu cười phớ lớ giờ này hội thảo khoa học dưới vụ C sắp kết thúc để phát phong bì rồi liên hoan mừng thắng lợi. Ông Bột tỉnh hẳn rượu. Tiền ăn sáng tuần tới thế là toi. Ai mà ngờ tự do cũng có vị đắng...
Nguồn: Báo Tuổi Trẻ, 24/05/2013.
Châu Long
Trần Chiến
Cái đêm hôm ấy đèn lửa rực trời. Ngôi nhà ba gian bé mọn của Lưu Bình ở giữa xóm như có đám cháy. Thầy lý cụ chánh chỉ huy chém tre kết lá bắc rạp dựng cổng chào, chân người chạy rầm rập. Đám thầy đồ sĩ tử tấp nập ra Văn chỉ bái tạ Đức thánh hiền đã ban cho làng con thầy tân khoa và năm tới năm tới nữa luôn thể cho cả chúng con mới. Thằng hầu của Lưu Bình, hôm nào bỏ chàng mà đi, nay quay lại lăng xăng. Đứng ngay ngắn ngoài chái, nó vái vào trong: “Ơ bà, ông con vinh hiển rồi, bà dậy chải chuốt, mai đóng võng lên tỉnh rồi cùng vinh quy”.
Trong màn thoáng động, tiếng nói nghèn nghẹt chả nghe ra sao. Thằng mõ bảo: “Cơ khổ. Nuôi chồng ăn học, đến lúc tàn tán rợp trời lại ươn, chả bù mẹ Đốp tôi quá trâu lăn”.
“Trên tỉnh tân khoa quan ngài trông lắm. Sớm mai không thỉnh được nhà người lên võng cáng đi, khéo phải quở”, thầy lý lo ngại.
- Con đồ rằng bà nhà chẳng được chung tình lúc quan ông vào kinh ứng thí, đâm dở dang gì đó.
Thằng hầu cười khúc khích, ăn ngay bốn cái tát. “Phỉ phui. Làm chúng ông phải vạ giờ…”.
Đến nửa đêm, xung quanh ắng lặng, nàng Châu Long giở dậy nhai quả giầu mặt bừng bừng. Thằng hầu láo thật. Đã bạc còn láo. Nhưng nó nói đúng. Ta dở giương. Đám than dưới bếp đang tàn, có nên gầy lại cho nồng đượm hay hắt phắt gáo nước vào.
Thế là đã ba thu vâng lời chồng đi nuôi bạn. Ba nén vàng Dương Lễ đưa chi dụng thật ngặt nghèo, thưng gạo thỏi mực lọ mắm thôi thúc, phải tằn tiện vô tả, không bán buôn thêm thì vốn đã cụt từ lâu. Lại đốc thúc, khích bác cho chàng đừng nản chí, hứa hẹn một tương lai nồng ấm. Nhưng chả sự nào khó bằng ngần nấy đêm chung nhà chẳng chung hơi, nằm trong chái nghe Lưu Bình hào hển nài nỉ bên ngoài phải làm mặt giữ giá. Mà nào ta có phải gỗ đá hay chàng chả đáng yêu. Chỉ là vì gái này đã có chồng, phải đóng vai chị vai mẹ chàng, ơn nghĩa vun thật dầy dặn chứ ái tình không được vương mẩy tơ.
Thôi đại sự đã xong, từ nay nhẹ bỗng. Ném huỵch nghìn ngày lạnh lẽo nín nhịn, dù chả phải giả trá quá nhưng chả được là mình. Ta về ao ta an phận làm em ba. Còn nợ tình nợ tiền những đâu đâu quên hẳn, coi là giữa hai anh đàn ông với nhau. Nào, về mái nhà xưa yên ấm, trên tỉnh dưới xã mai ra ngẩn ngơ kệ, lòng ta ổn là được.
Bèn dập đống rấm thắp nén hương, thả con chim lồng, cài then trước then sau. Bước chân về Sơn Tây của người đàn bà đói hơi chồng chốc lại loạn nhịp.
* *
- Nhà chị kia, đi đâu?
- Ta đây. Đã thiểu não đến thế rồi á.
- Thấy nhà quan bắt quàng hả. Cho chó ra chạy chết giờ. A, con xin lỗi, ra là bà ba ngày xửa.
Châu Long hơi hạ phần hứng khởi khi bước vào cánh cổng chạm chữ “Dương” đường bệ. Thằng hầu giữ thói hỗng, chó dựa oai chủ làm nàng phải đôi co. Nó chả đã làm Lưu Bình tức uất còn gì. Nhưng thôi, đã bảo bỏ chuyện Lưu Bình lại cơ mà.
Bà cả chạy đến mừng mừng rỡ rỡ, đang đôi hồi bỗng “Em còn về đây làm gì?”.
-Chả phải là năm ấy tướng công nhà mình cần người giả cách người dưng đi nuôi bác Lưu Bình, chị rồi chị hai đều từ chối, mới đến phần em đấy ư.
- Chị có quên đâu.
- Giờ bác ấy đã thi đỗ, vinh hiển, em về.
- Vẫn đành là phải thế.
- Chị bảo vậy làm em sợ? Em vẫn giữ phận dưới, chả tranh giành gì đâu. Hay tướng công thêm hầu thiếp, trẻ trung hơn…
- Chả thêm thắt gì. Chị cũng chả biết nói ra sao. Thôi nghỉ tý đã, để chị vào báo tướng công.
Đận “tý đã” kéo sang chiều muộn. Dương Lễ dự tiệc ở nha phủ rồi mải giấc nồng, khi nghe tin Châu Long về chỉ thốt “Ờ, ta biết rồi”, mặt thoắt cái khó đăm đăm. Nhưng khi nhác thấy nàng, quan ngài đổi sang vồn vã, hỏi chuyện đi đường bao lâu có vất vả sao không báo trước để sang đón...
- Bao xa cũng chả bằng niềm vui về nhà mình, thưa quan tướng – Châu Long nghẹn ngào thốt.
- Tiệc mừng tân khoa bên Bắc Ninh chắc rạng rỡ lắm?
- Chàng ơi, Châu Long đổi cách xưng hô, đợi đến lúc ấy thì ván đã đóng thuyền, thiếp làm sao trở về nguyên vẹn.
- Cũng tiếc một buổi vui, nhỉ. Ta cứ nghĩ nàng ở luôn bên ấy cho được hiển vinh, về chốn chồng chung vợ chạ mà làm chi.
Ắng đi một lúc, Châu Long quỳ sụp: “Ba năm qua thiếp giữ thân mình nguyên vẹn, nay chàng chẳng thương thời chớ, còn ngờ vực thật uổng cả”. Bà cả đứng bên chép miệng: “Một mất mười ngờ…”. Bà hai nhổ quết trầu: “Ma ăn cỗ biết thế nào được!”, vỗ đít nguẩy vào trong. Châu Long khóc nấc lên. Dương Lễ bước xuống nâng dậy: “Ơ nàng, ta cợt miệng nói chơi vậy, đừng để ý đừng để ý”. Đoạn quay ra hào sảng: “Đại hỷ đại hỷ! Bay đâu, dọn tiệc lớn, coi như ta cưới được vợ mới”. Bà hai cười nụ: “Chả hóa ra lấy đĩ về làm vợ”, bà cả rằng “Dì nói vậy chả hóa ra năm ấy chúng mình từ chối đi làm đĩ á?”.
Ê hề canh bào ngư, súp yến sào, bàn tiệc chả còn chỗ nào. Ba bà ngồi chống đũa, người háo hức kẻ hầm hầm người nữa cậy miệng chả ra mồm, đợi quan tướng trầm ngâm mãi ngoài khóm ngâu. Đến lúc ngài vào thì món lạnh mặt cũng nguội cả. Châu Long rót chén rượu ngâm cá ngựa đại bổ thận dâng lên, Dương Lễ nhấp gọi là, hấm hứ đang uống thuốc bắc. Nhưng cũng gắp lại cho nàng. “Con cá anh vũ này sống nơi nước chảy mãi thượng du, thường bám vào đá ăn rêu nên cái môi là ngon hơn cả”, nói ra điều chu đáo. Tiệc tan, Châu Long về căn phòng xưa, bụi mốc nhiều quá phải xắn tay quét dọn lấy, đoạn tắm nước thơm, gài hoa bưởi lên tóc đợi. Nàng có bao nỗi niềm để thủ thỉ với người chồng, người chủ của mình. Thân thể nàng trải ba thu còn vẹn nguyên, đầy đặn, sẵn sàng trải ra đêm nay.
Sang canh hai, có tiếng guốc lạch cạch. Thằng hầu hai tay dâng gói lụa điều bọc đĩnh vàng: “Quan tướng bảo bà ba thay quan làm việc ơn việc nghĩa, nay thưởng hậu”. Hỏi quan đang bà cả hay bà hai, nó cười túng tắng rảo đi.
Tuần sau, tháng sau đều thế, ba ngày tiệc nhỏ năm ngày tiệc to, những ban khen không tiếc lời cho sự hy sinh của Châu Long. Phòng nàng chất ngập lụa là, phấn thơm, trầm hương, nhưng đêm là của trông ngóng rồi chuyển sang tủi hổ.
- Trăm lạy quan tướng, chàng có điều chi trách phạt thiếp?
Châu Long sụp xuống hỏi, trong lúc ba bốn mặt cần một lời. Dương Lễ “Ơ hay, có tấm sa sứ Tầu tặng, ta chỉ cho mỗi mình nàng đây thây”.
- Chàng chẳng sang khiến thiếp thật bẽ bàng, xin hỏi cơn cớ thật để còn liệu sửa lỗi.
Châu Long vẫn ngồi dưới chiếu, nhìn thẳng vào Dương Lễ. Bà cả lẩm nhẩm “Thê nhi như y phục, còn chả hay…”. Bà hai nổi đùng đùng: “Lý đâu dám chất vấn vậy. Được nuông đâm dâm đãng ra cả lời”.
- Thiếp cùng Lưu Bình quả thật không có chuyện bén hơi. Ngày ra đi nuôi bác ấy hoàn toàn là vâng mệnh chàng, cho chàng thỏa tấm lòng trọn vẹn với bạn bè. Bao nhiêu công lao với bấy nhiêu thủ tiết, chẳng lẽ giờ không được đoái thương – Châu Long thở ra - Hay chàng chê cũ, muốn có cô hầu trẻ trung hơn, thì thiếp chả cản.
- Dào ôi, những cũ rích nói mãi – Bà hai nguẩy ra – Miếng giẻ chùi chân còn làm giá. Vàng lụa rồi chửa biết thân…
Châu Long nấc lên, toan lời qua tiếng lại, nhưng Dương Lễ đã phẩy tay đi vào. Đêm ấy đã cài then thì chàng vào, mặn nồng không thể tưởng. Châu Long được hơi cũ sinh thói quỵ lụy bèn dậy pha trà hâm rượu, láu táu hóng hớt sang những chuyện kinh sách, rằng câu nấy nọ có phải nghĩa lý thế thế không. Dương Lễ chợt trầm giọng: “Thế bên kia cũng thường vầy vậy chứ gì?”
- Chàng có ý gì, làm em sợ.
-Từ câu thơ đến chỗ cuộc cờ chén rượu rồi ngửa ra chẳng bao xa. Hứng thế mới tột cùng chứ.
Nói rồi lại lột nàng ra, dầy vò như con thú muốn cho nát ra tan ra mới hả dạ. Nửa đêm, mệt oải, hầm hầm, chàng ra khỏi phòng, để lại tênh hênh với nghẹn ngào. Đêm sau lại thế khiến Châu Long tức uất lên: “Thà rằng chàng đừng vào còn hơn”.
- Ta muốn tin nàng, lại cũng muốn đừng muốn nàng.
- Thế để mời bác Lưu Bình sang cho được rạch ròi vậy.
- Chớ dại. Ai tin cho được. Vả, ta biết chốn quan trường, Lưu Bình hiển vinh, gặp rồi khéo nàng còn mất cả tình của hắn có khi.
- Bác ấy đâu phải loại người thế.
- A, thế này ra đã bén hơi nhau lắm.
Thám hoa Chi Đạo từ Trung Hoa chạy loạn sang ta, mỗi chữ mỗi câu đều tỏ dòng chân Nho, hồi trước dạy Dương Lễ. Tiên sinh trung chính, khắc kỷ, coi rẻ nôm na mách qué, tết lễ học trò làm lớn trong triều đến thường chỉ cho ngồi dưới, hỏi thăm dăm ba câu rồi đuổi ra. Thuộc tính thầy, Dương Lễ chỉ dâng xấp giấy xuyến chỉ đạm bạc, rồi đem nỗi ngổn ngang trong lòng ra mà hỏi. Những là không dứt được với lại chả thể nào… Đang còn dang dở thì Chi Đạo hầm hầm: “Phí chữ ta dậy!”.
- Dạ, con vẫn hằng gặm kinh sách.
- Đàn bà ở nhà theo bố mẹ, lấy chồng chỉ biết chồng rồi con. Để vợ ra khỏi nhà là coi như anh đã chết.
Nói rồi phắt dậy, ném trả quà.
Dương Lễ sợ hãi trở về, trầm ngâm hết nỗi. Sang tuần, thằng hầu vác súc gỗ trầm đến phòng Châu Loan buông huỵch. “Này cô ơi thơm phưng phức đây. Đêm nằm tha hồ gác chân gối đầu vui đáo để. Từ nay đừng mong quan lui tới nữa nhé”.
- Ta chẳng tin. Sao quan tướng không đích thân tới bảo?
- Con hứng mọi cái xấu cho mặt quan sạch sẽ. Lần cho bác Lưu Bình xơi phũ phàng chả phải con thì đứa chó nào.
- Nhưng ta có làm gì nên tội.
- Đàn bà ra khỏi nhà chồng là có tội rồi. Ra rồi trở về tội càng tội. Cô không biết đấy thôi, ngoài phủ họ xôn xao thế là ngài liếm rồi lại nhổ rồi lại liếm à. Buồn cười thật đấy.
- Ta chả thấy có gì mà cười.
- Là nói con gà mái. Không có sống, chỉ ấp bóng ấp hơi mà cũng cục tác ầm cả lên. Con ra đấy xem, chả đôi co đâu ạ.
Quan tướng tránh mặt hẳn, không báo duyên cớ hỡi hời nào. Thảng hoặc có về chỉ ngủ nhà trên, đèn lửa mới tối sậm đã tắt ngóm. “Tội lội xuống sông, tội xông ra biển. Rẽ ngả nào ới tội ơi là tội”, thằng hầu đứng ngoài sân hát đổng.
Chen tiếng bà hai lóe xóe: “Con gà sang vườn hàng xóm, vào nồi nhà nó rồi thì chớ đem nắm lông ô uế về nhà bà nhá á á”. Châu Long uất lên làm ngụm thạch tín nhưng không chết. Thày lang đến rửa ruột, cắt bao nhiêu thang đại bổ tốn kém đều là do quan tướng chi trả. Những lần ngài ghé thăm chỉ đứng đầu giường chả nói năng. Đêm hôm ngằn ngặt, giường cứt chiếu đái đều bà cả lo, bao nhiêu xa xót chỉ ra mặt chứ không ra lời.
Tết Trung Thu, nhà mở hội ngắm trăng, mời thêm vài vị tao nhã xướng họa. Bà cả làm cỗ ngọt chiêu nước chè mạn, bà hai thêu tặng chồng túi gấm đựng bút. Đang giòn giã thì Châu Long đem quả đầu hoa gáo mới mọc tóc ra, rằng xin góp vui. “Đĩnh vàng phân bạc nặng bây nhiêu, đem ra so với chiếc lông chim này làm nó tủi phận. Phu thê mà chi, cho chàng là người tử tế”, vừa múa vừa hát vậy. Cái quạt trong tay nàng xòe ra cụp vào phành phạch gió trên gương mặt thoắt tái thoắt đỏ của lang quân. Thằng hầu vái dài: “Cô tôi nói chữ đáo để”. Văn nhân đứng dậy cả. Dương Lễ nhăn nhó: “Con ở nhà tôi đâm dở, xin được thứ lỗi”.
Sáng ra thằng hầu đứng đầu phòng nghêu ngao “Cây bòng cây bưởi xinh từ cái gai trở đi, còn mỗi cái lá là tội nghiệp. Quan sai tôi lấy lá lót tay cô ba dắt ra khỏi nhà, đưa nén vàng rồi bảo phắn. Đâu đâu kệ xác”. Nhưng giường chiếu đã gọn ghẽ, chỉ vương vài sợi tóc ngắn ngủn và những mảnh gương vỡ.
Người thì đang ở giữa đồng không bao la. Bỏ thôi. Quăng cha nó ba vạn chín nghìn mớ nghĩa tình quân tử, những đại đại sự đè nghít niềm bé mọn. Nhưng quẳng mạnh quá đau quá là đau. Ối giời, còn lại giọt nào đều là đắng cả. Nhưng đi đâu giờ, để gột rửa?
Sang với Lưu Bình thì không thể. Ra là đứa hai chồng á. Mà chắc gì người ấy đã nhận. Lũ mặt trắng đậu tường Nho chỉ cốt danh phận, bao nhiêu chữ đều để lót đường. Ngôi làng tấm bé bước khỏi rồi không thể quay về, chả hóa bôi gio trát trấu cha mẹ với cả họ hàng với cả những quan viên cho chí thằng mõ lắm. Nên đành quy y. Chỗ Châu Long xuống tóc, ngày ngày trông lên mặt Phật là chùa Hổ Sơn ở huyện Thiên Bản, Sơn Nam Hạ. Thời Trần, bà công chúa Huyền Trân đem thân lấy vua Chiêm Thành để đổi hai châu Ô, Rí về cho đất Đại Việt, sau khi trở ra Bắc dở dang thế nào đấy đã về đây tu.
số tết
Nguồn: Báo điện tử Tiền Phong, 10/07/2014.
Mời xem thêm:
"Gót Thị Mầu, đầu Châu Long" - Tập truyện mới của nhà văn Trần Chiến:
Đi hết nỗi chông chênh phận người! - Thi Thi, 13/04/2014, Báo Hànộimới.
Thấy chuyện bất bằng
Trần Chiến
Quán nước gốc thị lạnh tanh. Làng còn toàn người già với đám rỗi hơi làm gì chả lạnh. Bà Hựu rất bứt rứt nhưng chả dám đuổi hai ông mãnh sáng ra đã ám quẻ. Rượu chịu. Bụng rỗng. Một ông giếng sâu khó dò một ông tục tằn ăn vã mắm tôm, uống dai nói dai hôm nào cũng ngần nấy chuyện. Những là cấy hái xong nhà Trị lại giải tán ra phố vợ bế con người chồng phụ hồ, ông Chỉnh cựu bí thư xuất huyết não xong ai đến thăm cũng cười khách chỉ có bỏ đi mới dừng được. Những là dân làng Tàm ta năm kĩa sôi sục đấu tranh giữ đất chống lại bọn cường hào mới đội lốt quan chức giờ lại rồi mồm sao chả có dự án nào để hiến đất cho quốc gia đang tiến lên hiện đại lấy tý đền bù xây nhà xây cửa còn bao nhiêu đề đóm. “Tin tức” hôm quái nào chỉ bấy nhiêu, khiến bà Hựu độc một nỗi ngỡ ngàng, rằng nông dân sao không yêu đất nữa lạ nhỉ mà làng ta trống toang làm vậy đâm gốc thị ế sưng.
Nhưng hôm nay lại có “tin” mới, khi Hoằng qua chén thứ ba, uể oải: “À, thằng Lâm về đấy, bảo dự giỗ họ”.
- Lâm nào? – Đãi vểnh gương mặt đã sưa sưa lên ông chú bằng tuổi.
- Lâm con ông Chỉ em bác Kim, xưa học với mình là thằng Lấm.
- Kệ bố nó. Kể gì cái thằng chạy khỏi làng.
- Thấy bảo về với vợ mới. Đánh ô tô.
- Ô tô giờ thiếu giống. Thằng Thắng nhà cháu không lô đề giờ cũng mẹc miếc, chứ lỵ.
- Nhưng kiểu gì mai ăn giỗ cũng giáp mặt. Xưa nó học giỏi, có xe đạp không cho mình leo lên. Ghét cái mặt.
- Ghét thì chả ngồi cùng, là xong.
- Chán cái thằng này… Hoằng gằn giọng. Tưởng là cắp đít đi, bao nhiêu sướng khổ cái họ này không cùng hưởng cùng chịu giờ tự dưng vác mặt về xơi mà được à. Tức nhất là bác trưởng, chả biết nó thuốc những gì mà báu, cho ngủ trong chái nhà thờ họ. Mà con vợ đã một đời chồng còn bôi nước hoa dận cao gót lộp cộp.
- Ô, thế ra… Đãi ngẩn người. Cháu thì xúc đất đổ đi ấy chứ.
- Cái thằng đầu đất này, cuối cùng cũng hiểu. Tao định…
Hai mái đầu đã lốm đốm bạc chụm lại, vắt cổ chai sáu lăm không ra giọt nào mới đứng dậy. Trả ngay. Không chịu. Giữa đường thấy chuyện bất bằng kia mà. Làng Tàm sẽ sôi nổi sẽ bớt buồn, trồi lên gương mặt anh hùng chúng ông đây…
* *
Chái nhà chật, ẩm xì, lên mùi mốc meo, nhưng nồng nàn tâm tưởng. May có cái giếng năm chỉ dùng vài lượt không khỏi thủm, chồng kéo nước vợ hì hục lau, tấm phản xoan vênh váo mới bớt hôi. Nhưng mùi lưu cữu từ chạn bát chả cất đi đâu được. Mà tính Phương không chịu được bẩn. Thấy vợ cứ phẩy chỗ nọ chùi chỗ kia mãi, Lâm phải kéo ra. “Thế thôi. Tối nay không ngủ cũng được”. Đặt đít lên chõng giữa sân mắt hẩng lên trời cao. “Thích thật. Không có ánh điện mới hay sao tỏ. Em thấy tình quê hương có lớn lao không?”
- Em thích nhất lúc bác trưởng gái bưng ra rá khoai luộc, mật chảy thơm quá, Phương hít hà. Bác ấy chả cách bức chuyện mình đi ô tô.
- Anh thuở bé ăn khoai nhiều quá, giờ ngửi lại phát nôn. Nhưng em thích thế là tốt lắm. Lại có thuốc bổ biếu bác.
- Tội nghiệp bác gái lưng cứ gập xuống. Những bà cụ nông thôn lúc có mang phải cho thai ăn, đẻ con ra lại cho bú thể nào cũng thiếu can xi.
- Chán cho em, toàn chuyện duy lý chính xác. Mà quê hương đang rưng rưng thế này…
Ngoài kia lá tre du rì rào, thân cọ vào nhau răng rắc. Tiếng ếch ộp, tiếng côn trùng râm ran, quả rụng lộp độp, con đóm lúc tắt lúc tỏ. Phong cảnh quê nghèo đạm bạc thật đấy nhưng gợi lên toàn những thương xót với thân yêu.
Bác Kim là anh ruột bố Lâm, nối bước ông nội làm trưởng cái họ Trịnh Văn nghèo mà đông đúc. Chả báu bở gì, gánh nặng là đằng khác, khi mà đất hương hỏa nhập vào hợp tác nhưng việc thờ phụng từ cụ kỵ đến cao tổ tằng tổ chí cao cao tổ chả trốn đi đâu được. Nhìn vuông giấy dán cột nhà biên hai chục ngày giỗ trong năm, Lâm phát kinh. Chả hiểu hai bác, nhất là bác gái xoay xở đâu mà lo được. Sau này có lệ góp, mỗi nhà mỗi tý, mới đỡ. Lần này về, anh đưa bác chục triệu, như một tý biện bạch vì đi xa lâu quá vô tình quá. Cũng là vì mái nhà thờ họ có chỗ xệ.
Lâm thiệt thòi đường gia cảnh. Bố hy sinh, mẹ mất sau có ít năm, cậu bé tám tuổi được bác Kim đón về, bù chì cho ăn học. Nhưng đoạn đời sau có thể nói là phẳng phiu: con liệt sĩ được cấp học bổng vào trường sư phạm, xong lên miền núi dạy, tằng tằng đi từ anh giáo quèn đến trưởng phòng phổ thông của sở giáo dục. Bốn năm trước, vợ phải cơn bạo bệnh rồi đi, Lâm nuôi con đến lúc gặp Phương ôm bằng thạc sĩ từ thủ đô về. Phương mạnh mẽ, ra lối hiện đại, ly dị xong nuôi con, chả có téo mặc cảm khi đến với anh. Ở vùng cao, vợ chồng như thế là “tân tiến”, nhiều người cọc cạch muốn được vậy nhưng ít ai dám mạnh tợn hành động. Cũng là nhờ tỉnh lỵ thông thoáng chứ trong bản làng thì khác.
- Anh bảo quê hương nặng nghĩa tình, định cất gian nhà ở lúc nghỉ ngơi, sao lại đi một mạch giờ mới về? – Phương thủ thỉ khi đã vào màn.
- Thì cũng phải để lũ trẻ nó ấm chỗ đã. Anh và em còn son rỗi nữa đâu. Là tính cả em cũng về…
- Nhưng ngần nấy năm chả héo lánh. Mà bác trưởng thương anh thật sự…
- Có những nỗi khó nói lắm - Lâm vòng tay sang - Em đánh thức nó dậy là anh chả ngủ được.
* *
Cỗ đơn giản. Mươi mâm, gồm gà luộc, thịt lợn thái to đảo cháy cạnh, bí xanh xào lòng, bát canh, xôi và cơm. Làm lấy cả, giá kể làng giầu họ có đã thuê thợ nấu. Nhưng khác xưa, ở chỗ chỉ đem tiền đến, dăm chục một trăm không lễ mễ người con gà đấu gạo người cây tre dựng rạp nữa. Mâm nào cũng giắt sáu túi ny lông, ai đau răng ai ăn vào tiếc của xẻ đem về. Hai bác Kim yếu, mấy năm nay mọi sự phó cho con trưởng. Anh Phấn lo việc trọng đã quen, cắt đặt người dọn dẹp người đến sớm củi lửa. Trong đám lụi cụi bờ giếng có bà thạc sĩ, cắt tiết vặt lông như ai. Vì chỉ có “đinh” được dự chính thức, Phương “quán triệt” lời chồng ăn dưới bếp, mâm phục dịch phần nhiều đàn bà.
Sau dăm câu ba điều nhắc nhớ tổ tiên của Phấn, đám đàn ông xoa chân a vào. Mâm sắp theo nhiều tôn ty, chỗ này bằng vai nơi kia cùng tuổi dưới cùng toàn thanh niên. Bác Kim ngồi lấy lệ rồi sớm đứng dậy, thì bên mâm “nhì”, Hoằng nói to với Đãi “Chú bảo có chuyện bất bằng là sao?” Hỏi vài lần, nhưng Đãi qua chén thứ tư mới đủ đảm lược khơi khơi vắt sang mâm “nhất”, gian giữa: “Chú Phấn này, thằng Lâm được ngồi trên ấy là làm sao?”
- Cậu uống mấy chén mà đã nói nhăng vậy? – Phấn đặt cái phao câu phần của bố xuống – Chú Lâm chả ngồi đây thì ngồi đâu?
- Cháu không nhăng nhít. Thằng Lâm con bà Định, bà Định là cháu cụ Hai Mẳn, cụ Hai Mẳn chỉ anh em thúc bá với anh rể của bà ngoại cháu, tức là chỉ bằng vai với cháu sao nó dám ngồi đấy.
- Thì anh đang ngồi cùng mâm với chú Hoằng anh đây thây.
- Mâm này không theo vai vế mà toàn cùng trà tuổi, Hoằng thủng thẳng. Anh Lâm trước cùng đi học, giờ ngồi trên ấy là láo.
- Đúng là láo!
- Láo quá chứ còn gì!
- Đây là chúng cháu nói chứ không phải rượu nói. Sang thời dân chủ rồi không phải ngành trưởng thì sắp xếp hết được.
Đãi ầm ầm “hô khẩu hiệu”. “Quần chúng” cùng mâm đế theo loạn xạ. Té ra là mâm kéo bè kết đảng được sắp xếp có bài bản ủng hộ nhau rồi. Nhưng “quyền trưởng họ” không bị át vía.
- Này nhá, tôi bảo cậu Đãi, nếu tính theo họ ngoại thì về bên ấy ăn giỗ hãy so nhá. Đằng này là cỗ họ nội – Phấn quay sang Lâm đang xị mặt – Chú cứ ngồi đây. Xem chúng nó có mượn rượu làm càn được.
Đãi đã chịu cứng trước rành rọt lý lẽ, thì Lâm bưng chén sang, mềm mại: “Thôi thì tôi vai dưới, cho ngồi mâm cùng tuổi. Chả gì chúng mình cùng đi học…” Bèn lại vểnh mặt quay đi: “Chả gì… Cái thằng đi một mạch giờ về nhận họ, tưởng mà dễ á. Thế ngày xưa ông cậy học giỏi không cho chép bài thì có đáng làm anh em không?”
- Thôi thôi chú ấy đã biết điều rồi chú ngồi xuống đây – Hoằng dàn hòa rồi quay sang Lâm, hiểm độc – Thế sợ sệt hay sao mà lại bỏ dấu “sắc” đi? Là đổi “Lấm” sang “Lâm” ấy. Thôi thôi không phải giải thích tôi biết ông là trí thức đổi phận rồi đi ô tô về làng vợ sĩ siếc gì gì không nhận gốc gác nông dân nữa đừng tưởng góp tiền sửa mái nhà thờ họ mà hơn được thằng cháu nội tôi đang ỉa đùn đâu.
- Đúng rồi - Đãi hùng hổ góp - Bao năm qua xây mộ tổ với mộ các cụ mới đầu chỉ đắp vôi xi măng rồi lên gờ ra tô giờ là đá xanh vĩnh cửu lát cả đường vào cho đỡ trũng anh chạy đi đâu hở hở cả những phen trẻ trâu phá quá phải góp gạch xây tường bao nhà thờ nữa. Ha, ông trưởng với chú Phấn xử thế quá là thiên vị. Cháu không chịu.
Mâm trên nghe “choang”. Phấn mặt chín dừ vì tức. Một thằng cháu một thằng em dẫn đầu vài đứa cậy đông lấp miệng, chứ cãi lý anh đâu có sợ. Lại cậu Lâm xử nhũn quá cứ thôi thôi chín bỏ làm mười các anh xí xóa cho tôi đi bao năm rất áy náy giờ về không nhẽ chỉ để ngồi giỗ họ được mâm trên mâm dưới đâu nào, sâu xa điềm đạm quá lũ xấc xược đâu có hiểu đâm coi thường. Phấn định gọi Lâm về bên này, thì Đãi đã chỉ mặt Phương, đang lễ mễ bưng mâm canh ra: “Cái con này mày đã có chồng rồi bỏ rồi chán vạn mười phương giờ lấy thằng Lấm thì tưởng ra bề trên phỏng mày ngủ trong chái là ô uế nhà thờ họ. Ban nẫy vợ tao chào “cô” dám nhận”.
“Thị” Phương ngây người, đang định lấy vẻ mặt khép nép thì Hoằng lên tiếng, giọng ngọt lịm:
- Thưa chị, là thưa chị thạc sĩ rằng thì là cụ tổ họ chồng nhà chị đỗ đạt đến đâu hay chỉ làm ông nông dân với lại thành hoàng thờ ngoài đình làng này là vị nào? Đấy nhé không biết thì thạc sĩ làm cái đếch.
* *
Giỗ họ tan. Theo kiểu tơi bời. Bác trưởng Kim tức tím tái cả người không nói được lời nào. Anh Phấn ủ ê khi vợ chồng Lâm vào chào. “Tưởng cô chú ở thêm vài ngày. Chúng nó láo quá bắt đầu cái thói nhà tôm cứt đội lên đầu rồi đây nhưng còn bác còn anh đây chú còn là dòng trưởng thôi đừng nghĩ nữa giấy rách ta cứ giữ lấy lề”.
Ô tô đến giữa cánh đồng, búi tre làng Tàm nghèo khó chỉ còn mờ mờ thì dừng. “Anh có tin như lời anh Phấn được không?”, Phương hỏi, chả thấy chồng trả lời.
Quán gốc thị thể nào chả tưng bừng.
Nguồn: Báo điện tử ĐBND, 10/07/2014.
Đèo dốc quanh co
Trần Chiến
Săn chắc, bò mài áo phông, giày lười không tất, khoác túi máy ảnh “như chuyên nghiệp”, Nhị khiến Hằng bay hẳn ấn tượng “cán bộ vùng cao”. Bèn dấm dẳn khen lại: “Anh sành điệu thật đấy, chỉ thiếu vài lỗ thủng ở quần và quả đầu trọc. Mà đi họp huyện cũng thế này á?”.
- Chết đứ ngay! Dân tộc tiến lên hiện đại đóng thùng cà vạt mới oách. Anh xuống bản mặc thùng thình để xếp bằng tròn “chiến đấu”... Không uống được rượu đừng hòng cao phiếu.
Những lời thành thật lại duyên. Chục năm không gặp, chả ngờ lại được một ông anh thân thiện, không thì mấy ngày ăn chơi phải giữ gìn khác gì tra tấn. “Chợt nhớ” đến Kha đang lẻ bóng bèn giới thiệu cũ với mới, chả biết mình có gây ra sự gì... Nhưng áy náy mệt xác. Mình xinh mờ!
Hằng về nước tháng nay, phát rồ vì những thăm hỏi “sao không thay điện thoại?”, “bao giờ cho ăn kẹo?”. “Gia đình có điều kiện” chẳng lo kiếm việc, cô làm mẹ phát phiền, bảo chồng: “Tìm chỗ cho nó đi chơi nhưng phải bổ ích an toàn với lại đừng quá mệt”. Có con gái rượu tinh quái, luôn muốn cảm thụ hết hương sắc cuộc đời, ông bố mãi mới thu xếp xong: “Còn nhớ anh Nhị nhà chú Ninh không, giờ ở huyện N, thạc sĩ nay mai tiến sĩ, cán bộ nguồn của tỉnh. Có chí lắm, học xong quay về xây dựng quê hương, năng động trẻ khỏe chưa vợ con còn phấn đấu...”.
- Bố muốn gắp cho mày đấy hí hí. Trẻ thì đã đảnh, mà tay không bắt giặc có khi...
Thằng anh bô bô phá ngang. Cô em toét miệng: “Để con đừng “cảm lạnh” anh ấy ngay thì đem cả Kha đi, anh Thắng nhỉ”. “Cái con quái này một vừa hai phải thôi!” - Thắng nghiêm giọng. Kha là bạn thân của cậu, đang chịu đựng những oái oăm bất thường của Hằng, si tình được đến đâu chả biết...
Vậy là lên đường, tài nhà xe nhà máy khỏe trần thoáng đi đường dài không sợ mất đoàn kết. Tới N, huyện cuối của tỉnh đầu vùng cao thêm Nhị, đội hình ra chiều có cạnh tranh. Ngồi cạnh Hằng mà Kha tự thấy mình cứ lép lại, gượng gạo. Hàng trên tinh tế, thông thạo quá. Đâm không khí giông giống mục “Cuộc sống động vật” trên truyền hình, đực đang hiền lành bên cái xù lên khi đực khác xuất hiện.
- Tớ phải đóng nhiều vai các bạn thông cảm, Nhị đáp khi Hằng bảo: “Tưởng anh như trai bản”. Mình làm cao học dưới Hà Nội ít nhiều nhiễm thói tỉnh, thành. Nhưng lên trên này phải theo tục. Mà có gì cần hỏi thì cứ tự nhiên nhá.
- Vâng, thưa hướng dẫn viên, chúng em sẽ hồn nhiên.
Chữ “chúng em” làm Kha dãn ra tẹo, xong lại căng. Gần hết đất N gặp dòng nước xô ra, Kha hỏi tên sông, lẩm bẩm: “A, Nậm Hạn, tivi mới đưa tàu khai thác vàng bừa bãi nghiêng cầu treo, trẻ con đi học phải bơi rất nguy hiểm. Tham lam thật, thảo nào nước đục”. Trời đất quyến rũ dường này nhắc tivi chả hóa ra cụ hưu ngồi rồi a. Hằng chợt “đề nghị” hai anh đổi chỗ, cô hay hỏi làm Nhị ngồi cạnh tài xế cứ phải quay lại.
Tỉnh bên rồi. Con Ford chạy thỏm giữa khung cảnh kỳ dị, khiến ồ à của cao nguyên. Núi dựng ngọn hùng vĩ không tưởng nổi. Mầm đá nhọn hoắt đâm phộc lên nền trời vòi vọi. Những ụ thân ngô đen thẫm đơn sơ mà bí ẩn đợi mõm bò mùa cỏ chết. Dưới vực sâu hun hút con sông xanh lè mắt mèo. Sự tương phản đi cùng hung hiểm khiến Hằng vừa phấn khích vừa hoảng hốt níu lấy Nhị. “Đừng sợ. Sắp đến một chỗ rất tuyệt”, bên tai cô có tiếng thì thầm. Quả là núi chạy ra xa ngay, tầm nhìn quang hẳn. Chân đồi thoải mọc những bụi cây thấp, bình dị, phía sau vụt lên vầng hồng hồng tim tím. Vô vàn bông hoa nhoi lên từ nách lá lắc lư, bị gió đè oằn xuống rồi dậy ràn rạt như sóng.
- Ối ối cho em xuống, cô gái cuống quýt.
“Thì anh dọn sẵn đồng hoa tam giác mạch này cho em mà”. Nhị tí tách máy ảnh, không phải chuyên dụng nhưng hơn đứt con di động của Kha. Sau vài pô, Hằng đã chỉ nghe lời anh, e ấp hoặc tí tởn trong vạt hoa. Khi phấn hứng làm đẹp đã tàn, cứ như có phép lạ, Nhị lôi ra túi quả. “Hồng Cam Sơn. Không phải gọt, cứ thế cắn. Mà em có gu đấy, không tạo dáng kỳ quặc hay nhí nhảnh chữ V kiểu học trò”. “Tiệc” giản dị nhưng lời khen sành sỏi, còn được “ăn” cả không gian kỳ vĩ nên mắt người đẹp cứ rờ rỡ, ối ối thế á luôn mồm. Bộ ảnh của Nhị làm Hằng thấy mình được nặn lại. Nhí nhảnh hay trầm mặc, thì vẻ xinh đã pha cái gì đó bí hiểm, chắc do tâm trạng thay đổi.
Xe chạy sát vực, sườn bên kia đàn bà Mông xới ngô, địu trên lưng xóc lên xóc xuống, đầu đứa trẻ thò ra làm người tỉnh thành thương xót. “Ầy, mình học xong quay lại đây cũng vì muốn chấm dứt cảnh này. Kiếm được hạt ngô ra miếng mèn mén khổ sở lắm, trời chả mưa cho là chết. Nhưng họ kém năng động lắm, chả biết lấy chồng sớm, đẻ khỏe chả giữ vệ sinh thì càng nghèo, mình phải đến từng bản nói cho họ biết, mới tiến kịp miền xuôi”. Hằng sửng sốt. Một ông cán bộ nói thế cô còn ngờ, nhưng đây là Nhị, người thuở tấm bé. Kha chọi lại: “Mình cứ nghĩ thế chứ chắc gì họ muốn như mình. “Tiến kịp” để sáng ra trèo lên xe giành nhau từng phân đường rồi sinh bẩn tính đi á”. Tranh cãi nổ ra rồi tạnh, chả đến đâu vì chả ai phân xử. Còn vài “phát” nữa, xung đột hai đực cứ âm ỉ, bùng lên bất chợt tùy vào cảnh vật bên đường và thái độ cái. Mà Hằng thì điềm nhiên như mua vé xem kịch. “Chiến tranh lạnh” tạm ngưng khi Nhị thất thanh: “Đám cưới bác tài ơi...”.
Bản Mông đang hồi nhộn nhịp. Váy nặng lượn tròn, hoa văn tung tíu. Anh trai, chắc đã nửa lít, ôm khèn lò cò nát bét cứt ngan. Chảo thắng cố sôi sục, tường chình, khuy bạc, vòng tay chói nắng, bà già lim dim sưởi nắng, trẻ ngoẹo đầu trên lưng mẹ trẻ... Nhị đúng là tay chơi, mê mải săn khoảnh khắc đẹp, trong khi Hằng chụp thi thoảng, còn Kha chỉ ngắm nghía.
- Đẹp không, mặt bà lão nhăn nheo như ruộng hạn - Nhị hào hứng - Cô dâu mắt có chút tư lự chứ chồng chíp hôi chắc còn đòi vợ cõng. May mình bắt chúng nó đứng chung rồi tia cận cảnh, để tự nhiên bố cục loãng lắm. Thu hoạch lớn, triển lãm ảnh khu vực được treo là cái chắc. Năm ngoái thi bốn tỉnh vùng cao anh giải nhì. Tiền thưởng không bao nhiêu lại phải khao giám khảo với bạn bè, còn lại cái danh, để chỗ này chỗ khác người ta mời. Như logo năm du lịch sử dụng ảnh của anh, văn hóa tỉnh phải trả. Nhưng mình cũng không ẵm cả, “lại quả” để lễ hội khác họ mua của mình.
- Ông già nãy nói gì mà anh có vẻ bực thế? - Hằng hỏi.
- Giời ạ, đòi tiền! Dân tộc giờ hư thế đấy. Khách vào là vui phải chào đón kết đoàn chứ tính toán kiểu tiền trao cháo múc nó mất cái chân chất đi.
“Tôi lại mừng một ít, coi như vì mình làm phiền họ” - Kha buông tự nhiên, nhưng Nhị gằn giọng: “Đấy, chính cái kiểu nghĩ sòng phẳng cho là tốt bụng của miền xuôi các vị làm họ biến chất. Tôi ở trên này tôi biết từ chỗ đòi hỏi tiền nong đến lưu manh hóa rất gần vị làm gì tiếp xúc thế nào phải hỏi tôi chứ”.
- Chuyện của tôi việc quái gì phải hỏi anh.
Cơn giận làm Nhị thoắt thành uy nghi, bức người. Có biết thế nào là cách thức cho họ tiến kịp miền xuôi không, ngoài giúp đỡ tài lực còn phải tuyên truyền, dậy họ nuôi con gì trồng cây gì tức là tặng cái cần chứ không cho con cá. Cái lối thương người nông nổi của kẻ qua đường xin lỗi chỉ làm họ ỷ lại, lười biếng thêm. Những lời, rõ là của người có quyền lực với kẻ dưới, làm Kha sùng lên. “Anh được giải thưởng, tính toán chi li để “nhân” nó lên sao chê họ không năng động? Họ biết đòi hỏi là tốt, chỉ cán bộ mới được khôn ngoan còn đồng bào cứ phải chân chất á”. Chả muốn căng, Hằng bèn lái chuyện: “Ban nãy anh Nhị hỏi về nước sống không, em chưa quyết định được. Chả biết xứ ta có nhiều người như anh không, nếu nhiều thì em sẽ về”.
“Về đi!”, Nhị nghiêm trang ngay. “Đất nước cần kiến thức của em. Ai cũng tính toán thì ai lo cho cái chung, những người lạc hậu và nghèo sẽ còn nghèo và lạc hậu mãi. Anh chả xui em lên đây leo núi vận động như anh, nhưng mình làm kiểu của mình góp gió thành bão, nhiều bàn tay nhỏ xây nhà lớn. Ầy, nói có vẻ giáo điều, nhưng anh thấy giờ nhiều người không nghĩ đến cái chung, quanh quẩn nhỏ nhen lắm”. Những lời rất dài Hằng chả lạ gì, nhưng từ miệng Nhị ra thì cũng lạ, cô lại thấy có lý, chân tình. Kha vẫn cãi lấy được: “Tôi thấy nhiều người bảo vì cái chung nhưng là muốn quyền lực”.
- Có quyền lực mới thực hiện được lý tưởng! - Nhị đáp nghiêm túc, đoạn thở dài: “Đáng thương lắm...”.
Cú đòn làm Kha choáng váng. Và Hằng, đột nhiên thấy bị va đập rất mạnh. Có cái gì đó thôi thúc cô phải thay đổi thật lớn, ngay lập tức. Những lời của Nhị hướng tới cao cả, kéo người khác đến tầm nghĩ ngợi, hành động vì cái lớn lao, điều cô chưa cảm thấy, tưởng đến bao giờ. Về nước, Hằng sẽ không làm cái gì đó “y như” Nhị, nhưng ảnh hưởng tinh thần của anh thể nào cũng có. Kha ơi, Kha đâu rồi? Cùng trạc mà Nhị thật từng trải, đáng tin cậy. Bên cô, tấm lưng thẳng thớm, vững chãi thoảng mùi mồ hôi đàn ông.
Ngày thứ nhì. Dù đường sá chả “lụa”, đội hình trục trặc ngay từ đầu, càng đi càng trầm trọng, cảnh vật như hoa gấm vẫn đè ép hết. Đang bên dốc bên vực dựng đứng chợt hiện ra khoảnh đất phẳng phiu như một “nhịp” nghỉ, chòi canh ngô tít xa sinh ra bao nhiêu cảm giác, những câu hỏi ngô nghê, để Nhị tuôn hiểu biết vô tận. “Hai ngày không điện thoại tivi phụ huynh không nhắc nhở loa phường tịt ôi sướng thế. Em cười không nhặt được mồm ăn nứt bụng lên cân tại anh” - Hằng “tổng kết”. “Hà Nội cũng báu đấy, nhưng anh xuống làm xong việc là lên ngay”, Nhị đang ngó cây mắc khén đế sang, vẻ kẻ cả.
- Anh đi lâu sợ có thằng chiếm ghế chắc?
Kha đã “cài số” cùn, nửa đùa nửa gây sự, Nhị chỉ cười khẩy. Muỗi! Nhưng Hằng rất giận. Vào tối già, xe đến trang trại của bạn Nhị, cũng cán bộ huyện bên này giờ đã chuyển lên. Nghề nào ăn nghề nấy, cán bộ cùng trang lứa thường trao đổi công tác, cho nhau mượn chỗ nghỉ là bình thường. Trại trồng chè bán búp thô xuất khẩu, xen vào những lát, dổi, sưa, sinh lợi không bao nhiêu nhưng tiềm năng cực lớn. “Vừa mua đã có lãi đấy. Chỗ này lạnh, gần đường nhưng kín đáo, dựng vài nhà sàn lên đuổi khách đi không kịp”, Nhị sành sỏi. “Chủ nhà đi vắng ta càng tự do, cần thì bảo người trông nom”. Đã nói đến thế mà Kha vẫn làu bàu: “Tôi thích ra khách sạn hơn chả phải nhờ ai”. Cái mồm chỉ chực gây sự chợt bị bịt lại. Tại đất trời. Đất trời vĩ đại.
Đồi chè thoải, trông sang dãy núi bên kia dòng Nậm Phài. Đang mùa lau trổ cờ, cả chục cây số dập dờn trắng trên nền rừng xanh thẫm, mạnh không thể tưởng tượng. Đẹp và lạ nhường này vào ảnh hay phim đều xoàng xĩnh, nên ai nấy há hốc mồm hưởng thụ. Ức triệu cờ lau thế đẻ ra cả trăm ông Đinh Bộ Lĩnh ấy chứ. Cứ ngây ra đến lúc trời sẫm lại, núi non với dải khăn vĩ đại nhòa hẳn, nhường chỗ cho bản dạ khúc của giun dế. Con chim gì cứ hai khúc ngắn điểm “chiếp” vào giữa. Rượu táo Mèo mềm môi, chưa dằn bụng đã ních cùng một trời tâm tình tâm trạng, Kha đổ uỳnh, nhọc công Nhị và anh lái dìu vào nhà. Tối già dậy được, cuối sân đã gầy ngọn lửa. Kha cầm xâu thịt nướng, bát nước ngô Hằng đưa sượng sùng nhai.
“Ăn thêm quả rừng này. “Mắc cum”, chả biết dưới xuôi gọi gì nhưng cứ đặt là “quả bất ngờ”. Bất ngờ thế nào khắc biết ngay!”. Đã được Nhị báo trước mà Kha vẫn hực lên như nuốt phải bọ nẹt, nọc buốt lên óc làm mắt trợn trừng, thở phì phì, một chốc thấy chút đắng ngọt dính lại trong họng. Đúng là “quả bất ngờ”, khó nói là ngon nhưng tỉnh hẳn.
“Anh kém thế. Xấu tính! Sao cứ phải châm chọc...”, Hằng bậm giọng lúc Nhị không có mặt. “Là anh ấy chả thèm đáp lại, toàn anh cáu nhằng cáu nhịt. Anh ấy tốt, em thấy vậy thôi chả liên quan gì đến yêu đương chọn lựa sâu xa cả. Chứ anh không hẹp hòi là gì em nói thật nhé tị vớ tị vẩn chán thật tự nhiên hỏng chuyến đi!”.
“Anh ghen đấy. Nói thẳng thế đi. Anh không có quyền nhưng không biết làm thế nào. Vâng tôi thua. Chả biết nó không tốt chỗ nào, chỉ là linh tính thôi”, Kha xổ ra cay đắng. Thế là hết. Đương tự nhiên rơi xuống một thằng nó chứng minh là mình kém nó bề bề, và đau hơn, từ nay trong mắt Hằng mình xấu xí. Ý nghĩ này bóp thắt trái tim Kha, giá có lỗ nẻ nào để trốn đến mà khóc... Nhưng Nhị đã quay lại, làm lơ trước vẻ căng thẳng.
Im lìm. Ai ngậm tâm trạng nấy, chỉ củi lửa lách tách. Chân đồi con “hai ngắn một chiếp” thất thanh. Xa nữa, ngàn lau rì rào sôi nổi, bài ca tự nghìn đời mà giờ ta mới được hưởng, thật chăm chú càng sướng. Thì điện thoại phá bĩnh. Nhị uể oải nghe rồi như bị nghẹn, lập tức hẹn gọi lại. “Bạn mình có chuyện...”, năm phút sau lập cập ra giữa luống chè. Gió đổi chiều thổi đến bếp lửa câu chập chờn. “Nói lại cho rõ đi... Tàu đãi vàng của ta ở Nậm Hạn bị bắt? Sao thế được đ.mẹ bọn tivi thối mồm để tao gọi lên tỉnh”... Một lúc, gió lại mách lẻo: “Alô anh Hướng ạ anh khỏe không đôi mật gấu dùng hết chưa để em đưa thêm với cả cao hổ vâng chị dùng hợp thì tốt quá... Anh ơi tàu đãi vàng ở Nậm Hạn là mấy thằng bọn em ở huyện chung vốn ạ... Nhưng bờ kia chỉ có một thôn đi lại mà mùa này không có lũ đám truyền hình làm lớn lên chứ bờ mố cầu treo có sạt là mấy vâng vâng vâng em nghe anh không làm lớn cho qua “chiến dịch” vâng nhưng anh nghĩ cách nào gỡ cho bọn em đời nào quên anh dạ dạ hẹn gặp anh kỳ họp hội đồng tới...”.
Ấm nước lục bục, trào ra làm khói xông lên mù mịt. Hai kẻ “nghe trộm”, nhờ nước mắt giàn giụa giấu được sững sờ. Không ngạc nhiên khi Nhị bảo phải về gấp, chuyện của ông bạn rất xấu, không sao gọi xe ôm ra K. bắt taxi dễ lắm.
Thư điện tử gửi Kha:
“Anh giận em đến chừng nào rồi chả biết. Có khi thế cũng tốt, vì em toàn làm khổ anh, giờ viết cũng lại vì tâm sự của mình. Em quay lại châu Âu bốn tháng rồi. “Nhà có điều kiện”, tất nhiên. Nhưng ở đây mọi thứ đơn giản, dễ nhận ra. Không có đêm ở trại chè thì làm sao biết Nhị là người thế nào, đâu là linh tính từng trải của anh. Sốc thật sự! “Thích nghi” là từ còn khó quá với em, chi bằng cứ sống tiếp ở nơi quen thuộc; điều mà nhiều người bảo là mất gốc, ích kỷ. Về hay không, về lấy chồng sinh con dựa hơi bố xin chân công chức hay thế nào, em chưa nghĩ.
Anh quên em đi. Yêu, dù với ai, cũng tuyệt vời. Không có người con gái duy nhất đâu. Em lặn đây.
Hằng”.■
Nguồn: Báo điện tử Tuổi Trẻ Online, 29.11.2016, 14:00.
Tiên Dung
Trần Chiến
Dương non le lói, tú Kèo thèm vợ lần sang gian chái. Thị Huê kêu mệt, ẩy ra. Kèo cố nài, nàng ngồi dậy chằng chặt giải yếm, giọng chẳng ngái ngủ tị tẹo: “Chàng quên rồi a? Hôm nay tế Bà chúa cả họ Đinh đang trông vào chàng thôi thôi không nhưng cơ mà gì sất”. Thằng bé bị nhắc công to việc nhớn dụi hẳn.
Bùm Thượng, như tám làng khác nằm dọc sông Hồng, thờ Đức Thánh Chử Đồng Tử (1) cùng hai bà vợ là Tiên Dung công chúa và Tây Sa cô nương làm Thành hoàng. Do dòng chảy thay đổi, hình dáng bãi bồi biến hóa, tranh chấp dải đất ngoài đê liên chi diễn ra. Mươi năm trước, quan phụ mẫu điếc tai vì kiện tụng, cho Bùm khoanh đất tách ra thành làng riêng, mấy năm sau phân tiếp Thượng – Hạ, xây đình mới, bổ Tiên Dung công chúa làm mẹ bên Thượng, đằng Hạ thờ Tây Sa cô nương. Đến đây lại to tiếng giữa các họ làng Thượng, quyết định rằng Nguyễn tộc khai canh được quyền to nhất: phân chia ruộng vườn, bắt lính bổ phu thu thuế. Họ Đinh bé nhì lo việc làng, sai xử lúc hội hè đình đám, nghĩa là lĩnh phần sang cả. Những miếng nhẹ hều mới đến các họ thấp cổ. Đinh Văn Kèo là em ông Cột bà Mè, anh cậu Chái cô Mái, đều chui từ đũng quần vợ cố Thượng Lương ra. Chân tú tài của Kèo được, ngoài phần sáng láng của chàng, còn là do tiền của cả họ Đinh xúm vào, kẻo mà việc lễ nghi trong làng sang tay đứa có chữ họ khác. Việc trọng sau khi trúng bảng của chàng là soạn văn tế cho kì hội đầu tiên mừng làng mới đình mới thay cái bản chín làng dùng chung. Nó phải tấu lên công đức, nết người của riêng Bà Chúa để gái làng lấy làm tấm vằng vặc soi vào, mà văn chương cần bóng bẩy cao vời, đừng nôm na thành thật quá mới thành hay. Thế nên tú Kèo phải dọn mình sạch sẽ, xa hơi vợ, đăm đăm chiêu chiêu mài mực phết phẩy chọn chữ so nghĩa cho ra áng bất hủ. Một tháng mươi ngày rồi, chẳng những thị Huê đi lại rón rén rất mực, gà chó dốt lại không cho kinh động, mà bố nàng, lão lái cau hỗn hào nhất chợ Bùm, đối với con rể cũng ra cực kỳ hiếu đễ.
Tùng! Beng beng…
Beng beng… Tùng!
Đám hội Bùm Thượng đang vào đoạn ráo riết.Trên ngọn những thân tre dựng dọc con đường từ bãi sông, qua mái đê vào cổng tam quan tới ngôi đình mới, cờ đại phi phùm phụp, miết lên bầu trời đang giã xuân những đường nét rất mạnh.Bến đò Bùm đông nghẹt, cỗ kiệu tám trai đinh oằn vai phải hô hét khản giọng mới xuống được con dốc, hạ cạnh mép nước. Thắp thêm tuần hương, tú Kèo ra cửa kiệu nghiêm cẩn: “Bẩm, làng mới tách ra từ tổng cũ, lễ nghĩa còn thập thõm, con được cắt cử soạn bản văn, một mực tuân theo khuôn thước chung xưa, chỉ làm đậm thêm phần hành sự công tích của Bà Chúa. Linh vị rước đến đâu sẽ đọc đến đó, xin cho mọi sự suôn sẻ ạ. Giờ rước Bà Chúa đi tắm”.
Tấm đoạn hồng lay động, bàn tay bé tý, trắng trẻo hé ra phẩy phẩy. Tú Kèo rùng mình, biết mình đang giao tiếp với tiên giới. Nhưng là người cứng cỏi, chàng ra hiệu hạ ngai thờ từ kiệu xuống, chuyển sang vai vạm vỡ. Ván bắc lên thuyền đinh dập dềnh, ông chấp sự phải luôn mồm nhắc nhở. Cho an toàn. Kẻo nhỡ mà…
Mái chèo khua thập thễnh, khỏa sóng thật nhẹ. Bốn chiếc thuyền nan của bốn thôn hộ tống thuyền đinh ra khoảng sông giăng thừng kín để bè mảng xuôi ngược không thể héo lánh. Khẽ thôi, thật sẽ, Bà Chúa là thiêng lắm. Rồi dừng ở khoảng nước lặng nhất, không có chút xoáy nào làm vẩn phù sa dưới đáy lên. Gáo dừa khỏa nhẹ, múc lên đổ vào chum, xong lễ mễ bê đến tấm chiếu đậu giải trước khoang thuyền phủ vuông ngũ sắc. Lại kê kích, chỉnh trang cho chắc chắn.
Tú Kèo quỳ xuống rì rầm: “Hôm nay mồng một tháng tư, hương xã Bùm Thượng chúng con mở hội, kính xin Bà Công chúa về tắm rửa mát mẻ rồi lên kiệu về đình vui cùng, cho thôn dân được ăn khao, đón một năm chẳng phải binh đao, mưa thuận gió hòa, nuôi lợn mau lớn, nong tằm óng tơ”.
Đoạn cất giọng, những lời cốt cho đám tráng đinh nghe, đặng truyền lại cho lũ lĩ con cái, để chúng biết một truyền thống rất chi huyền hoặc mà thiêng liêng. “Đức Thánh nhà rất nghèo, cha con dùng chung cái khố. Khi chết đi, cha Ngài là Chử Cù Vân dặn lại “Con cứ cử tang trần, giữ lại khố mà dùng”.Không nỡ để cha lạnh lẽo, Ngài quấn khố cho cha, đặt nằm xuống, từ đấy chịu lạnh đói, ngày ngày câu cá, thấy thuyền qua lại thì đứng nửa mình dưới nước xin ăn”.
“Mình mẩy dính vẩy bùn, da chẳng mịn, nhưng ta ngờ chàng chả nghèo đến vậy”. Thinh không rớt xuống giọng trong trẻo, ríu ran như tiếng chim. Không thấy vẻ tức giận, tú Kèo yên tâm đọc tiếp:
“Ngày nọ Tiên Dung, nàng công chúa xinh đẹp, mải chơi con vua Hùng dong thuyền đến, gặp bãi cát đẹp giữa sông thì cắm lại, bước lên vãn cảnh. Thấy đàn sáo vang lừng, tán cờ phần phật, Đức Ngài sợ hãi ẩn vào đám sậy, vùi mình xuống cát. Chả ngờ công chúa quây màn tắm đúng chỗ ấy, phù sa trôi đi để lộ mình trần. Sau cơn sợ hãi, công chúa hỏi han cặn kẽ, bèn cho là kì ngộ mà rằng “Ta nguyên không muốn lấy chồng, nay cơ sự thế này âu là do trời đất tác hợp. Chàng chớ từ chối sự sắp đặt của tự nhiên”.Nói rồi đưa Ngài lên thuyền, lương duyên bắt đầu từ đấy”.
Khăn lụa mịn màng dấp nước, làm sạch bụi bặm trên ngai thờ từ ngoài vào trong, dưới lên trên. Bà Chúa sắp được tắm gội làn nước mát mẻ hồng hào, từng làm nên duyên với chàng trai chí hiếu. Thốt nhiên có cơn gió lạnh ào ạt, đèn nến dụi đi như bị hắt nước. Tấm bài vị nghiêng ngả rồi ngã oạch, dãy lên đành đạch. Viên chấp sự lên cơn sài giật, mồm méo sẹo, bọt dãi sùi trắng như mõm trâu nhai lại. Hương chức cuống lên, cho là lão ăn chay hít mùi trầm cả tuần nay đâm phải gió, bèn hối quay về, cứu lấy mạng người là khẩn. Chả ngờ thuyền không có neo, mà chống đẩy thế nào cũng không rục rịch nổi.Trong lúc hiểm nghèo, thầy lý thụp xuống vái như tế sao.
“Ta giận nhưng chả lẽ lấy mạng đứa mới đỗ tú tài. Cho vào bờ rồi hỏi tội”.Tiếng đàn bà từ vòi vọi cao xủng xoảng rơi xuống.Bài vị chợt tự đứng dậy khiến ai nấy điếng hồn. Lại xì xụp một thôi, mới múc nước tắm gội cho Bà, rồi lau thật khô cho li ti không còn hạt bụi.
Thuyền đinh quay lại bờ với đoàn hộ tống là lũ thuyền nan bé mọn. Ngai thờ được chuyển lên, ván gỗ dập dình chỉ sợ Bà giận lăn xuống nước. May không sao.Bèn lại mời Ngài lên kiệu. Tú Kèo sau hồi sợ hãi đã yên tâm, cao giọng: “Vợ chồng vui mừng xiết nỗi quay về bá cáo lương duyên kỳ ngộ giữa trời nước. Chả ngờ vua Hùng nổi giận mà rằng “Tiên Dung không biết trọng danh tiết, chơi bời đường sá không tiếc tiền của của ta, lại lấy kẻ nghèo hèn. Từ nay mặc nó…”.
Tám tráng đinh nhấc kiệu lên vai vạm vỡ, thập thõm lên mái đê. Khỏi con dốc xuống đồng, quãng quang quải rộng rãi, chợt cả cỗ xiêu đi, thốc vào đống mả ăn mày. “Lũ khốn nhân lúc nghỉ lại uống trộm rượu!”.Thầy lý giận dữ. Nhưng cả bọn đã nhào sang trái, xéo nát bụi dứa dại, máu me tứa ra mà chả đau. “Choãi chân ra.Ngu quá thế. Bấm chặt ngón xuống đất chứ”.Vừa nạt vậy thì kiệu giật lùi lên đê, sầm sầm đâm vào điếm canh làm vỡ tấm cửa lim.
Kiệu bay! Đám rước rạp cả xuống im phắc, nghe rõ tiếng mũi trâu phịt phịt.Hương chức tái dại chả biết nên cầu khấn câu gì. Riêng tú Kèo mặt mũi ngơ ngơ, tai giỏng lên chờ đợi từ thinh không. Chàng biết lắm, có chuyện rồi, phải bình tĩnh nghe lời phán rồi chín chắn giải trình, chỉ mình chàng linh thông thôi.Kiệu nhô lên hụp xuống điên cuồng mà bài vị không đổ, tức thị Nhà Người còn cho phép đối đáp. Được Nho học dậy dỗ không được hãi những xằng bậy, phép phù thủy chỉ cốt lọc lừa bọn dân ngu, chàng có chút tỉnh táo hơn đám đông. Bèn đợi.
Chốc nhát lời giận dữ cất lên: “Danh tiết là cái chi chi? Bọn Nho sinh đời sau bịa tạc, chứ hồng hoang nào đã có gì.Bên ta toàn đám gọi dạ bảo vâng một mực phân trên dưới rất đáng chán. Lại chân yếu tay mềm eo éo lại cái, nói ù tai chả rõ ý tứ ra sao, hiểu chửa? Ta là đứa con gái thích dong chơi thật, luôn làm theo ý mình cốt không hại đến ai, ở với vua cha quả có chút tù túng.
- Thưa vâng, tú Kèo lấp lửng.
- Cha sắp cho vài đám để chọn lựa, thảy đều nhạt nhẽo. Ta tự hỏi ngoài kia chim kêu gió thổi, sông nước mênh mang dội tiếng tù và, hẳn có bao kì thú, bèn cất lẻn ra đi. Nhưng thôi, phu kiệu đã hết hơi cả, tha cho họ, để về đình kể tiếp kẻo hỏng đám hội. Mà cậu tú như có điều gì…
- Thưa có nhiều nhẽ, nói ra sợ Bà Chúa phạt.
- Ta cũng muốn nghe, biết nghe đấy, mà pháp lực chả phải vô biên để trừng phạt cả. Thế đã…
Kiệu dừng bay.Khổ thân trai đinh, những tấm thân rắn đanh như gỗ lim tái dại trong bụi dứa dại, ngộp thở tưởng sắp chết mà không dám hạ ngai.Cũng chả ai dám vào thay.Chốc nhát máu me ngưng chảy vết thương kín miệng, họ lại xốc dậy, bon bon khiêng cỗ kiệu về đình.Như chưa có gì xẩy ra.
Tuần hương mới thắp lên.Linh vị vừa tắm gội được thỉnh lên khám thờ.Mọi khi thì đã được sắp mâm chén cụ chén tôi, hôm nay chưa ai dám động cỗ, vì văn tế chưa đọc xong, người thông với tiên giới còn gồng mình đợi trước khám thờ. Đâm các cụ sỉa răng suông choanh choách, nước bọt suốt lượt nuốt xuống.
Lạ thay, tú Kèo quỳ cả nửa canh giờ chả mỏi.Gương mặt có nét mơ màng, mơ hồ như nụ cười mụ dậy. Bởi vì chàng đang nghe thủ thỉ…
“Một chạp qua, giêng hai đến, gió hây hây xiêu làn mưa bụi, cả thân thể lẫn tâm hồn ta run rẩy đón hơi xuân.Đám sậy giữa sông rì rào, đong đưa những thân hình mềm mại. Mải đuổi theo cánh chim trả chao liệng, ta thấy cả vầng nước đổ lên mình. Rồi chàng trai hiện lên, mình trần, những bắp thịt thuôn dài óng ánh giọt tuôn rơi.Đẹp không thể tả, đến nỗi ta không nghe ra câu trách móc “Nàng làm vuột mất con ngạnh rồi”. Nhưng câu sau lại là “Tôm nướng đã thơm, nàng có muốn thử…”
Cỗ bàn ruồi bu, rượu để hả, canh bí lòng gà hâm lại, tú Kèo vẫn ra đờ đẫn.
“Chàng nghĩ gì nói nấy, chân chất, đôn hậu, ngày ngày bắt cá đổi lấy vật dụng. Có nhà hẳn hoi, dựng trên mom, dưới gốc gạo cuối xuân đơm hoa đỏ rực. Cánh tay chàng rắn chắc, đùi thuôn, cả người không tị mỡ, khác hẳn đám lưng dài hằng muốn làm rể vua cha. “Nàng biết vì sao đám sậy rì rào không?Rằng dưới gốc có quả trứng chim nước đấy. Còn ngọn gió bay về đâu, đố nàng biết…”.Lời lời như vậy quên sao được. Bên trên là bầu trời cao chói lọi, dưới lưng phù sa mịn màng, ta và chàng hòa vào nhau, cuộc hân hoan quá thuần khiết. Từ đấy ở lại, hàng ngày con cá mớ tôm, chăm chút từng tay khoai, ngọn cờ ngô cho rười rượi. Tình ấy giản dị, phẳng lặng mà không thể quên, không gì đánh đổi được”.
“Nhưng cũng đến lúc phải trở về. Nghĩ vua cha chả vừa ý lấy người vô danh, ta đặt chuyện quây màn tắm giữa bãi sậy rồi gặp lương duyên kì ngộ, nhưng cũng chẳng được thuận lòng. Thế là bỏ đi, để lại kẻ hầu người hạ cùng những kẻ chầu chực ra vào chiều ý vua cha.Vợ chồng sang một đoạn mới. Đấy, chuyện thực là vậy, bao nhiêu sự tích khác đều do người đời sau thêu dệt láo khoét nên. Nhưng thôi, cỗ bàn đã từ nguội sang lạnh, cậu tú chắc cũng đã đói”.
Mâm bát bắt đầu xì xụp. Xương xẩu rau ráu, mặt này đỏ lên mặt khác chuyển sang tái. “Vả vào cái mồm bô bô. Có để cậu tú nghe được nhời người trời không, hử!”.Câu nhắc to của chánh hội làm chàng nho sinh tỉnh táo vào cuộc đối đáp.
- Con nghe và tin cả. Nhưng…
- Ta thích được gọi bằng “chị” cho dễ giãi bày.
- Niềm hoan lạc ấy thật khó chối từ, là em thì cũng không thể làm khác. Nhưng nó bình dị, ít sự đường đột biến động quá, thuật lại thì người hôm nay thấy phẳng phiu đến nhạt nhẽo.
- Ừ. Đám đông bao giờ chẳng ưa cái bất thường dị đoan.
- Chị là người tiên, “anh” được tôn vào hàng Thánh Bất tử rồi, văn tế làng Bùm Thượng chẳng thể khác tám làng kia quá. Sao chị chẳng giáng lúc cả chín làng còn phụng thờ chung các vị?
- Ta làm sao cãi lại miệng thiên hạ lúc còn ngồi chung ngai với ông chồng bất tử. Giờ ra ở riêng, nghĩ thân phận thật của mình mới nổi cơn ngứa mồm, chả ngờ… Thôi cũng là do ta tùy tiện. Còn gì nói nốt đi, sao cứ ngập ngừng rụt lưỡi?
- Cái này là lợi riêng nên khó nói. Họ Đinh bị cánh Nguyễn đè, tranh đấu mãi mới được chân thảo văn tế tụng ca công đức Thành hoàng, đều là dồn vào em.Rõ khổ, ai bảo trúng tú tài gánh cho cả họ.Còn gia đình nữa, chén rượu cho bố phẩm oản của mẹ giữa thiên hạ, chân giò nải chuối cho vợ con ở nhà, đều trông vào đấy. Bỗng dưng văn tế bị Thành hoàng quở e rằng sạch sành sanh. Mà những ông tú ông cử tám làng kia đâu có bị. Cơ khổ đấy ạ.
- Nghe cậu nói tôi mới thủng. Khó thật.Thánh thần được thượng hay chỉ trung đẳng, bất tử hay không, đều là do trần giới, đương thời quyết cả.
Thinh không yên lặng.Dưới này cỗ bàn rào rào thế mà chàng vẫn mê man.“Thôi thế thì thôi nhà cậu muốn tế xướng tụng ca bóp nặn thành cái gì thì tùy.Chỉ cần cậu biết là ta đã có một tấm tình đầy đặn, cuộc giao hòa giữa đất trời đẹp đẽ để say đắm đến hết đời”.
“Ta đi đây”, chốc nhát câu ấy mới rơi xuống. Tú Kèo thở ra nhẹ nhõm, chợt réo rắt “Chị ơi…”.
- Lại còn gì?
- Cái đoạn chị gả vợ trẻ cho chồng, em muốn nghe tình thực.
- Ối chao ôi cậu tú biện bác đáo để lại còn hỏi cắc cớ.Sự này ta không kể đâu.
Nhoàng cái người tiên biến mất, để lại làn khói trầm mặc. Chợt lách cách lách cách rung động trên nóc đình. Quan viên ngưng gắp ngó lên. Trên ấy hiện ra bức tượng gỗ chạm đám sậy, ở giữa có người con gái đẹp đẽ nửa như bay múa hân hoan nửa lại trầm ổn, tự nhiên tự tại.
Làng Bùm trở lại bình lặng, lễ Thành hoàng theo quy củ đã định, văn tế là bản vừa soạn ra, hàng năm thay can chi cho hợp. Chỉ có trong cuộc đông đúc, thỉnh thoảng tú Kèo nhìn lên bức chạm trên nóc đình, ánh mắt bao nhiêu là chan chứa…
(1) Tức Thánh Gióng trong Tứ Bất Tử
Nguồn: .vanvn.net - Hội Nhà văn Việt Nam, 18/1 2017 9:31 AM.
Ban Thần
Trần Chiến
Xẩm chiều quá oi khiến Đặng Giảng không muốn làm việc, chỉ lơ mơ đến bà tư chắc đã đi tắm sớm. Ngài sầm mặt khi nghe tiếng bà cả: “Có cử Đăng đợi”.
- Bảo lão mai ra văn phòng.
- Thế ông quên mấy tháng trước nhận lễ ở nhà à?
Cử Đăng lưng khòng khúm núm nhưng mắt cú vọ, móng vuốt cắp cái mo nang. “Có chút sá sùng khô, dân Bùm gửi biếu phu nhân quan thị lang ạ”.
- Vẽ quá. Từ bể lên kinh xa xôi, việc gì phải diệu vợi. Cái việc ông nhờ coi như xong rồi. Tôi đã trình lên thượng thư bộ Lễ, lân này ngài ấn triện sắc phong Thành hoàng cho Bùm cùng bốn mươi tám làng nữa. Danh sách đây…
Nói rồi nhấc đít ra ý xong việc. Nhưng mặt cử Đăng đần ra, mấp máy. “Bẩm, nguyên Thành hoàng làng chúng tôi là Bùi Thắng Lâm, đây ghi thành họ Quách”.
Thị lang ớ ra. Nhầm thật. Chính do ở mình. “Lão lại già hậu đậu rồi”, ngài lẩm bẩm. “Nhưng cái họ thì can hệ gì!”.
- Bẩm tôi thì không sao, nhưng dân Bùm lắm đứa đáo để, sắc rước về e nó giẫy nẩy chẳng nhận.
- Ta sẽ xem lại. Ông về đi.
Đặng Giảng phẩy tay, vào hẳn. Cuộc vầy vò làn da mát như mỡ đông của bà tư tối ấy oẳng lên mùi sá sùng tanh tao. Thứ sâu bể móc lên từ bãi cát làng Bùm chúa sừng nhất nước, càng tanh nồng càng quý, cân khô đáng cả lạng vàng. Làm chân thị lang bộ Lễ kiêm Giám quản Bách Thần cả nước nó cứ phải khốn nạn vậy. Những cuộc rượu, tuần trăng, những đêm ăn vụng vợ thằng lính thú đang trấn ngoài biên ải của ngài thường dậy đủ thứ mùi, khi cốm đầu nia, lúc xạ cầy hương, vất không thể tưởng.
Trong giường trọ đầy chuột bọ, cử Đăng trải qua giấc ngủ nhọc nhằn. Hổn hển, oằn oại giống quan thị lang, nhưng là mộng ác nó đè, tấm thân già như bị voi xé, đau đớn lắm. Vào một lúc bị hành quá, lão tỉnh hẳn, nhận ra mình quá dại. Cái dại của một ông cử đã trải đủ kinh luân, ở tuổi ngoài sáu chục, đến là gớm ghê.
Làng Bùm lập cách giờ dăm trăm năm, nơi cửa sông Son đùn phù sa thắm đỏ ra bể, cho những sú vẹt tiến trước, ngô đỗ đậu lạc theo sau. Nhà cửa dựng trên bãi, lúc triều lên vớt được cả rá rươi, những con rươi màu xanh lúc nhúc làm lông xong đập trứng vào, thêm vỏ quýt thái mỏng, rán lên trôi rượu không thể tưởng. Dần dần mặn hết, cây lúa cắm xuống lên bời bời. Dễ sống quá, nên đàn đống di ra như cái kiến. Cái kiến ăn rào rào cạn cả dưỡng chất phù sa, lúa ngô đậu lạc cọc dần, mặt người lại dại đi. Ông Bùi Thắng Lâm quanh năm vọc đất, chỉ độc manh khố bọc bìu dái đen như cứt phơi ba nắng, ai ngờ nghĩ được diệu kế, là hốt những phân bắc phân trâu đầy bờ bụi bỏ ruộng. Lúa nhà lên bời bời, ông lại bốc phân bỏ ruộng những góa bụa neo đơn cùng kẻ khó, tiến kêu van những tháng ba ngày tám đỡ lắm.
Dịch dình dinh
Lều chõng lai kinh
Chả bằng thối inh
Chiều về hai sọt
Họ Bùi đến sau nhưng được dân Bùm tính như một tiền hiền khai canh. Kịp khi đầy diều rồi sung túc lên, làng bàn dựng ngôi đình cho bằng được những làng cổ trong đồng. Đất Thổ Công sông Hà Bá, cảnh thổ nào phải có Thành hoàng ấy. Nhìn quanh thấy toàn ông phơi muối với chị gõ hà, dân Bùm bèn bầu Bùi Thắng Lâm, lúc ấy quá cố đã trăm năm, lên thờ.
Đất vượt ra bể, đình quán đơn sơ, sự thờ cúng cũng giản lược. Ngôi bài vị trong hậu cung không chữ nghĩa gì sất, mà ngự rẻ xương sườn trâu trắng ởn, sinh thời cụ Bùi dùng để gắp phân, và cái sọt tre quét phẩm dành dành vàng tươi. Nhưng bên dưới cũng năm gian lát gỗ trải chiếu, cúng tế xong ngả cỗ xì xụp chả thua gì ai, ai ai hỉ hả chén ông chén cụ nhắc công tích ông lão họ Bùi, câu bãi phân miếng lòng xào dứa cứ thế lùa cả cái.
Đất đai mát mẻ hợp với lão gắp phân hay sao, mà làng xin sắc phong Thành hoàng được ân thưởng ngay, có điều không được Thượng hay Trung đẳng thần. Thôi thế cũng thỏa, cụ Bùi thơm ở nhà mình chứ ra ngoài vừa mũi thiên hạ thế nào được.
Dăm chục năm trước nước có biến. Giặc từ biển tràn vào, vua bỏ kinh chạy lên ngược. Những cột mít mái gianh biến theo ngọn lửa, mạng người leo lét chả biết còn được ngày mai. Rồi quan quân quay lại đánh dẹp, giặc bị bệnh thời khí hoành hành rút tiệt. Dân tứ tán về đất cũ dựng căn lều gieo hạt lúa. Sấp mặt vất vả mấy vụ, đến lúc đủ ăn thì lại có lệnh truyền ra, lần này từ phủ chúa, vì vua giờ không phải là vua ngày trước và ngồi chỉ làm vì, rằng không được thờ cúng những bách thần xì xằng lăng nhăng nữa. Cả nước sẽ chỉnh đốn, xì xụp trước vong linh tưng nấy vị thôi, là những vị nào thì bộ Lễ sẽ chọn lựa trình lên để phủ Chúa chọn duyệt, để ai bỏ ai không có li leo ý tứ gì của Ngài Ngự sất.
Đình Bùm bé nhỏ đã hư nát trong can qua, giờ teo lại thành ngôi miếu, đồ thờ cũng như cách thức cúng bái vô cùng khiêm tốn. Qua mươi mùa phong đăng hòa cốc, ăn bát cơm đầy ú hụ không phải lo cho ngày sau, dân thấy phải rước ông gắp phân về ngôi nhà thật đẹp mới được. Vào một sớm mai, mấy cây gỗ chò trôi trên sông Son tấp vào bến làng. Điềm trời đấy. Bèn ngâm xuống ao, mua thêm lim dổi, chọn hai hiệp thợ cho thi nhau có thưởng. Tòa đình mới, dẫu chả nguy nga như này nọ, hiện lên từng đường nét mỗi ngày. Nhưng ngôi miếu đơn sơ bên cạnh vẫn giữ lại, biết đâu đấy…
Việc soạn bản văn, về kinh xin sắc phong cho Đức Ngài Bùi Thắng Lâm làm phúc thần, dân Bùm không chọn ai khác ngoài cử Đăng. Đã đỗ đạt, đi đó đây nhậm trị, nay về làng ngồi chân tiên chỉ, lão còn đủ trí lực, không ngây ngô mà cũng chưa lẩm cẩm quá.
*
Lễ cấp sắc phong Thành hoàng cho bốn mươi chín làng làm ở kinh. Uy nghi. Tráng lệ. Đích thân thượng thư bộ Lễ chủ trì, ngài mời bằng được thái sư cùng quan chức lục bộ dự. Đức kính cẩn, quyến luyến đặt vào nơi Thành hoàng từng làng sẽ làm nên rường mối đạo đức, lòng tin trong cả nước. Lễ ở kinh long trọng mười, về nơi lũy tre nhạt đi vài phần thời vẫn còn giữ được chuẩn mực.
Bốn mươi chín tên đại diện cho bốn mươi chín làng quỳ dưới ánh nắng mỗi lúc mỗi gay gắt. Đa phần già cả, ở nhà con cháu nó đấm bóp, ra đây phải ngậm sâm. Vậy mà thỉnh thoảng có kẻ rụng “độp”, lệ lôi vào chỗ mát quạt phành phạch.
Cứng người trong quần áo mũ mãng, cử Đăng chao mình như đang ở con thuyền giữa bể. Ran ran lời tuyên Thành hoàng, những là ông thợ mộc chị nuôi tằm, hoặc giả xả thân chống quân xâm lược làm bền vững non sông… Đi kèm là tên thụy, hiệu, những mỹ tự, khiến lão nhớ đến lũ rởm chữ trong vùng gọi chòi canh ngao là “gác Thanh Hư”, cầu “tõm” bắc ra ao là “Vọng Nguyệt lâu”; ý nghĩ chả đúng chỗ nhưng thêm cho thân già chút hơi sức.
Tuyên xong, từng người lên lãnh sắc, trở về chỗ quỳ lại. Đức thái sư nói lời nhắn nhủ. Đại diện bốn mươi chín làng hứa hẹn kính trọng Thành hoàng, giáo dưỡng chúng dân biết trông vào truyền thống mà sống cho trung thành. Đến lúc xong cuộc, ai nấy lử đử ra về, riêng hai thân già còn quỳ trơ trơ. Viên tham tri ra hỏi, cử Đăng trả lời cụ tôi là Bùi Thắng Lâm chứ không phải Quách Thắng Lâm như sắc viết. Bên kia rằng Thành hoàng làng tôi, trên đồng rừng, cũng tên Thắng Lâm, nhưng cả mấy trăm năm nay họ Quách chứ không phải Bùi.
Bên trong tiếng Đặng Giảng thì thầm, rồi đích thân thượng thư bộ Lễ bước ra, lập tức thị oai với lão già đồng bể: “Ta nghe ông đã đỗ cử nhân, đây đó nhiều sao còn thậm ngu?”.
- Dạ.
- Có biết là trên chủ trương chỉnh đốn lại thờ cúng, trước tiên là đuổi hết tà thần yêu thần đê tiện thần đi không?
- Bẩm, nhưng ông gắp phân cứu cho dân Bùm hẳn mấy vụ đói…
- Nỏ mồm! Những thần ăn mày chết trôi trộm cắp, với thằng gắp phân đều một phường cả, phải bỏ. Để mà thờ phượng người có công. Đâu đâu cũng vậy thì sự tin yêu trong nước mới đặt vào chỗ đúng đắn.
- Bẩm, nhưng lai lịch ông Quách Thắng Lâm ra sao, ơn huệ gì cho Bùm, thì cả làng chả ai tường.
- Năm trăm năm trước, triều vua xưa gả công chúa cho tù trưởng họ Quách làm phên giậu giữ biên cương, nay hậu duệ rất chi phát đạt, một nhánh nảy ra thân sinh thái sư đương triều. Ông đọc sách không biết nhẽ ấy thì vẫn là anh dốt nát, đã vậy còn lý sự chày cối. Triện đóng rồi, hay còn muốn cãi phép vua, thì bảo!
Bấy nhiêu nhẽ đanh thép giữa khiên giáo sáng lòe khiến cử Đăng bạc tóc cấm khẩu. Lại nhớ đến câu trong sách cổ đại ý việc phong thần là ở triều đương đại, bèn cúi đầu nhận sắc.
Quan thượng thư quay sang bên kia. Lão già đồng rừng đã sùi bọt mép, lưỡi rụt vào họng móc chẳng ra.
*
Khổ nỗi dân Bùm cả đời đứng nơi của bể làm thế nào thủng những điều bố cử Đăng cũng chả thủng nổi. Ấp úng tường lại những câu ngài bộ Lễ nói, lão phải nghe những điều cay nghiệt của hội tiên chỉ Bùm:
- Thôi thế là rồi đời những sá sùng với chim thu nụ đé với ngân khoản làng bòn mót từ đũng khố thằng đánh rậm. Đổi lại là tổ thằng mán trên rừng, có dễ nó ăn sâu bọ với nhái ôm măng, giờ phải sì sụp nhục lắm.
- Có dễ cử Đăng đang thờ bố thằng hàng xóm ông ấy.
Lễ đón nhận sắc phong thậm khó đánh giá thể diện. Quan tỉnh về tíu tít, từ tổng đốc, tri phủ đến đốc học, tri huyện. Vì được chọn làm mực thước cho các làng soi vào thờ phụng, Bùm được úy lạo bộ bát bửu loạt soạt, phủ việt dùi đồng bóng loáng, lại kèm đủ trái bí, đất sét, da thuộc, gỗ, đá, kim, tơ, tre trúc của phường bát âm. Hậu hỹ đấy, nhưng lại khó cho quan viên đang rất chi bỡ ngỡ với Phúc thần được cấp.
Đình Bùm mới dựng sáng trưng cuốn thư câu đối bức hoành. Bộ cửa võng trổ cầu kỳ, là trên ban tặng, quá khổ không lắp được, đành đánh dây treo lên, kẻ làm lễ bên dưới ngước thấy đu đưa rất hãi. Bát hương thỉnh từ đồng rừng về cháy rừng rực, khói cuộn ôm lấy bài vị chạm chữ “Quách”. Cử Đăng đùn chân soạn và đọc chúc văn cho tú tài họ Bùi. Ngâm nga đến câu “Ngài được Đức Kim Thượng đương triều ban cho mỹ tự “Linh Cảm Dũng Liệt Ứng Thiên Huệ Tín Đại Đại Vương”, thốt nhiên viên này ngửa cổ lên trời, tiếng cười khành khạch rất khó nghe.
Cử Đăng ốm thật, nhất là khi thằng con, gã sinh đồ nức tiếng hay chữ bảo không đi thi nữa, “đỗ đạt kẻo rồi lại tai nạn như cha”. Nhưng là tiên chỉ, lão không trốn được cuộc tế. Toàn thị quan trên với hương chức dự, tráng đinh biến sạch dù thằng mõ khua thớt chan chát. Giữa khói hương sì sụp, quỳ lậy ê ẩm, cử Đăng xây xẩm như phải gió, bèn tránh ra ngoài. Quái lạ, ngôi miếu thờ ông gắp phân như có đám cháy. Người đâu đông quá, toàn đám bạch đinh nhiêu mõ, gái góa với trẻ em, chả ra thể thống nhưng im phắc ra điều thành kính. Dưới bài vị đơn sơ dựng độc rẻ xương sườn trâu là cái mâm đồng sáng loáng, lù lù khoanh cứt trâu bằng bột nếp rang ngào mật đen trùi trụi, chắc nịch.
Nhìn kìa, thằng sinh đồ nhà lão làm “chủ tế”, bẻ từng miếng “cứt trâu” ngào ngạt thơm chia cho lũ khốn cùng. Những gương mặt cả đời chỉ gằm xuống hạt phù sa thụ lộc sao mà rạng rỡ.
Nguồn: .vanvn.net - Hội Nhà văn Việt Nam, 14/3 2017 9:31 AM.
Mé đê yên ả
Trần Chiến
Ba cái vụ lẻ tẻ bổ sung thêm nhân mạng thì nhiều vô kể: Mãn tù không ai chứa chấp, anh em tranh nhà cửa, những tay làm “nghề không vốn”. Đông đảo nhất là dân quê, đi về theo thời vụ hoặc cắm hẳn rễ cái rễ cọc rễ con lên, um tùm dần thành bản địa. Chả mấy chốc “vùng kinh tế mới” của cư dân sông Hồng sông Chảy cho chí sông Chu thành mấy cái xóm, lớn mạnh “bền vững” lên phường. Hà Nội có vài ba phường mới như thế, nhân sự “di biến động” phức tạp vô kể, an ninh an toàn rất hay“được” lên báo.
Ông Tư dưới Nam lên cách nay dăm chục năm, ngoài tay trắng chỉ có nết cơ chỉ cần cù của người thuần nông. Nhưng lại có cơ duyên, ít lâu học được nghề nấu phở, thuê cửa hàng trong phố, bình dân thôi, bán cho đám xế lô cửu vạn quà vặt “phục vụ” các mợ các bà chợ Đồng Xuân. Rẻ, nhưng nước dùng cứ phải “chuẫn”, ông thầu xương từ lò mổ về cất trong nhà, những hôm nóng giời ôi thiu lừng khúc sông, vẫy gọi ruồi nhặng. Đấy là nghe nói lại thôi, thời ấy chưa ồn ĩ vệ sinh an toàn thực phẩm, xương ấy vào nổi phở ninh dừ tử, chú gánh thuê cô hàng rong húp đến đáy bát. Chết tên Tư “xương” từ đấy.
Giờ ông Tư đã ra người tỉnh, truyền lại cho con cửa hàng cùng cái nghề “rất Hà Nội”, lui về trông coi nhà trọ, chủ yếu cho người làng An Thuận thuê, mà họ hàng thì càng được ưu tiên. Thành phố nhan nhản “khách sạn làng ta” thế, ngày kiếm ăn nơi nơi tối về gặp nhau, không cùng chi cành cũng chung ngõ. Thân thuộc, tin cậy để trông dựa, đỡ đề cao cảnh giác…, bao nhiêu nhẽ thuận nên giá thuê có cao hơn chút chút cũng vẫn ổn. Chủ nhà, tính trong họ là vai trên, so trong làng lại đông tuổi, nên dễ bảo ban ai ai, xóa được những tròng trành xô lệch. Cùng gốc gác nên chuyện to thành nhỏ, chuyện nhỏ thành không có gì, “chín bỏ làm mười” thành phương châm xử thế. “Hộ tập thể” Tư “xương” vào loại hiếm hoi có bằng “Gia đình văn hóa mới” treo tường.
Nhẽ nữa, sân thượng nhà ông có cái “điện” con con, rước Thành hoàng làng lên thờ, bài vị đơn sơ nhưng đủ để đồng hương bên dưới yên tâm, kỳ giỗ Ngài hay ngày rằm ngày một biện tý “lễ” xì xụp khấn, không phải lội về quê tốn mà lại vất. Tiện thật. Tiện quá đi chứ, ngày cày đường nhựa, đêm về vật thân xuống sàn, trong giấc mơ bao nhiêu thương nhớ văng vẳng lời ông Tư.
“Ngày mới lên bãi bờ mênh mông, từ đê trong vượt qua đê quai, mỏi chân mới tới mép nước. Lau sậy vi vút muỗi như đám mây nhưng thằng trung nông này thấy ngay đất tốt quá, năm lụt một trận để lại phù sa đi mát chân, hơn hẳn đồng nhà. Vợ chồng khai mở tha hồ, đẻ thêm ba lứa, đứa nào cũng chắc như quả bí. Bấy giờ con người ta thật thà, luống khoai chuột chỉ trẻ bới nghịch chứ có đâu…”.
“Nhà này sức vóc lại sáng ý, chỉ trông vào đất nó phí đi, sao không dấn tới cái nghề phở. Tôi lý lịch xấu xa không kinh doanh được, khắc truyền cho”, cụ Cả Mây trên Hàng Giấy bảo thế, cho bộ nồi chảo, dao thớt, bàn ghế và dăm chục bát ô tô. Rồi bị cụ mắng “Bát phở ngon không khó nấu, nhưng cuối nồi mà thêm nước thêm bát là đuổi khách”. “Đừng tưởng nghèo mà khôn vặt ăn người được”. Nghe vừa nhục vừa uất, nhưng con cá không ăn muối thì chả nên nghiệp nên người được, ảnh cụ trên bàn thờ kia”.
“Sông Hồng ngày một thắt lại, lạch Cam lội qua sang bãi giữa được, nước chảy lờ đờ, bẩn thỉu, trẻ trong phố sợ dẫm kim tiêm hát i vê không dám ra chơi. Không có lũ nguồn hàng năm,bãi sậy khô khốc, thành chỗ tấp lại cho đám dân kiếm sống một nơi bụng dạ để một nơi. Những người khai phá thuở ấy như Tư “xương” này đã thành ở giữa xóm”.
* * *
Nhà trọ xây hẳn hoi nhưng cũng chỉ hai tầng, sân thượng có điện thờ. Ông Tư ở dưới, một mình, tuổi tác và bệnh suyễn vì hít hơi than thời đứng bếp khiến khó ngủ, đêm đêm cứ lụ khụ. Tầng hai vắng vẻ cả ngày, chập choạng trở đi đầy người. Sân trước có bể to, nước chảy ồ ồ, quần áo giũ tồm tộp, tiếng bước chân thình thịch và nói cười nguyên giọng “con tâu tắng buộc gốc cây te ăn lá te béo tòn tùng tục” huyên náo. Đến giờ ti vi phát phim Hàn thì lặng ngắt, ai ai cũng sụt sùi rồi nhất loạt phấn khích. Quần quật ban ngày nhưng đặt tấm lưng mỏi oặt xuống, đèn đóm tắt rồi cũng phải “buôn” đôi câu mới yên.
Như là nhà Cậy phô dọn chai nhựa ở nhà nghỉ vớ chiếc nhẫn, vàng tây nhưng chắc phải vài trăm. “Dân tỉnh đi ăn vụng còn cẩn thận tháo ra nhỉ, rửng mỡ quên bố nó nhẫn”. “Về nhà vợ nó kiểm tra có biết đằng chùi mép”… Nhao lên một lúc rồi im, dư vị đực - cái nóng rẫy. Như là Thệ, không phải người An Thuận nhưng cùng huyện, được ông Tư chiếu cố cho trọ. Gái hai con mà ưa nhìn, Thệ mặc lôi thôi tránh mắt bọn đàn ông, nhưng cứ phải nhuộm tóc nâu nâu rồi soi gương tủm tỉm. Chuyện Thệ hở ra toàn lo là lo, không thằng lớn nghiện ghêm thì chồng vô tích sự, ra đi kiếm tiền nóng ruột vô tả, đang dở câu bỗng pho pho.
Quanh quẩn kiểu gì thì cũng quay về cái làng của mình, chỉ chúng mình có chứ quê khác không thể nào bằng dân tỉnh thành càng không so được. Hôm nảo hôm nào nếp nhà xiêu, tường gạch lở, mặt ao có tấm bảng “Cấm đàn bà có tháng”… cũng hiện lên làm cả hai bên đàn ông đàn bà, cách nhau năm ô gạch, lại phừng phừng thao thức. Nhưng quê ta giờ còn cái tên chứ có an với thuận nữa đâu. Dự án lấy hết ruộng, tiền đền bù xây được cái nhà mà người lại tứ tán kiếm sống, già cả ở lại lo tang ma không ai tiễn. Mà chúng mình giờ khai lý lịch kê thành phần thế nào nhỉ. Là nông dân thì không có đất. Ai bảo thế, ruộng đầy nhưng không ai cấy đây thôi. Là người tỉnh thì nhiều nhất mới vài năm. Thôi cứ ghi “cán bộ đi làm ăn theo thời vụ” cho con nó oách! Câu đùa cợt chả ra đâu vào đâu ru người An Thuận vào giấc, rất dễ.
* * *
Nhưng xẩm chiều nay, sân trọ bị một xung động nhỏ, lớn dần, căng hơn khi đèn lên, muỗi và đàn thiêu thân xông vào. Phán, ông thợ mộc rong nền tính về có một mình, gò má ưng ửng. Thằng cháu ông điên bố nó rồi, uống tì tì ngoài hàng cơm bụi, đéo lắt văng ra rất xấu hổ, bảo thế nào cũng không thôi. Lát sau Đoàn “ôm” vào hùng hổ, chỉ mặt chú ruột: “Chú cậy có tiền khinh khi họ hàng hử. Tôi không giả được chén rượu cho chú chắc!”.
- Tao tự ăn tự giả. Không ngồi với thằng say.
- Đấy lại học thói tỉnh thành chỉ bo bo phần mình chả còn tình nghĩa gì. Mà tôi với chú không còn họ hàng thì vẫn cùng quê, định hắt cả đi phỏng.
- Không nói nữa. Mày ra thằng cùn rồi.
Đoàn đá văng chậu nhựa to ngâm quần áo, ra bể giội nước ào ào. Sắp cởi ra nhồng nhỗng ra thì bị ông Tư quát, bèn thụp xuống dựa vào thành bể bưng mặt, lõng bõng xuống ngực chả biết có nước mắt. Ai cũng biết tính gã rồi, lúc hảo hán bênh vực kẻ yếu lúc coi trời bằng vung, nên đều chả dây. Đoàn lên đã lâu, trải nhiều nghề toàn đụng đâu vỡ đấy. Làm thợ xây cãi từ chủ nhà đến cai thầu, nhận chân bảo vệ kho sắt mà cứ nửa đêm lùng rượu. Giờ gã chạy xe ôm, cái việc chả phải nghe lệnh ai, thích thì làm mà làm kiểu của mình, mấy tháng rồi nghe yên yên.
Trưa nay gã chở khách từ bến xe Giáp Bát về mạn hồ Tây. Chuyện ran lên khi anh già ôm biết gã người An Thuận. “Hồi oánh nhau tớ tập tân binh ở đấy rồi mới đi bê, nhà bà gì xóm Tám có con gái mau mắn”. “Dân thương lính lắm, mùa hè luộc cả rá khoai với lạc mới rỡ cho, rồi có anh chằng thành rể”. Đến đoạn hỏi han gia cảnh Đoàn, khách đang tỏ lòng cảm thông thì “kít kít”, xe dừng đột ngột. Thệ đi bộ trên hè, nón thùm thụp khẩu trang kín mặt mà gã vẫn nhận ra.
-Thệ ơi lên đây lên đây.
Đoàn réo ầm con phố, nhẩy xuống bảo khách: “Chú chịu khó cho cô kia ngồi nữa nhá, nó đi dọn nhà về, xe đạp hỏng”. Anh già ngây mặt như là chả hiểu gì, gã bèn phịa “nó cũng xóm Tám, có khi cháu bà gì cho chú ở đấy”.
“Sao lại thế được. Kẹp ba chật chội lắm. Không mũ cảnh sát bắt. Mà cái chính là tớ không thích ngồi vậy”. Mặc anh xe nài nỉ, khọm già nhất định không chịu chung đụng. Đoàn nuốt câu chửi đổng vào trong, cười giả lả với Thệ, yên yên một lúc thốt ra: “Thế mà cháu tưởng chú yêu cái làng của cháu lắm. Hóa ra là nhầm”. Cuộc kỳ ngộ đang phơi phới tắt phụt cho đến khi thanh toán, anh xe ôm hầm hầm còn khách mặt đần thối, tự dưng thành kẻ có lỗi.
Đoàn chưa hả rượu, gây chuyện tiếp với ông Phán chả thấy quăng lại lời nào, bèn cứ đéo lắt kể lể vài lần nữa cho đến khi đi ngủ. Chuyện tưởng đến thế là hết, ai ngờ khi cả tầng hai đã rộn ràng tiếng ngáy gã lại ngồi dậy. “Đèo mẹ cái tụi tỉnh thành chả tình nghĩa chó gì. Chỉ tiền là trên hết xấu đếch chịu”.
- Thôi đi thằng say, mày định cho cả phòng mất buổi làm ngày mai à.
Nghe ông Phán làu bàu trong góc, Đoàn sửng lại: “Chú tưởng buổi làm là quan trọng lắm đấy hả. Đôi trăm chứ gì đây tôi cho chú mai không phải đi nữa”. Ông Phán còn nghẹn họng thì mấy đàn ông đã dậy lên: “Tao cũng không cần ngủ mày đưa cả tao chứ”. “Tao cũng thế mày cậy phòng này chỉ có chú cháu mày hả”. Đoàn đã khùng rồi. Ra bất chấp. Cãi tay đôi tay bảy tám với lũ tham tiền kia. Phòng trọ nóng hết cả lên, đám đàn bà, đa phần nghĩ cùng người làng cố nhịn cho lành đều ngán ngẩm. Riêng Thệ, nằm trong cùng, im thít như chả can hệ.
Tiếng ồn ban đêm bay rất xa. Dưới nhà đông tuổi khó ngủ, thì dù nặng tai mấy cũng thành thính. Ông Tư lên gác, đứng ngoài một lúc mới vào, hỏi “Thế không để đến mai được à?”. Đoàn ngây ra một tẹo, đoạn “Cháu làm ông thức giấc rồi. Nhưng cháu càng nghĩ càng tức. Sáng nay cháu gặp thằng già…”.
-Thế thằng già bao tuổi? Có chắc giá ngay từ đầu không, giữa đường mới gặp cái Thệ chứ gì? – Ông Tư nghe xong, trầm ngâm một tẹo – Tức là ông ấy không trả từng nấy tiền để ngồi nửa mông đúng không?
- Chán ông, lại lý sự trên tiền rồi. Cháu nói thế vì lão ấy từng ở làng mình, được dân mình hy sinh nhà cửa với cả củ khoai hột lạc mà còn chi ly bần tiện.
“Thế cô Thệ lúc ấy bảo sao?”, ông Tư hướng vào góc phòng. Thệ nhổm dậy búi lại mái tóc dầy nặng, lầu bầu: “Cháu bảo không cần, đi bộ được rồi với lại công an bắt thì sao”. Nghe Đoàn xướng to “Bắt kệ mẹ nó chứ tớ tay lái lụa đố bắt”, ông đà đận: “Ừ lão này có mang ơn làng ta thật, nhưng lão đã phải chiến tranh thì cũng là hy sinh, đóng phần mất mát rồi chứ nhỉ. Cứ tính toán như anh thì cả nước có nợ đồng lần với nhau, ai muốn xử thế nào cũng được chứ gì. Gặp cái người chưa từng ơn làng ta thì anh bảo sao đây?”.
- Ông quàng đứa khác vào sao được! Cháu thế là còn nghĩ cho cả xã hội mình đấy. Đau lắm! Cái nước này ai mà không từ đít bà nông dân chui ra, cứ tưởng sống tỉnh thành mà đem tiền ra cân đong mọi thứ á. Phải biết thương người nghèo chứ xa nhà xa quê ra đây kiếm ăn sướng lắm phỏng. Cháu mà có quyền cháu thay luôn dân, cho bọn ăn trắng mặc trơn về cày ruộng, xem có trắng mắt ra…
- May là anh mới chỉ chạy xe ôm, chứ Khơ Me đỏ bên Campuchia mấy chục năm trước cho bọn ăn trắng mặc trơn là không lao động rồi. Thôi khuya chả cãi sâu xa quá, ngủ đi mai còn cầy.
Ai nấy lục tục nằm xuống. Đoàn vẫn không thông: “Cháu chán ông, ở tỉnh lâu chả còn tình làng nghĩa xóm téo. Không biết đường bênh nhau! Bạc như vôi!”. Tiếng can ngăn nhao lên. Ông Tư đã dợm đi ra, quay lại: “Ở tỉnh phải theo nếp tỉnh, không thì đi chỗ khác mà trọ à mà anh về hỏi những cầu trượt thú nhún đồ chơi nhà trẻ ở làng ai góp nhá”.
Phòng trọ ắng hẳn khi đèn tắt. Những tấm thân nhọc nhằn quên ngay mọi rắc rối phức tạp, vào giấc pho pho. Bên nam sót lại tiếng lầu bầu “Tưởng gì mai bố về quê ngay. Cần đếch!”. Và dưới nhà phải lục tủ thuốc, không khéo đột quỵ...
* * *
Thệ thích ra ngồi bãi giữa, khoảnh giáp mép nước lạch Quýt rộng rãi có đám cỏ mịn, sạch sẽ, chả để làm gì. Đám sậy trước mặt đang trổ cờ, đu đưa rì rầm, rễ chìm trong phù sa. Chiều nay Thệ ngồi với Cậy, có chùm nhãn ở giữa. Cậy “lúi” dọn nhà nghỉ, mua hàng rẻ ở chợ hoa quả bán rong trên phố cổ, lủi như lươn khi nhân viên trật tự xuất hiện. Cũng có khi bị bắt vào đồn, mất toi gánh na mẹt ổi. Chuyện hai con mẹ chả có quái gì lớn lao nhưng dài cuồn cuộn, tuồn tuột trôi như dòng nước trước mặt.
- Thích nhỉ, không phải làm gì ngồi mát mát là.
- Nhưng mà sốt ruột, cứ phải nghĩ giá có việc thì đang kiếm được tiền có phải là hơn không. Mà sao Long Biên lại gọi là “cây cầu của người nghèo”?
- Vì toàn xe máy xe đạp. Có tàu hỏa lại càng cũ kỹ. Bên cầu Chương Dương tinh ô tô đẹp máy lạnh rì rì.
- Nhưng sao trai gái sắp cưới toàn lên Long Biên chụp ảnh lãng mạn, còn đeo khóa tình yêu vào thành rồi ném chìa xuống sông…
- Tao chả biết hôm nọ họ phải tháo khóa đi không lãng mạn gẫy bố nó cầu.
Giữa hai cây cầu, phía dòng xuôi vẳng đến tiếng reo hò ồn ỹ. Thệ nhổm dậy ngó ngó bị giật lại. “Bãi tắm truồng. Toàn bọn đàn ông trong phố phơi chim mày ra thành con điên con dở”, Cậy cười sằng sặc.
- Hay mình nấp vào lùm sậy xem chim già chim trẻ hí hí buồn lắm. Giờ được bơi thì thích, em xuống nước như con cá í. Từ ngày trên nguồn lên mấy đập thủy điện chả được vớt củi sông.
Hai đàn bà sồn sồn chòng chọc cù nhau suýt lăn xuống sông. Xa chồng ngứa ngáy chứ, dù “cái của nó” hôi hám, chả trắng trẻo như mấy thằng tắm sông. Chợt Cậy nghiêm giọng: “Thệ, mày có dính thằng Đoàn không? Tức là mày với nó đã “gì” chưa?”.
- Đời nào! Cái ngữ lúc nào cũng hung hãn, mặt mày như con gà chọi. Em còn chả dám lên xe lão, đánh võng vượt đèn đỏ sẵn sàng chửi nhau, tai nạn có ngày. Hùng hổ thế thôi về quê thế nào được. Lão giờ trọ bên Phúc Tân, nhắn tin em lờ lớ lơ chị không tin á.
- Tao chả biết, chỉ lo mày ễnh mẹ nó ra rồi tan nhà nát cửa. Đàn ông như cái gậy thằng mù chứ mình xa chồng lâu giữ khó bỏ mẹ - Cậy nhìn Thệ, ánh mắt ve vuốt – Mà nhà chị cũng ngon lắm cơ. Ngồi sân bể giặt mặc áo ngắn hở nửa lưng tôi đây còn thèm nữa là bọn chó giái.
-Chị biết không, Thệ được khen đâm mơ màng, lên đây em làm đẹp chả ai ngáng, tha hồ ngắm gương có chết không. Tự do sướng thế không biết. Giờ mở mắt ra thấy mình thành người tỉnh, được đứng đón con ở trường rồi về nhà mình nhỉ.
- Mơ làm quái! Mày cứ mặc váy cưỡi xe ga ra ngay thị thành “nuột”, khối đứa chết khối thằng hy sinh.
- Chán chị! Qua rằm này giỗ bố chồng, em mang tóc nâu về nhà dễ bị giếc đĩ thõa. Chậc, làm cật lực tiền mang về một năm mười cái giỗ, xây hết đình xóm đến đình làng, vào mồm con mấy đâu.
Đàn bà chuyện kiểu gì cũng quay lại con cái, kể mãi nghe mãi rồi. Đâm cả hai lặng yên, con chim gì hót trong bụi sậy, cứ chiêm chiếp chiêm chiếp hay quá mà không nhìn thấy. Vẳng đến tiếng còi ủ, không phải sà lan cát sạn. Lầm lụi, phì phò, hồng hộc, xe lửa bò lên cầu Long Biên, chậm rì vì lũ goòng chất đá. Leo dốc dẫn nặng nhọc quá, đầu máy đã nhô đến đầu lạch Cam vẫn còn bị kéo lùi lại, ì ì thở mãi mới tiếp tục tiến được.
“Quần ngư tranh thực là gì?”, Thệ lại thì thào. “Ông Tư bảo sống nơi nào mà chỉ nhăm nhăm kiếm ăn chả có tình cảm gì thì chỉ là quần ngư tranh thực. Phải yêu phố thì phố nó mới yêu lại mình, nghĩa là thế nào?”.
- Mày hỏi tao thì tao biết hỏi ai mà giữ mấy chữ ấy trong đầu mày khéo thành con dở thật. Thôi cứ biết làm ăn chân chỉ đừng làm gì quá đáng tối ngủ không vẫy tai.
Nhưng “thôi” thế nào! Những nỗi cứ dào lên, sủi bọt rồi lại tán tàn, giống khúc quẩn của dòng sông trước mặt. Buổi chiều đang đẹp, mát rười rượi bỗng hóa oi, trĩu trịt gánh lo. Tiếc ơi là tiếc, “cày đường nhựa” mà vẫn cứ tiếc…
Nguồn: Báo điện tử Dân Việt, Thứ bảy, ngày 22/06/2019 07:00 AM. - Truyện dự thi cuộc thi viết truyện ngắn "Làng Việt thời hội nhập".
Biến đổi khí hậu
Trần Chiến
T
rung tâm Tư vấn - Giám sát dự án của Ngôn và phòng Tư vấn - Giám sát dự án cùng một viện, tên tuổi suýt soát, nhiệm vụ ghi trên hồ sơ y như đúc, nhưng cáng đáng những chức năng xa nhau thăm thẳm. Phòng khai sinh trước, sếp viện, vì nợ quan hệ trên đường tiến thủ, phải nhận tinh người đâu đó gửi gắm, gọi là “vườn trẻ”. Cái giống được chăm bẵm, không thạc sĩ tâm lý cũng tiến sĩ ngôn ngữ, đâm lợi khẩu mà cớm ròn, dễ gãy.
Thế là trung tâm tòi ra, rặt kỹ sư nhưng miệng nói tay làm chân chạy rất thiện chiến. Từ cấp Nhà nước, bộ đến tổng cục, dự án rơi xuống, tới tấp và đủ loại, phải có người nhòm thầu, theo dõi thi công, tăm tia ra cái gì không can ngăn được thì huýt còi, lập biên bản... Chả đã có ca dao phản động 'bên Bê là chùm khế ngọt, bên A trèo hái suốt đời' là gì, vắng tay đứng giữa cảnh giác cách mạng thì thuế dân vẫy vùng vào túi riêng ngay ấy chứ. Thời buổi toàn dân làm kinh tế, cánh thi công lại quả chủ đầu tư thường “khiêm tốn”, chẳng rượu tây tranh đẹp mà chỉ phong bì “nói ít hiểu nhiều”.
Nhưng cuộc đời đâu chỉ A và Bê. Vô số Xê đứng giữa, chập chờn đánh võng, thoắt ẩn thoắt hiện đúng lúc đúng chỗ. Tư vấn giám sát nằm trong đó, ngày trời đẹp mà họ không “vui” thì đừng nghĩ đến nghiệm thu công trình, tỷ tỷ đã nuốt mắc trong họng hóa ung thư. Bởi thế hôm ra mắt, sếp lớn bé cỡ nào cũng giao nhiệm vụ “Các đồng chí là tai mắt của lãnh đạo, giúp ngân sách khỏi thất thoát, giữ lòng dân khỏi mất lòng tin”.
Chuyện, bên ta người thực việc thực, còn “vườn trẻ” chỉ lo êm ấm cho hậu phương người chuyên công to việc lớn. Chục mống trẻ đẹp sang trọng ấy nếu lấy thời gian làm lãi, cần cù dưỡng lão đều đều lên lương, mười lăm năm cầm chắc cái chuyên viên. Còn bên này phải tác chiến tận nơi, mắt cú diều soi từ thanh sắt móng đến núi đất đào lên đáng bao khối, mũi đánh hơi ra mùi lạ là hạch hỏi. Bèn được gọi là “trung tâm Vấn Sát”, hỏi trước giết sau hay giết trước hỏi sau rất tùy vào “hoàn cảnh”. Dự án thì trên trời đã định rồi, bao nhiêu gỉ gì gi mới được từng nấy chữ ký thông qua, xuống đến đây khảo đả dã man hay khoan dung nhân đạo, thuộc cấp phải nhìn ra những luồng lạch chả bao giờ có hình thù, để mà khả dĩ tồn tại.
Hơn nữa, là mới được miếng. Trung tâm tự dưng chia đôi trận tuyến, hai phó cầm đầu. Mỗi bên lại tụm lại thành khối trong phòng lớn, gọi “thầm” là “tay phải” “tay trái”. Sếp cả, luôn luôn bay lượn trên cùng, phương hướng chả biết đằng nào mà lần, phân phối những đường chuyền có thể ghi bàn ngoạn mục hoặc bị vặn lưng để “bóng” trôi mất rồi cắn răng nghe chửi. Dự án cỡ nghìn tỷ, kỹ sư giám sát chả cần bặm môi trợn mắt, chỉ “nghía” và đánh rơi những lửng lơ: “Khối lượng san nền lớn quá phải đo đạc cẩn trọng”. “Chúng ta thống nhất nguyên tắc làm việc là nghiêm túc nhá, tình riêng gác lại đừng trách tôi giám sát chi li”. Thế thôi, đủ để “khế ngọt”, thi thoảng cả bên “trèo hái” nữa - khắc “lễ độ”. Khoản lại quả bao giờ cũng bí mật nhưng ăn chia rất có nguyên tắc: Kỹ sư nộp cả cho sếp phó trực tiếp, nhận lại phần mình, còn lại “lên” đến đâu, theo kiểu cách nào thì đừng thắc mắc. Vả, người làm trực tiếp, tại hiện trường đầy gian khổ cũng chả đi đâu mà thiệt. “Bên em rất quý anh, tác phong sâu sát lắm, mời anh chị đi du lịch một chuyến”. Được quá đi chứ, chú, dù là Bê phẩy phẩy, có lòng sao anh phụ được.
Lại không ít xương xẩu, gọi là “hẻo”, đều rơi vào những dự án mang tên sang trọng. Đề tài khoa học “Tính toán tối ưu để mở tuyến giao thông”, hội thảo quốc tế “Về sự khác biệt (thực ra là vênh nhau) giữa quy hoạch và thực tiễn”... bay lượn trên truyền hình rất chi hoành tráng nhưng chỉ vài trăm triệu. Bao giờ cũng là một nhóm giảng viên tiến sĩ làm, miếng đến miệng chả còn là mấy, mà cách lũ trí thức lại quả mới ngạo mạn chứ. Nên chỉ được phân loại “bóng” này, “phải” “trái” phải biết đường lật cánh ngay. Mỗi lần có đợt dự án bổ về là một đại chiến, hai sếp phó chỉ huy nhóm mình mưu mô, chạy đi chạy lại phần phật. Trung tâm như con tàu trong cơn biển động, sếp cả ngồi cabin lái cười hiền hậu.
* * *
Ngôn, chả biết may hay chó cắn áo rách, chả thuộc phe nào. Lớn đầu vào loại nhất trung tâm nhưng kém hẳn đường khôn, gã cứ đơ đơ, “điếc” đặc khi có chiến sự. Sếp thượng đỉnh, cấp trung gian đã đành, các sếp trực tiếp chả mong gì được gã thăm viếng dịp tết nhất, sinh nhật. “Đến nụ cười nó còn tiếc”, có câu mát mẻ vậy. Mà “cơ sở” cũng đến là thính, với gã giám sát chỉ biết có nguyên tắc này đều bỏ qua, chạy phát đến cửa cần thiết. Được cái Ngôn rất biết phận, ra mù với điếc hẳn khi họ “quên” mất mình, có “lễ độ” cũng rất gọi là.
Dầu gì, Ngôn có vai trò của mình. Chuyên môn đủ mạnh để nhìn ra khuất tất, thường hiện lên dưới dạng “non kém”, đặng “người liên quan” biết đường tránh. Gọi ra những khoản chi quá vô lý dễ đưa ai đó vào lao lý, rồi dừng lại không đọc vị. Dù vậy, gã chỉ được chia những dự án đã nát bét ra rồi, kiểu bọn báo chí đánh hơi có mùi, cần thằng tư vấn có bản mặt “tin được”. Khôn sống mống chết, đến giờ gã chưa chết là phải có miếng. Chúa nào cũng thế, ngoài nịnh cũng cần trung chứ, gai mắt nhưng bỏ nó đi thì giang sơn vững bền thế nào. Như vài tên “chẳng trái đéo phải”, Ngôn không được chọn chỗ trong “thuyền”. Cabin gã ngồi khuất nẻo, xa hẳn điều hòa tổng, nóng hay lạnh quá là lãnh đủ. Ban đầu gã căm hờn sự biến đổi khí hậu trên Trái đất, dần lại thích: Yên tĩnh, xa hẳn chiến sự, đỡ thị phi. Chả trách Tôn đại thánh khi bị nhốt vào lò bát quái đã chọn cung Tốn, ngập ngụa khói đỏ cả mắt nhưng đỡ hẳn xì-chét.
Tuần trước, nhân viên mới về, tên Mai, mắt mũi trong veo hồn nhiên như cô tiên, khai mới ra trường xin các anh chị chỉ bảo. “Thế em con ai trên ấy, hay được ông nào giúp?”, thì: “Bố em nông dân trên Thái, nhà còn mấy sào chè các cụ muốn giao nhưng em bảo con chịu thôi”. “Nông dân như em thì đi Mẹc hay Bi (1)?”. “Em Uây-tầu (2) ạ. Trên em có nhà cưỡi E-bờ-lết (3) đi lĩnh tiêu chuẩn hộ nghèo đấy”. Những đối đáp ngộ nghĩnh biến cô gái thành Mai “ngơ”, để phân biệt với Mai “ba sáu”, đặt theo biển số xe tỉnh quê nhà. “Ngơ đáng phải sang “vườn trẻ” chứ”. Lại có người bảo “Khôn dóc tổ, giả chết bắt quạ đấy”. Kinh nhất là câu “Biết đâu vừa tốt nghiệp trường công an đi giám sát bọn giám sát”. Chung cuộc, sếp cả và hai sếp phó nhất trí xếp Mai vào phe lơ lửng con cá vàng, ngồi gần Ngôn. Đơ đơ chung chiến tuyến với non tơ, chả biết bao lâu và có hợp nhưng tha hồ chơi game và rì rầm “buôn” những giời ơi đất hỡi.
* * *
Sáng nay oi bức, lại thêm độ ẩm cao (đài bảo thế), ai ai đều nhơm nhớp. Điều hòa tổng chạy hết mức mà phòng lớn dễ tới trăm độ. Không khí đầy điện đụng nhẹ có khi tóe lả. Có con cá lớn rơi xuống, dự án khu tái định cư thủy điện ở Miên Du, riêng phần nền móng, đường sá..., gọi là “hạ tầng” đã cả trăm tỷ. “Trái” hay “phải”, phe nào được làm, ngoài phần cúng lễ lên trên, còn lại chia nhau là có thể tổng kết “thầm” thu nhập bằng 200% so cùng kỳ năm ngoái rồi. Chiều thì họp toàn trung tâm để quyết định việc ấy, nên khí hậu càng quay quắt, xộc mùi binh đao.
“Lân ai trực nhật, ấm chén còn bã thế này?”. “Con Mai ạ”. “Đứa nào kho cá đây, không nhận tao vứt toa-lét”. “Mai “ba sáu” hay Mai “ngơ”?”. “Ơ sao lại em. Con kia mới về phải làm chứ”. “Thôi thôi để tôi đem ra chỗ hút thuốc”. “Mai “ngơ” nó ngồi trong góc điếc rồi, mày ra mà bảo”.
Mai “ngơ” giờ mới đến, chả biết đường nhận lỗi còn toe toe “Đường kinh quá, chỗ gì tắc như lùa cả đàn trâu qua”. Lúc sau, cả căn phòng lan tỏa mùi chua thanh thanh, rất nhẹ nhưng đủ để dìu dịu nước dãi. Bàn to ở giữa có bịch nylon lớn hở miệng, “phó” của phó “phải” đến nhòm nhòm ngửi ngửi. “Quả gì đây, của đứa nào?”, truy một lúc thì Mai chạy ra nhận. “Cái gì cơ, quả chay á, tên quái gì tao chưa biết nhỉ”. Đến khi đống quả tãi ra thì cả chục người quây lại. Xanh vàng lốm đốm, có chỗ hồng ưng ửng, mắt mấu lồi lõm bóp nhẹ đã vỡ, ruột phơi ra trong trong nhìn thấy hột, tỏa mùi càng mạnh. “Ô, cả chùm này, có lá nhá, để thắp hương”. “Nhưng biết ăn được không mà mời các cụ”. Rút cục thì các cụ được ăn. Phòng điều hòa khói nghi ngút, “trái” “phải” - hai phó đứng ngang hàng, nghiêm trang khấn như đội vệ binh danh dự. Chắc chắn rồi, bên nào cũng xin được làm, “cá” chỉ mỗi, các cụ xơi khéo hóc hạt chay. Biết vậy mà đố đứa nào dám cười, xong cùng phớ lớ hưởng lộc.
“Eo ôi nó có lông lại mọc bướu ghê ghê là”. “Nhưng mà ăn được đấy, đây quả này ưng ửng như má em là ngọt lên rồi”. “Ừ chua chua thanh thanh nhưng lại có hột”. “Thế nhè ra đây”... Một đôi câu nhau được dịp đây nũng nịu đấy dỗ dành.
“Chay tê-e-rờ hay xê-hát nhỉ? Mà chả biết cây với hoa thế nào”. Mai “ba sáu”, vốn bên “trái”, thắc mắc, liền được sếp “phải” thân thiện bài thực vật học: “Cây này giờ ít người biết chứ trước đây ối, sau nhà tớ mọc cả đồi. Cao đến 10m, bóng rậm mà to. Hoa ra tháng mấy không nhớ, quả mới đầu xanh rồi sang vàng vàng đo đỏ, nấu canh chua rất mát. Bà tớ hay ngâm nước gạo, phơi khô rồi thái lát ăn dần. Nhưng cái tác dụng nổi tiếng nhất của chay, khéo đây chỉ có bố này biết”. Sếp “trái” bị chuyền “quả đểu” không chút lúng túng: “Dào, vỏ cây để ăn trầu, trầu cau trầu vỏ ấy. Ngoài chợ thường bán từng khúc rễ chay, không có thì rễ chạch, cả quế nữa, các cụ mua về, thêm miếng cau, tý thuốc lào, vôi tôi, lấy cái lá trầu không gói lại, gọi là têm, ngày đông nhai nóng sực cả người, thế đúng chưa cụ?”. Lạ chưa, hai đầu chiến tuyến trước giờ nổ súng lại tung hứng tưng bừng, khéo hòa hợp hòa giải dân tộc rồi ôm nhau chùn chụt được.
Nhưng “quần chúng” vô tư chả để ý đến sự tình này, dẫn câu chuyện sang những nẻo tít tắp. “Thế môi ăn giầu cắn chỉ là thế nào?”. “Các cụ nhà sang thì có cái ống nhổ đồng, để trong xó vẫn hôi, không thì cứ bạ đâu nhổ đó, quết đỏ hoen hoét như đàn bà có tháng”. Thơ ca cũng được lôi ra “Thản nhiên chị vứt bã trầu, thản nhiên em nhặt bã trầu lên ăn”, cho thấy đời sống tinh thần phong phú nhường nào. Rồi dào dạt hoài niệm về cội nguồn, các cụ sống đơn giản, chân phác thế mới là sống chứ, đâu như ta bị dốt trong nhà bêtông, đi làm hít khói bẩn, đến cơ quan nào được thở không khí tươi.
“Trung tâm mình thương nhớ đồng quê vui ghê. Chả mấy khi. Đi ăn cơm niêu đập nhá, chạch đang mùa béo, kho tiêu” - một giọng nữ vút lên. Hưởng ứng nhất loạt. Người khác bổ sung nhưng mà “căm-pu-chia” hoặc “lệ quyên” đấy, nghĩa là giả tiền đều để khỏi nợ nhau mà còn có những lần sau. Nhất trí cao vòi vọi. Sáng kiến này đáng nhận Nô-ben hòa bình, dù hòa bình giờ cơm trưa thôi. Các cô chạy vội vào toa-lét, lúc ra sột soạt, thơm phức. Phó “trái” và “phải” không nhìn nhau nhưng đều nghiến răng thế này là phù thủy không trị được âm binh rồi.
* * *
Ngôn không đi. Chả thích cái vui này, không đến nỗi giả tạo quá nhưng không thể hết mình trước cuộc sát phạt. Chiều nay, mở đầu thể nào sếp cả, có thể là cả của cả, sẽ ca nửa tiếng về mục đích ý nghĩa công trình ở Miên Du. Cái tên lãng mạn thế này là hứa hẹn lắm. Là một bước tiến lên công nghiệp hóa - hiện đại hóa cho nước nhà. Đồng bào các dân tộc ở đây rất tốt, trong chiến tranh đã đùm bọc một chiến khu giờ lại sẵn sàng hy sinh nơi cư trú cho con hồ sắp lên, đóng góp vào dòng điện của tổ quốc. Và thế cho nên..., do đó mà...
Rồi “trái” sẽ bảo “phải” có kinh nghiệm gì về công trình miền núi đâu. Chiều ngược lại: “Thì các anh tính cái thủy điện kia giỏi quá giờ mùa lũ không có nước chạy tua-bin”. Nhưng gì thì gì “cầu dao tổng” chưa phát nổ. Sẽ có “diễn biến hòa bình”, hai phe thăm hỏi sức khỏe các cấp tại nhà, chạm nhau chưa biết chừng. Dân xứ ta ham công tiếc việc là thường, nhưng điều này chả thấy ghi trong truyền thống bao giờ: Cứ phải xin việc trong âm thầm, lấy bí mật làm chìa khóa thành công.
Đi lấy nước sạch chỗ máy lọc cuối phòng, Ngôn thấy còn người nữa. “Ơ Mai không đi à. Ăn chung vui thế kìa...”. Cô gái hết sức lúng túng, miếng nhai như nghẹn lại, một lúc mới “Em chả có tiền. “Cam-pu-chia” nhỡ ra có ai gọi bia hay thêm món”.
- Tưởng gì. Lệ là ai gọi thêm nấy giả. Mà không có túi chay của em thì lấy đâu ra cuộc vui này.
- Thực ra..., mới lại..., em ngại thế nào. Em biết đùa đâu, nhỡ đang ăn lại bị tương “Mai “ngơ”. Không phải chỗ của mình.
Ngôn sững lại. Chả “ngơ” tý nào. Nhạy cảm là đằng khác. Ơ hay tự nhiên chảy nước mắt là sao, cô này...
“Nhà em chính ở Miên Du, đúng vùng di dời thủy điện. Chả ai muốn đi đâu nhưng tỉnh, huyện, xã rồi đủ mọi đoàn thể xúm vào. Cái khu tái định cư, nơi trung tâm mình sắp làm tư vấn ấy, chả biết sẽ đẹp đẽ thế nào, nhưng làm gì có nước. Đồi trọc lóc cây bụi không lên nổi mà họ bảo trồng cây lúa thì tuyệt vời. Bố em đi tiền trạm phát biểu các anh xây thử cái bể trên đầu thôn mới nếu có nước thì tôi làm con chó ăn cứt, xong mất luôn đảng viên với trưởng thôn”.
“Làng giờ như tổ kiến bị dội nước. Có tiền đền bù, xây nhà mua xe đấy nhưng hút hít với xuống phố làm cave nhiều lắm. Vẫn phải giữ ruộng chỗ cũ, về chỗ mới làm gì ra cái ăn. Cây chay này lớn lắm, em đi về từ xa đã nhìn thấy, bố bảo mộ ông bà còn phải bỏ, thì tiếc mà làm gì, nhưng mang ít quả đi cho các anh chị trong phòng nếm chơi chơi”.
“Ối ối em nói gì thế này. Anh bỏ qua đừng phô ai kẻo em thành con phá hoại rồi mất việc em gái em phải xuống phố trăm lậy, nghìn lậy anh”. Đoạn cuối bỗng diễn ra như phim sến khiến Ngôn bỏ đi. Vẫn phải quay lại: “Em cứ yên tâm, anh nói ra nó cũng thành chuyện bịa. Chuyện người ta sắp bịa ra mới là thực kìa”. Đằng sau gã, Mai rũ ra như con chim ướt cánh, sinh mệnh thế mà lại có thể mỏng manh nhỉ. Đằng sau nữa rộn ràng cười nói. “Ăn trưa đại đoàn kết” đã thành công. Chiều giương cung bạt kiếm, Ngôn sẽ im phắc ra điều nhất trí cao như mọi cuộc, hay là làm gì hay là chẳng làm gì?
Nguồn: Báo điện tử Dân Việt, Thứ ba, ngày 22/10/2019 10:51 AM. - Truyện dự thi cuộc thi viết truyện ngắn "Làng Việt thời hội nhập".
Gót đỏ chân son
Trần Chiến
"Cái con trăm chân này ngu lâu hơn con trâu, nãy giờ chả bò đi đâu được".
Sơn cười khì một mình, thú vị với câu mắng "văn chương". Trời mưa dai sau đợt nắng vật vã, nó ngồi trông ra cửa sổ nhà tình thương, lòng mênh mang sầu. Chiếu tá lả đằng sau chốc lại rồ lên
Anh ra đi rồi em có buồn không
chiều vắng anh em đừng ư ử…
Chân cẳng thế này, tạnh ráo cũng chả đi đâu được mà vẫn sốt ruột. Nhạt mồm tệ, phố xá ngoài kia thiếu mình còn ra quái gì. May nắp bể nước có con cuốn chiếu lạc bước hành quân, cả tiếng đồng hồ đến góc vuông lại rẽ trái. Chỉ biết những vuông vức thì đời khá thế nào được, Sơn nghĩ thế và thấy mình từng trải.
Mươi năm trước, nhà còn lợp rạ, ngày mưa Sơn hay hếch mũi nhìn đàn cuốn chiếu leo ra leo vào trên mái, chi chít, chăm chỉ, chả để làm gì. Giờ nhìn ra ngoài nhớ độc cảnh quê. Nhưng mình không quyết chí cách mạng, rời bỏ chốn ấy thì còn ôm nỗi bi thương tổ bố. Nghĩ đến đây bèn quay lại công việc đem lại niềm vui trong những ngày đớn đau sầu tủi, ren rén đếm tiền. Dù biết vẫn từng nấy, năm triệu ba trăm sáu mốt đồng, nhưng mỗi lần lại ra vui buồn khác nhau. Cái này khí khó hiểu, giống thị thành may rủi bất chợt tốt xấu khó phân. Chả như ở làng, cô Mỡ ba sáu tuổi chưa chồng tự dưng bụng lùm lùm tự dưng chả ai chơi với. "Rồi gầm mặt suốt đời", mẹ nó bảo, chả biết là thương hay ghét.
Sơn là thằng giời gầm nhưng lại nằm lòng nhiều câu của mẹ. Đang pành pành trên máy cày thuê, bố nó theo giang hồ lên rừng đào vàng, về nhà trong hòm gỗ. Lên năm, Sơn phấn khởi thấy mẹ cuộn cạp quần mớ tiền phúng, nghe than "Thôi thế là từ nay tôi phải cắn răng lại rồi", giờ vẫn chả hiểu ra sao. Nhưng câu này thì nó "thủng" ngay, lúc đã kịt bụi thị thành: "Vắng cha nhưng con đừng để ai nghĩ mình không có quê. Vẫn là dòng trưởng họ Bùi đấy. Làm được gì tốt đẹp thì góp xây nhà thờ Tổ. Nên ông nọ bà kia về làng phải biết mình như tàu chuối rách thôi, bên trên còn khối đa đề…". Buồn cười quá, cứ như mình đã lên đời, có tòa ngoài phố rồi. Sang đoạn "Lấy vợ quê, ta tắm ao ta anh ạ", nó "vầng vầng" cắt ngay kẻo mẹ ca "nốt" phần có con. Dù thế nào, Sơn cố cày ải, để đỡ mẹ lo mười bốn lượt giỗ trong năm, không bị ông bà, hai cô ba chú đằng nội và mười hai con các cô chú ấy trách.
Nghĩ mình bé mà đã có trách nhiệm kể thinh thích. Nhưng thị thành đôi khi lo hộ nó "cá kiếm" rất là bất chợt. Hồi mới lếch thếch ra đây, Sơn bị thằng rủ đi bỏ rơi luôn. "Giờ mày tự lo, cỏ chỗ nào chả lên được", dù hôm trước nó vẽ "nhặt rơi nhặt vãi cũng đủ tháng tháng đi cháo lòng". May gặp chú Hệ, đánh hàng ngoài ga xong dắt về bãi sông. Xóm "liều", khu trọ "đen", điểm tối về trật tự trị an…, gì gì vẫn có người chìa tay. Bữa tối đủ no, manh chiếu thâm sì, sáng ra ông chủ, cũng tứ chiếng nhưng cắm dùi mười năm rồi, giao thau bể nước chục khối. Sơn đã đi dán quảng cáo "thông tắc bể phốt", bỏ tờ rơi "Nhà xã hội – giấc mơ của gia đình chưa có điều kiện", làm mươi "nghề" thì gặp "nghiệp". Bám trụ mấy quán cà phê, sáng ra đánh chục đôi giầy rồi kiếm cái chèn bụng, trưa lổm xổm bôi quẹt chỗ dân văn phòng đi ăn, nó đủ no, có chỗ ngủ cả tắm giặt vệ sinh. Cô khách, chắc thủ quỹ hay kế toán còn tỵ "Thằng này chả bao giờ lo khai thuế" dù Sơn có thói nhìn chân không nhìn mặt và tay cáu xi. Bán lót quế, đót giầy, dán mõm há… là đoạn dôi ra, tiền gửi bà chủ bao giờ về quê xin lại. Bị trừ "phí ngân hàng" và cũng biết bà ấy lãi to khi đem những tiền nhỏ ấy gửi làm vốn buôn, chơi họ, nhưng mình cần cơ mà, ai cho không đứa mình không đẻ. Chả có dự trữ mồm một tuần thì mơ tiền đồ thế nào, trữ đủ tháng bữa mơ càng thịnh soạn.
Tai nạn đầu tiên mang lại mối lợi không ngờ. Đang ôm đồ nghề sang quán bún đậu mẹt buổi trưa, Sơn thấy mắt tối sầm. Tỉnh dậy, xung quanh trắng toát, nồng nặc mùi thuốc, những gương mặt đau đớn, người trông nom mệt mỏi. "Làn của mày đây ai thèm lấy mà lo", một bà bảo. Bà khác "Ăn cháo rồi đi tắm. Họ định truyền đạm nhưng người cháu hôi quá". "Bác sĩ bảo mày chỉ cảm nắng, bệnh nhà nghèo dễ chữa các bác góp cho đây rồi" – bà thứ mười một. Ngay buổi chiều, Sơn đã quay lại "cơ quan" tiếp tục "phục vụ", tối ghé bệnh viện lấy lọ bê một được cấp, hoa quả bánh sữa mọi người cho. "Sống xa nhà làm cái sổ tiết kiệm kẻo lần sau…", lời nói "đùa" của bác sĩ và mấy câu lẩn thẩn của các bà, kiểu "Sữa Ensure Mỹ có sáu trăm nghìn bồi dưỡng vào cháu ạ" rụng ngay. Lần đầu tiên Sơn vung vinh, vào quán phở gọi bát chín thật nhiều bánh, mua điện thoại di động. Và tết "thăm nhà" sau bốn tháng đi, nó đưa mẹ ba triệu, bảo mừng tuổi ông bà với ai thì tùy. "Vớ vẩn, đánh giầy còn mừng rỡ gì", mẹ cầm tiệt.
Còn ít dành lại, Sơn cho em gái và chơi điện tử. Thằng Toàn chằng chằng "đẽo" Sơn như chưa hề có bận nó nhất định không chịu cưa đôi que kem. "Nhà mày chủ tịch xã thiếu gì tiền", Sơn chề môi. "Bố tao kiết lõ khâu túi lại". "Thế đi giống tao". Toàn đần mặt: "Tao cũng muốn nhưng chị Hanh vào Nam làm ăn bảo sợ về nhà". Sơn nghiêm giọng: "Chị Hanh công nhân, về cứ bị hỏi bao giờ cho ăn kẹo với thăm ai phải sắm quà. Bì thế nào với tao. Tự do nhất hạng! Không thích chào ai chả bị nhắc, tiêu gì chả cần xin phép. Có lúc đói lả nhưng hay hơn về làng nhiều. Tao thích ngất vài quả nữa nhưng phải tránh ngày lễ dân nhậu say nhiều, viện đông chả ai để ý mình. Mà thôi, hèn như mày đi thế nào, tao kể phí chuyện". Làm Toàn tủi thân, công nhận mình bám đít ông bà già thật, cũng chả biết đường mà ngất. Nhưng lại thác ra "Tao còn trong bụng mẹ đã bị dí sau này chống gậy đâu sướng như mày". Bần thần rồi tiếp "Với bố tao bảo chịu khó học mươi năm nữa truyền cho chức chủ tịch xã". Ôi giời, cái gì cũng tiếc thì thay đổi thế nào.
* * *
Giờ là "khách sạn" Xa mẹ, chỗ lưu trú sau khi nằm viện. Tai nạn thật mới bỏ mẹ. Khách vẫy bên kia đường, Sơn lao sang thì đụng xe máy, thằng lái phóng ngược chiều gửi lại câu chửi. Người bu đến thương đứa bé nhiều nhưng mải chửi quân mất dậy kia hơn, thành thử nó phải cố nhịn đau để được thương. Những ông bà tốt bụng cho tiền, chú taxi chở miễn phí… chả ai biết túi nó còn hơn bốn trăm ka(1). Rủi ro lại vào dịp lễ Lao động, dân nông nhàn vui mừng ăn nhậu rồi chạy vào viện nghỉ tiếp đông đúc. Phòng cấp cứu tanh mùi máu khô, hương kháng sinh nồng nàn, bô chậu loảng xoảng suốt đêm. Nằm ngoài rìa, chỏng chơ, nó được hỏi đến nhiều, ai nghe "tường thuật" xong đều nhất trí thằng kia kẻ cướp. Câu thương xót chen câu phẫn nộ rồi đồng lòng lên án thành phố. "Chỗ nào cũng chen chúc, tắc tị, thắp nén hương không tĩnh tâm được". "Xảy nhà ra mới biết dân Hà Nội tệ, mặt mũi lạnh lẽo nói sõng sượt chả như dững quê". "Đúng thế, câu cảm ơn còn tiếc chữ "ạ" nghe ngứa cả tai. "Nhà cháu ở giầu bộn mà tiền chợ bữa nào cũng kiểm, chả rơi vãi chinh nào". "Chả có tình gì chỉ còn tiền, bãi đái cũng thu ba nghìn đi xong tôi để vòi nước chảy cho bõ ghét".
Mỗi người một câu, đa phần đàn bà nên ai nói nấy nghe. Nhưng như được định hướng, đều sắp giơ tay để đề nghị lên Liên Hợp Quốc ra nghị quyết tổng xỉ vả bọn thị thành. Thì góc phòng lào phào giọng âm hồn thất tán: "Tôi cũng người quê, nghe các bà chê người phố từ nãy thấy cũng phải, nhưng biết một mà chưa biết hai…". Dừng tý cho "chợ" đỡ ồn, lại: "Hà Nội là chỗ ba vạ, làm gì ra có cây đa mái đình với ông Thành hoàng như ở nhà. Chú bác vắng láng giềng không còn sợ nỗi gì, nên ai cũng nhổ bọt đái ỉa bậy được. Về quê á, đố giở thói ấy ra. Cái thằng kẻ cướp ấy có khi chào từ đầu làng đến cuối xóm, còn được tiếng khen vì đóng quỹ khuyến học, góp giỗ họ bộn chưa biết chừng". Cái mồm lưa thưa răng ngưng lại lấy hơi rồi tiếp: "Các bà chê người ta thế sao không ở quê còn kéo cả ra đây mà đây là chỗ cần yên tĩnh cứ quen thói nói to nói nhiều như cái chợ ở nhà. Kiếm ăn đâu phải thương đấy, chứ mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng là bạc". Lý lẽ chắc quá, các bà phản bác ú ớ nhưng dai nhách, khiến cơn đau của Sơn chạy chỗ lung tung. Miệng hừ hừ mà cái đầu, buốt thon thót theo cơn giật, vẫn biết "nghị quyết" có cơ không ra được.
Chú Hệ đến muộn, không thể bỏ cuốc xe ôm ngoài ga. Tầu đêm nhả ra loại khách hãi lũ tài trọc đầu xăm trổ, nhìn chú thấy tin cậy. Chú nằm bên Sơn trong nhà trọ, ngáy như tầu hỏa, thở ra nặng mùi nhưng về muộn hay dúi bánh giò nóng cho nó. "Ăn khẽ thôi không mai thằng Tính chửi tao". Tính người làng chú, hay vay tiền rồi "quên" lại rất láo. Thấy bảo phải "thêm nếm" mới được khám sớm, mặt chú tái dại. Gửi xe dù chục lần mỗi ngày, cửa viện đều "chém" đủ năm nghìn. Thằng nằm ghép giường mười sáu tuổi, đi phụ hồ, tập uống rượu rơi xuống tầng giờ cứ nôn khan. Các anh thợ bạn người khóc thương, người than không có bảo hiểm mà chủ nhà vắng chả xin ứng tiền được.
Hành lang lại xôm, vẳng vào tiếng hát
Em ới em ơi
anh yêu em nhiều
đường về nhà em
xa lắm xa lắm
chó cắn dữ lắm
bố dữ hơn chó
Anh đi xa tới
em còn tiền không...
Điều dưỡng viên quát "Bảo mãi chỗ này là chỗ chơi bài phỏng tôi để người nhà các ông kíp sau giải quyết nhá".
Rồi chú Hệ đóng hai triệu tạm ứng, Sơn được đưa đi chiếu chụp, lúc lên bàn bó bột mới hay chân gãy mẹ nó rồi. Bên hậu phẫu yên ắng hơn vì hạn chế người trông nom, bệnh nhân đã được thuốc thang. Đỡ đau, Sơn lại lo. Cô điều dưỡng bảo vào mặt nhăn nhó của chú Hệ "Dịp này đông, toàn người nghèo nhà xa, viện chữa miễn phí mãi thế nào được", giọng đơ đơ như phát thanh viên ngoài ga. "Nhưng mai anh cứ sang cơ quan chức năng xin trợ cấp xem à ngày kìa họ mới đi làm…".
* * *
Lay lắt, đau đớn, trông vào miếng ăn hớp uống người dưng, Sơn suy kiệt, tái ngắt, nghĩ mình chỉ còn thoi thóp. Mẹ đang làm gì, sáng ra thắp hương có biết đường xin các cụ độ cho con. Con còn hơn bốn triệu gửi chủ nhà, chết thì ông ấy có giả mẹ mà con chết thì hơn làm thằng què báo cô. Quê mình lắm người ra đi, chả biết có ai khổ bằng nhà ta… Nhưng mình là phận cỏ, bão về đa đề bật gốc còn cỏ chỉ chúi xuống, chết thế nào được. Kệ!
Làng Bùm nằm bên sông Bùm, ngoài cây lúa chỉ còn đỗ lạc ngô khoai, không giầu có nhưng thiếu đói thì chẳng. Lại nổi tiếng vì tục kỳ lạ, đi ăn xin. Ông cụ ấy vác rá thủng, đến đây đói chết gục, được tôn lên làm Thành hoàng. Đình chả bao giờ được ban sắc phong vì vua chúa các triều đều coi thế là hạ tiện. Hết mùa gặt, nhà nào cũng "cử" người khỏe mạnh giả cách tàn tật đi khắp thiên hạ, nên câu "Bùm ta nửa thật nửa chơi, chân lành hóa gẫy nơi nơi tung hoành". Nghe nói thời hợp tác, xã còn cấp giấy giới thiệu cho dân "đi di trú, mong các địa phương tạo điều kiện", thực chất là "lạy ông đi qua bà đi lại". Mấy chục năm nay bị cấm hẳn. "Tục" hết nhưng "thói" giang hồ còn trong máu hay sao, dân Bùm cứ phải ngọ nguậy, thành niên là xuất khẩu lao động, ra khu công nghiệp, phận kém hơn đi ở, lên rừng chém gỗ. Tết lễ người có đoàn thể dân tự do kéo về hân hoan vô tả. Tình quê sâu đậm hóa thành công đức. Nhà trẻ, đường ngõ, đình miếu được sửa sang, họ lớn chi nhỏ đua nhau dựng lại nơi thờ Tổ. Mặt Bùm rờ rỡ, sáng trưng lên.
Qua mấy ngày lại lặng tờ, rặt người già con trẻ, có bà chết thối inh hàng xóm mới biết. Nỗi lo cơm áo không còn, nhưng mặt người sao lắm thui thủi. Lạnh thế, nên lũ mới lớn đều thấy buồn. Lên đường không đổi đời cũng vui hơn, mà chết thế đếch nào!
Hết tết Lao động, lúc Sơn đã ra hành lang, chú Hệ đi lại chốn "chức năng" rồi báo trường hợp của nó rất phức tạp. Bị xe đâm ở quận này nhưng trọ quận kia, cả hai đều bảo đồng nghiệp "bên ấy" mới là nơi giải quyết. Lại báo về quê nhưng tỉnh đâu có quản lý người đi xa làm ăn. "Bèo dạt mây trôi" nhờ đợ đến hôm có đoàn trắng toát sột soạt tới, ông đeo kính lấp loáng cho gửi nó đến nhà tình thương Xa mẹ. Thời buổi chính sách xã hội của nhà nước eo hẹp, may lại dậy phong trào từ thiện. Bệnh viện nào cũng có vài "mái ấm", "nhà tình thương" làm vệ tinh, hứng những cùng đường. Sơn mười lăm, đã quá tuổi được Xa mẹ cứu, nhưng "xét thấy" người nó một tay xách nặng mà mặt già bằng thằng xa vợ, được đặc cách nhận.
Có chốn yên thân lại tiếc. Đợt thành phố "làm sạch địa bàn" trả lang thang cơ nhỡ về quê trước lễ, giá mình không tìm cách trốn để ở lại. Phỉ phui cái mồm, cứ chê "các ông ấy bắt cóc bỏ đĩa" rồi giờ phải ôm cái chân bột và bao nhiêu mối lo.
Nhà tình thương Xa mẹ trong ngõ, xập xệ nhưng hơn chán "khách sạn Bờ la hiên", quạt trần chạy ngày đêm. "Khách" tinh loại hay ngọ nguậy, Sơn được giường riêng do đá đội chân to. Chỗ này một anh mấy năm trước còn vô gia cư nay đã đại gia lập ra, để "bảo tàng quá khứ". Đội trật tự bến xe toàn thứ dữ vào cuộc đỡ đầu bữa sáng, rồi Hội Phụ nữ chợ Tiền cho bữa trưa. Tối thì sơ Phương đến, có hai người đẩy xe thức ăn mở ra còn bốc hơi. Thịnh soạn hay không, sơ mang lại sự ân cần, đầm ấm khiến đám trẻ bụi ngoan hẳn.
"Ăn từ tốn kẻo nghẹn". "Cu Tiến không rửa tay phỏng áo Đức chua lắm nhá". Câu trách khẽ khàng mà đứa nào cũng vội nghe lời. Phương bưng phần riêng vào góc "Nào Ga vơ rốt(2) của chị". Thằng què rất nhạy với mùi mồ hôi lưu cữu nấp trong kẽ ngón, nghĩ chân sơ thơm chả cần lót quế. Câu Tôi xa Hà Nội năm tôi mười lắm khi vừa biết yêu rơi xuống. Chị ấy mềm ấm, không xương xẩucáu gắt như mẹ. Bao giờ tháo bột, em được ở lại đẩy xe thức ăn cho chị nhỉ, hàng ngày đi theo nếp áo chùng, khăn che nửa mặt kín đáo…
Ban đêm, giấc mơ tuổi mới lớn bạo dạn hơn. Sơn đưa Phương về thăm làng, sơ vẫn mặc bộ dài chùm mầu xanh, nhưng lộ gót đỏ giầy nó tặng, đánh xi kỹ bóng hơn mới. Sơn chỉ những quéo nhãn sung bưởi, sơ cứ ngạc nhiên "Ơ thế à". Thằng Toàn chạy theo lí nhí "Mày ra Hà Nội thế này làm tao ghen". Từ khám thờ đình làng, ông cụ râu dài mặt hốc hác đầy bụi bước xuống, tay vung gậy đuổi chó tay thò vào bị vốc mớ tiền lẻ tung lên. "Ta là Thành hoàng, có chút này mừng các con", như thể mình và sơ "có gì". Những tờ năm trăm, một nghìn, hai nghìn đồng rơi chùm giầy đỏ.
* * *
Xa mẹ, sau bữa sáng ấm bụng thật rộn ràng. Chiếu tá lả gầy lên, đứa thạo truyền nghề đứa "cà dốt" xong sát phạt loạn xạ. Thằng bé nhất mười tuổi vớ đâu cuốn ngôn tình, nhá vài câu đã ư ử "Cuộc sống không giống cuộc đời". "Im cái mồm tao đang quắn còn triết học!", đám bạc quăng ra câu quát. Sơn không tham gia bên nào, trầm ngâm như ông già. Chú Hệ về rồi, toàn chuyện buồn. Thằng đồng hương tuyển người đi lao động bùng. Chú đã nộp nó năm chục triệu, sang hẳn trời Âu làm cửu vạn chui. Cảnh sát Ba Lan sẽ thu tiền "nhắm mắt" nhưng đến đợt dọn dẹp đám không có giấy phép lao động vẫn có thể bị hót, trục xuất là mất trắng. Chưa thể lên đường cứu nhà, giờ chú vào rừng đốn gỗ trộm cho đồng hương khác. "Nhỡ ra còn về được nếu không bị kiểm lâm với biên phòng bắn", chú nói khi cho nó năm trăm ka. Sơn được thừa kế đống của: Mũ xe máy, chăn màn, quần áo thùng thình. Cả chiếc ca vát sặc sỡ, thứ "nam ca sĩ" tròng vào cổ khi lên ti vi, chắc chú dành chụp ảnh hộ chiếu.
Chủ nhà trọ cũng đưa lại tiền gửi. Tròm trèm năm triệu, khiến "Ga vơ rốt" đần mặt tính quên béng Phương. Nhờ cái chân, nó được ở lại nhà tình thương đến ngày tháo bột. Những đứa nhẹ hơn hay thuần đói sẽ sớm ra. Vốn ấy không phải ít, nhưng là với lúc yên hàn. Hai mươi ngày nữa nó phải bắt đầu lại, dặt dẹo, tập tễnh, biết đâu may bằng thằng đồng nghiệp cụt đến gối được khách gọi nhiều chăng. Trước mắt hẵng giấu bà bô lắm điều, lúc dứt áo ra đi nó chẳng đã ưỡn ngực "con sức dài vai rộng sá gì" mà.
Đang "tính", dù biết chẳng đến đâu, thì điện thoại réo. Thằng Toàn rách việc ca cẩm quê nhà buồn thối không có tiền chơi điện tử, mẹ tinh nhồi ăn bố vẫn đem chức chủ tịch xã ra nhử học. "Tao trốn ra Hà Nội mày bảo có "đứng" được không?".
"Mày không có bố thì hãy hỏi tao nhé". Sơn tức mình tắt điện thoại. Ngoài kia đã hết mưa, con cuốn chiếu bò đi đằng nào.
--------
(1) Mỗi ka là một nghìn đồng
(2) Nhân vật trẻ đường phố trong tiểu thuyết "Những người khốn khổ" của nhà văn Pháp V.Hugo
Nguồn: Báo điện tử Dân Việt, Thứ sáu, ngày 27/11/2020 06:27 AM. - Truyện dự thi cuộc thi viết truyện ngắn "Làng Việt thời hội nhập".
Con chú con bác
Trần Chiến
1.
Ông Dư sắp lễ thật cẩn thận, ban nào ban nấy đủ hoa quả, vàng mã. Mấy thôi đường, xe khách rồi xe ôm, may bánh cốm “quà đặc Hà Nội” vẫn vuông vắn. Trong khung kính nhìn xuống, các đấng sinh thành mỗi người mỗi vẻ. Cụ chánh Bột hom hem, soi mói, ông lý Mật tròn trĩnh, tươi như tay bán phở đầu phố, hàng dưới ba con trai. Cô Tươi “nữ nhân” thờ bên nhà chồng. Định thắp hương thì ông Lãm “hượm uống nước đã”, giọng trầm trọng.
Hết tuần chè đầu chưa thấy gì, Dư đã nhấp nhổm thì ông Lãm lên tiếng: “Vậy chứ, chú về làm gì?”. “Em về quê mà. Em chả đã gọi báo bác rồi thôi”, Dư định dài dòng rồi im phắc.
- Mười ba năm nay chú mới về, là làm sao? Cô ấy đâu, quên hay chê quê chồng rồi? Bọn trẻ nhà chú còn biết gì đến cội rễ không hử hử?
Rụng xuống bao nhiêu là nỗi, chả biết nên cởi bỏ từ đâu, đâm thượt cái mặt ra.
*
Dòng Lê Đình của Dư ra thiên hạ rất chìm. Học hành tầm tầm, không khoa bảng đâm chả ai phẩm hàm đeo thẻ bài ngà. Nhưng ở thôn Lê Xá oách ra gì, cụ tổ có tên trên bia Tiền hiền khai canh ngoài đình, thời vua gì trước ông Bảo Đại cỗ đám luôn ngồi chiếu trên. Cụ chánh hội Lê Đình Bột đẻ ra ông lý Mật, các con ông Mật là Triển, Vọng, Tươi, Tỉnh. Lãm con ông Triển, Dư con ông Vọng, đôi con chú con bác ruột cách nhau gần mười tuổi. Bác Triển sinh đúng kỳ triều Nguyễn mở khoa thi hội cuối cùng, lớn theo tiểu học Pháp Việt, đang nhắm chân thư ký con con thì năm Ất Dậu ập đến. Chết đói chết khát đầy đường, cách mạng về, bác tham gia Liên Việt xã, lúc Tây quay lại các ông Việt Minh bảo có ít tiếng Pháp ra làm lý trưởng còn giúp kháng chiến. Quán triệt, chấp hành rồi phải qua những đận rất khốn nạn. Chuyện này giờ chỉ còn là đồn thổi: du kích đã tung lựu đạn trừng trị tên lý Triển nhưng không nổ. Nửa địch nửa ta, tên bác bị “quên” trong cuốn sử đảng bộ xã soạn sau hòa bình. Gia đình chả cất mặt lên được, tức mình cho thoát ly hết. Bác mất sau đình chiến ít tháng, nhưng “nợ nần” còn dằng dai…
- Em nhớ mà. Tang bác gái, bố em hờ người nhà đi cả chị ở lại chịu đựng đấu tố cải cách, những tội mà anh tôi không hề mắc. Ruộng vườn là của cả gia tộc đội chụp hết về dòng trưởng, đôn lên địa chủ. Sửa sai lâu rồi mới khóc được câu ấy.
Ông Dư nhắc lại, ra điều mình không quên để khỏi nghe những điều đã biết. Không ngờ ông Lãm rẽ ngả khác: “Thế chú biết sao tôi đã xong trung cấp kế toán, đi làm sở Y tế còn quay về quê không? Là bác gái bảo thoát ly hết thì ai trông coi cái gốc. “Mẹ không sống được bao lâu nữa, ruộng vào hợp tác không trông mong nên chả phải lo. Nhưng các cụ nằm ngoài đồng sạt lở phải đắp, nhỡ cái hạt cây rơi xuống, mọc rễ đâm thủng áo nhà loạn lên ngay. Gian thờ ngày rằm ngày một không nguội lạnh được. Năm mười cái giỗ dán trên cột nhà vợ chồng mày phải lo. Ngành trưởng là phải thế, chim chóc bay đâu còn có chỗ quay về”. Chứ tôi còn công tác thì dù trình độ thấp vẫn lên dần dần, về hưu có lương ba triệu chả phải bạc mặt khi có ai mời đám giỗ”.
“Năm hợp tác quy hoạch ruộng đất, thằng Ty chủ nhiệm phổ biến bốc tất cả mả về nghĩa trang để ruộng quang máy cày chạy thẳng một lèo, tôi ôm chân các cụ ngủ nông hội quy cản trở đường lên chủ nghĩa xã hội. Thằng Ty đầu tầu gương mẫu dọn của nhà nó trước, dẫm phải đinh ván thôi uốn ván rung giường lên viện tỉnh không cứu được. Thế có phải là quả báo?”.
“Vườn nhà rộng, nó định lấy làm vườn trẻ thôn. Tôi bảo đây là hương hỏa, cả chi trông vào, những ổi mít bán đem làm giỗ các cụ, chứ trông vào góp giỗ thì ngành trưởng không đi kêu gọi được. Quá bằng xin. Trưởng thôn bảo phải vì tương lai con em chúng ta chứ tôi mắng cho hương hỏa ngành anh rộng sao không vì con em trước. Nó thù cho, chuyên bắt tôi đi đắp đê với thủy lợi hai linh hai, thịt con lợn chia chỉ bạc nhạc. Tôi kệ. Giữ được cái các cụ để lại là tâm tôi yên ổn”.
Nội tộc cũng phải trị nhau, như ông chú phá quá bằng giặc: “Tôi trồng vườn xoan hơn chục năm hạ xuống, bỏ ao ngâm ba năm thì đưa lên trải lại mái nhà. Thằng Đáp đòi lấy chục cây “vì trồng vườn hương hỏa”. Tôi bảo đây là che lại cho các cụ khỏi ướt, chú lấy thì bằng trèo lên mái ỉa xuống. Nó cậy rượu tục tằn lắm bảo giỗ đéo sang nữa, đi đường chào chả đáp. Nhưng tôi vẫn đon đả, giỗ sang mời thì có vắng buổi nào đâu còn chê không có giò như cỗ nhà Mại rồi lấy phần cho con. Người thân đấy vai trên đấy nhưng đẻ muộn, tôi lấy tuổi tác ra đè phải chịu chứ. Nhưng mà tức, nói ra làng nước nghe chả ra sao, nuốt vào trong người đau âm ỉ. Giỗ chạp, người đi xa về… tôi bù trì cho tròn, khỏi áy náy, nhiều đêm thức tính toán ai biết đấy là đâu”.
“Câu này thừa nhưng phải nói… Không có ông Triển ông Vọng lấy đâu ra chú với tôi. Trên nữa là ông lý Mật, cụ chánh Bột và bao cụ nữa, hễ đứt một mắt nào thì hậu sinh không phải là chúng ta, rồi ta lại thờ người khác. Máu mủ nó lớn lao chỗ ấy, đâu phải chỉ là cái họ Lê Đình để khai lý lịch. Mỗi khi con cháu họ khác mang tiền về dựng từ đường là tôi tủi thân, mình mình gánh gánh lo đứt họ tộc ai biết đấy là đâu. Nhưng còn mừng là chưa có cành nào giở quẻ ly khai hay chòi lên nhánh trên, cái này tính vào công chú đã lập gia phả”.
Dư im thít chả thanh minh được câu nào. Những nỗi niềm, u uất chả tưởng tượng nổi hiện lên dồn dập, người tỉnh về vận vào mình thì không biết thoát ra đường nào. Nhất là “kết đoạn” bao giờ cũng “Ngành trưởng nó thế!”, như lời tuyên án nện xuống kẻ vô tâm, gọi nặng lời là “bạc tình” cũng được.
May “tòa” kết thúc bất ngờ như lúc khai phiên. Ông trưởng nhìn mái đầu chú em cứ chúi xuống, dịu giọng “Ờ muối nhiều hơn tiêu rồi đấy nhỉ”. Bà Lãm dọn mâm đon đả “Trộm vía trông chú thảnh thơi rồi, lần trước về có tý bủng beo”, ra ý dàn hòa rồi hỏi thăm sức khỏe thím với cháu Cương. Thấy Dư chằm chằm vào đĩa cá rán, mấy củ lạc và chai rượu nút lá chuối, bà thanh minh: “Tôi đã nhốt con gà nhưng anh chú bảo hượm gọi thế chứ chắc gì đã về”. Làm “người tỉnh” lúng búng: “Em về là về quê, có anh chị nhà cửa mình, cũng chả biết thế nào là hợp. Thì nghỉ hưu còn vài nơi mời cộng tác, phải thu xếp chứ có nhận sổ rồi chạy một mạch về được đâu. Đi làm như đang trên con tầu hùng hục, phải hạ cánh từ từ kẻo sốc rồi đột quỵ như khối ông ạ”.
“Dào ơi… Nhàn nhã, chả hơn a”, ông Lãm “cắt nhịp”, ra vườn vạch quần “tưới” đám lá lốt tốt như rừng. Dư nhìn ra sân chợt nhoáng nhoàng. Ông nội lý Mật đã bước từ ban thờ xuống, chỉ thiếu bộ râu cằm lưa thưa nhưng giữ nguyên tật gãi gãi bên ngực trái, đang ngật ngưỡng cài khuy quần. Mắt liền nhòa đi, có dễ mình bạc bẽo với quê thật, gọi là “nhạt” chắc đúng hơn.
2.
Dư rời quê năm lên chín, đi như chạy khỏi làng. Ông Vọng mang vợ con lên tuốt Yên Bái rừng xanh nước độc để khỏi bị tróc nã lý lịch, ít lâu lộn về Hà Nội với thành phần trung nông. Ở nhờ ở đậu rất khổ, gánh nước thuê cho cả xóm, nhưng Dư vào được đại học, lại nương vào cơ ngơi bên vợ. Lên đến quản đốc thì được phân nhà, bắt đầu đời tự lập, chả giầu có nhưng đủ nuôi con ăn học. Phận nhàng nhàng chả ước muốn diệu vợi, ông chỉ mong con được hai chữ “ổn định”, cao vọng quá ngã có ngày.
Làng Lê Xá đối với Dư là gốc, nhưng chỉ lưu lại những hình ảnh ảm đạm, nhiều sợ hãi, không được tươi tỉnh như cái đồng rừng cả nhà tấp vào. Về thủ đô, ban đầu Dư đều đặn về quê, góp giỗ hàng năm, dần dần thưa thớt, mang tiền “đóng cả cục” chứ không đúng các kỳ cuộc nữa. Thưa nên phai dần, nhiều lúc về phải động viên lý trí, cố gắng chứ chả nhớ nhung đến cuồng dại. Vợ Dư là người hàng phố, “theo duy vật”, máu hướng về thân tộc bên chồng rất loãng. Bố mẹ ra là thế.
Con gái là con người ta, không tính. Con trai thuộc thế hệ “một vợ hai con ba lầu bốn bánh” mới là đủ. Cương ra trường đi làm vài năm, ông bố nửa đùa nửa thật “Anh lấy vợ sớm thì tôi đỡ đần được”. Đáp rằng “Đời cao rộng lắm buộc chân vội làm gì bố ơi. Con kinh cái mong ước đứa trẻ ra đời để nó chống gậy cho mình lắm”. “Câu” được suất du học trên mạng, “thoát ly” sang trời Âu vừa học vừa làm ba năm, khi trở về “viên” thạc sĩ nghĩ ngợi rất lạ, gọi là “khác biệt”. Khác biệt ấy có trở thành mâu thuẫn, hơn nữa, xung đột – hay không thì giời biết. Bản thân ông, trong cuộc chung đụng mới với con cũng thấy mình đầy mâu thuẫn, chả quyết được một bề như bác Lãm ở quê.
Như lúc hỏi nó “Có định làm tiếp tiến sĩ không?”. Thì “Con đang nghĩ. Tiến sĩ không phải là cái danh, làm nhà khoa học cứ phải đăm chiêu lắm”, rồi bai mồm chê ông nọ có bằng rồi, bằng thật không rởm nhưng có đọc sách nữa đâu. Cương hay đi phượt, chọn một cô trong đám ấy, lấy nhau xong lập tức xin ở riêng, thuê nhà. Bố mẹ xót mỗi tháng vứt đi tiền triệu mà nhà còn rộng, thì “chúng con sinh hoạt lung tung lắm, như muốn ngủ muộn mà các cụ cứ chờ cơm ấy”. Thế thôi đành chịu.
Lần dằng co nhất là khi Cương mua căn hộ chung cư, gần các cụ để còn chạy đi chạy về. Thật ít đồ đạc. Trống toang. Trải nệm xuống sàn chứ không nằm giường. Nhất là không có bàn thờ. Bảo đóng cái giá trên cao đơn giản cũng được, ông bà có chỗ đi về thì nó khịa “Thế đáng bố phải về quê mới gặp được ông bà chứ, lập bàn thờ ngoài này chả nhẽ ngày giỗ ông bà chạy hai ba chỗ?”. “Nhưng đạo gốc của người Việt mình là thờ cúng ông bà tổ tiên”. “Chúng con không tin ạ, cứ phải lập bàn thờ mới là đúng nó vờ vĩnh hình thức lắm”. Đến đây Dư chịu, lành tính chả muốn ép con. Phần khác, đây mới là cái chính, vợ chồng Cương sống rất ổn, chăm nom bố mẹ, công việc chỉn chu, sắm ô tô thì nhập một hội chuyên đi xa vừa rong chơi vừa đỡ đần chỗ khó. “Khối người mong được vậy”, Dư “tự diễn biến” khi nhìn cảnh nhà khác ngồi đứng trên tiền mà coi như mất con. Nó không trưởng thành như mình sắp đặt nhưng đúng là con mình, nghĩ thế nên an tâm.
- Ai cũng có quê con ạ. Nhưng bố không cần con xác định về quê. Cứ coi như chuyến du lịch cho nó nhẹ nhõm.
Dư bảo thế, lần này. Con trai ngần ngừ định đi, lại “nhớ ra”: “Con đi chỗ khác chả sao, về quê mình vướng lắm. Bị ông nhóc tỳ bắt gọi “bác”, ăn cỗ cứ bị gắp lại dậy mày sung sướng đừng quên quê hương”. Nghe gặng mãi bó buộc hai hôm thôi đây còn là mặt mũi của bố, Cương ra điều ăn nhời. Thì đúng hôm đi nó báo bản Nà Bó trên Yên Bái ngày xưa bố với ông bà nội từng nương náu bị lũ quét, “con chở chăn áo mì chính nước mắm lên cứu trợ”. “Cái này người ta gọi là “công đức nơi nao cầu ao chả bắc” đấy”. Nghe câu “dân gian” Cương phì cười “Bố giả vờ người quê không thạo đâu. Với lại bố vẫn bảo Nà Bó là quê hương thứ hai cơ mà”.
Lý do “cháu nó không về” thế chính đáng quá, nhưng Dư không thể hở ra với ông Lãm, càng giải thích càng nặng lỗi cho mà xem. Những ý nghĩ trong đầu chả ra đứng chả ra nằm, cứ xiên xẹo, vừa dựa dẫm vừa thúc ép nhau. Xa quê rồi nhạt, dần dần ly quê là quá trình chầm chậm mà không thể tránh. Con người ta không có quê, gốc rễ lưng chừng giời thì ra thế nào? Những điều không thể sắp xếp cứ ngổn ngang trong lòng con người tự cho mình là “thị dân non”. Dư chiều ý bác trưởng, thắp hương mộ các cụ, gặp và không gặp những ai ai, không cãi một ly leo. Rồi bỗng nghe câu “Lắm lúc đi đường làng tôi chả biết mình đang ở đâu”, của ông Lãm, mà chả biết là mừng hay tủi.
3.
“Chú lâu không về quên tính ông ấy rồi. Chỉ thích nói chả nghe ai, già càng thế. Mà lâu có ai nghe mà được nói”, bà Lãm phân trần khi Dư chỉ gắp gọi là, không dưng bị “đàn áp” túi bụi chắc tức lên rồi.
- Thế chị cãi không?
- Hơi đâu. Việc mình mình cứ làm chứ. Bố tướng. Nhất khoảnh lắm. Mới lại bắt đầu điếc, nói dai mà lại chả vào mạch. Với lại, bà ngập ngừng, từ ngày trên lấy đất làm dự án rồi được đền bù, mấy nhà có người đi xa tắp chả héo lánh tự dưng chạy về đòi phần loạn hết cả lên. Rồi anh em mất nhau, bố con chả nhìn mặt. Đận nghèo ấm êm hơn chú ạ.
- Thì em có đòi của nả đâu. Vẫn biết công lao anh với cả chị giữ căn cơ cho gia đình chứ, hy sinh nhiều chứ. Nhưng vừa về đã được mớ mắng thôi em chả tức nữa.
Bà Lãm mồm tủm tỉm mà mắt tít lên: “Buồn cười lắm, luôn miệng khoe con cháu trong chi hiếu thuận, đi đâu biết gửi của về tu bổ gốc rễ chứ không như ai ai. Sang nhất là dòng chú, chú được thăng “vụ phó gì đấy tôi chả quan tâm”, cháu Cương đã tiến sĩ khoa học “cứ phải đi nước ngoài họp vất lắm”.
Ô thế ra bác trưởng ta… Vui thật đấy. Nhưng lại nghĩ con trai không cùng về quê còn là tốt, cái bệnh cãi đến cùng của nó toang toàng thân thích có khi, mình chằng vá thế nào. Rồi mình, đi làm ủ mưu sau về điền viên, hồi mới hưu hăm hở lắm nhưng vì “vài việc phải làm tiếp” mà hóa may. Bác Lãm tốt thật, có công lớn lắm nhưng sống cùng khéo mình ra thằng bé tập đi. Đối với người trong chi ngành, tất nhiên đều dưới vai, bác ấy bù trì, chu cấp, sẵn sàng xù lên để bảo vệ. Nhưng mà định đoạt hết. Đứa trẻ còn trong bụng đã được (hay “bị” chẳng biết) sắp xếp đống trách nhiệm, bất di bất dịch cả đời. Nhìn Năng, em ruột ông Lãm thì rõ. Hai chị em dâu phải chung đụng khó tránh xô bát xô đĩa, Năng muốn làm nhà đằng sau, mở lối đi riêng. Không vậy được, cơ ngơi tan hoang cái “thế” các cụ đã vẽ, ông Lãm lấy quyền huynh thế phụ định đoạt. Rồi ra Năng mang vợ con vào Tây Nguyên trồng cà phê, giầu ngùn ngụt, thuê cả chục người làm nhưng giỗ chạp về quê một phép theo “lệ anh”.
Rõ nhất là Phúc, vào vai đích tôn cụ lý Triển, tức thị chắt trưởng cụ lý Mật. “Phải làm nhà nước mới tiến bộ”, ông Lãm “quy hoạch” chắc nịch, cho con đi bộ đội ngay khi vừa hết phổ thông. Mãn khóa tân binh, đang đóng chốt trên biên giới, Phúc được về học sĩ quan biên phòng, ra trường lon thiếu úy chưa kịp bạc đã chuyển ngành về xí nghiệp cơ khí tỉnh, không có chuyên môn mà vào ngay chân bí thư đoàn. Xếp sắp chuẩn thế là ông bố phải nhiều quan hệ thần thế lắm, và biếu xén ra gì. Phúc công tác tốt, đứng đắn lại năng nổ nhưng nền nếp bắt đầu xô. Cô gái anh ưng không hợp tuổi, “cho nghỉ” luôn. Cô sau gò má cao quá. Phúc giả bộ chán, kỳ thực rút vào bí mật với cô trên tỉnh đâu xinh lắm mà nhà tử tế. Nhưng phải ông bố cao tay bắt thóp “bố nó bất mãn thế nào đấy đâm đì đẹt, chưa bị kỉ luật là may”. Giọt máu họ Lê đang tượng hình trong bụng người yêu phải bỏ, Phúc còn không được tiếp tục sự nghiệp người nhà nước. “Mày đích tôn phải về. Ra ngoài học thói người khéo ta mất con mà cơ ngơi các cụ để lại không ai trông nom. Dòng Lê Đình này quyết không có đứa không nghe lời!”, sứ mạng rành mạch thế không còn đường cãi. Phúc được bố nhắm cho cô gái cùng ngõ, bảo tướng vượng phu ích tử. Nhài rất mắn, đẻ luôn ba năm đôi. Tay bí thư đoàn hằng hô gió gọi mưa thúc giục thanh niên sống khỏe mạnh hiện đại thế là hết cựa. Trong nhà có “ông từ” đi lại lừ đừ, nói năng như hội viên Người cao tuổi, mà mới ngoài bốn mươi. “Anh ấy mặt như táo bón kinh niên”, thằng Cương nhận xét phũ, nhưng làm Dư thương cháu. “Ngành trưởng nó thế!”.
Sau Phúc là hai “hĩm”, ông Lãm xử đúng lệ “nữ nhân ngoại tộc”, về nhà chồng là hết, không mong được chia tý tài sản nào đâu. Dựng lại gian thờ, tô câu đối hoành phi, sắm quả chuông nhỏ, lên bức cuốn thư bao nhiêu tốn kém, mà bà Lãm muốn cho con gái đẻ chục trứng gà phải giấu chồng. Lại sang Lộc, con trai út, bao nhiêu khôn ngoan quyết đoán lấy hết phần anh. Lộc được sổng ra tỉnh, làm chân vật tư bệnh viện đa khoa, máy móc sắm về cứ đội giá lên mà thanh toán. Ăn lắm thì phải biết chia, “cà lảm” gãy răng ra, Lộc hiểu khuôn phép này, khuân tiền về nhà “trồng cây đức”, đoạn sau ra hẳn ngoài mở công ty vẫn hiếu kính đầy đủ. Thế nên ông Lãm luôn được rung đùi hài lòng ban thờ chi Lê Đình hoành tráng lệ hơn chi trên Lê Đức, chỉ kém có nhà thờ của cả họ Lê ở Lê Xá.
4.
Hồi thằng Cương ra đời, Dư nhờ bà Chiểu, gọi là chị, họ bên mẹ lên chăm. Bà Chiểu người bé tẹo, chồng chết sớm không con đâm bện hơi thằng cháu, lắm khi cho nó ăn thêm rất “không khoa học” như phương pháp của vợ Dư. Cương lớn rồi, bà lang thang ẵm cháu vài thiên hạ nữa thì về làng, mùa hội bên Vân Xương đi ăn mày đủ sống nửa năm, nửa còn lại chả biết giật vá thế nào. Giờ Cương “phương trưởng”, Dư sắp phần quà sang thắp hương, gọi là tạ ơn bác đã bế ẵm. Muốn thế nhưng bác trưởng lại ngăn: “Sang đấy mà không vào ông Đĩnh ông Phác bà Sản không được. Toàn vai trên, chú đi rồi tôi bị trách. Mà nhà đã sang cho thằng cháu, bàn thờ còn chả có ảnh, thôi đi!”.
Bần thần ra ngõ, dù đã khác xưa rất nhiều vẫn đủ để nhận ra rặng duối gốc sung, nơi cậu bé Dư trèo lên cành chìa ra ùm xuống ao Tượng. Gốc sung không còn, mặt nước bên kia cắm tấm bảng “Có bán diệu đt 098… Cấm đàn bà có tháng!”. Thấy một đám léo nhéo các bà và trẻ con, ông a vào bắt chuyện, cũng phải dài dòng khai báo một hồi ra vai trên vai dưới rồi mới mạnh miệng hỏi han. Câu đầu tiên “Tôi chả thấy những cây rơm đâu, xưa cứ qua cổng nhà thế nào cũng gặp cây rơm với nồi hông nước giải, thì các bác đun bằng gì?”, chả ngờ lại ra lũ chuyện.
“Còn ai cấy đâu mà giữ rơm. Làm ruộng giờ không có lãi, công cấy hai trăm rưởi mới lên ba trăm nuôi cơm trưa mà thợ còn đòi uống Cô ca Tầu. Đun bếp ga hết rồi. Cày bừa đều máy, Tầu nó có thuốc diệt cỏ tài lắm cây lúa không chết đâm chả phải gập lưng. Tiếng là làng thuần nông nhưng bò chả cần nuôi, không phải trữ rơm nữa”.
“Rau trong vườn cá dưới ao, có giỗ thịt con gà, ông bảo còn cần gì nhiều. Gạo người tháng mươi cân bảo con nó bớt tiêu chút cho là đủ. Ông xem mấy nhà còn thanh niên đâu. Đi tiệt. Chúng tôi lo chết không ai khênh đây. Đám ma từ nhà ra đồng có xe đòn, còn đoạn đến tha ma phải khênh, thuê cũng tốn kém ạ. Chưa kể mượn người khóc, kèn trống, không để nguội lạnh được”.
“Chỉ náo nức dịp tết. Quần bò rách tóc nhuộm mắt xanh môi trầm ngứa mắt ạ. Lại chen tiếng Anh ngứa cả tai. Nhưng không đi thế lấy đâu đóng đồng đình đồng họ. Xưa có những giáp cùng ngõ cùng tuổi hay cùng đẻ con trai, giờ chúng nó có giáp xe ôm giáp cầm đồ, họp giáp tắc xi thì chật ngõ ô tô”.
Các bà háo hức phô, Dư chăm chú hóng, gật gù thế ạ nông thôn giờ khác thật. Đang râm ran thì ông Lãm hớt hải ra, cầm hai cái bánh cốm bảo chú nó có chút quà cho các bà. Câu tiếp theo còn dở, Dư bị kéo về nhà “trao đổi”: “Chú gặp ai nói gì dễ bị đưa chuyện rồi thị phi thôi hai bánh ấy là đủ rồi kệ các bà chia nhau giờ chú muốn đi đâu bảo tôi đi cùng”.
Chút riêng tư, vậy là không còn, không thể rồi. May mình còn biết chào từ đầu ngõ. Đợi tắt nắng, ra đồng tìm xem còn mất gì, giá không bị bác trưởng vừa bảo vệ vừa uốn nắn thì thích. Các cụ chờ suất “lên nóc tủ” sớm quá, chả bù ngoài phố thị hưu trí vẫn chạy theo quả ten nít và chát xình ầm ỹ ngoài sàn nhẩy.
5.
Xã Vân Ổ có mấy thôn, Vân Xương nhộn nhịp nhất. Mươi dự án chen nhau, nông dân chả còn mấy ruộng nhưng thành ngồi trên đống tiền đền bù. Ông bảo nông sáng ra đánh bát phở, ngậm tăm bận com lê Tầu đôi trăm ka cầm hèo thăm đồng. Mấy chục tỷ từ đất được dành lại, chùa cũ phá đi, cái mới lên mới hoành tráng lệ chứ. Đồ thờ sáng choang, đi mấy bước vấp hòm công đức ghi cả chữ tây. Đêm đêm mặt Phật bập bùng trong ánh đuốc lên đồng, vàng mã tiến sĩ giấy voi ngựa giấy cháy cả chục triệu. Kể ai sáng suốt thật, dựng chùa thu ùn tiền, cõi tâm linh thế là yểm hộ cho bản tự và chính quyền xã, huyện. Và dân thu được tiền đèn nhang, bán hàng ăn, ngủ trọ…, kể ra ối thứ rất mỏi mồm.
Nhưng Dư không thích sang bên ấy, khi ông Lãm hỏi có thích xem bộ mặt đổi mới của xã không. Chỉ là tìm những kỉ niệm, dù nhiều cái đã mất, những gì còn chả giống xửa xưa. Lê Xá đến là nhiều nhà đóng cửa, chắc giỗ tết mới về. Đất chưa phải cục vàng nên ao chuôm không bị lấp như bên Vân Xương, giời mưa vẫn có chỗ thoát. Ruộng cấy thưa thớt, mấy chú máy cày rú rít quần đảo. Đầu bờ sặc sỡ vỏ thuốc trừ sâu diệt cỏ, chân không dẫm vào ăn đòn có thì. Đồng màu ngô trổ cờ, đỗ lạc xanh rì. Dư giở máy ảnh chụp, lầu bầu vì đầu đao trong khuôn hình chằng sợi dây điện. Nhưng ao cấy cần có cô sồn sồn mắt lá răm đùi trắng quá thể. Dầu thế nào thì Lê Xá còn nhiều nét xưa tinh khôi, rất đẹp. “Hôm qua em đi tỉnh về, hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”, cái ông nhà thơ gì thương tiếc đanh đá lên thế, chứ “em nó” vẫn quê mùa trinh khiết cái đấy ạ. Còn, là nhờ cái nghèo.
Đình, chùa thôn Lê Xá cạnh nhau, nhỏ nhoi núp bóng nhãn, quéo. Mái xô nhiều, một đầu nóc xệ, nhưng hình chạm trên kẻ bẩy, thượng lương tinh tế một cách chất phác. Đẹp nhất là cửa võng, mây vờn nhè nhẹ, cánh chim động đậy níu con mắt. Đang ngày một, mấy vãi già ngoài hiên vồn vã mời hai ông vào thụ lộc. Là chị em tôi sóc vọng chỉ góp chục nghìn cúng cả Thành hoàng lẫn Chư Phật, lễ xong ngả ra đơn giản nhưng là đình của làng mình, cần gì to tát như bên kia. Tượng cũ chùa xiêu nhưng nghe tiếng chuông nó trong, trong là trong cũng chả biết thế nào ạ. Xôi trắng các vãi ăn ngay, còn phần tám khoanh giò gói về cho thằng cháu đấy mẹ nó cứ dựa dẫm vứt sang. Những chuyện chả đầu cuối không “mục đích yêu cầu” cứ rù rì chủm chỉm mà Dư thấy mình đắm chìm vào. Đang khi thì có tiếng rền vọng sang, vượt qua cánh đồng, đè rạp ngọn tre tán bàng với cả những ổi mít sung cậy bên này.
“Bên kia, là bên Vân Xương có đình chùa mới ạ. Từ ngày lên chập cheng cả đêm chả biết là lễ Thánh hay Phật nhưng tiền công đức hứng vài bao tải dứa. Chính quyền xã nghiêng cả về bên ấy, vừa làm hội thảo bảo đình chùa Vân Xương mới là cổ kính đề nghị công nhận di tích quốc gia. Thực hư thế nào không biết nhưng tôi lớn lên đã nghe là bên này có trước, họ Đào thôn Lê Xá còn có cả ông tiến sĩ ghi tên trên bia Văn Miếu Hà Nội”.
“Sư Đàm Mừng bên Vân Xương dạt về chùa này. Tranh thế nào với sư mới, trẻ tuổi, da trắng môi đỏ mà bằng cấp cao, được Sở Nội vụ giới thiệu với xã ủng hộ nữa. Xa hoa á đi xe biển xanh uống rượu tây á tôi đã được gặp đâu. Nhưng thầy Mừng không tị, bảo Phật độ cho ngôi Lê Xá bé mọn là đã đủ, bên kia những Đại hồng chung Đại hùng bửu điện với Đại đồng cổ cứ to tát mãi lên liệu còn đoái xuống sinh linh cát bụi...”.
Những câu không đầu không cuối chợt hiện ra chợt biến mất mãi không hết, lũ lượt như đàn kiến chạy mưa. “Các bà nói toàn chuyện đàn bà, yên để tôi hỏi ông Hà Nội điều quan trọng”, ông Khoáng trong ban bảo vệ di tích lên tiếng. “Đình ta vài chục năm lại trùng tu, vào hội nào cũng tắm tượng quét tước, chữ nghĩa đem dịch hết biên lại cả, đến mươi năm trước mới phát hiện tấm bảng “giấu” rất kỹ sau bức hoành trên kia. Bé tẹo nhưng sơn khắc công phu, ghi ba chữ Nho chả biết nghĩa. Chúng tôi đã chép lại gửi mấy ông Hán Nôm, đều bảo triện lệ gì đó nhưng các cụ viết tháu đánh đố quá không đọc được. Thầy Mừng nhờ nơi nơi chả kết quả gì. Vậy ông chụp ảnh hỏi hộ chuyên gia trên Hà Nội nghĩa là nghĩa thế nào”.
“Việc này can hệ ạ”, ông Khoáng mỗi lúc mỗi trầm trọng. “Đình ta dựng mấy trăm năm nay rồi Lê hay Nguyễn chả biết, sợ nhất là ai đặt “ông” ấy lên bao giờ không hay. Tốt lành không sao, nhỡ bị yểm hay là sấm truyền, đoán định mai kia sảy chuyện gì đó thì biết tránh đi đâu. Rồi ra mình hay đời con cháu mình phải kiếp làm thuê cho quân Vân Xương chẳng hạn, đấy nghĩ vậy đâm cả lo, để chẳng an tâm mà dỡ bỏ không dám”.
Dư ngửa cổ lên nóc đình, bức hoành che tấm bảng kia nằm gần thượng lương, phải thanh niên bắc thang lên mới được, nên hẹn hôm sau ra. Rồi bỏ tiền to vào hòm công đức, thắp hương, trầm ngâm đứng, ra về bần thần với ông Lãm “Em thấy có gì đâu mà các cụ cứ lo…”. Bên kia tự dưng bâng quơ “Từ ngày điện đóm sáng lòa tôi không sợ ma nữa”.
Ban đêm có sấm sớm, mưa rửa đền đổ ào ào. Dư mơ gặp chị Bính mắt lấp lánh, ngượng ngùng che cặp đùi sáng bóng, tỉnh dậy thấy giữa hai chân cứng ngắc. Đồng quê phồn thực, rượu dái dê thụi liên tục làm anh già mất nết, buồn cười quá. Rồi nhớ trận mưa nảo nào to chưa từng thấy, cậu bé Dư chạy ra sân bắt cá rô rạch ngược. Trên ban thờ các cụ chánh Đường lý Mật cùng tưng nấy bà vợ nhìn cháu nô, cười chảy nước mắt.
6.
Quê hương dù vãn người nhưng khoản ăn uống rất tưng bừng. Làm nhà ít nhất ba đận nhờn mép: xuống móng, lên tầng một và cất nóc. Cưới hỏi tang ma không kể, những ông bà già chả còn răng, con cháu làm nên sinh lễ nghĩa mừng thọ năm sáu bẩy tám chục, có thể tám nhăm chín mươi nữa, bận áo đỏ nhận chúc tụng ngửi hương khói rất tổn thọ. Ngành trưởng càng tốn, “bên dưới” cứ “ủy nhiệm đại diện”, phải cầm vài chục, giờ là tiền trăm sang góp. Không trả nợ miệng mang nhục, có tháng đi đôi chục bữa, ông Lãm may có thằng Lộc “rót” cho, chứ nhà khác bị khinh.
Trưa nay “có chú nó về”, ông Lãm từ chối được hai đám, mời mấy chỗ gần gũi sang. “Cơm dưa muối gọi là”, ông giết con ngan ba cân rưỡi, tự tay đánh tiết canh, pha chặt. Dư phe phẩy cái quạt, nhìn ngấn mỡ dầy ự bám trên bát canh đã thấy ngán. Miếng thịt to tướng, nước mắm công nghiệp đựng chai nhựa thơm lừng, giả tạo như nước hoa ca ve. Mà chả có rau sống ngoài đĩa bí xào lòng, tức là quê ta vẫn chưa biết dùng gia vị, “trình” ăn uống vẫn chỉ đến “no” chứ chưa “ngon” được. Bèn kệ ruồi xơi trước, chạy ra vườn, sang cả hàng xóm hái cả lố đinh lăng, húng, kinh giới, mùi tầu, mơ lông rửa ào đổ đống ra mâm. Thế mới đỡ ngán. Và hài lòng với đĩa muối chanh ớt đâm tiết luộc. Không điểm thêm những thức vớ vỉn này vào cõng thế nào được thịt rượu.
Ông Lĩnh đến đầu tiên. Tròn trĩnh, hiền lành như củ khoai giống dưới gầm giường, vừa gặp đã “khai” từng lên phố ở chung cư. “Con nó có điều kiện nhưng vắng cả ngày. Tôi bắt thang máy, thấy con bé nhơ nhỡ hỏi han thì bị nhắc nhỡ bố mẹ nó bảo “quấy rối”. Lão xe máy hỏi đường xong “cảm ơn” sõng sượt đáng phải thêm “ông” hay “bác” chứ nói vậy ra cảm ơn cái cột đèn à. Đấy cứ thế tôi chán về ôm ảnh bà ấy vậy”, mấy câu rồi chả mở lời nữa. Dư chả nhớ dây rễ thế nào, cứ nhìn đầu lúng búng “bác” với “em”, phải đến lượt ông Tốn sang mới biết mình xưng hô thế là chuẩn, tuy có chút chóng mặt nghe “kỵ nội chú với kỵ nội ông Lĩnh là anh em con dì con già”. Ông Tốn cũng vai anh, to xương, sắc sảo, để tóc dài nghệ sĩ, nói hết phần người khác. Phô hồi chiến tranh làm tuyên văn trung đoàn tuyền đôn đốc bích báo, ca hát nhiều nên giờ có vốn sáng tác thơ ca. Thôn Vân Xương dựng đình to chùa nhớn, nhiều nhà ăn theo lập điện phủ “chi nhánh”, những là nơi Đức Thành hoàng Ngài gặp bà ăn xin thực chất là Thần trời, nơi Ngài phù phép cây gậy thành đạo binh đánh giặc, phá giặc xong thời hóa chỗ ấy nọ. Nhu cầu viết “thánh tích” bằng thơ lục bát rất lớn, để in ra tờ rơi phát con nhang đệ tử hằng từ tâm công đức.
“Tôi về có thượng sĩ “i nốc” rất khó, giờ nhờ du lịch tâm linh mà sống được. Tài mình chả bằng ông Tố Hữu nhưng cũng làm được diễn ca, năm trăm câu kể công lao, đức độ Ngài và cha mẹ sinh thành, thủ nhang giả nhuận bút hai triệu. Đêm hôm thức viết mệt nhưng có cái vui sáng tạo, quần chúng biết đến mình chú ạ”. Ông Tốn kể rồi đọc khổ thơ kể Ngài ra đời đất trời sực nức hương thơm, cây ưu đàm nở hoa, nhà vua mới hỏi đêm qua mơ thấy phương Nam có ngôi sao sa là điềm gì. Ông Lĩnh ù lỳ không biết thưởng thức đâm Dư cứ phải “Vầng vầng chữ này hay bác ạ, cả chữ ấy nữa”. May ông Lãm hiện lên “Gặp nhau tình cảm dạt dào xin đừng mang dép và thơ vào nhà, thôi không đợi ông Đáp nữa khéo còn chưa xong bữa cháo lòng sáng”.
Tuần đầu xong thì Đáp sang, có mùi rượu thật, nhầu như thằng gác chợ mà khệnh khạng ông kễnh. Dư nghĩ “ngữ này Chí Phèo gọi bằng anh” nhưng phải đứng dậy “Chú ạ”. Đáp con bà Rân em ông lý Mật, kém Dư gần mười tuổi, tính tình chả ra ông chả ra thằng, ông Lãm chả ưa nhưng dây chút máu nên cứ mời. Với lại bà Rân đi lấy chồng vẫn quấn nhà đẻ, coi các cháu Triển Vọng Tươi Tỉnh như bạn bè. Với cả con ngan ba cân rưỡi… Đáp không đáp câu chào, cau có cà khịa với ông Lĩnh “Còn ba năm thủy lợi phí chưa nộp đấy”; quá bằng đấm bị bông, ông Lĩnh chỉ cười hiền như bụt mọc. Ông Tốn đang máu thơ ca bị cắt cáu kỉnh, ông Lãm thì khét tiếng gia trưởng. Đâm chĩa vào Dư “A cũng biết đường về quê kia đấy… Cụ đồ Đăng thời Lê ra kinh mở trường bao nhiêu học trò làm quan khét tiếng vẫn đề sau lưng ghế “Phú quý quy cố hương” có biết không? Các anh ở tỉnh chỉ cậy…”. Chợt im phắc khi ông Lãm nạt khẽ “Chú sang muộn tôi chưa hỏi đấy”. Ông Tốn bồi thêm “Hồi chú làm chân bảo nông với thủy lợi còn nợ mấy trăm chưa nộp quỹ, quy ra thóc giờ thành bao tiền nhỉ?”.
- Nói làm gì chuyện ấy. Tôi sạch rồi. Giờ sang Vân Xương giúp nhà đền tiếp khách, sắp chỗ, nhận lễ, thay quần áo cho cậu trước mỗi giá đồng, cũng phải thế nào cụ thủ nhang mới cậy vậy chứ.
- Tôi chả biết, ông Lãm vẫn còn tức, đem lễ cho chú sắp khéo giao trứng cho ác.
- Mẹ nó chứ vợ con đéo ra gì, Đáp bỗng nổi xung, dằn chén. Sáng nay bảo đưa tiền đi cháo lòng tiết canh nó bảo tiền đền bù dự án lấy đất ông phá hết xây nhà vào đâu. Cứt chó, cả đời ngô khoai rồi giờ ngửi thấy mùi đã muốn nôn, bữa rượu nó còn tiếc. Tôi chịu là chịu thế nào, cứ ra quán ghi sổ cuối tháng nó phải giả. Ông giời ác. Thôn mình đất mênh mông chỉ cho mỗi dự án, tiền đền bù toen hoẻn, chả bù bên Vân Xương trồng lên mấy doanh nghiệp, đền phủ chập cheng suối đêm giá đất thăng vù vù.
- Thế sao hồi dự án về chú bảo nông dân quyết không rời ruộng đất, đền bù rẻ vậy bằng cướp không? – “Bụt mọc” Lĩnh bỗng dưng mở mồm – Đấu mạnh lắm cơ mà. Còn bảo chính quyền bênh doanh nghiệp ác hơn đế quốc phong kiến…
- Ông biết cái đít. Không nói nữa!
Nhưng chỉ được lát, lại gây sự với Dư: “Nãy giờ toàn ngậm miệng là sao. Không thích gọi thằng này là “chú” phỏng. Tao nói cho mày nhá, đứng về đằng ngoại tao chỉ là chú, nhưng chồng sau của chị dâu ông nội tao lại là bác cụ chánh Đường đẻ ra ông Mật kia, cho nên mày gọi tao bằng “ông” mới phải. Đừng cậy lắm chữ vẽ gia phả xằng xiên, rồi cả cái làng này thành họ nhà tôm đội cứt lên đầu tuốt”.
- Tôi chỉ lập gia phả từ đời ông nội trở xuống, lên đến cụ chánh Đường thì biết gì đâu mà ghi mà chú mắng…
Dư đang còn ấp úng, thì ông Lãm phả đống khói thuốc lào vào mặt Đáp: “Cả cái làng Lê Xá, bao nhiêu làng xã ở nước Việt Nam này chỗ nào không con ông lấy dì tôi con tôi lấy bác ông hả. Đều ra họ nhà tôm hết à? Ông đang ăn cỗ nhà ngoại mà đòi tính họ tận chồng sau của chị dâu ông nội ông thì bước! Muốn lên ông lên cụ kỵ cà la oách thì về họ bên ấy mà ăn nhá. Lậy vợ bữa sáng nó không cho còn làm càn”. Dư hốt hoảng định ngăn, nhìn sang ông Lĩnh ông Tốn thấy rất điềm nhiên. Lạ, là Đáp chịu một phép, từ tốn ăn không uống.
Bữa rượu lại “đi” ngay ngắn chả lảo đảo. “Dư sang chơi nhá, đừng khinh chú thím quê mùa”, Đáp còn dặn vậy lúc ra về. Cũng chả ai tức mình hay lấy làm lạ vì xảy chuyện.
7.
“Tổ quốc con sông bắt nguồn từ những nơi đâu, từ bức tranh trong quyển sách đầu tiên, từ người bạn nhà bên trung thành và tốt bụng…”. Hồi tiếng Nga còn thịnh, Dư tự dịch được lời một bài hát như thế. Và cứ lẩm nhẩm những bé mọn thân thuộc ấy đối với mình là gì, gốc sung ao Tượng, bản Tày trên Yên Bái, lưng đồi bắc máng vầu dẫn nước về nhà, hay thằng Cường trên phố đã cho cậu biết thế nào là quyển họa báo. Khi ta uống nước nhiều nơi, ký ức cứ chồng lên nhau, chả sắc nét như ai ai có quê cụ thể, chỉ “cái làng này” thôi.
Đêm nay, làng Lê Xá hiện lên mỗi chị Bính. Hòa bình vài năm, Dư gần mười tuổi, trong làng lâu lâu khuyết đi một đàn ông, do “xỏ nhầm giầy” thời thằng Tây. Anh Bính bé tẹo, chả biết có phải sinh thiếu tháng, trước lúc đi trại cải tạo sang nhờ bà Vọng trông nom vợ “còn dại”. Trông cái gì mà trông, chị Bính mười sáu tuổi lấy chồng, đang gọn ghẽ ra đít lồng bàn, mặt tròn như cái đĩa, mũi tẹt lại hin hin, nghe câu chuyện nhạt cũng lấy làm ngạc nhiên được. Chị suốt ngày tha thủi bên này khêu rá ốc, nhặt mớ rau, nhổ tóc sâu non cho bà Vọng, lúc lội dưới ao lên để nước ròng ròng xuống bắp chân trắng nhễ nhại. Cũng vào hợp tác ra đồng chấm công, nhập đoàn biểu tình đả đảo Mỹ Diệm không chịu hiệp thương thống nhất đất nước, chị lại không có phần cá lúc làng tát ao Tượng, chỉ được mót những thòng đong cân cấn mài mại. Bính không rầu rĩ nhưng ít lời, bà Vọng cũng “ngậm hột thị”, mà cứ ngồi với nhau cả buổi. Dư chơi quanh quẩn chốc chốc nghe chị “vầng vầng sợ quá thế kía á”, chả biết chuyện cái gì.
“Chị Bính một mình sợ ma, con chịu khó sang ngủ vài đêm bên ấy”, bà Vọng bảo con trai. Dư vâng lời, tối học bài xong mang cặp sang ngõ bên, sáng ra ăn cùng chị rồi đến trường luôn. Cậu bé lạ nhà cứ lật ngang lật ngửa, chị ngồi cạnh quạt cho, nửa đêm gọi “kẻo dấm đài ra”. Sáng rõ chị đánh thức bảo ăn cơm nguội rồi đến trường. “Thằng này được sờ tí mà đéo biết đường”, Dư chả hiểu sao anh Tụng nói thế, chỗ đầu ngõ.
Đêm thứ ba nhớ hơi mẹ, Dư sang phản chị, đang liên thuyên quay đáo thì ngước mắt lên “Em cứ sờ hột táo mới ngủ được, là tí mẹ ấy”. Chị yên lặng, một lúc thở cái thượt. “Nhớ thì đặt vào đây”, đoạn cởi bớt khuy áo. Ánh trăng xiên qua cửa sổ soi chỗ ấy rất trắng, ấn mềm mềm mà bỏ tay ra lại phồng lên, không khô, nhẽo như của mẹ. Mân mê một lúc “hột táo” thành “quả sung” cưng cứng, mồ hôi vã ra đầm đìa. “Còn tay nào nữa mà quạt”, chị bỗng lập cập, “Thích thì bú đi chị cho đấy”. “Chị nóng thế sốt à?”, thằng bé có chút hoảng hốt ngồi dậy “để em quạt cho”, chả thấy nói năng gì, thở nhọc như con trâu cày ruộng sâu.
Ngày sau Bính sang nhà, tỉ tê gì chả biết, bà Vọng bảo con tối không cần sang nữa. Rồi công cuộc “người cày có ruộng” ào ạt lên, một mảnh địa chủ tháo chạy lên Yên Bái. Dư dậy thì không tắm tồng ngồng nữa, lấy vợ biết vợ, lại biết thêm đàn bà nữa, nhưng không thể quên mùi chua chua ngầy ngậy, mảng mồ hôi đẫm hốc nách, tiếng thở dốc trong đêm trăng ấy. Người đàn ông từng trải hiểu đấy là cơn khát tình, người ta có thể tru lên như loài mèo cái trên nóc nhà. Mấy nghìn mấy trăm năm làng quê luôn có biến, đàn ông đi tiệt vợ ở nhà thèm hơi, tối đổ thóc vào cối giã, hết thóc vẫn rừng rực phải ra ao ngâm, những đêm đêm đằng đẵng nhỉ. Sử sách, văn chương rồi giờ có phim ảnh toàn ghi chiến công oai hùng, sao không có chỗ cho mùi chị.
Bính à Bính ơi em không muốn gặp lại đâu, nhỡ thấy một vãi già mắt viền vải tây héo như quả táo nẫu phơi ba nắng. Giờ mới biết phải sang ngày ấy vì có ông xã đội cứ nhất định “trả thù” chồng chị theo Tây đánh Ta. Đoạn ở làng ra thế nào không biết, có người bảo anh Bính hết cải tạo về mang vợ đi chả sủi tăm. Lại câu khác, chùa gì trong Ninh Bình có sư nữ rất giống chị.
8.
Điện Hà Nội, hỏi ở quê làm gì, chỉ đi ra đi vào thì về thôi chứ. Uống nhiều đau gan không ai trông đâu những này nọ chả biết có gì hay nhỉ. Ơ hay cái “giống” vợ, chồng bên cạnh thì coi bằng cái giẻ lau, đi một tẹo đã réo về rõ ra chó già giữ xương. Bèn cùng ông Lãm sang Đáp, một dịp tha thẩn, lần mần, vặn vẹo củ tỷ. Chú mời lại, không trả nợ miệng bữa hôm qua hóa “hóc xương”. Mà quê ta, chả phải trưởng thôn chủ tịch bí thư gì vẫn tháng “họp” mươi lăm lần, đứa tỉnh về không dự thành khinh nhau ngay.
Đáp ở rìa làng, qua cánh đồng là phủ Vân Xương nguy nga, đêm đêm gió cõng về tiếng trống phách lên đồng, lúc thổi mạnh nghe được cả điệu chầu văn. Đáp tiếp khách nhã nhặn ra gì, không lấy vai trên ra đàn áp nữa. Ngôi nhà đã lên tầng ba, có lẽ bề thế nhất làng nhưng lại chả cửa giả, tường chỗ đã trát chỗ còn lộ gạch. Giường chiếu ẩm xì, khai nồng, tủ gương để vỏ chai rượu Tây. Thấy Dư tò mò ngắm bức ảnh vợ chồng trẻ mặc đồ cưới đứng bên ô tô lộng lẫy thì giải thích: “Là tiền đền bù dự án một phần, còn đâu của chúng nó hết. Con giai lên rừng khai thác lâm sản, vợ công tác bên Đài Loan. Đợt đầu chạy trăm triệu đi hai năm về xây được có ngần này, bèn chạy bẩy chục triệu đi một năm nữa để hoàn thiện. Chú thím ở nhà trông con chúng nó và trông luôn cái nhà này”. Nhìn cô dâu ngồn ngộn trong ảnh, Dư thấy mình khá ám muội. Thì vợ Đáp bưng mâm qua phang câu chua loét: “Sĩ diện! Nhà chủ bên Đài chỉ trồng rau nhưng theo lối công nghiệp, bộn tiền chứ chả như nông dân mình. Vợ đột quỵ nằm như cái đụn, chồng thuê người trông nom qua công ty môi giới lao động, nói thẳng con bé đi bưng bô rửa đít thôi. Còn thằng chồng đang lâm tặc đấy ạ”. Vậy là “chiến tranh” với vợ vẫn căng thẳng. Nhưng Đáp tỏ “công phu hàm dưỡng” cao, lơ đi như không, giục vào mâm kẻo nguội.
Cỗ vẫn từng nấy mặt, nhưng thịt chó chứ không ngan nữa. Vừa rượu thịt mấy hôm liền, ai nấy đều oải, gắp gọi là chuyện cũng ỉu. Lúc định về thì mưa xầm xập. Ông Lĩnh lại đóng vai Bụt mọc, ông Lãm chốc chốc “cầm canh” một câu giữa hai loạt thuốc lào. “Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách”, Dư sốt ruột, đang nghĩ câu này thì chuyện góc mâm lọt sang, Đáp cật vấn ông Tốn sao lại bảo bên Vân Xương mới là đình chùa chính với cả phủ chính. Đáp lại oang oang át tiếng giời trút nước: “Đức Thành hoàng đành là sinh ở Lê Xá mình, giúp vua đánh giặc rồi hóa bên Vân Xương thật. Nhưng đâu chính đâu phụ là ở mình chứ. Đấy là lời đại đức trụ trì bên kia chứ chả phải của tôi. Thày Minh Thiện học đông học tây bằng cấp cao quan hệ rộng, tổ chức hẳn cái hội thảo khoa học. Giới nghiên cứu trên tỉnh với thủ đô nhất trí bên Vân Xương mới là chính. Chính là chính là nhiều hòm công đức tiền thiên hạ đổ vào bộn chứ còn là thế nào. Đấy tu hành giờ phải nghĩ ngợi hiện đại thế chứ chả như sư bà chùa mình, khư khư cái tượng thâm xì xì”.
- Nói vậy nay mai Lê Xá mình tiến kịp Vân Xương, cũng thay đình chùa phủ hiện đại thì ông lại làm diễn ca kể bên này mới là “chính” á?
Ông “Bụt mọc” bỗng cắc cớ đáo để. Ông Tốn điềm nhiên: “Dào, cứ thầy Minh Thiện đi đâu tôi theo đấy. Nếu hội thảo lại, các học giả bảo bên ta “chính” hơn, tôi lại sáng tác tiếp diễn ca theo thế ấy”. Ngừng một tẹo liền thì thào: “Thầy tính xa lắm. Quy hoạch cả. Sẽ làm bên mình tòa mới, kết hợp tôn giáo với du lịch, đáp ứng nhu cầu vừa hành hương về cõi thanh cao vừa được ăn chơi của thiên hạ. Đình đền chùa miếu cũ đập hết, tòa mới xây có khi còn hoành tráng hơn “chính” ấy chứ. Còn tiền đâu á? Thầy sẽ làm chủ đầu tư chính, tất nhiên người khác đứng tên, lấy bên Vân Xương đắp vào, rồi doanh nghiệp với các nhà hảo tâm quây lại còn đông hơn quân Nguyên. Thầy bảo kín với tôi văn hóa tỉnh huyện với những ông ấy bà nọ đang ghế cao đều sẽ góp tiền vào như cổ đông. Cứ mỡ nó rán nó, chuỗi dự án du lịch tâm linh nuôi nhau “in ra tiền”, các vị cũng được hưởng làm gì chả thông qua. Nói thế này cho vuông, tôi may mắn được hầu thầy, thấy tầm nhìn hoành tráng mình cũng sáng láng ra. Đình chùa điện phủ mới lên sẽ thay đổi bộ mặt làng ta. Lê Xá lịch sự kịp Vân Xương, hiện đại truyền thống sánh vai nhịp nhàng. Hàng triệu người đổ đến đem lại công ăn việc làm cho vạn người”. Đoạn kết “tâm sự” của ông Tốn đang có mầu xã luận bỗng “cụ tỷ”: “Như chú Đáp, con dâu sang xứ Đài hầu con vợ có đảm bảo không bị thằng chồng nó tí toáy không. Khu tâm linh lên thì chả phải đi đâu sất, phải không nào”.
- Nãy anh bảo ông Tốn “Thầy Minh Thiện của ông khéo làm Thành hoàng thay Ngài đương ngồi trong hậu cung ấy chứ”, là nói diễu đấy chứ? Anh vẫn bảo vệ đình chùa thôn, bảo bé nhỏ, củ mỉ nhưng đúng là của mình mà…
Dư hỏi lúc về qua ao Tượng. Ông Lãm thở thườn thượt, chả ra trả lời: “Ma quỷ được nhảy múa nghĩ mình là Thánh. Hồi tôi làm đảng ủy, hội đồng nhân dân xã, ban bảo vệ di tích… còn chả giữ được, nữa là giờ chỉ còn chân hội Người cao tuổi “ăn chơi chờ chết”. Giờ chả nghĩ nữa, đâu đâu xiêu vẹo mình cứ giữ cho ngay cái cột nhà mình”.
Nỗi buồn khiến mắt ông âm u, bất lực. Ra khỏi nhà, sang hàng xóm, giỗ chạp hiếu hỷ đâu đâu không thể thoát những nông nỗi này. May ở tỉnh bao nhiêu vui thú khác mình không phải “thăm thẳm” như bác Lãm, có thế thật.
9.
Liên tù tì cỗ bàn, thấy rượu thịt phát sợ, mà họ mạc chi phái ngõ xóm ta cứ mời nhau mãi được, bấy nhiêu câu nói không chán. Bao chân tình, chất phác đến nhiêu khê, những nhiệt tình nóng rẫy, quan tâm quá hóa thành tò mò khiến Dư bí bức. Người tỉnh quen thói độc lập, có khoảng cách cá nhân, giờ như bị cái màng mỏng manh, tưởng vô hình mà dai dẳng chằng thít. Không cựa được. Cứ bị gắp hùi hụi hoặc “cạch cái đi anh”, không muốn ăn ra làm khách, tệ hơn là chê cỗ quê chứ gì. Nhâm nhi chén nước, người bên cạnh vỗ đen đét vào vai “có phải không chú”, gật vội cho yên. Mấy buổi chiều Dư ra đồng muốn một mình với ngọn gió bờ mương thế nào ông Lãm cũng “săn” được, chỉ sợ không biết đằng về hay vào nhà ai nghe câu bố láo bố toét. Đang sờ sờ ở quê mà cứ thấy xa xôi, lý do thì muôn ngàn, có khi rất vớ vẩn mà khiến ta ngại ngần. Truyền thống, tập tục, tình thân tộc quý giá thật, nhưng bị đè ép thế này thì thở thế nào được. Chả trách có câu “còn choa choa cứ thủ đô choa ngồi”, người Nghệ mạnh máu đồng hương đặt ra.
Khốn nỗi, không có ngần nấy chân tình chan nhiêu khê thì mình thành đứt gốc. Dư thấy mình như đứng giữa hai dòng chảy nghịch ngược và thật mạnh, bên bác Lãm bên thằng Cương, cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ. Có cái gì đó rách toang. Nhiều thứ chồng chất lên nhau đâm nhòe nhoẹt, ngổn ngang, chả còn sắc nét rất khó lựa chọn. Đêm mới là tự do, tha hồ “vầy vò” chị Bính trong quá khứ và ùm ũm từ cành sung xuống ao Tượng. Tự do hay bị ấm áp chằng thít thì cũng đến lúc về với vợ “muôn năm vũ như cẫn”.
Ông Lãm không cho cãi, bắt mang theo nửa buồng chuối, rượu, lạc, đỗ xanh. Quà quê chối là phải tội. Dư nhấp nhổm vì giờ xe, ông pha ấm chè bảo có câu quan trọng. “Tôi tính là thằng Cương nhà chú sẽ thay chân trưởng họ. Ngành thứ không quan trọng. Nó thạc sĩ, đây đó rồi tức là các cụ chọn nó. Chứ thằng Phúc lành quá không gánh được mà thằng Lộc lại láu cá ham kiếm tiền”. Dư quá bất ngờ nói phứa để em bàn với cháu.
Xe ôm đã pành pành, lại một đại sự nữa: “Anh chả còn mấy năm. Bao giờ đến lượt, cô chú về đây nằm, khoảnh chi mình trong nghĩa trang còn đất”. Câu trả lời vẫn thế. Đi nửa đường mới ngớ ra chưa chụp ảnh ba chữ đánh đố trên nóc đình.
Nguồn: Báo điện tử Dân Việt, Thứ bảy, ngày 29/02/2020 07:39 AM. - Truyện dự thi cuộc thi viết truyện ngắn "Làng Việt thời hội nhập".
Ai bảo viết chữ đẹp
Trần Chiến
Giọng ông Chung trưởng chi đều đều, tẻ ngắt khiến Ban buồn ngủ, nhưng không thể không theo dõi. Ban là con út, bố đi công tác “thêm nếm” ra hai chị em, mọi người ban đầu không công nhận mãi sau mới cho vào chính thức nhưng gia phả ghi là “cành” nhỏ, không ghi tên mẹ.
Dăm năm nay ngoài giỗ bố Ban được đem vợ con về giỗ tổ họ tổ chi dĩ nhiên có đóng góp. Mặc cảm “con thêm” khiến anh không hùng hồn khi tụ tập, một bề nhũn nhặn chỉ đâu đánh đấy không sai bảo thời chẳng vẫy tai.
Mà công tác văn thư của Ban cũng cần tính ấy, khiêm nhường, cẩn thận, ghi biên bản họp cơ quan làm dịu đi những ý kiến phản đối sếp quyết liệt quá mức cần thiết, đóng dấu đừng nhầm tên trưởng với phó, phân biệt rõ phòng - ban, “huân chương” khác “huy chương” càng không thể “huân huy chương” tùy tiện.
Anh viết chữ đẹp, trăm dòng như một, nên kỳ cuộc tổng kết thi đua hay được trên mượn lên viết bằng khen giấy khen, bao giờ cũng tăm tắp đều và chính xác.
Nết thế nên người được tin cậy, có điều không đủ xấc xược để làm thủ lĩnh, cũng thiếu hẳn ma mãnh đâm sau đánh lén, đành phận nín nhịn chấp hành các quyết định của người.
Đời ta phẳng lặng, tẻ nhạt, lần này được ban lãnh đạo chi nhì tộc Bùi Hữu thôn Bùm mời họp, cũng có thể tính là một sự kiện, Ban lơ mơ. Mời nhưng thật ra là “gọi”, chắc các bác sai bảo gì đấy, mình sẽ cố gắng. Cơn buồn ngủ rụi đi khi ông trưởng chi chuyển sang “vấn đề chiến lược”:
“... Tổng đúc kết lại, thì mỗi họ trong làng đều có mũi nhọn của mình để vươn lên. Họ Đào làm quan ăn ngập mặt, họ Phan buôn bán lớn cậy nhà to trần lợp pơmu đều chỉ mới giầu chứ chưa sang. Những họ nuôi tằm bán cá giống đi xa phá rừng đóng tủ xây nhà không đáng kể ra”.
“Tính về tộc Bùi Hữu chúng ta thì chi trưởng đã đưa được tám con em đi xuất khẩu lao động, chi ba một tiểu đội ra phố chạy xe ôm hoặc bế con thiên hạ, chi út hèn nhất đành ở nhà vật đất lên trồng cây này nuôi con nọ.
Những cái đấy là thành tích báo cáo lên Tổ ngày giỗ của từng chi, đồng thời biểu dương ra hàng xóm cùng các chi khác”.
“Thế thì mũi nhọn của chi nhì là gì, ta phải tìm ra kẻo thua người. Tôi đồ rằng ta là chi hiếu học. Từ năm trung cấp, hai cử nhân của vai tôi với các chú, nay phát triển khai lên tám chín cử nhân vai các con, ngày càng đông đúc ở hàng cháu.
Chúng ta đã có quỹ khuyến học, hằng năm thưởng cho đứa mang giấy khen về, nhưng cứ chỉ là tằng tằng vậy. Thi đua ngoài chân đế rộng phong trào đông vui phải có đỉnh điểm mới được, như cụ Tổ họ suýt đỗ tú tài thời Nguyễn ý. Nên tôi có ý này...”.
Đang say sưa thì bị phá. Thằng con Bùi Hữu Trụ tốt nghiệp khoa hát chèo của Đại học Xây dựng Tây Nguyên đang ăn bám chạy ra bô bô:
“Vâng vâng thành tích học giỏi cả mười hai năm phổ thông xong giành bằng đại học hạng ưu rồi tiến nhanh tiến vững chắc đến thất nghiệp như con thì chi nhì mình vô đình địch ạ thế bố cho con năm chục điện thoại hết tiền rồi”.
Như một phản xạ không điều khiển được, ông Chung móc túi tắp lự rồi tiếp tục ngay: “Tôi triển khai tiếp nhá. Câu: “Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” phải xem lại.
Nghìn cử nhân có danh giá bằng một giáo sư Ngô Bảo Châu đoạt giải “phiu” gì gì không. Chưa ngóng đến đoạn ấy. Không nóng vội đốt cháy giai đoạn được.
Ta phải bắt đầu từ dưới lên, cử lấy một người giành chân thạc sĩ sau đó tiện thì tiến thủ lên nữa. Lãnh đạo chi nhì đã họp, quyết định trao trách nhiệm này cho chú...”.
Ngón trỏ chĩa thẳng vào Ban, kèm sáu cặp mắt nghiêm khắc, chứa chan. Dù vậy anh đủ dũng khí để phân trần mình văn dốt vũ dát mươi năm nữa là hưu và đi học không phải chuyện chơi vất lắm và... Cuộc phản kháng sớm ngủm khi cả ban lãnh đạo chi vào cuộc.
Rằng chú hằng viết bằng khen tức là chữ tốt rồi. Chữ tốt nhất làng vô địch huyện là đương nhiên có nhất nước không còn phải xem nhưng cứ thế tự hào hẵng.
Còn nửa “văn hay” - là học giỏi, thì có tự trên trời rơi xuống đầu ai đâu. Đừng tự ti thế, cả chi sẽ cùng học với chú cụ thể nói sau.
Rằng xã hội ta là xã hội học tập ra đường gặp cử nhân lên huyện thạc sĩ va nhau đôm đốp tỉ lệ bằng cấp cao nhì thế giới. Mới đây trên quyết tâm đào tạo ba mươi chín nghìn tiến sĩ trong mười lăm năm tới chú không xung vào đội ngũ ưu tú ấy chả hóa ra phụ niềm tự hào chung à.
“Thế nhưng mà cao học trước hết phải có chứng chỉ tiếng Anh mý lỵ...” - Ban trình bày. Thì lại rằng tiếng anh tiếng em chứ tiếng Dim ba bu ê chi nhấc tay cái là lo được cho chú.
Càng cãi anh càng rơi vào khốn đốn, đành láu cá để xem ý ở nhà thế nào em là nhất vợ nhì giời đấy ạ. Ai ngờ lúc về chưa hở ra Nguyệt đã ngỏn ngoẻn em đang định bàn anh làm quả thạc sĩ sẽ nhiều chỗ quan hệ con Phương thằng Bảo sau này dễ xin việc.
Vừa tứ bề thọ địch lại bị cả vú lấp miệng em ngay, đầu hàng chứ còn thế nào.
o0o
Cuộc tiến công vào tri thức thật ra không khủng khiếp quá. Có nhiều việc làm Ban luôn nghĩ đến câu: “Cả chi sẽ thi cùng chú” của bác trưởng.
Đầu tiên là đề tài, GSTS(1) Z., người chọn đích danh anh để hướng dẫn bảo: “Đi tắt đón đầu - phương pháp vạn năng và tối ưu” chưa ai làm, còn bí hiểm tất nhiên khó phản biện dễ bảo vệ.
“Nhưng em nhìn vào như bức vách”, Ban gãi đầu nói vậy thì giáo sư “Yên tâm yên tâm chuyện học thuật không phải lo miễn cậu có mặt ở lớp và bàn nhậu và phòng karaoke lúc cần thiết”.
Cơ quan không khuyến khích, tức thị không tạo điều kiện cho người không làm chuyên môn học thêm, làm thế nào “phú lỉnh” được. Không ngờ là hôm tập hợp lớp, Ban va phải Vấn, phó văn phòng, đôi bên cố tránh nhau mà không được.
Vấn thật thà: “Chánh văn phòng sắp hưu, tôi phòng ngừa sếp chọn người thay có bằng cấp. Như đi buôn có vốn ấy mà. Còn ông đóng dấu với viết bằng khen thì dự làm gì?”.
Ban à uôm không hở ra mình bị chi cành và vợ đẩy ra làm anh hùng, và mừng có thằng cùng ăn cắp giờ làm công.
Lớp có nhiều thành phần. Mới ra trường chưa có việc, “cốc” tiền phụ huynh một nắng hai sương ở quê làm phát thạc sĩ. Thạc sĩ về Gió xong vẫn thất nghiệp bèn làm tiếp về Nắng.
Đời sẵn nắng gió tha hồ nghiên cứu. Nhiều nhất là công chức, anh ngấp nghé ghế sắp trống chị thèm bổ nhiệm, giáo viên mót chân giám hiệu, đến lắm lý do để chăm học. Lại một tay làm viện nghiên cứu hẳn hoi, dự lớp vì phải con trưởng phòng thằng viện phó chuyên môn dốt quá. Trả thù kiểu trí thức thế thì thậm ngu.
Khóa học dài năm rưỡi, chẻ nhỏ thành hai chục chứng chỉ do các GSTS phụ trách. Đám “gà sống thiến sót” này nghĩ ra những môn học đến là bí hiểm: “Biến không thành có, có ít thành nhiều, nhiều quá thì hô biến”, “Nhớ lại những điều chưa từng trải qua”.
Một ông tu học Niu Di Lần đưa đề tài “Chim cánh cụt xích đạo, giống và khác linh cẩu Nam Cực”. Tên gọi đánh đố thế chứ vượt qua rất chi nhẹ nhõm: điểm danh trên lớp có người ới hộ, đi thi phải có mặt nhưng bài làm nguệch ngoạc hay để trắng đều đạt yêu cầu, tất nhiên đừng mong xuất sắc.
Ban thậm chí không biết mặt nhiều thầy, quên phắt lịch học, chỉ thi thoảng dự những gặp mặt khai mạc với liên hoan tổng kết môn.
Việc đóng tiền chung cho cán bộ lớp “đi thầy”, thăm hỏi cô Ngày phụ nữ, thầy và cô Ngày nhà giáo đã có “Liên Xô” lo cả. Họ ta à quên chi ta vĩ đại thật. Ở cơ quan, rất thi thoảng mới giáp mặt, Ban và Vấn trao nhau từng nửa nụ cười.
Nhưng gì thì gì, quả thạc sĩ không phải cứt chó. Vẫn phải bỏ cho nó thời gian, công sức, càng gần ngày ăn quả càng vất vả và tốn kém. Cố mà leo chứ còn gì, kẻo phụ lòng gia tộc đã chấp nhận giọt máu rơi nay lại gửi gắm cả niềm tự hào.
Phòng riêng của Ban, nay gọi “thư viện” chễm chệ khẩu hiệu “Sống phải có mơ ước”, bên ngoài Nguyệt đi rất rón rén.
Gạo nếp, đậu xanh, trứng gà tươi, quả hái trong vườn ngon và đảm bảo sạch tiếp tế thường xuyên từ quê, ngoài tiền chi “đong” từ các đinh (giờ tính cả đàn bà) góp vào cho ông thạc sĩ chào đời.
Có lần Nguyệt hấp sâm cho chồng thức khuya, uống vào ngủ thế nào, phải đâm vào vợ mới đành, nên sáng ra bị bác trưởng - lên kiểm tra và ngủ lại - phê bình không biết dành sức cho chồng.
Mà cái củ hàn tính mạnh này là bác ý đưa lên chứ, Nguyệt oan mà không thể cãi, còn phải giữ hòa khí cho sự nghiệp chung.
Thỉnh thoảng tin dưới Bùm lên. Dưới sự tỏa sáng của tấm gương mang tên Bùi Hữu Ban, phong trào hiếu học dấy lên ầm ầm, bằng tiếng Anh hẳn hoi.
Làng quê đô thị hóa lấp lóa biển hiệu “Lòng lợn tiết canh made in Bùm Bùm”, “Thịt cầy 7 món since 1998”, “Kẹo dồi youth by 1965 hot line 09...”, sáng ra gặp nhau nhất loạt “hồ lế hao ả íu”.
Nhưng sự học đâu phải túm tóc mà cao nhanh được, phải đi trước, có bài bản, nên chi nhì Bùi Hữu tự tin chả phải kiễng với theo ai.
Nghịch ngược là thằng Trụ nhà bác trưởng, ai đời đã cử nhân cứ hãnh diện “Cháu giờ làm chắc chân nông dân, vụ cà rồi thu ba chục triệu khao đội bóng chuyền thôn bữa thịt chó”.
Lần sau đắc ý: “Cháu vay vốn ngân hàng vật đất lên trồng phật thủ, cái giống tưởng khó tính ai ngờ hợp đất làng mình, cũng nhờ anh bên đại học nông nghiệp xui”, tiện thể tặng ít tiền. “Để chú làm chuột bạch thí nghiệm ạ”, nói rất hỗn mà bà thím làm ra điếc.
Nhưng câu “Hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ” cũng của Trụ, thì ông chú nhè ra mãi nó cứ chui vào lại. Việc học, dù cả họ xúm vào, vẫn ngốn bộn thời giờ. Có chỗ nhờ viết bằng khen, phải cày vào đêm để ngày theo lớp trưởng lễ thầy.
Vắng mặt liên tục ở cơ quan nên các khoản thưởng bị cắt, còn trần xì lương chả nhẽ cũng báo cáo để chi phải bồi đắp. Ban mắc tật đãng trí bác học nói chuyện đầu óc để trên mây, ngáp kinh niên và mặt mũi xanh rờn.
Nguyệt bớt rón rén hơn vì chi cắn vào thu, hai con bị cắt hẳn suất học thêm, loại khỏi lớp đào tạo thần đồng. Muôn ngàn nỗi khó tính đếm càng không thể kể ra để họ hàng hiếu học thông cảm bù trì cho.
Các học phần lẽo đẽo kết thúc kéo theo sự khốn nạn của cuộc viết luận văn. Chín mươi ba trang, dù chữ đều người khác, không thể như nhìn vào bức vách.
Vào một ngày đẹp trời, GSTS Z. ném tập luận văn vào mặt nghiên cứu sinh, té tát: “Anh tưởng trình bày đẹp thì có thể lắp tay lên mặt đưa mũi xuống đít á đừng nghĩ cao học mà ngu quá được cắt dán đến là trắng trợn ăn cắp cả trang còn chả thèm đảo đoạn nào câu nào”.
Ban tím mặt mà không thể cãi, cái thằng chi ta thuê viết vừa ngu vừa lười tệ quá. Chuyện ở nhà, là ba trăm bằng khen sai toét phải viết lại và đền phí tổn.
Đang xây xẩm thì bác trưởng dưới quê lên, trông thấy quyển luận văn dày dặn đẹp đẽ liền khen và: “Xong cuộc này chú tiện thể làm luôn cái tiến sĩ cho đẹp mặt chi mới cả phấn đấu chân phó văn phòng để con cháu được nhờ mới cả...”.
Chưa giao xong nhiệm vụ thì “huỵch” phát, đầu chú Ban cắm xuống đất như gà mổ thóc.
Ba tháng sau, các tân thạc sĩ liên hoan mừng khóa học thành công rực rỡ “chỉ có một người rớt có lý do khách quan”.
Tất cả cảm ơn công đào tạo của GSTS, đặc biệt là cán bộ lớp đã kết nối trò với thầy cô cực kỳ hanh thông suốt. Sang tuần rượu thứ bảy, Vấn, mới lên chánh văn phòng, líu lưỡi cảm ơn “nốt” các nhà sáng lập Internet cùng công nghệ cóp - pết(2) vĩ đại đã góp phần làm nên đội ngũ trí thức mới. Nói vui thôi mà vài người tỉnh hẳn rượu mới lạ.
Cùng ngày, Ban trở về quê ở tư thế nằm, trong com lê ca vát tề chỉnh hai má hồng ngoài áo gỗ bốn dài hai vắn. Trời nắng rốc người, đoàn đưa tiễn chậm rãi, trang trọng tiến ra nghĩa trang. Dân Bùm theo rất đông, tò mò nhìn vòng hoa đi đầu mang dòng chữ “Chi nhì tộc Bùi Hữu kính viếng tiến sĩ Bùi Hữu Ban”.
-----------------
(1): Giáo sư tiến sĩ
(2): Chỉ sự “cắt dán” khi làm luận văn.
Nguồn: Tuổi Trẻ Online, 30/8/2017 5:08.
trchien51@gmail.com
Trả lờiXóa----------------