Thứ Bảy, 10 tháng 5, 2008

Lính khoá 6 và những năm tháng ở Trường Quân sự - NGUYỄN HỮU NGHỊ K6

 

NGUYỄN HỮU NGHỊ (Học sinh khóa 6)

Tốt nghiệp phổ thông, đám lính Trỗi khoá 6 chưa kịp làm quen với các bạn gái trong lớp thì lại rủ nhau đăng ký thi vào trường Đại học kỹ thuật quân sự, khi được các chú ở Cục cán Bộ đả thông: học tập nắm vững khoa học kỹ thuật tiến tiến cho quân đội cũng là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Đây cũng là năm đầu tiên trường Quân sự trực tiếp tuyển sinh phổ thông. Có rất nhiều bạn học tại “trường chuyên” ở các tỉnh trên miền Bắc cũng được tuyển chọn. Lúc tập trung nhập ngũ tại Quân khu Thủ đô, tôi gặp nhiều bạn Trỗi cùng khoá: Phạm Ngọc Chỉnh, Vũ Việt, Lê Minh Chính, Vũ Biên Hoà, Vũ Điện Biện, Nguyễn Văn Hoà (còm), Trần Đăng Sơn, Trần Tuấn Quảng, Nguyễn Anh Minh, Thắng “híp”, Sơn “Tu la” , Chí Hùng, Gia Bình, Phạm Bình, Nguyễn Trọng Vinh Quang, Ngô Sơn, Nguyễn Việt Sơn “ton”, v.v...

Sau kỳ thi, một số bạn chuyển về học tại Đại học Quân y, một số thiếu điểm chuyển về các đơn vị phòng không bảo vệ miền Bắc và còn lại học với nhau tại trường Quân sự. Hết năm học thứ nhất, một số bạn được chọn đi Tây (như đã có bài viết trong tập 2), số còn lại tiếp tục học tập tại trường. Khoá 6 lúc ban đầu gồm hai đại đội C163 và C164. Hết hai năm cơ bản thì chia ra các trung đội học theo ngành Cơ khí, Vô tuyến điện và Công trình. Các bạn Trỗi học cùng khoa Vô tuyến có Lê Minh Chính, Trọng Quang học lớp Vô tuyến, Dũng Minh (khoá 5 trường Trỗi), Phạm Minh Đạo, Vũ Việt và Nguyễn Hữu Nghị lớp Hữu tuyến. Chúng tôi chơi với nhau, ăn cơm cùng mâm và động viên, giúp đỡ nhau học tập trong suốt thời gian ở trường.

Khoá 6 đã tham gia vào nhiều sự kiện lớn của trường như khai thác sặt trên núi Tam Đảo để xây dựng trường (năm 1972), đi khắc phục hậu quả giặc Mỹ ném bom tại Khâm Thiên, Hà nội (đầu năm 1973), duyệt binh mừng ngày tên lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam (ngày 1 tháng 5 năm 1973) và tiếp quản miền Nam sau ngày giải phóng. Ở đâu và bất kỳ thời điểm nào, lính Trỗi cũng hăng hái đi đầu và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Khai thác sặt

Sặt là một loại cây rừng, thuộc họ tre, trúc. Khai thác sặt là một nhiệm vụ gian nan và vất vả. Nhưng với chúng tôi, được học làm “tiều phu” từ lúc còn bé nên công việc không khó khăn cho lắm - vì đã quen cầm dao quắm, chặt cây, đốn củi từ hồi trường Trỗi ở Thái Nguyên (1965-1966). Sáng dậy sớm, vệ sinh cá nhân, ăn bữa chính xong rồi nhận một gói cơm nắm cho bữa trưa. Đúng 6 giờ, lên đường. Tôi hay đi cùng Vũ Việt. Chúng tôi đi sâu vào rừng, leo dốc dựng đứng để lên tới đỉnh núi Tam Đảo. Từ cửa rừng vào chỗ khai thác mất chừng 2–3 tiếng. Tiêu chuẩn được giao: mỗi bó sặt phải từ 15 – 20 cây trở lên, mỗi cây dài 4–5m , đường kính gốc 5–6cm. Phải biết chọn cây và chặt, phát cành và bó lại. Sau 2 tiếng thì công việc hoàn thành. Hai đứa giở cơm nắm ra ăn, tếu táo kể chuyện hồi bé ở rừng Đại Từ rồi ngả lưng nằm nghỉ một lúc thì “hạ sơn”. Nhiều hôm hết nước đành vục nước suối uống cho đỡ khát. Trên vai là bó sặt nặng, đường rừng khấp khểnh chúng tôi nối đuôi nhau trở về. Ở những đoạn dốc cao dựng đứng thì bó sặt và người như dính vào nhau cùng lao xuống núi. Biết là rất nguy hiểm nhưng vì quán tính quá lớn nên đành phải làm vậy. Đoạn mệt nhất là đoạn cuối cùng, đường tuy bằng phẳng nhưng lại quá dài (đến 2km), bó sặt nặng đã làm cho sức cùng lực kiệt. Khoảng 4 giờ chiều về đến bãi sặt. Vứt bó sặt cái rầm rồi chạy nhanh ra suối tắm. Thật là sung sướng vì một ngày làm việc đã kết thúc! Thời gian cứ thế trôi qua, chúng tôi đã trở thành “thổ công” của vùng rừng Tam Đảo. Dân địa phương, lúc ban đầu, còn chỉ dẫn cho chúng tôi; nay muốn kiếm mấy cây sặt để sửa nhà cũng đành phải theo sau mấy anh đeo quân hàm “sơ mít”. Sau đợt này, chúng tôi trở về trường.

Khâm Thiên năm 1972

Giữa năm 1972, sau đợt khai thác sặt trở về, chúng tôi chuẩn bị bước vào năm học mới. Vào học chưa được bao lâu, chúng tôi được lệnh hành quân - di chuyển gấp ra khỏi khu vực núi Trống, ngay trong đêm. Gói gọn quần áo, nhét sách vở vào trong ba-lô, khoác súng trên vai chúng tôi ra tập trung. Lúc đó đã gần 12 giờ đêm. Tranh thủ lúc tập trung, tôi tạt qua chia tay các bạn chuẩn bị đi học ở Ba Lan (Trọng Quang, Sơn “Tu la”…). Chúng tôi hành quân bộ suốt đêm, qua thị trấn Hương canh, tiến thẳng ra phía bờ sông Hồng. Đến xã Yên Thư, bộ phận tiền trạm đã chuẩn bị trước với xã nên dẫn từng tiểu đội vào đến nhà dân. Mệt, không thèm rửa chân tay, chúng tôi lăn ra ngủ. Ngay trưa hôm sau, khi đang ăn cơm, thấy máy bay Mỹ quần đảo và ném bom xuống một vùng cách chỗ chúng tôi vừa rời đi không xa. Mọi người lo lắng không hiểu máy bay Mỹ ném bom xuống đâu? Đến chiều, tốp các bạn đi học ở Ba Lan hành quân đến, thông báo: máy bay Mỹ ném bom xuống khu vực đóng quân cũ của trường, cạnh núi Trống, nhưng không gây thiệt hại gì ngoài một con bò bị trúng bom gãy chân. Vậy là nhờ có thông tin chính xác của quân báo mà chúng tôi bảo toàn được lực lượng.

Những ngày cuối năm 1972, giặc Mỹ điên cuồng ném bom B52 xuống Hà nội. Việc học tập tạm dừng. Chúng tôi bắt tay vào đào hầm và luôn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Ngồi trên đê sông Hồng, nhìn về phía Hà nội, nghe thấy tiếng bom rền mà lòng thấp thỏm, lo lắng; nhưng thật sung sướng khi thấy tên lửa và đạn pháo bắn lên dày đặc, nhất là khi thấy những mảnh xác máy bay B52 cháy, tung toé trên bầu trời, chúng tôi hét hò ầm ĩ. Sau ngày 26 tháng 12, chúng tôi được lệnh trở về Hà nội cứu dân, khắc phục hậu quả ném bom B52. Nhưng chỉ vào Hà Nội vào ban đêm, còn ban ngày rút ra ngoài. Trước khi rời Yên Thư, hai bà mẹ già là chủ nhà đã làm một bữa cơm tiễn tôi và Quý Sơn. Coi chúng tôi như con cháu trong nhà, các cụ dặn dò rất cẩn thận,. Thật cảm động vì sự thương yêu, đùm bọc của nhân dân! Chuẩn bị xong xuôi, chúng tôi hành quân về tập kết bên kia sông Hồng, thuộc địa phận Sơn Tây.

Sau thất bại nặng nề của chiến dịch ném bom Hà Nội bằng B52, Mỹ phải tuyên bố xuống thang, chấm dứt ném bom. Kế hoạch của chúng tôi cũng thay đổi. Xe ô tô đưa chúng tôi đến Ngõ Chợ Khâm thiên và trú nhờ trong một ngôi trường nhỏ. Quang cảnh hết sức đau thương. Chỉ dãy nhà ngoài phố là còn nguyên vẹn. Sau một dãy nhà - tất cả đã bình địa. Ngổn ngang đổ nát. Chúng tôi được phân công dọn dẹp ở sau rạp chiếu bóng Dân Chủ. Mùi dầu xả và mùi da thịt cháy sém, bốc lên mùi hôi thối bám lấy chúng tôi suốt ngày. Chúng tôi lao vào dọn dẹp đường phố, đào bới nhưng nơi nghi còn xác người, đắp đường vào nhà cho dân. Chúng tôi làm việc không biết mệt mỏi.

Một hôm, tiểu đội do Quý Sơn làm tiểu đội trưởng (có tôi và Vũ Việt là hai lính Trỗi), nhận lệnh đi đào bom nổ chậm. Chúng tôi hành quân từ Ô Chợ Dừa, qua Ngã Tư Sở lên phía Cầu Mới rồi rẽ trái men theo sông Tô Lịch. Trước mặt là một hố bom lớn, miệng rộng khoảng 15m, sâu đến 10m, có dạng phễu. Một đơn vị dân quân tự vệ đang đào bới nhưng không ai biết đây là lọai bom gì. Nghe nói bom do máy bay F-111 bị bắn rát nên thả vội xuống để chuồn. Chúng tôi phân công nhau vào vị trí. Cánh dân quân tự vệ nhường chỗ cho anh em bộ đội. Cả tiểu đội xuống đáy hố bom, khẩn trương đào và chuyển đất lên. Không ai nói với ai một lời. Cho đến hết ngày nhưng vẫn chưa thấy quả bom. Ngày hôm sau, tiểu đội lại nhận nhiệm vụ khác. Không rõ có ai đào được quả bom đấy không?

Hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi trở lại trường nhận nhiệm vụ mới: Tham gia duyệt binh mừng ngày tên lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam. Chúng tôi lại lên đường…

Hà Nội, 15-10-2005


 

NGUYỄN HỮU NGHỊ (Học sinh khóa 6)

Tốt nghiệp phổ thông, đám lính Trỗi khoá 6 chưa kịp làm quen với các bạn gái trong lớp thì lại rủ nhau đăng ký thi vào trường Đại học kỹ thuật quân sự, khi được các chú ở Cục cán Bộ đả thông: học tập nắm vững khoa học kỹ thuật tiến tiến cho quân đội cũng là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Đây cũng là năm đầu tiên trường Quân sự trực tiếp tuyển sinh phổ thông. Có rất nhiều bạn học tại “trường chuyên” ở các tỉnh trên miền Bắc cũng được tuyển chọn. Lúc tập trung nhập ngũ tại Quân khu Thủ đô, tôi gặp nhiều bạn Trỗi cùng khoá: Phạm Ngọc Chỉnh, Vũ Việt, Lê Minh Chính, Vũ Biên Hoà, Vũ Điện Biện, Nguyễn Văn Hoà (còm), Trần Đăng Sơn, Trần Tuấn Quảng, Nguyễn Anh Minh, Thắng “híp”, Sơn “Tu la” , Chí Hùng, Gia Bình, Phạm Bình, Nguyễn Trọng Vinh Quang, Ngô Sơn, Nguyễn Việt Sơn “ton”, v.v...

Sau kỳ thi, một số bạn chuyển về học tại Đại học Quân y, một số thiếu điểm chuyển về các đơn vị phòng không bảo vệ miền Bắc và còn lại học với nhau tại trường Quân sự. Hết năm học thứ nhất, một số bạn được chọn đi Tây (như đã có bài viết trong tập 2), số còn lại tiếp tục học tập tại trường. Khoá 6 lúc ban đầu gồm hai đại đội C163 và C164. Hết hai năm cơ bản thì chia ra các trung đội học theo ngành Cơ khí, Vô tuyến điện và Công trình. Các bạn Trỗi học cùng khoa Vô tuyến có Lê Minh Chính, Trọng Quang học lớp Vô tuyến, Dũng Minh (khoá 5 trường Trỗi), Phạm Minh Đạo, Vũ Việt và Nguyễn Hữu Nghị lớp Hữu tuyến. Chúng tôi chơi với nhau, ăn cơm cùng mâm và động viên, giúp đỡ nhau học tập trong suốt thời gian ở trường.

Khoá 6 đã tham gia vào nhiều sự kiện lớn của trường như khai thác sặt trên núi Tam Đảo để xây dựng trường (năm 1972), đi khắc phục hậu quả giặc Mỹ ném bom tại Khâm Thiên, Hà nội (đầu năm 1973), duyệt binh mừng ngày tên lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam (ngày 1 tháng 5 năm 1973) và tiếp quản miền Nam sau ngày giải phóng. Ở đâu và bất kỳ thời điểm nào, lính Trỗi cũng hăng hái đi đầu và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Khai thác sặt

Sặt là một loại cây rừng, thuộc họ tre, trúc. Khai thác sặt là một nhiệm vụ gian nan và vất vả. Nhưng với chúng tôi, được học làm “tiều phu” từ lúc còn bé nên công việc không khó khăn cho lắm - vì đã quen cầm dao quắm, chặt cây, đốn củi từ hồi trường Trỗi ở Thái Nguyên (1965-1966). Sáng dậy sớm, vệ sinh cá nhân, ăn bữa chính xong rồi nhận một gói cơm nắm cho bữa trưa. Đúng 6 giờ, lên đường. Tôi hay đi cùng Vũ Việt. Chúng tôi đi sâu vào rừng, leo dốc dựng đứng để lên tới đỉnh núi Tam Đảo. Từ cửa rừng vào chỗ khai thác mất chừng 2–3 tiếng. Tiêu chuẩn được giao: mỗi bó sặt phải từ 15 – 20 cây trở lên, mỗi cây dài 4–5m , đường kính gốc 5–6cm. Phải biết chọn cây và chặt, phát cành và bó lại. Sau 2 tiếng thì công việc hoàn thành. Hai đứa giở cơm nắm ra ăn, tếu táo kể chuyện hồi bé ở rừng Đại Từ rồi ngả lưng nằm nghỉ một lúc thì “hạ sơn”. Nhiều hôm hết nước đành vục nước suối uống cho đỡ khát. Trên vai là bó sặt nặng, đường rừng khấp khểnh chúng tôi nối đuôi nhau trở về. Ở những đoạn dốc cao dựng đứng thì bó sặt và người như dính vào nhau cùng lao xuống núi. Biết là rất nguy hiểm nhưng vì quán tính quá lớn nên đành phải làm vậy. Đoạn mệt nhất là đoạn cuối cùng, đường tuy bằng phẳng nhưng lại quá dài (đến 2km), bó sặt nặng đã làm cho sức cùng lực kiệt. Khoảng 4 giờ chiều về đến bãi sặt. Vứt bó sặt cái rầm rồi chạy nhanh ra suối tắm. Thật là sung sướng vì một ngày làm việc đã kết thúc! Thời gian cứ thế trôi qua, chúng tôi đã trở thành “thổ công” của vùng rừng Tam Đảo. Dân địa phương, lúc ban đầu, còn chỉ dẫn cho chúng tôi; nay muốn kiếm mấy cây sặt để sửa nhà cũng đành phải theo sau mấy anh đeo quân hàm “sơ mít”. Sau đợt này, chúng tôi trở về trường.

Khâm Thiên năm 1972

Giữa năm 1972, sau đợt khai thác sặt trở về, chúng tôi chuẩn bị bước vào năm học mới. Vào học chưa được bao lâu, chúng tôi được lệnh hành quân - di chuyển gấp ra khỏi khu vực núi Trống, ngay trong đêm. Gói gọn quần áo, nhét sách vở vào trong ba-lô, khoác súng trên vai chúng tôi ra tập trung. Lúc đó đã gần 12 giờ đêm. Tranh thủ lúc tập trung, tôi tạt qua chia tay các bạn chuẩn bị đi học ở Ba Lan (Trọng Quang, Sơn “Tu la”…). Chúng tôi hành quân bộ suốt đêm, qua thị trấn Hương canh, tiến thẳng ra phía bờ sông Hồng. Đến xã Yên Thư, bộ phận tiền trạm đã chuẩn bị trước với xã nên dẫn từng tiểu đội vào đến nhà dân. Mệt, không thèm rửa chân tay, chúng tôi lăn ra ngủ. Ngay trưa hôm sau, khi đang ăn cơm, thấy máy bay Mỹ quần đảo và ném bom xuống một vùng cách chỗ chúng tôi vừa rời đi không xa. Mọi người lo lắng không hiểu máy bay Mỹ ném bom xuống đâu? Đến chiều, tốp các bạn đi học ở Ba Lan hành quân đến, thông báo: máy bay Mỹ ném bom xuống khu vực đóng quân cũ của trường, cạnh núi Trống, nhưng không gây thiệt hại gì ngoài một con bò bị trúng bom gãy chân. Vậy là nhờ có thông tin chính xác của quân báo mà chúng tôi bảo toàn được lực lượng.

Những ngày cuối năm 1972, giặc Mỹ điên cuồng ném bom B52 xuống Hà nội. Việc học tập tạm dừng. Chúng tôi bắt tay vào đào hầm và luôn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Ngồi trên đê sông Hồng, nhìn về phía Hà nội, nghe thấy tiếng bom rền mà lòng thấp thỏm, lo lắng; nhưng thật sung sướng khi thấy tên lửa và đạn pháo bắn lên dày đặc, nhất là khi thấy những mảnh xác máy bay B52 cháy, tung toé trên bầu trời, chúng tôi hét hò ầm ĩ. Sau ngày 26 tháng 12, chúng tôi được lệnh trở về Hà nội cứu dân, khắc phục hậu quả ném bom B52. Nhưng chỉ vào Hà Nội vào ban đêm, còn ban ngày rút ra ngoài. Trước khi rời Yên Thư, hai bà mẹ già là chủ nhà đã làm một bữa cơm tiễn tôi và Quý Sơn. Coi chúng tôi như con cháu trong nhà, các cụ dặn dò rất cẩn thận,. Thật cảm động vì sự thương yêu, đùm bọc của nhân dân! Chuẩn bị xong xuôi, chúng tôi hành quân về tập kết bên kia sông Hồng, thuộc địa phận Sơn Tây.

Sau thất bại nặng nề của chiến dịch ném bom Hà Nội bằng B52, Mỹ phải tuyên bố xuống thang, chấm dứt ném bom. Kế hoạch của chúng tôi cũng thay đổi. Xe ô tô đưa chúng tôi đến Ngõ Chợ Khâm thiên và trú nhờ trong một ngôi trường nhỏ. Quang cảnh hết sức đau thương. Chỉ dãy nhà ngoài phố là còn nguyên vẹn. Sau một dãy nhà - tất cả đã bình địa. Ngổn ngang đổ nát. Chúng tôi được phân công dọn dẹp ở sau rạp chiếu bóng Dân Chủ. Mùi dầu xả và mùi da thịt cháy sém, bốc lên mùi hôi thối bám lấy chúng tôi suốt ngày. Chúng tôi lao vào dọn dẹp đường phố, đào bới nhưng nơi nghi còn xác người, đắp đường vào nhà cho dân. Chúng tôi làm việc không biết mệt mỏi.

Một hôm, tiểu đội do Quý Sơn làm tiểu đội trưởng (có tôi và Vũ Việt là hai lính Trỗi), nhận lệnh đi đào bom nổ chậm. Chúng tôi hành quân từ Ô Chợ Dừa, qua Ngã Tư Sở lên phía Cầu Mới rồi rẽ trái men theo sông Tô Lịch. Trước mặt là một hố bom lớn, miệng rộng khoảng 15m, sâu đến 10m, có dạng phễu. Một đơn vị dân quân tự vệ đang đào bới nhưng không ai biết đây là lọai bom gì. Nghe nói bom do máy bay F-111 bị bắn rát nên thả vội xuống để chuồn. Chúng tôi phân công nhau vào vị trí. Cánh dân quân tự vệ nhường chỗ cho anh em bộ đội. Cả tiểu đội xuống đáy hố bom, khẩn trương đào và chuyển đất lên. Không ai nói với ai một lời. Cho đến hết ngày nhưng vẫn chưa thấy quả bom. Ngày hôm sau, tiểu đội lại nhận nhiệm vụ khác. Không rõ có ai đào được quả bom đấy không?

Hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi trở lại trường nhận nhiệm vụ mới: Tham gia duyệt binh mừng ngày tên lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam. Chúng tôi lại lên đường…

Hà Nội, 15-10-2005


Nhớ về Khoá 6 của tôi - Nguyễn Hữu Nghị K6



NGUYỄN HỮU NGHỊ (Học sinh khóa 6) 

Các bạn có biết vì sao khóa chúng tôi được gọi là khóa 6? Vì theo thứ tự các khóa trường Trường Trỗi thì chúng tôi xếp thứ 6. Theo thông lệ mỗi năm, chúng tôi gặp mặt nhau hai lần: vào tháng 6 và tháng 12. Tháng 12 là “tháng của lính” vì có ngày 22 tháng 12. Còn tháng 6 có hai ngày quan trọng trong cuộc đời lính chúng tôi: Đó là ngày nhập ngũ 3 tháng 6 và ngày nhập trường Văn hoá quân đội 6 tháng 6!

Ngày nhập trường

Nhớ lại đầu năm 1965, tình hình chiến sự tăng dần theo thời gian làm việc của bố mẹ chúng tôi, vì họ đều là bộ đội. Bố mẹ đi làm sớm hơn, chiều về muộn hơn và anh em tôi cũng ít được gặp bố mẹ hơn, phải làm việc nhà nhiều hơn. Sau Tết ta, tôi tạm xa Hà nội cùng các bạn trong khu tập thể 25 Phan Đình Phùng, đi sơ tán về nông thôn để học tiếp phần còn lại của học kỳ 2. Kết thúc năm học, khoá chúng tôi được miễn kì thi tốt nghiệp cấp I, lên thẳng lớp 5. Về Hà Nội nghỉ hè, tôi vội đi tìm cánh bạn học cũ. Vừa ra đường, gặp ngay Thắng “híp”. Bạn vui vẻ thông báo: “Tao và một số đứa sắp được đi học trường Thiếu sinh quân. Trường hay lắm, sống như bộ đội... “. Tôi hỏi:

Làm sao mà mày vào được?

- Bố tao xin cho.

Lúc đó, tôi không còn nghĩ điều gì khác nữa vì tôi cũng muốn được đi học trường Thiếu sinh quân như các bạn, muốn trở thành bộ đội như các bạn. Tối hôm đó chờ bố đi làm về, tôi nói ngay: “Bố ơi, xin cho con đi học trường Thiếu sinh quân! Các bạn của con được đi hết rồi. Như bạn Thắng con bác Nam, bạn Hoà con bác Đôn, bạn Biên con bác Cẩn…”. Tôi kể tên một loạt các bạn để thuyết phục bố. Ông cũng chưa biết có trường này và hứa sẽ hỏi Cục Cán bộ. Suốt tuần, ngày nào tôi cũng hỏi bố về chuyện này. Cuối cùng, bố cũng nói với tôi rằng đã xin cho tôi được đi học trường Thiếu sinh quân. Sướng quá, tôi chạy đi khoe ngay với các bạn. Tất cả chúng tôi cùng chờ ngày tập trung lên trường.

Ngày 6 tháng 6 năm 1965, cùng nhiều bạn bè, chúng tôi lên xe, xa Hà nội. Tất cả chúng tôi vui đùa mà không cảm nhận được rằng kể từ hôm nay chúng tôi phải rời xa vòng tay chăm sóc, dạy dỗ của bố mẹ và gia đình, vào sống trong một mái trường quân đội. Đó là ngôi nhà thân yêu của chúng tôi trong những năm tháng chống chiến tranh phá hoại miền Bắc và giải phóng miền Nam.

Trại Hoè, Phố Thắng, Hà Bắc. Ở đây có sân bóng rộng mênh mông. Không gian thoáng đãng. Ôi thích quá! Chúng tôi được chia thành tiểu đội và sống cùng trong một ngôi nhà lớn. Chúng tôi phải làm quen với thời gian biểu chặt chẽ. Sáng phải thức dậy sớm tập thể dục, rồi vệ sinh cá nhân, ăn sáng và học bài. Chiều tự học rồi chơi đá bóng, tắm giặt và ăn tối. Chúng tôi quen dần với các tiếng kèn báo hiệu. Khi có kèn “Cơm cơm cà, cơm cơm muối, ai có đói thì về mà ăn!” là chúng tôi phải xếp hàng ngay ngắn, đi xuống bếp. Khi có kèn ngủ là tất cả phải lên giường, tắt đèn dầu đi ngủ. Thậm chí không được nói chuyện riêng. Chúng tôi quen dần với nếp sống mới. Nỗi nhớ gia đình cũng nguôi dần. Chúng tôi vui đùa, học tập cùng nhau. Vui nhất là những đêm sáng trăng, lũ chúng tôi cùng nhau chơi trò trốn tìm, trò bắn bùm và nhiều trò trẻ con khác. Chiều chiều lại ra kênh thuỷ nông ở gần trường tập bơi… Chính tại sân bóng, chúng tôi gặp lại nhiều người quen cũ (các bạn, các anh cùng sống quanh Thành Cửa Bắc), rồi dần dần làm quen với nhiều bạn bè, anh em ở các khu tập thể quân đội khác. Trước lạ, sau quen, tất cả hoà thành một khối thống nhất. Đúng là cả trường là anh em. Năm đó chúng tôi là lớp em út của cả trường, mới 11, 12 tuổi.

Cuộc sống tập thể vui vẻ cũng không át được không khí chiến tranh. Vùng quê yên tĩnh cũng đã bị khấy động bởi máy bay Mỹ. Máy bay trinh sát cách mặt đất có lẽ chỉ vài trăm mét, trông to như tấm phản, xé trời bay qua, bay lại. Các vị “tham mưu con” đoán già đoán non: Mỹ sắp đánh trường ta… Một buổi chiều, chúng tôi được lênh thu dọn đồ đạc, lập tức di chuyển. Các thày, cô chuẩn bị nước uống, cơm nắm cho chúng tôi. Chục chiếc xe tải quân sự, bịt bùng, xếp hàng dọc ở sân bóng. Chúng tôi trèo lên xe, bắt đầu một cuộc hành quân đêm. Đi nhưng không biết đích đến. Xe cứ chạy. Chúng tôi ngủ gà ngủ gật. Cho đến mờ sáng hôm sau thì dừng. Trời se lạnh. Nhìn phía trước là núi cao, sương mù phủ kín. Không xa bãi xe đậu là con suối lớn và gốc đa cổ thụ. Hỏi ra mới biết đây là vùng núi xã An Mỹ, huyện Đại từ, tỉnh Thái Nguyên. Một cuộc sống mới lại bắt đầu.


Bài học từ công tác “Dân vận”

Đã là bộ đội phải biết dân vận, dù đó là bộ đội lớn hay bộ đội bé như chúng tôi.

Suối Hiệu bộ (Suối Chì hay Suối Ton?)
Ngày đầu lên Đại Từ, chúng tôi sống nhờ trong nhà dân. Sau đó chuyển vào ở doanh trại ngay cửa rừng, gần thác Bom Bom; đến năm học 1966-1967 thì chuyển ra phía ngoài. Vì được “ba cùng” với nhân dân mà chúng tôi đã trưởng thành. Ở nhà dân, chúng tôi có thói quen quét dọn nhà cửa sạch sẽ, đi về đều chào hỏi chủ nhà, ra đường mau miệng với bà con hàng xóm. Thấy vậy ai cũng quý.

Quả thật là học sinh “cày đường nhựa” chúng tôi không hề biết làm các công việc đồng áng. Lúc mới nhập gia, thấy chủ nhà xay thóc, giã gạo thì cũng tò mò học hỏi, xin thử làm quen, đến khi thành thạo rồi thì “ghé chân ghé tay” vào giúp. Xay thóc thì phải biết đứng gié chân chèo, tay đẩy đều cần xay. Còn khi giã gạo thì một chân đứng tì lên phía đuôi chày, chân còn lại đứng trên thành chày, nhún nhẩy nhịp nhàng. Chúng tôi còn biết cả giã gạo chày đôi. Thật là những bài học đáng quý!

Tôi không quên được buổi lội ruộng lần đầu tiên đi gặt lúa, cấy lúa. Hôm đó, tiểu đội tôi được phân công đi gặt. Ngay tại ruộng, chúng tôi được hướng dẫn cách cầm liềm, cách quơ gốc lúa, các đặt bó lúa đã cắt trên ruộng và sau đó là cách đập lúa. Sợ nhất là bị liềm cắt vào tay và sợ bị đỉa cắn. Chỉ nhìn những con đỉa to bằng ngón tay cái bơi lội tung tăng dưới ruộng là tôi sợ hết cả hồn. Nhưng nhìn những bác nông dân đưa tay thoăn thoắt, cắt lúa nhanh gọn làm tôi như quên đi nỗi sợ. Tôi và các bạn cùng ào xuống ruộng, tay cắt lia lịa. Làm mãi rồi quen, rồi dần tiến bộ, gặt nhanh hơn, thóc ít rơi vãi hơn. Cứ như thế chúng tôi gặt xong cả thửa ruộng. Nhờ những bài học ấy mà sau này, vào những ngày nghỉ ở đơn vị, tôi hay cùng Tiến “bồ” lội xuống ruộng, bắt cua về “cải thiện”.

Khi chuyển doanh trại ra địa điểm mới, chúng tôi sống trong những căn nhà tranh tre, vách đất. Thấy xung quanh nhà rất trống trải nên thầy trung đội trưởng gợi ý chúng tôi phải trồng cây xanh. Sau giờ học buổi chiều, theo từng “tổ tam tam”, chúng tôi vào nhà dân xin chuối về trồng. Nhà trong bản ở rải rác, cách xa nhau và nuôi rất nhiều chó. Khi vào nhà dân chỉ sợ bị chó cắn. Chưa vào đến sân đã nghe chó sủa ran. Lần đó, tôi vào một nhà nằm xa đường, phải men theo bờ ruộng, vòng vèo, nhiều chỗ ngoặt, khó đi. Tôi đoán đường lắt léo thế này chắc chưa có ai đến xin chuối nên hăm hở đi vào. Cách cổng vài mét, bổng thấy chó sủa ầm ĩ. Nghĩ có người ở nhà, tôi gọi với vào: ”Có ai ở nhà không?”. Không có tiếng trả lời, chỉ thấy ba, bốn chú chó nhe răng, lao ra. Chẳng ai bảo ai, chúng tôi quay đầu, chạy. Vừa chạy vừa ngoái cổ lại nhìn. Tôi chạy sau cùng thấy chó đến rất gần, luống cuống thế nào vấp ngã xòai ra đường. Chú chó đi đầu thấy tôi ngã liền dừng ngay lại. Thế là thoát nạn! Hòan hồn trở về đến nhà rồi mới biết chó cũng sợ người. Đi đâu thấy chó đuổi thì chì cần vờ ngồi xuống là chó không dám đuổi theo. Từ đó hết sợ chó.

Đúng là những bài học đầu tiên khi đi làm công tác “dân vận”!



Đăng lại bài viết của NGUYỄN HỮU NGHỊ
(đã đăng tại „Blog
Trang văn nghệ trường VHQĐ Nguyễn Văn Trỗi: Thứ năm, ngày 08 tháng năm năm 2008)


NGUYỄN HỮU NGHỊ (Học sinh khóa 6) 

Các bạn có biết vì sao khóa chúng tôi được gọi là khóa 6? Vì theo thứ tự các khóa trường Trường Trỗi thì chúng tôi xếp thứ 6. Theo thông lệ mỗi năm, chúng tôi gặp mặt nhau hai lần: vào tháng 6 và tháng 12. Tháng 12 là “tháng của lính” vì có ngày 22 tháng 12. Còn tháng 6 có hai ngày quan trọng trong cuộc đời lính chúng tôi: Đó là ngày nhập ngũ 3 tháng 6 và ngày nhập trường Văn hoá quân đội 6 tháng 6!

Ngày nhập trường

Nhớ lại đầu năm 1965, tình hình chiến sự tăng dần theo thời gian làm việc của bố mẹ chúng tôi, vì họ đều là bộ đội. Bố mẹ đi làm sớm hơn, chiều về muộn hơn và anh em tôi cũng ít được gặp bố mẹ hơn, phải làm việc nhà nhiều hơn. Sau Tết ta, tôi tạm xa Hà nội cùng các bạn trong khu tập thể 25 Phan Đình Phùng, đi sơ tán về nông thôn để học tiếp phần còn lại của học kỳ 2. Kết thúc năm học, khoá chúng tôi được miễn kì thi tốt nghiệp cấp I, lên thẳng lớp 5. Về Hà Nội nghỉ hè, tôi vội đi tìm cánh bạn học cũ. Vừa ra đường, gặp ngay Thắng “híp”. Bạn vui vẻ thông báo: “Tao và một số đứa sắp được đi học trường Thiếu sinh quân. Trường hay lắm, sống như bộ đội... “. Tôi hỏi:

Làm sao mà mày vào được?

- Bố tao xin cho.

Lúc đó, tôi không còn nghĩ điều gì khác nữa vì tôi cũng muốn được đi học trường Thiếu sinh quân như các bạn, muốn trở thành bộ đội như các bạn. Tối hôm đó chờ bố đi làm về, tôi nói ngay: “Bố ơi, xin cho con đi học trường Thiếu sinh quân! Các bạn của con được đi hết rồi. Như bạn Thắng con bác Nam, bạn Hoà con bác Đôn, bạn Biên con bác Cẩn…”. Tôi kể tên một loạt các bạn để thuyết phục bố. Ông cũng chưa biết có trường này và hứa sẽ hỏi Cục Cán bộ. Suốt tuần, ngày nào tôi cũng hỏi bố về chuyện này. Cuối cùng, bố cũng nói với tôi rằng đã xin cho tôi được đi học trường Thiếu sinh quân. Sướng quá, tôi chạy đi khoe ngay với các bạn. Tất cả chúng tôi cùng chờ ngày tập trung lên trường.

Ngày 6 tháng 6 năm 1965, cùng nhiều bạn bè, chúng tôi lên xe, xa Hà nội. Tất cả chúng tôi vui đùa mà không cảm nhận được rằng kể từ hôm nay chúng tôi phải rời xa vòng tay chăm sóc, dạy dỗ của bố mẹ và gia đình, vào sống trong một mái trường quân đội. Đó là ngôi nhà thân yêu của chúng tôi trong những năm tháng chống chiến tranh phá hoại miền Bắc và giải phóng miền Nam.

Trại Hoè, Phố Thắng, Hà Bắc. Ở đây có sân bóng rộng mênh mông. Không gian thoáng đãng. Ôi thích quá! Chúng tôi được chia thành tiểu đội và sống cùng trong một ngôi nhà lớn. Chúng tôi phải làm quen với thời gian biểu chặt chẽ. Sáng phải thức dậy sớm tập thể dục, rồi vệ sinh cá nhân, ăn sáng và học bài. Chiều tự học rồi chơi đá bóng, tắm giặt và ăn tối. Chúng tôi quen dần với các tiếng kèn báo hiệu. Khi có kèn “Cơm cơm cà, cơm cơm muối, ai có đói thì về mà ăn!” là chúng tôi phải xếp hàng ngay ngắn, đi xuống bếp. Khi có kèn ngủ là tất cả phải lên giường, tắt đèn dầu đi ngủ. Thậm chí không được nói chuyện riêng. Chúng tôi quen dần với nếp sống mới. Nỗi nhớ gia đình cũng nguôi dần. Chúng tôi vui đùa, học tập cùng nhau. Vui nhất là những đêm sáng trăng, lũ chúng tôi cùng nhau chơi trò trốn tìm, trò bắn bùm và nhiều trò trẻ con khác. Chiều chiều lại ra kênh thuỷ nông ở gần trường tập bơi… Chính tại sân bóng, chúng tôi gặp lại nhiều người quen cũ (các bạn, các anh cùng sống quanh Thành Cửa Bắc), rồi dần dần làm quen với nhiều bạn bè, anh em ở các khu tập thể quân đội khác. Trước lạ, sau quen, tất cả hoà thành một khối thống nhất. Đúng là cả trường là anh em. Năm đó chúng tôi là lớp em út của cả trường, mới 11, 12 tuổi.

Cuộc sống tập thể vui vẻ cũng không át được không khí chiến tranh. Vùng quê yên tĩnh cũng đã bị khấy động bởi máy bay Mỹ. Máy bay trinh sát cách mặt đất có lẽ chỉ vài trăm mét, trông to như tấm phản, xé trời bay qua, bay lại. Các vị “tham mưu con” đoán già đoán non: Mỹ sắp đánh trường ta… Một buổi chiều, chúng tôi được lênh thu dọn đồ đạc, lập tức di chuyển. Các thày, cô chuẩn bị nước uống, cơm nắm cho chúng tôi. Chục chiếc xe tải quân sự, bịt bùng, xếp hàng dọc ở sân bóng. Chúng tôi trèo lên xe, bắt đầu một cuộc hành quân đêm. Đi nhưng không biết đích đến. Xe cứ chạy. Chúng tôi ngủ gà ngủ gật. Cho đến mờ sáng hôm sau thì dừng. Trời se lạnh. Nhìn phía trước là núi cao, sương mù phủ kín. Không xa bãi xe đậu là con suối lớn và gốc đa cổ thụ. Hỏi ra mới biết đây là vùng núi xã An Mỹ, huyện Đại từ, tỉnh Thái Nguyên. Một cuộc sống mới lại bắt đầu.


Bài học từ công tác “Dân vận”

Đã là bộ đội phải biết dân vận, dù đó là bộ đội lớn hay bộ đội bé như chúng tôi.

Suối Hiệu bộ (Suối Chì hay Suối Ton?)
Ngày đầu lên Đại Từ, chúng tôi sống nhờ trong nhà dân. Sau đó chuyển vào ở doanh trại ngay cửa rừng, gần thác Bom Bom; đến năm học 1966-1967 thì chuyển ra phía ngoài. Vì được “ba cùng” với nhân dân mà chúng tôi đã trưởng thành. Ở nhà dân, chúng tôi có thói quen quét dọn nhà cửa sạch sẽ, đi về đều chào hỏi chủ nhà, ra đường mau miệng với bà con hàng xóm. Thấy vậy ai cũng quý.

Quả thật là học sinh “cày đường nhựa” chúng tôi không hề biết làm các công việc đồng áng. Lúc mới nhập gia, thấy chủ nhà xay thóc, giã gạo thì cũng tò mò học hỏi, xin thử làm quen, đến khi thành thạo rồi thì “ghé chân ghé tay” vào giúp. Xay thóc thì phải biết đứng gié chân chèo, tay đẩy đều cần xay. Còn khi giã gạo thì một chân đứng tì lên phía đuôi chày, chân còn lại đứng trên thành chày, nhún nhẩy nhịp nhàng. Chúng tôi còn biết cả giã gạo chày đôi. Thật là những bài học đáng quý!

Tôi không quên được buổi lội ruộng lần đầu tiên đi gặt lúa, cấy lúa. Hôm đó, tiểu đội tôi được phân công đi gặt. Ngay tại ruộng, chúng tôi được hướng dẫn cách cầm liềm, cách quơ gốc lúa, các đặt bó lúa đã cắt trên ruộng và sau đó là cách đập lúa. Sợ nhất là bị liềm cắt vào tay và sợ bị đỉa cắn. Chỉ nhìn những con đỉa to bằng ngón tay cái bơi lội tung tăng dưới ruộng là tôi sợ hết cả hồn. Nhưng nhìn những bác nông dân đưa tay thoăn thoắt, cắt lúa nhanh gọn làm tôi như quên đi nỗi sợ. Tôi và các bạn cùng ào xuống ruộng, tay cắt lia lịa. Làm mãi rồi quen, rồi dần tiến bộ, gặt nhanh hơn, thóc ít rơi vãi hơn. Cứ như thế chúng tôi gặt xong cả thửa ruộng. Nhờ những bài học ấy mà sau này, vào những ngày nghỉ ở đơn vị, tôi hay cùng Tiến “bồ” lội xuống ruộng, bắt cua về “cải thiện”.

Khi chuyển doanh trại ra địa điểm mới, chúng tôi sống trong những căn nhà tranh tre, vách đất. Thấy xung quanh nhà rất trống trải nên thầy trung đội trưởng gợi ý chúng tôi phải trồng cây xanh. Sau giờ học buổi chiều, theo từng “tổ tam tam”, chúng tôi vào nhà dân xin chuối về trồng. Nhà trong bản ở rải rác, cách xa nhau và nuôi rất nhiều chó. Khi vào nhà dân chỉ sợ bị chó cắn. Chưa vào đến sân đã nghe chó sủa ran. Lần đó, tôi vào một nhà nằm xa đường, phải men theo bờ ruộng, vòng vèo, nhiều chỗ ngoặt, khó đi. Tôi đoán đường lắt léo thế này chắc chưa có ai đến xin chuối nên hăm hở đi vào. Cách cổng vài mét, bổng thấy chó sủa ầm ĩ. Nghĩ có người ở nhà, tôi gọi với vào: ”Có ai ở nhà không?”. Không có tiếng trả lời, chỉ thấy ba, bốn chú chó nhe răng, lao ra. Chẳng ai bảo ai, chúng tôi quay đầu, chạy. Vừa chạy vừa ngoái cổ lại nhìn. Tôi chạy sau cùng thấy chó đến rất gần, luống cuống thế nào vấp ngã xòai ra đường. Chú chó đi đầu thấy tôi ngã liền dừng ngay lại. Thế là thoát nạn! Hòan hồn trở về đến nhà rồi mới biết chó cũng sợ người. Đi đâu thấy chó đuổi thì chì cần vờ ngồi xuống là chó không dám đuổi theo. Từ đó hết sợ chó.

Đúng là những bài học đầu tiên khi đi làm công tác “dân vận”!



Đăng lại bài viết của NGUYỄN HỮU NGHỊ
(đã đăng tại „Blog
Trang văn nghệ trường VHQĐ Nguyễn Văn Trỗi: Thứ năm, ngày 08 tháng năm năm 2008)

Thứ Năm, 8 tháng 5, 2008

Bí đỏ - HaMeoK6


Đăng lại bài viết của Hà Mèo (đã đăng tại „Blog Út Trỗi”: Thứ năm, ngày 08 tháng năm năm 2008)

 

Mấy bữa nay trên blog có nhiều chuyện nhức đầu quá, thôi thì...tôi xin đổi đề tài cho AE "nhẹ đầu" (nặng đít) một chút.

Miền Nam có món Bí rợ (bí đỏ) hầm dừa ngon tuyệt vời. Hôm rồi, vợ nấu cho cả nhà ăn, ai cũng khen ngon, riêng tôi thì cũng nhấm nháp vài miếng cho có lệ. Cái gì chứ món bí đỏ thì AE ta chắc đâu có lạ.

Nhớ hồi ở Y trung, mỗi khi tắm sông, cả bọn thường đua nhau bơi qua bờ bên kia rồi leo lên “ngắm ngía” mấy ruộng rau Công xã. Từ dưa chuột dài cả thước lần đầu tiên thấy trong đời tới ruộng bí đỏ trái nào trái ấy tròn lẳn trông sướng mắt. Hồi đó lần đầu tiên tôi mới được thấy trái bí đỏ còn non nằm trên ruộng. Ko nhớ đứa nào đã chỉ cách ăn cực kỳ ngon mà “không làm hại Công xã” (theo lời nó nói vậy). Đó lá cách dùng dao găm thọc sâu vào trái bí đỏ non cắt thành 1 ô vuông rồi dùng mũi dao chích vào đó nhấc lên như cái nắp được mở ra. Dùng 1 cái ống (ko nhớ là ống gì – hình như là bẻ từ cái cây gì làm giàn cho dưa chuột thì phải) thò vô hút ruột non của trái bí đỏ còn ươn ướt, sền sệt…ngọt và mát vô cùng. Sau khi “thưởng thức” xong, trước khi bơi trở về trường thì đậy cái nắp lên như cũ. Nhìn trái bí đỏ thấy vẫn còn nguyên như chưa hề bị gì (!). Lúc đó thấy bí đỏ thật là tuyệt vời.

Nhưng tới khi qua Trường mới, ko rõ ĐCMVH thế nào mà ở trường thiếu hẳn sự tiếp tế làm cho món “Bì lông – bí đỏ” được EA mình “chiến đấu” suốt 6 tháng liền. Lúc này thì có nằm giữa ruộng cũng chẳng màng tới. Hậu quả này kéo dài tới mức đến nay đã 40 năm mà tôi vẫn ko quên được. Hồi đó, thôi thì đủ các loại bí đỏ : bí đỏ luộc, bí đỏ xào, bí đỏ nấu canh, ăn sống, ăn chín…rồi tới món bí đỏ lăn bột chiên thì thật là “hết biết” ! Mà lúc bấy giờ ko biết trường mình lấy thịt lợn ở đâu sao chỉ thấy toàn bì đầy lông còn thịt (cả mỡ và nạc) đi đâu nhỉ ? May mà còn mấy cọng rau muống cạn mà các lớp đều phải trồng phía sau nhà tắm cấp 2, nên thỉnh thoảng còn có canh rau muống, nhưng cũng chẳng bõ bèn vào đâu.

Nay có cơ hội nhớ lại chuyện xưa thấy đời mình đã được “đánh dứt điểm” món Bí đỏ, ko bao giờ còn ham muốn nữa. Món ngon này xin nhường lại vợ con. Nhưng cũng thật buồn, khi kể lại, mấy đứa nhỏ cười rũ rượi nghĩ ba đang kể chuyện tiếu lâm “thời kỳ đổi mới” mới chết chứ ! Thật chỉ có AE mình mới thông cảm được.



Đăng lại bài viết của Hà Mèo (đã đăng tại „Blog Út Trỗi”: Thứ năm, ngày 08 tháng năm năm 2008)

 

Mấy bữa nay trên blog có nhiều chuyện nhức đầu quá, thôi thì...tôi xin đổi đề tài cho AE "nhẹ đầu" (nặng đít) một chút.

Miền Nam có món Bí rợ (bí đỏ) hầm dừa ngon tuyệt vời. Hôm rồi, vợ nấu cho cả nhà ăn, ai cũng khen ngon, riêng tôi thì cũng nhấm nháp vài miếng cho có lệ. Cái gì chứ món bí đỏ thì AE ta chắc đâu có lạ.

Nhớ hồi ở Y trung, mỗi khi tắm sông, cả bọn thường đua nhau bơi qua bờ bên kia rồi leo lên “ngắm ngía” mấy ruộng rau Công xã. Từ dưa chuột dài cả thước lần đầu tiên thấy trong đời tới ruộng bí đỏ trái nào trái ấy tròn lẳn trông sướng mắt. Hồi đó lần đầu tiên tôi mới được thấy trái bí đỏ còn non nằm trên ruộng. Ko nhớ đứa nào đã chỉ cách ăn cực kỳ ngon mà “không làm hại Công xã” (theo lời nó nói vậy). Đó lá cách dùng dao găm thọc sâu vào trái bí đỏ non cắt thành 1 ô vuông rồi dùng mũi dao chích vào đó nhấc lên như cái nắp được mở ra. Dùng 1 cái ống (ko nhớ là ống gì – hình như là bẻ từ cái cây gì làm giàn cho dưa chuột thì phải) thò vô hút ruột non của trái bí đỏ còn ươn ướt, sền sệt…ngọt và mát vô cùng. Sau khi “thưởng thức” xong, trước khi bơi trở về trường thì đậy cái nắp lên như cũ. Nhìn trái bí đỏ thấy vẫn còn nguyên như chưa hề bị gì (!). Lúc đó thấy bí đỏ thật là tuyệt vời.

Nhưng tới khi qua Trường mới, ko rõ ĐCMVH thế nào mà ở trường thiếu hẳn sự tiếp tế làm cho món “Bì lông – bí đỏ” được EA mình “chiến đấu” suốt 6 tháng liền. Lúc này thì có nằm giữa ruộng cũng chẳng màng tới. Hậu quả này kéo dài tới mức đến nay đã 40 năm mà tôi vẫn ko quên được. Hồi đó, thôi thì đủ các loại bí đỏ : bí đỏ luộc, bí đỏ xào, bí đỏ nấu canh, ăn sống, ăn chín…rồi tới món bí đỏ lăn bột chiên thì thật là “hết biết” ! Mà lúc bấy giờ ko biết trường mình lấy thịt lợn ở đâu sao chỉ thấy toàn bì đầy lông còn thịt (cả mỡ và nạc) đi đâu nhỉ ? May mà còn mấy cọng rau muống cạn mà các lớp đều phải trồng phía sau nhà tắm cấp 2, nên thỉnh thoảng còn có canh rau muống, nhưng cũng chẳng bõ bèn vào đâu.

Nay có cơ hội nhớ lại chuyện xưa thấy đời mình đã được “đánh dứt điểm” món Bí đỏ, ko bao giờ còn ham muốn nữa. Món ngon này xin nhường lại vợ con. Nhưng cũng thật buồn, khi kể lại, mấy đứa nhỏ cười rũ rượi nghĩ ba đang kể chuyện tiếu lâm “thời kỳ đổi mới” mới chết chứ ! Thật chỉ có AE mình mới thông cảm được.


Thứ Hai, 5 tháng 5, 2008

Kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Trường Bưởi – Chu Văn An (1908-2008) -Updated-

Start:     May 17, '08 08:00a
Location:     Trường Phổ thông trung học CHU VĂN AN, số 10 phố Thụy Khuê, Hà nội .
Thông báo!

Tin chính thức:
Thông báo Anh em Trỗi nào đã từng học trường Phổ thông cấp 3 Chu Văn An, Hà nội có nguyện vọng dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày thành lập:
ĐẠI LỄ KỶ NIỆM sẽ được tiến hành vào hồi 8h ngày thứ Bảy 17/5/2008, tại Trường Phổ thông trung học CHU VĂN AN, số 10 phố Thụy Khuê, Hà nội .
Trân trọng thông báo.

Tham khảo chi tiết thêm :
1. Chương trình lễ kỷ niệm 100 năm trường Bưởi - Chu Văn An
2. Ban Liên lạc Cựu học sinh Bưởi – Chu Văn An


Được đăng bởi vinhnq tại Blog ÚT TRỖI 22:55 Thứ bảy, ngày 03 tháng năm năm 2008

Xem:

* Trường Bảo hộ - Dương Trung Quốc, 19/7/2009, Báo Khoa học & Đời Sống Online Bee.Net.Vn
1. Thông báo! - VinhNQ
2. Bộ đội Cụ Hồ từ trường Bưởi - Báo điện tử Quân Đội Nhân Dân - Kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Trường Bưởi – Chu Văn An (1908-2008).
3. Kỷ niệm 100 năm trường Bưởi - Chu VĂn An - Nguyễn Thị Thái
4. THÊM VÀI HÌNH ẢNH 100 NĂM TRƯỜNG BƯỞI - K.Việt

Start:     May 17, '08 08:00a
Location:     Trường Phổ thông trung học CHU VĂN AN, số 10 phố Thụy Khuê, Hà nội .
Thông báo!

Tin chính thức:
Thông báo Anh em Trỗi nào đã từng học trường Phổ thông cấp 3 Chu Văn An, Hà nội có nguyện vọng dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày thành lập:
ĐẠI LỄ KỶ NIỆM sẽ được tiến hành vào hồi 8h ngày thứ Bảy 17/5/2008, tại Trường Phổ thông trung học CHU VĂN AN, số 10 phố Thụy Khuê, Hà nội .
Trân trọng thông báo.

Tham khảo chi tiết thêm :
1. Chương trình lễ kỷ niệm 100 năm trường Bưởi - Chu Văn An
2. Ban Liên lạc Cựu học sinh Bưởi – Chu Văn An


Được đăng bởi vinhnq tại Blog ÚT TRỖI 22:55 Thứ bảy, ngày 03 tháng năm năm 2008

Xem:

* Trường Bảo hộ - Dương Trung Quốc, 19/7/2009, Báo Khoa học & Đời Sống Online Bee.Net.Vn
1. Thông báo! - VinhNQ
2. Bộ đội Cụ Hồ từ trường Bưởi - Báo điện tử Quân Đội Nhân Dân - Kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Trường Bưởi – Chu Văn An (1908-2008).
3. Kỷ niệm 100 năm trường Bưởi - Chu VĂn An - Nguyễn Thị Thái
4. THÊM VÀI HÌNH ẢNH 100 NĂM TRƯỜNG BƯỞI - K.Việt

Tại sao tôi vào Đảng? - HaMeoK6

Đăng lại bài viết của Hà Mèo
(đã đăng tại „Blog Bạn Trỗi”: Thứ hai, tháng năm 05, 2008)

Câu hỏi nghe đơn giản với 1 số người, nhưng cũng là trăn trở đối 1 số khác. Phụ huynh chúng ta vốn không chỉ là Đảng viên mà còn là cán bộ Đảng và trên hết các “ông bô, bà bô” đều đem hết cuộc đời mình chiến đấu cho sự nghiệp của Đảng. Bởi vậy chuyện phấn đấu vào Đảng của AE ta cũng từng được coi là đương nhiên. Vậy mà khi chúng ta đều đã trên 50 tuổi và nhìn lại thì có rất nhiều AE Trỗi không phải / chưa phải / không còn là Đảng viên. Nghe thấy lạ, nhưng cũng chẳng có gì là lạ cả !

Gần 30 năm về trước, khi đó tôi còn là 1 kỹ sư trẻ và đang là Bí thư đoàn Nhà máy cũng đã từng được các đ/c Đảng viên “rủ rê” vô Đảng. Bữa đó 1 Đảng viên trẻ (tuổi) gặp tôi nói :

- Chi bộ có dự kiến phát triển mày, nhưng theo quy định mày phải đi học lớp Đối tượng Đảng sẽ tổ chức tới đây. Mọi người đều biết chương trình Triết học trong trường Đại học còn cao hơn, nhưng đây là quy định

- Ừ, nếu lớp đối tượng cần giảng viên thì tao sẵn sàng tham gia, còn không thì thôi, để thời gian cho tao làm việc có lẽ tốt hơn.

- !!!

- Thôi, mày cứ báo cáo Chi bộ là đã hoàn thành nhiệm vụ thông báo cho tao biết. Tao sẽ xác nhận. Còn việc không đi học là do tao chứ không phải mày. OK ?

Sau đợt đó, đ/c Bí thư Đảng bộ chuyên trách của Nhà máy đã trực tiếp gặp tôi hỏi :

- Tao nghe nói mày không muốn vô Đảng…

- Đâu có ! Đảng mà cho vô, em xách dép nhẩy vô liền. Đây này, đơn em đã viết sẵn, anh có cần em nạp ngay bây giờ.- Vừa nói tôi vừa làm bộ mở ngăn kéo bàn.

- Ấy ấy, từ từ mày…

- Đấy ! Vậy là anh chê em mà chứ đâu có phải em không muốn !

Đ/ c Bí thư bước đi cái một và từ đó Chi bộ không bao giờ nhắc tới tôi nữa.

Thật ra thì với truyền thống của gia đình mình, tôi cũng như các bạn rất muốn vô Đảng để cùng nhau gánh vác chút đỉnh những gì mà các phụ huynh đã để lại. Ngặt một nỗi, qua các Đảng viên ở Nhà máy tôi lúc bấy giờ, tôi được biết nội dung của các buổi họp Chi bộ chỉ xoay quanh vấn đề ai thuộc “cánh” nào, ngồi “ghế” nào ? Và tất nhiên tiếng nói Bí thư Đoàn Nhà máy trong Chi bộ (nếu có) cũng đáng vài “gờ-ram” đấy chứ (còn chuyện thuộc “cánh” nào thì để hậu xét). Mà tôi lại đang “lỡ” ngồi đó. Hiểu ra vấn đề, tôi liền xin rút ra khỏi BCH Đoàn Nhà máy để “thằng em” Bí thư kế thừa được kết nạp ngay sau khi “đắc cử”. Còn tôi có thời gian, có đầu óc thảnh thơi để tâm vào học thêm và tích lũy kinh nghiệm chuyên môn. Hai bên cùng có lợi !

Thời gian sau, tôi chuyển công tác về 1 Công ty XNK. Công ty mới có giàn lãnh đạo là các anh cựu Học sinh miền Nam rất tâm đồng ý hợp, hiểu AE Trỗi mình như hiểu chính mấy ảnh vậy. Thật là tuyệt vời ! Rồi việc phải đến cũng đã đến. Đúng vào thời gian Liên Xô tan rã, nhiều thằng hoảng hốt “nhẩy” ra khỏi Đảng thì tôi làm đơn, làm hố sơ chuẩn bị kết nạp. Mọi thủ tục đều đã hoàn tất, chỉ còn chờ Đảng ủy cấp trên phê duyệt là xong. Nhưng sự việc xảy ra ngoài sức tưởng tượng của tất cả Chi bộ, tôi và nhất là mấy anh Lãnh đạo vốn là HSMN : Lý lịch của tôi có vấn đề !

Đảng ủy kêu tôi lên giải thích phần lý lịch của ba tôi có 2 vấn đề không rõ ràng :

  1. Tại sao ba tôi sinh ở Hà Tĩnh mà lại tham gia CM (năm 1927) ở Sài Gòn ? Ai phân công ba tôi vô Nam ? Làm nhiệm vụ gì ?
  2. Trong bản sơ yếu lý lịch (hồi này còn dùng bản mẫu SYLL dành cho CB-CNV) tôi ghi : Cha - Họ tên…., Đảng viên - nghề nghiệp hiện nay : CB hưu trí, trước đây : CB cơ quan…. – và sau đó tất nhiên có phần kê khai từng thời kỳ. Nhưng như vậy là “không rõ ràng” vì theo Đảng ủy, ba tôi không phải là Đảng viên mà là CB Đảng chức gì gì đó, ông cũng không phải là CB cơ quan…. mà phải là chức gì gì đó ở cơ quan…

Ôi, theo những gì được dậy dỗ lâu nay, tôi vẫn thường tự hào vì có cha mẹ là Đảng viên, là Cán bộ nhà nước, đó là danh hiệu cao quý nhất trong chế độ này. Nhưng không phải, mấy cái “ghế” mới đáng tự hào ! Vậy là tôi từ chối viết lại lý lịch và tất nhiên Đảng ủy cũng từ chối nhắc đến tên tôi, thậm chí họ chán tới mức còn trả lại bản lý lịch “dở hơi” của tôi cho mang về chơi.

Rồi mọi chuyện cũng trôi qua như tất cả những gì đã trôi qua trong cuộc đời. Tôi được cử làm Đại diện cho phía Việt Nam trong 1 công ty liên doanh với nước ngoài. Để được UBND TP phê chuẩn, ông GĐ kiêm Bí thư Đảng ủy Công ty Việt nam (cũng là 1 cựu HSMN) đã phải đích thân đi thuyết trình và cam kết với Thành ủy về sự trung thành với chế độ của tôi (?). Cho tới lúc này, tôi vẫn tự hào mình là 1 thằng CS thực thụ, dù không phải Đảng viên. Chuyện đó đâu quan trọng. Quan trọng là mình đã làm gì, đóng góp được những gì cho cái chế độ do phụ huynh mình đã góp sức xây lên. Mà thậm chí, do không tốn thời gian và đầu óc vào những chuyện “đấu đá”, tranh giành này kia, nên kết quả đóng góp cho XH, cho Nhà nước (mà nay do Đảng lãnh đạo, chứ không phải như trước kia) còn tốt hơn nhiều. Ngoài ra, tôi cũng có chút “tự hào” là mình đã không ngồi chung bàn với mấy thằng được gọi là Đảng viên mà chẳng “Đảng” chút nào !

Nhưng (cuộc đời sao lắm chữ nhưng), khi làm việc trong CTLD, 1 doanh ngiệp lấy lợi nhuận làm mục tiêu trên hết và bị lãnh đạo bởi tụi Tư bản (vì vốn của chúng nó cao hơn mà), thậm chí còn có ý thức chống Cộng, nơi mà mọi người đếu nghĩ nếu là Đảng viên có khi còn bị gây khó trong công việc, thì tại nơi đây tôi lại thấy rất rõ sự cần thiết phải có vai trò của Đảng. Hoàn toàn không có 1 chút gì lý thuyết hay quan điểm này nọ, vấn đề mâu thuẫn giữa công nhân mà đại diện là tổ chức Công đoàn với giới chủ là Tổng Giám Đốc thường xuyên xảy ra với nhiều mức độ và hình thức khác nhau. Đó là tất yếu ! 2 bên tất nhiên sẽ phải cùng nhau thảo luận tìm ra cách giải quyết ổn thỏa. Nhưng không phải lúc nào cũng đi đến được điểm chung. Lúc này phải làm gì ? Đình công – ngưng sản xuất – giảm lợi nhuận – giảm lương, thưởng – có thể 1 số CN sẽ bị sa thải hoặc tệ hơn, Công ty “sập tiệm” – tất cả đều “chết”, mà CN “chết” trước. Ai thiệt hơn ? Cần phải có người đứng ra tìm và thuyết phục 2 bên có tiếng nói chung và cùng tốn tại phát triển mà không thiệt hại cho đất nước mình. Ngoài Chi bộ Đảng của CTLD thì chẳng có ai làm tốt được.

Vậy đó, và tôi xin vào Đảng để tổ chức ra Chi bộ CTLD (cho tới lúc bấy giờ chưa có) và Chi bộ chúng tôi đã hoạt động có hiệu quả rõ rệt. Tụi tôi đã “lãnh đạo” Công đoàn và “hướng dẫn” TGĐ giải quyết khối chuyện trong hầu hết các lãnh vực chứ không phải chỉ 30% (bằng vốn của phía VN) như 1 đ/c lãnh đạo đã từng chỉ đạo. Không những thế, tụi tôi còn kết nạp thêm “1 mớ” đảng viên mới., toàn tụi trẻ, có học, mà đặc biệt đều đang làm thuê trong LD chớ không phải do phía VN cử qua. Số này đúng là những Đảng viên thực thụ vì trong LD, Đảng viên không hề có lợi lộc gì ngoài quyền được phục vụ quần chúng, mà nếu có thì chỉ là có bị “tây” ghét mà thôi.

Còn chuyện tôi vào Đảng như thế nào xin để lần khác sẽ kể.

Đăng lại bài viết của Hà Mèo
(đã đăng tại „Blog Bạn Trỗi”: Thứ hai, tháng năm 05, 2008)

Câu hỏi nghe đơn giản với 1 số người, nhưng cũng là trăn trở đối 1 số khác. Phụ huynh chúng ta vốn không chỉ là Đảng viên mà còn là cán bộ Đảng và trên hết các “ông bô, bà bô” đều đem hết cuộc đời mình chiến đấu cho sự nghiệp của Đảng. Bởi vậy chuyện phấn đấu vào Đảng của AE ta cũng từng được coi là đương nhiên. Vậy mà khi chúng ta đều đã trên 50 tuổi và nhìn lại thì có rất nhiều AE Trỗi không phải / chưa phải / không còn là Đảng viên. Nghe thấy lạ, nhưng cũng chẳng có gì là lạ cả !

Gần 30 năm về trước, khi đó tôi còn là 1 kỹ sư trẻ và đang là Bí thư đoàn Nhà máy cũng đã từng được các đ/c Đảng viên “rủ rê” vô Đảng. Bữa đó 1 Đảng viên trẻ (tuổi) gặp tôi nói :

- Chi bộ có dự kiến phát triển mày, nhưng theo quy định mày phải đi học lớp Đối tượng Đảng sẽ tổ chức tới đây. Mọi người đều biết chương trình Triết học trong trường Đại học còn cao hơn, nhưng đây là quy định

- Ừ, nếu lớp đối tượng cần giảng viên thì tao sẵn sàng tham gia, còn không thì thôi, để thời gian cho tao làm việc có lẽ tốt hơn.

- !!!

- Thôi, mày cứ báo cáo Chi bộ là đã hoàn thành nhiệm vụ thông báo cho tao biết. Tao sẽ xác nhận. Còn việc không đi học là do tao chứ không phải mày. OK ?

Sau đợt đó, đ/c Bí thư Đảng bộ chuyên trách của Nhà máy đã trực tiếp gặp tôi hỏi :

- Tao nghe nói mày không muốn vô Đảng…

- Đâu có ! Đảng mà cho vô, em xách dép nhẩy vô liền. Đây này, đơn em đã viết sẵn, anh có cần em nạp ngay bây giờ.- Vừa nói tôi vừa làm bộ mở ngăn kéo bàn.

- Ấy ấy, từ từ mày…

- Đấy ! Vậy là anh chê em mà chứ đâu có phải em không muốn !

Đ/ c Bí thư bước đi cái một và từ đó Chi bộ không bao giờ nhắc tới tôi nữa.

Thật ra thì với truyền thống của gia đình mình, tôi cũng như các bạn rất muốn vô Đảng để cùng nhau gánh vác chút đỉnh những gì mà các phụ huynh đã để lại. Ngặt một nỗi, qua các Đảng viên ở Nhà máy tôi lúc bấy giờ, tôi được biết nội dung của các buổi họp Chi bộ chỉ xoay quanh vấn đề ai thuộc “cánh” nào, ngồi “ghế” nào ? Và tất nhiên tiếng nói Bí thư Đoàn Nhà máy trong Chi bộ (nếu có) cũng đáng vài “gờ-ram” đấy chứ (còn chuyện thuộc “cánh” nào thì để hậu xét). Mà tôi lại đang “lỡ” ngồi đó. Hiểu ra vấn đề, tôi liền xin rút ra khỏi BCH Đoàn Nhà máy để “thằng em” Bí thư kế thừa được kết nạp ngay sau khi “đắc cử”. Còn tôi có thời gian, có đầu óc thảnh thơi để tâm vào học thêm và tích lũy kinh nghiệm chuyên môn. Hai bên cùng có lợi !

Thời gian sau, tôi chuyển công tác về 1 Công ty XNK. Công ty mới có giàn lãnh đạo là các anh cựu Học sinh miền Nam rất tâm đồng ý hợp, hiểu AE Trỗi mình như hiểu chính mấy ảnh vậy. Thật là tuyệt vời ! Rồi việc phải đến cũng đã đến. Đúng vào thời gian Liên Xô tan rã, nhiều thằng hoảng hốt “nhẩy” ra khỏi Đảng thì tôi làm đơn, làm hố sơ chuẩn bị kết nạp. Mọi thủ tục đều đã hoàn tất, chỉ còn chờ Đảng ủy cấp trên phê duyệt là xong. Nhưng sự việc xảy ra ngoài sức tưởng tượng của tất cả Chi bộ, tôi và nhất là mấy anh Lãnh đạo vốn là HSMN : Lý lịch của tôi có vấn đề !

Đảng ủy kêu tôi lên giải thích phần lý lịch của ba tôi có 2 vấn đề không rõ ràng :

  1. Tại sao ba tôi sinh ở Hà Tĩnh mà lại tham gia CM (năm 1927) ở Sài Gòn ? Ai phân công ba tôi vô Nam ? Làm nhiệm vụ gì ?
  2. Trong bản sơ yếu lý lịch (hồi này còn dùng bản mẫu SYLL dành cho CB-CNV) tôi ghi : Cha - Họ tên…., Đảng viên - nghề nghiệp hiện nay : CB hưu trí, trước đây : CB cơ quan…. – và sau đó tất nhiên có phần kê khai từng thời kỳ. Nhưng như vậy là “không rõ ràng” vì theo Đảng ủy, ba tôi không phải là Đảng viên mà là CB Đảng chức gì gì đó, ông cũng không phải là CB cơ quan…. mà phải là chức gì gì đó ở cơ quan…

Ôi, theo những gì được dậy dỗ lâu nay, tôi vẫn thường tự hào vì có cha mẹ là Đảng viên, là Cán bộ nhà nước, đó là danh hiệu cao quý nhất trong chế độ này. Nhưng không phải, mấy cái “ghế” mới đáng tự hào ! Vậy là tôi từ chối viết lại lý lịch và tất nhiên Đảng ủy cũng từ chối nhắc đến tên tôi, thậm chí họ chán tới mức còn trả lại bản lý lịch “dở hơi” của tôi cho mang về chơi.

Rồi mọi chuyện cũng trôi qua như tất cả những gì đã trôi qua trong cuộc đời. Tôi được cử làm Đại diện cho phía Việt Nam trong 1 công ty liên doanh với nước ngoài. Để được UBND TP phê chuẩn, ông GĐ kiêm Bí thư Đảng ủy Công ty Việt nam (cũng là 1 cựu HSMN) đã phải đích thân đi thuyết trình và cam kết với Thành ủy về sự trung thành với chế độ của tôi (?). Cho tới lúc này, tôi vẫn tự hào mình là 1 thằng CS thực thụ, dù không phải Đảng viên. Chuyện đó đâu quan trọng. Quan trọng là mình đã làm gì, đóng góp được những gì cho cái chế độ do phụ huynh mình đã góp sức xây lên. Mà thậm chí, do không tốn thời gian và đầu óc vào những chuyện “đấu đá”, tranh giành này kia, nên kết quả đóng góp cho XH, cho Nhà nước (mà nay do Đảng lãnh đạo, chứ không phải như trước kia) còn tốt hơn nhiều. Ngoài ra, tôi cũng có chút “tự hào” là mình đã không ngồi chung bàn với mấy thằng được gọi là Đảng viên mà chẳng “Đảng” chút nào !

Nhưng (cuộc đời sao lắm chữ nhưng), khi làm việc trong CTLD, 1 doanh ngiệp lấy lợi nhuận làm mục tiêu trên hết và bị lãnh đạo bởi tụi Tư bản (vì vốn của chúng nó cao hơn mà), thậm chí còn có ý thức chống Cộng, nơi mà mọi người đếu nghĩ nếu là Đảng viên có khi còn bị gây khó trong công việc, thì tại nơi đây tôi lại thấy rất rõ sự cần thiết phải có vai trò của Đảng. Hoàn toàn không có 1 chút gì lý thuyết hay quan điểm này nọ, vấn đề mâu thuẫn giữa công nhân mà đại diện là tổ chức Công đoàn với giới chủ là Tổng Giám Đốc thường xuyên xảy ra với nhiều mức độ và hình thức khác nhau. Đó là tất yếu ! 2 bên tất nhiên sẽ phải cùng nhau thảo luận tìm ra cách giải quyết ổn thỏa. Nhưng không phải lúc nào cũng đi đến được điểm chung. Lúc này phải làm gì ? Đình công – ngưng sản xuất – giảm lợi nhuận – giảm lương, thưởng – có thể 1 số CN sẽ bị sa thải hoặc tệ hơn, Công ty “sập tiệm” – tất cả đều “chết”, mà CN “chết” trước. Ai thiệt hơn ? Cần phải có người đứng ra tìm và thuyết phục 2 bên có tiếng nói chung và cùng tốn tại phát triển mà không thiệt hại cho đất nước mình. Ngoài Chi bộ Đảng của CTLD thì chẳng có ai làm tốt được.

Vậy đó, và tôi xin vào Đảng để tổ chức ra Chi bộ CTLD (cho tới lúc bấy giờ chưa có) và Chi bộ chúng tôi đã hoạt động có hiệu quả rõ rệt. Tụi tôi đã “lãnh đạo” Công đoàn và “hướng dẫn” TGĐ giải quyết khối chuyện trong hầu hết các lãnh vực chứ không phải chỉ 30% (bằng vốn của phía VN) như 1 đ/c lãnh đạo đã từng chỉ đạo. Không những thế, tụi tôi còn kết nạp thêm “1 mớ” đảng viên mới., toàn tụi trẻ, có học, mà đặc biệt đều đang làm thuê trong LD chớ không phải do phía VN cử qua. Số này đúng là những Đảng viên thực thụ vì trong LD, Đảng viên không hề có lợi lộc gì ngoài quyền được phục vụ quần chúng, mà nếu có thì chỉ là có bị “tây” ghét mà thôi.

Còn chuyện tôi vào Đảng như thế nào xin để lần khác sẽ kể.

Thông tin Giao ban Cafe tháng 5 - HaMeoK6


“Giao ban Đôi khi” kỳ này xuất hiện 2 nhân vật K9 mới “ra mắt”, đó là em gái “Suối” và bạn cùng công ty cũng “ngưỡng mộ” các “bán trời” do anh Từ Ngữ và các anh K4 Hà nội “giới thiệu”.

Sáng vô, aHCQ nói : “JM gọi điện nói ko đến được vì còn ở Bình Dương, nhưng có 2 K9 sẽ mang hoa tới “Café giao ban”, ko biết đã tới chưa ?” – “Có 2 em cầm giỏ hoa ngồi dưới kia, chắc là…” AK7 nói. Và ngay chóc, 2 K9 là nhân viên Cty Cacaovina được “TW hôi Bán trời” m.Bắc giới thiệu vô tham gia giao ban m.Nam. Việc này đã được aTM, người từng có mặt trong buổi họp của “Ban tổ chức Phở HH” xác nhận và nay gặp lại người quen cũ – người mà aHT đã phải bỏ họp để tiễn đưa !

2 K9 tới tham dự và “ra mắt” bằng cách mời mỗi người tham dư 1 ly cacao “chuẩn” của Cty (cacao Việt Nam chánh hiệu). Ngon ! Mỗi người có 1 khẩu vị khác nhau, nhận xét tùm lum, nhưng nói chung đây cũng là vấn đề cần phải “nghiên cứu” – mà xem ra có lẽ còn phức tạp hơn “cái gọi là café” mà AE đã đã từng xem xét. Nếu sau đây, “Suối” hoặc bạn gái cùng đi có bài về đế tài này đăng lên blog thì “hơn cả tuyệt vời” !

2 K9 "ra mắt"
2 K9 "ra mắt"
"nâng ly" cacao




Đăng lại bài viết của Hà Mèo (đã đăng tại „Blog Bạn Trỗi”: Thứ hai, tháng năm 05, 2008)

Xem thêm:
1. Họp tháng 4 - cafe giao ban (TP HCM) - Hà Chí Quang
2. Tường thuật giao ban quán cà phê Đôi Khi 3/5/2008 - Lục Sĩ Thanh K7
3. Album - Út Trỗi
4. Dự án - cafe giao ban - Trung Liêm (V/v: Đổi địa điểm Giao ban)

“Giao ban Đôi khi” kỳ này xuất hiện 2 nhân vật K9 mới “ra mắt”, đó là em gái “Suối” và bạn cùng công ty cũng “ngưỡng mộ” các “bán trời” do anh Từ Ngữ và các anh K4 Hà nội “giới thiệu”.

Sáng vô, aHCQ nói : “JM gọi điện nói ko đến được vì còn ở Bình Dương, nhưng có 2 K9 sẽ mang hoa tới “Café giao ban”, ko biết đã tới chưa ?” – “Có 2 em cầm giỏ hoa ngồi dưới kia, chắc là…” AK7 nói. Và ngay chóc, 2 K9 là nhân viên Cty Cacaovina được “TW hôi Bán trời” m.Bắc giới thiệu vô tham gia giao ban m.Nam. Việc này đã được aTM, người từng có mặt trong buổi họp của “Ban tổ chức Phở HH” xác nhận và nay gặp lại người quen cũ – người mà aHT đã phải bỏ họp để tiễn đưa !

2 K9 tới tham dự và “ra mắt” bằng cách mời mỗi người tham dư 1 ly cacao “chuẩn” của Cty (cacao Việt Nam chánh hiệu). Ngon ! Mỗi người có 1 khẩu vị khác nhau, nhận xét tùm lum, nhưng nói chung đây cũng là vấn đề cần phải “nghiên cứu” – mà xem ra có lẽ còn phức tạp hơn “cái gọi là café” mà AE đã đã từng xem xét. Nếu sau đây, “Suối” hoặc bạn gái cùng đi có bài về đế tài này đăng lên blog thì “hơn cả tuyệt vời” !

2 K9 "ra mắt"
2 K9 "ra mắt"
"nâng ly" cacao




Đăng lại bài viết của Hà Mèo (đã đăng tại „Blog Bạn Trỗi”: Thứ hai, tháng năm 05, 2008)

Xem thêm:
1. Họp tháng 4 - cafe giao ban (TP HCM) - Hà Chí Quang
2. Tường thuật giao ban quán cà phê Đôi Khi 3/5/2008 - Lục Sĩ Thanh K7
3. Album - Út Trỗi
4. Dự án - cafe giao ban - Trung Liêm (V/v: Đổi địa điểm Giao ban)

Thứ Sáu, 2 tháng 5, 2008

Con ông to - HaMeoK6

   


Suốt từ nhỏ tới lớn, tôi luôn luôn bị câu “Con ông to” ám ảnh. Mọi chuyện mình làm đều bị XH (bạn bè và cả người lớn) lý giải là vì “con ông to”, chẳng có gì là vì mình và do mình cả. Học giỏi thì vì là “con ông to, ở nhà đâu có phải làm gì” - học dốt thì “con ông to, chỉ biết chơi thôi”. Ngoan thì tại “là con ông to, đâu có thích chơi với con dân” – quậy thì vì “là con ông to nên ỷ thế làm càn”. Lao động giỏi là do “con ông to, ăn uống đầy đủ, có sức khỏe” – còn dở thì vì “con ông to không biết lao động, chỉ biết ăn”. Đủ thứ hết đều có lý do vì “con ông to” ! Tôi nhớ hồi nhỏ có cái áo lụa Liên Xô rất thích, nhưng không dám mặc vì chỉ “con ông to, nhiều tiền mới có”, vậy là bà già phải kiếm mua cho cái áo mậu dịch mặc cho giống chúng bạn. Rồi lâu lâu cũng phải trốn học đi chơi với tụi bạn để không phải là “con ông to chỉ biết nghe lời” (!)

Rồi lên trường Trỗi. Quân phục phát đồng loạt giống nhau, chẳng có thằng “con ông to” nào được bận đồ đẹp hơn, nhiều hơn. Ăn uống giống nhau, ngủ nghê, học tập, lao động, quậy phá như nhau, không có thằng nào vì là “con ông to” mà hơn hay kém thằng khác. Tuy vậy, trong thời gian đầu, tôi vẫn chưa hề hết “phòng thủ” với cuộc sống mới. Sáng ăn ngô bung cứng ngắt, khô còng, lạt nhách nhưng vẫn phải ráng vươn cổ nuốt cho hết suất dù chẳng đói chút nào. Ông bà già gửi cho ít đường cũng không dám trộn vô ăn cho dễ chỉ vì sơ “con ông to không quen ăn khổ, nhà giàu có thừa đường trộn ngô bung ăn sáng”. Nhưng sau vài bữa, có thằng kia, sau khi ngồi nhá vài miếng không xong như tôi đã cầm nguyên chén ngô bung vừa chửi thề vừa đổ ụp vào bụi cây trước mặt “quần hào” mà chẳng thấy ai có ý kiến gì, mặc dù tôi biết rất rõ nó là “con ông rất rất to” ! Rồi từ từ anh em thân nhau, chơi với nhau vì thằng này “chơi được”, thằng kia không hợp tính chứ chẳng hề biết nó là “con ông nào”. Trường Trỗi có lẽ là nơi duy nhất không có, hay gần như không có khái niệm “con ông to”. Hay tại ở đây toàn là “con ông to” như 1 số người vẫn nói, cho dù có ông “to nhiều”, ông “to ít” ?

Kết thúc trường Trỗi. Giờ đã lớn hơn, hiểu hơn mới thấy không chỉ có mình, mà còn có nhiều “con ông to” khác cũng không thể vượt qua được “miệng đời”. 1 số bạn bè tôi tặc lưỡi : Ừ, thì ta là con ông to ! Đã thế thì sử dụng cho hết cái gọi là “con ông to”. Chuyện hay có, chuyện dở cũng không thiếu. Người thành công có nhiều, kẻ “rớt đài” cũng không ít. Kẻ đúng người sai, nhưng đếu không tránh khỏi cái tiếng “con ông to ỷ thế làm càn” (hoặc làm tốt ?). 1 số khác – trong đó có tôi – thì cố gắng từ chối các sự ưu đãi vẫn thường có trong XH và bằng mọi cách chứng minh cho mọi người biết mình làm nên sự nghiệp bằng chính đôi chân mình chứ không phải bằng cái chân “ông to”. Để vượt qua được “cửa ải” này, nhiều khi tôi đã phải vận hết “10 thành công lực” cũng chỉ để đạt được 1 cái kết quả bé xíu mà những người khác rất dễ dàng vượt qua. Nhưng người thành đạt thì cũng vẫn vì là “con ông to” nên có nâng đỡ. Thậm chí có người không phải “con ông to” nhưng cũng được ghép cho là con rơi “ông to” này, con nuôi “ông to” kia (?). Số khác thì quá chán nản, “buông tay” “gác kiếm”, rút về với thú vui gia đình, tìm kiếm sư an nhàn bắt buộc trong tuổi chưa thật là già. Đó cũng vì là “con ông to” nên dễ chán nản, thiếu nghị lực (?)

Tôi có 1 thằng bạn Trỗi, “con ông rất to”, nó học rất giỏi, không hiểu có ai nói gì không, nhưng sau khi tốt nghiệp phổ thông với điểm vào hàng đầu Hà Nội, nó được ông già gửi ngay vào quân đội đi nghĩa vụ quân sự, hình như là ra mặt trận (năm 1971). Chẳng thấy ai nói nó là “con ông to” nên phải đi lính ! (Sau này nó về học Đại học vẫn rất giỏi). Bản thân tôi cũng “được” 1 số CB lãnh đạo trực tiếp hết sức “lưu tâm theo dõi” tìm cho ra bằng hết các khuyết điểm của mình để khuếch trương lên cho mọi người biết rằng “con ông to” thì phải chịu những “hình phạt” nặng nề hơn người khác (?).

Ôi, đến nay đã hơn 50 tuổi, cái bóng “con ông to” vẫn còn phủ lên tôi ! Dẫu biết rằng không ai lựa được chỗ mình sinh ra, nhưng tới giờ vẫn không hiểu được : “con ông to” là tiền đề có lợi hay có hại cho cuộc đời mình ? Thôi chỉ mong sao XH ngày một đổi khác để con cháu mình không bị là “con ông to” / “cháu ông to”!


Đăng lại bài viết của Hà Mèo (đã đăng tại „Blog Út Trỗi”: Thứ sáu, ngày 02 tháng năm năm 2008)
   


Suốt từ nhỏ tới lớn, tôi luôn luôn bị câu “Con ông to” ám ảnh. Mọi chuyện mình làm đều bị XH (bạn bè và cả người lớn) lý giải là vì “con ông to”, chẳng có gì là vì mình và do mình cả. Học giỏi thì vì là “con ông to, ở nhà đâu có phải làm gì” - học dốt thì “con ông to, chỉ biết chơi thôi”. Ngoan thì tại “là con ông to, đâu có thích chơi với con dân” – quậy thì vì “là con ông to nên ỷ thế làm càn”. Lao động giỏi là do “con ông to, ăn uống đầy đủ, có sức khỏe” – còn dở thì vì “con ông to không biết lao động, chỉ biết ăn”. Đủ thứ hết đều có lý do vì “con ông to” ! Tôi nhớ hồi nhỏ có cái áo lụa Liên Xô rất thích, nhưng không dám mặc vì chỉ “con ông to, nhiều tiền mới có”, vậy là bà già phải kiếm mua cho cái áo mậu dịch mặc cho giống chúng bạn. Rồi lâu lâu cũng phải trốn học đi chơi với tụi bạn để không phải là “con ông to chỉ biết nghe lời” (!)

Rồi lên trường Trỗi. Quân phục phát đồng loạt giống nhau, chẳng có thằng “con ông to” nào được bận đồ đẹp hơn, nhiều hơn. Ăn uống giống nhau, ngủ nghê, học tập, lao động, quậy phá như nhau, không có thằng nào vì là “con ông to” mà hơn hay kém thằng khác. Tuy vậy, trong thời gian đầu, tôi vẫn chưa hề hết “phòng thủ” với cuộc sống mới. Sáng ăn ngô bung cứng ngắt, khô còng, lạt nhách nhưng vẫn phải ráng vươn cổ nuốt cho hết suất dù chẳng đói chút nào. Ông bà già gửi cho ít đường cũng không dám trộn vô ăn cho dễ chỉ vì sơ “con ông to không quen ăn khổ, nhà giàu có thừa đường trộn ngô bung ăn sáng”. Nhưng sau vài bữa, có thằng kia, sau khi ngồi nhá vài miếng không xong như tôi đã cầm nguyên chén ngô bung vừa chửi thề vừa đổ ụp vào bụi cây trước mặt “quần hào” mà chẳng thấy ai có ý kiến gì, mặc dù tôi biết rất rõ nó là “con ông rất rất to” ! Rồi từ từ anh em thân nhau, chơi với nhau vì thằng này “chơi được”, thằng kia không hợp tính chứ chẳng hề biết nó là “con ông nào”. Trường Trỗi có lẽ là nơi duy nhất không có, hay gần như không có khái niệm “con ông to”. Hay tại ở đây toàn là “con ông to” như 1 số người vẫn nói, cho dù có ông “to nhiều”, ông “to ít” ?

Kết thúc trường Trỗi. Giờ đã lớn hơn, hiểu hơn mới thấy không chỉ có mình, mà còn có nhiều “con ông to” khác cũng không thể vượt qua được “miệng đời”. 1 số bạn bè tôi tặc lưỡi : Ừ, thì ta là con ông to ! Đã thế thì sử dụng cho hết cái gọi là “con ông to”. Chuyện hay có, chuyện dở cũng không thiếu. Người thành công có nhiều, kẻ “rớt đài” cũng không ít. Kẻ đúng người sai, nhưng đếu không tránh khỏi cái tiếng “con ông to ỷ thế làm càn” (hoặc làm tốt ?). 1 số khác – trong đó có tôi – thì cố gắng từ chối các sự ưu đãi vẫn thường có trong XH và bằng mọi cách chứng minh cho mọi người biết mình làm nên sự nghiệp bằng chính đôi chân mình chứ không phải bằng cái chân “ông to”. Để vượt qua được “cửa ải” này, nhiều khi tôi đã phải vận hết “10 thành công lực” cũng chỉ để đạt được 1 cái kết quả bé xíu mà những người khác rất dễ dàng vượt qua. Nhưng người thành đạt thì cũng vẫn vì là “con ông to” nên có nâng đỡ. Thậm chí có người không phải “con ông to” nhưng cũng được ghép cho là con rơi “ông to” này, con nuôi “ông to” kia (?). Số khác thì quá chán nản, “buông tay” “gác kiếm”, rút về với thú vui gia đình, tìm kiếm sư an nhàn bắt buộc trong tuổi chưa thật là già. Đó cũng vì là “con ông to” nên dễ chán nản, thiếu nghị lực (?)

Tôi có 1 thằng bạn Trỗi, “con ông rất to”, nó học rất giỏi, không hiểu có ai nói gì không, nhưng sau khi tốt nghiệp phổ thông với điểm vào hàng đầu Hà Nội, nó được ông già gửi ngay vào quân đội đi nghĩa vụ quân sự, hình như là ra mặt trận (năm 1971). Chẳng thấy ai nói nó là “con ông to” nên phải đi lính ! (Sau này nó về học Đại học vẫn rất giỏi). Bản thân tôi cũng “được” 1 số CB lãnh đạo trực tiếp hết sức “lưu tâm theo dõi” tìm cho ra bằng hết các khuyết điểm của mình để khuếch trương lên cho mọi người biết rằng “con ông to” thì phải chịu những “hình phạt” nặng nề hơn người khác (?).

Ôi, đến nay đã hơn 50 tuổi, cái bóng “con ông to” vẫn còn phủ lên tôi ! Dẫu biết rằng không ai lựa được chỗ mình sinh ra, nhưng tới giờ vẫn không hiểu được : “con ông to” là tiền đề có lợi hay có hại cho cuộc đời mình ? Thôi chỉ mong sao XH ngày một đổi khác để con cháu mình không bị là “con ông to” / “cháu ông to”!


Đăng lại bài viết của Hà Mèo (đã đăng tại „Blog Út Trỗi”: Thứ sáu, ngày 02 tháng năm năm 2008)

Đám cưới con thầy Trần Sinh

Start:     May 9, '08 11:30a
Location:     C13, hẻm 11, đường Lê Hồng Phong, Tp. Cần Thơ.
...Có thầy Trọng, cô Thục, k4 có Ngô Minh Kính, Bùi Dũng Sô, k5 có Thế Thịnh, k6 có Điện Biên (đang là trửong đại diện sơn Joton tại miền Tây), k7 có Vũ Anh, Hòai Nam, k8 có vợ chồng Tuấn (vừa là trò, vừa là họ hàng)...Tình cảm của cô chú với thầy trò ta vẫn tràn đầy...Có ai ghé bàn của ta, chú đều khoe "lính Trỗi của tôi đó nghen!"...
------------------------------------------------
Chú Trần Sinh - giáo viên Thể thao quân sự - gửi Thiếp hồng mời thầy cô và học sinh Trường Trỗi đến dự đám cưới con gái được tổ chức:
- Thời gian: 11h30 ngày Thứ sáu 9/5/2008
- Địa điểm: C13, hẻm 11, đường Lê Hồng Phong, Tp. Cần Thơ.

Sau khi bàn bạc đã có phương án tổ chức đi dự đám cưới:
- Phương tiện: xe 15 chỗ của Phùng Duy Hưng K5.
- Thời gian tập trung: 6h30 ngày 9/5/2008
- Địa điểm tập trung: 100 Nguyễn Đình Chính, Q. Phú Nhuận (nhà P.D.Hưng)
(KQuốc sửa dùm nhé: Địa chỉ tập trung: 15A - Lê Thánh Tôn - Q.1 (hẻm nhà DSô).
Lưu ý: nhà không có chỗ gửi xe 2 bánh, ae tới bằng xe ôm vậy.
HCQuang)
- Người chủ trì: Hà Chí Quang K4 (Đt: 0903.780.206)

Đến ngày 2/5/2008, tạm thống nhất như sau:
- Thầy cô: thầy Trọng, cô Thục
- K3: Khánh Tường đang xem xét phương án cử đại diện
- K4: Chí Quang, Dũng Sô
- K5: Phan Nam và 3-4 người
- K6: Hùynh Hồng đang xem xét phương án cử đại diện
- K7: Vũ Anh đại diện
- K8: Tuấn "lùn" và má (có họ hàng với chú Sinh)

Cám ơn thầy cô và anh em đã nhiệt tình hưởng ứng tham gia chia vui với gia đình chú Sinh.
Liên lạc: Hà Chí Quang.
Dương Minh


Thông báo chen ngang: Chuyến đi Cần Thơ 9/5/08
Sáng 9/5/08, xuất phát lúc 6g30 từ cổng Công viên Lê Văn Tám, phía Hai Bà Trưng. Đi xe Mercedes Benz BKS 53N 7638 (tài xế Thanh: 0903398495, phụ xe Chí Quang: 0903780206). Anh em nào đã đăng kí chớ có ngủ quên!

(Chí Quang có tin này cũng lười post phải gửi ra tận TW. Quá là phọt phẹt!).
Gửi bởi TranKienQuoc.


Xem:

1. Tin vui!!! - Dương Minh.
Các bạn muốn biết thầy cô chúng ta và 2 em đã vượt chông gai tới hạnh phúc ra sao thì hãy xem:
2. Nghĩa tình thầy trò - Trần Kiến Quốc
3. Đám cưới con thầy Trần Sinh - Vũ Anh.


Start:     May 9, '08 11:30a
Location:     C13, hẻm 11, đường Lê Hồng Phong, Tp. Cần Thơ.
...Có thầy Trọng, cô Thục, k4 có Ngô Minh Kính, Bùi Dũng Sô, k5 có Thế Thịnh, k6 có Điện Biên (đang là trửong đại diện sơn Joton tại miền Tây), k7 có Vũ Anh, Hòai Nam, k8 có vợ chồng Tuấn (vừa là trò, vừa là họ hàng)...Tình cảm của cô chú với thầy trò ta vẫn tràn đầy...Có ai ghé bàn của ta, chú đều khoe "lính Trỗi của tôi đó nghen!"...
------------------------------------------------
Chú Trần Sinh - giáo viên Thể thao quân sự - gửi Thiếp hồng mời thầy cô và học sinh Trường Trỗi đến dự đám cưới con gái được tổ chức:
- Thời gian: 11h30 ngày Thứ sáu 9/5/2008
- Địa điểm: C13, hẻm 11, đường Lê Hồng Phong, Tp. Cần Thơ.

Sau khi bàn bạc đã có phương án tổ chức đi dự đám cưới:
- Phương tiện: xe 15 chỗ của Phùng Duy Hưng K5.
- Thời gian tập trung: 6h30 ngày 9/5/2008
- Địa điểm tập trung: 100 Nguyễn Đình Chính, Q. Phú Nhuận (nhà P.D.Hưng)
(KQuốc sửa dùm nhé: Địa chỉ tập trung: 15A - Lê Thánh Tôn - Q.1 (hẻm nhà DSô).
Lưu ý: nhà không có chỗ gửi xe 2 bánh, ae tới bằng xe ôm vậy.
HCQuang)
- Người chủ trì: Hà Chí Quang K4 (Đt: 0903.780.206)

Đến ngày 2/5/2008, tạm thống nhất như sau:
- Thầy cô: thầy Trọng, cô Thục
- K3: Khánh Tường đang xem xét phương án cử đại diện
- K4: Chí Quang, Dũng Sô
- K5: Phan Nam và 3-4 người
- K6: Hùynh Hồng đang xem xét phương án cử đại diện
- K7: Vũ Anh đại diện
- K8: Tuấn "lùn" và má (có họ hàng với chú Sinh)

Cám ơn thầy cô và anh em đã nhiệt tình hưởng ứng tham gia chia vui với gia đình chú Sinh.
Liên lạc: Hà Chí Quang.
Dương Minh


Thông báo chen ngang: Chuyến đi Cần Thơ 9/5/08
Sáng 9/5/08, xuất phát lúc 6g30 từ cổng Công viên Lê Văn Tám, phía Hai Bà Trưng. Đi xe Mercedes Benz BKS 53N 7638 (tài xế Thanh: 0903398495, phụ xe Chí Quang: 0903780206). Anh em nào đã đăng kí chớ có ngủ quên!

(Chí Quang có tin này cũng lười post phải gửi ra tận TW. Quá là phọt phẹt!).
Gửi bởi TranKienQuoc.


Xem:

1. Tin vui!!! - Dương Minh.
Các bạn muốn biết thầy cô chúng ta và 2 em đã vượt chông gai tới hạnh phúc ra sao thì hãy xem:
2. Nghĩa tình thầy trò - Trần Kiến Quốc
3. Đám cưới con thầy Trần Sinh - Vũ Anh.


Những chuyện chả nên đọc - Đào Duy



NHỮNG CHUYỆN CHẢ NÊN ĐỌC

Đào Duy

Khi trường Trỗi ở Hưng Hóa, quãng hè năm 1969 chúng tôi học hết lớp 8. Nhóm chúng tôi có mấy thằng trong lớp chơi thân với nhau, sau ba tháng hè về nghỉ cùng gia đình hôm lên trường gặp lại nhau thấy thằng nào trông cũng lạ, béo ra, thằng thì trắng như bột tôi hỏi: Sao trắng thế? hắn ấm ức: Bà già “cấm cung” bắt ở nhà “vỗ béo” và tâm sự cho vơi nỗi nhớ. Thằng thì đen thui, vì theo gia đình đi Đồ sơn, Bãi cháy nghỉ mát. Thằng nào đầu cũng húi cua, tỉa đuổi trông là lạ và một điều dễ nhận thấy là bọn tôi đứa nào cũng lớn phổng lên. Lễ mễ đeo ba lô, túi xách từ Trung Hà đi bộ qua Hưng Hóa tới sân bóng trước cổng trường chúng tôi vứt ba lô, đồ đạc vào một đống rồi nằm lăn ra thở. Sau đó lần lượt từng thằng lôi “lương thực” dự trữ mà các bà, các mẹ xót con dúi vào ba lô bắt đem theo. Thôi thì đủ: Xôi gà, cả một con gà luộc to tướng đã hơi bị “thiu thiu” vì đi xe nóng từ sáng đến giờ, kệ! chả sao ngon tuốt, ăn xong mấy ngày sau chẳng thấy “ỉa đái” gì, xuýt nữa vứt đi có phải là phí không, mà cũng chả vứt được, ai cho vứt cơ chứ, trước con gà hấp dẫn và những cái miệng háu đói kia. Bánh mỳ bơ, bơ thì chảy ra nhão nhoẹt, phải lấy lá chuối làm thìa xúc. Bánh kẹo đủ loại có cả cam, quýt tráng miệng. Một thằng còn vứt ra một cục to to như quả bóng chẳng biết là gì, hóa ra là cơm nắm thử xem, ôi! tuyệt, xơi với thịt nạc rang mặn, bùi bùi, cay cay, thơm thơm mùi tiêu sao mà sướng thế. Bỗng một thằng giật mình: Từ từ còn cái này. Hắn lôi ra một cái lọ to trăng trắng bên trong chúng tôi tưởng là đường, hắn giải thích: Mẹ tao bảo đây là mỳ chính “tàu” của bố được cung cấp hiếm lắm, mẹ cho một ít đem đi “bồi dưỡng”, khi ăn cho thêm vào thức ăn cho nó đậm đà hơn nữa nó còn có tác dụng bổ óc. Thế là thằng bạn tôi nó đổ thốc vào cả bơ, cả thịt, cả xôi, cả gà … mẹ nó, bổ béo, đậm đà đâu chả biết ăn vào chỉ thấy ngang phè phè mất hết cả ngon thà cứ để như lúc trước lại hay, nhưng đổ đi thì tiếc, cứ nuốt … Sau khi đã no nê là lúc bắt đầu chúng tôi thấy khát một thằng bỗng nói: Suýt nữa quên còn bình tông nước chanh mẹ tao bắt đem theo. Đưa ra đi, đồ chậm hiểu - chuyền tay nhau tu gần hết bi đông nước chanh mát tới tận óc, chúng tôi nằm lăn trên bãi cỏ thư giãn kể lể những chuyện mà chúng tôi hái lượm được ngoài xã hội trong ba tháng hè. Tự nhiên thằng bạn bên cạnh tôi nhổm dậy, hắn nói: - Trước khi lên trường “lừa”mãi không “ăn cắp” được tao mới bốc phét với ông già là có ông thầy nghiện thuốc lá nặng muốn xin bố một bao lên làm quà, trong khi “tổ chức” chưa có ý kiến gì, cho chắc ăn tao “xoáy” được bao Thăng long của bố tao đây, hảo hạng đấy thơm lắm, hút vào là nhớ đời, thằng nào có gan “thưởng thức” thì đi xin lửa, thằng nào không thích thì thôi không ép. Tôi nói: Để tao đi cho. Nói rồi tôi cầm bao thuốc lao đi, bọn bạn “ruột để ngoài da” của tôi chúng nó ngu ngơ đâu có biết thâm ý tôi. Tôi chui ngay vào nhà lão trọc thợ may nằm ngay cạnh sân bóng, nhà lão có cô con gái cỡ tuổi chúng tôi đang độ trổ mã, xinh xinh, vì nàng mà nhiều bác trường ta ngó nghiêng trồng “cây si”. Một dịp may hiếm có để tiếp cận con gái lão. Tôi muốn được nhìn thấy nàng, xem sau ba tháng hè “xa cách” nàng phổng phao thêm được chút nào không. Thấy cái đầu hói của lão thợ may cúi rạp xuống chiếc máy may cũ rích đang rên lên từng chập “xoành xoạch, xoành xoạch …” - Chào bác! bác có khỏe không? Tôi xã giao, nhưng mắt thì dáo dác nhìn xem con gái lão ta đâu, thoáng thấy nàng từ dưới nhà đi lên tay chân tôi run rẩy như chính mình là người tình của nàng thực sự, miệng ú a, ú ớ: Cháu mới Hà nội lên có bao thuốc ngon mời bác một điếu. Tay đưa, miệng nói còn đầu thì ngoẹo mẹ nó sang phía khác, phía em đang đứng trước gương chải tóc làm dáng. Lão trọc cũng niềm nở dừng tay vì tự dưng lại có một thằng “cha căng chú kiết” chả quen biết gì mặt mũi lại non choèn choẹt mời thuốc ngon mà lão thì nghiện nặng.- Cảm ơn cháu! thuốc này bây giờ có tiền tài thánh cũng chả lùng ra, ngày trước tớ toàn xài Salem, Cotap mấy mươi năm nay mới lại được “hít” cái anh thuốc thơm này, quý hóa quá, cảm ơn cậu. Mà này bác bảo, hôm nào có quần áo rách đem ra đây bác bảo em Nhung nó tích kê cho, giá “dẻ” ( Nhung tên con gái lão). Tôi sướng âm ỷ và nhớ như in từng chữ, từng lời dặn dò của lão, không lẽ để cho chắc ăn tôi lại đi “ngoặc tay” với lão, tôi chỉ sợ lão đổi ý. Tôi nghĩ, giá kể lời bố mẹ, lời thầy cô răn dạy mà tôi nhớ lâu, nhớ dai được như thế này thì chả bao giờ tôi phải có trong danh sách “tăng cường” quân số cho phân hiệu Thạch thất trong đợt “thanh lọc” vừa rồi của trường. Nhưng may thay hai tháng cuối năm tôi có tiến bộ nên “ thoát” vậy nên tôi mới còn có mặt trong cái “bè lũ” chết tiệt đang vắt chân chữ ngũ nằm chờ tôi ở sân bóng ngoài kia. Tôi nói ngay: - Quần áo của chúng cháu rách nhiều lắm ạ. Tôi liếc vào chiếc gương thấy bóng nàng tủm tỉm cười trong đó. Lão trọc bật lửa hút điếu thuốc tôi mời, tiện thể tôi cũng mồi luôn và rút ra một điếu nữa nói: - Bác đễ dành điếu này chốc nữa bác lại hút. Ôi! cảm ơn cậu, cho mình xin thêm mấy điếu nữa, chứ các cậu còn nhỏ chưa biết thưởng thức hút nó phí đi. - Vâng ạ! Thế là gần nửa bao thuốc vào túi lão trọc vì tính dại gái của tôi, nhưng với tôi chả hề gì vì từ bây giờ trở đi tôi sẽ được nhìn thấy nàng luôn luôn, nàng là của tôi, của riêng tôi, muốn gặp nàng chỉ cần xé tý đầu gối quần là tôi đã có lý do để gặp nàng … tôi cứ mơ màng quên cả hút đến nỗi lão trọc tiếc của la toáng lên: Ấy kìa hút đi chứ cháu, không hút thì đưa đây cho bác, để thuốc nó cháy không “tải” thế kia hoang quá.
Bạn bè tôi chờ lâu chúng nó chửi um lên: Có điếu thuốc đi xin lửa mà cứ như đi cày thuê cho địa chủ ấy, lâu thế? Mà lại mất toi nửa bao có chết không cơ chứ, một hai thằng “nghiện” trong nhóm xót của cứ rên lên như bị chứng nhiệt miệng lại ăn phải khế chua. Tôi trình bày sự tình thằng nào thằng ấy suýt xoa tiếc rẻ và ra chiều ghen tị với tôi.

Trong ba lô của chúng tôi sau khi nghỉ hè lên có biết bao nhiêu điều bí ẩn nằm trong đó, tôi kể cho các bạn nghe, tôi chỉ biết trong ba lô nhóm của tụi tôi thôi đấy nhé.
Trước tiên là tôi, khi lên trường tôi lấy trộm được của ông già con dao găm Mỹ sáng quắc còn nguyên cả bao da. một bên là lưỡi một bên là cưa có rãnh ở giữa ai nhìn thấy cũng phải mê cho nên tôi mới dám liều như thế. Thằng bạn tôi thì lôi trong túi cóc ba lô của nó ra một cái hộp tròn tròn có nắp, trên nắp lại có cả gương soi, hay nó ăn cắp hộp trang điểm của mẹ nó để đút lót cho con gái lão trọc định phỗng tay trên người đẹp của tôi, máu nóng trong người tôi đã bắt đầu bốc lên, thì ra không phải, đó là một chiếc la bàn xịn của dân trinh sát. Chiếc la bàn sơn màu cỏ úa có những mũi tên dạ quang mà buổi tối nó sáng như ban ngày, chả thế có khi giữ trưa hè không chịu ngủ chúng tôi vùng dậy chổng mông lên trùm kín chăn cho nó tối để ngắm nhìn dạ quang của những cái kim la bàn run rẩy đung đưa theo hướng Bắc mồ hôi, mồ kê tuôn như tắm nhưng vẫn thấy thích chứ làm sao đủ kiên nhẫn “kìm lại được cái sự sung sướng” mà chờ đến tối. Một thằng khác lại “cuỗm” được của bố chiếc đèn pin hình thước thợ lạ hoắc vì chúng tôi chỉ quen với đèn pin “tàu” có in nổi hình con hổ ở nắp mạ kền trắng toát dài dài mà thôi. Riêng “cu” Dũng hắn lục lọi một hồi do cất kỹ quá dưới tận đáy ba lô, hắn cúi đầu xuống rất bí mật rút ra, các bác có biết gì không? một cái ống nhòm trinh sát của Mỹ mới cáu cạnh làm bọn tôi sướng rên lên chuyền tay nhau trầm trồ…
Tôi còn biết ở một vài nhóm khác có những ông bạn liều lĩnh còn đem cả súng bắn chim thậm chí cả khẩu súng lục “ám sát” bé tí hiệu “Valte” của bố lên trường, thế có chết không cơ chứ. Nhưng những tên này không “giữ của” được lâu vì chỉ mấy hôm sau đã bị bố phát hiện, phóng ô tô lên trường thu hồi ngay và cho một trận quắn mông đít ở trong xe. Có thằng còn khoe cả chiếc bút máy Pilot của Nhật nắp vàng óng - Chữ thì xấu như ma, dùng nó phí đi. Chúng tôi chửi, rồi làm công tác tư tưởng cho thằng bạn, cuối cùng hắn cũng xiêu lòng bán quách cho tay “trí thức” Vỹ Đại, thợ chữa đồng hồ ngoài phố, số tiền đó giúp chúng tôi chi tiêu trong một thời gian dài. Còn Tô Tâm thằng bạn nằm kề tôi hắn còn đem lên cả một cái đài bán dần Soni ba “băng” to như viên gạch, chúng tôi dùng để nghe nhạc, nghe tin tức, nghe chuyện cảnh giác tối thứ bảy … Thật thú vị. Chiếc đài này đã có lần chúng tôi định gạ Tâm “quy ra thóc” để chi tiêu trong những ngày “giáp hạt” nhưng thấy giá trị của nó lớn quá nên chả thằng nào dám mở mồm.

Năm học mới bắt đầu, chúng tôi hối hả lao vào học, sau ba tháng hè tự do bây giờ bị ép vào kỷ luật, bọn tôi thấy hơi bị gò bó nhưng rồi mọi thứ đâu vào đấy lại quy củ như xưa.

Chủ nhật là ngày nghỉ chả có ai kiểm soát nổi chúng tôi, chúng tôi cứ phương châm “Ta đi theo lối nhỏ là nối an toàn” tỏa đi khắp nơi. Một buổi sáng tiết trời chớm sang đông. Chúng tôi kéo nhau đi chơi từ sáng sớm. Ra phía sau đồi chui vào nhà dân mua sắn và trứng gà luộc. Cho tất cả vào hai cái ống quần được buộc túm lại rồi quàng qua cổ. Đồ nghề chúng tôi đem theo đủ cả: Dao găm, la bàn, ống nhòm, đài đóm và ngân khố là số tiền còn để dành được của thằng bạn bán chiếc bút máy Pilot mà tôi đã kể. Chúng tôi kéo nhau ra bãi sông Hồng phía trên thị trấn chừng hai cây số. Sông Hồng mùa này nước cạn, dòng sông lững lờ trôi, êm ả thanh bình. Hai bên bờ những bãi ngô, bãi mía và khoai xanh ngắt kéo dài từ gần mép nước cho tới chân đê. Chúng tôi chui vào bãi mía ven sông. Đã có lần chúng tôi bị lạc trong đó mất mấy tiếng đồng hồ không tìm được lối ra, cũng may nghe được tiếng còi tàu nên chúng tôi cứ theo hướng đó đi theo nên ra được mé sông, thoát! tìm được đường về. Nhưng lần này thì chúng tôi cóc sợ vì chúng tôi đã có la bàn. Chui vào giữa bãi mía chúng tôi dùng dao găm Mỹ triển khai một khoảng rộng rồi trải nilon bỏ sắn và trứng luộc ra và chọn những cây mía ngọt nhất, mập mạp nhất đánh chén. Xong lăn ra nghe đài ngủ tới chiều mới chui khỏi bãi mía ra sát mé sông đá bóng (bóng làm bằng lá ngô, lá chuối khô buộc lại) nhảy xa, nhảy cao “múa võ” cho tới khi mệt đừ chúng tôi mới lao xuống sông tắm.
Bỗng một thằng phát hiện xa xa phía bên kia sông có mấy cô thôn nữ ra sông xách nước và tắm thấp thoáng sau bãi ngô non, chúng tôi cố căng những cặp mắt tò mò nhìn qua phía bờ bên kia nhưng chả rõ. Bỗng một thằng nhớ ra “ống nhòm đâu sao không dùng”. Ừ nhỉ! cả một lũ ngu! chúng tôi mặt thộn ra. Thế là chúng tôi tranh nhau dùng ống nhòm chĩa sang phía bên kia sông. Dù phải chờ lâu nhưng rồi cũng tới lượt tôi. Tôi hướng ống nhòm về phía mấy cô gái đang tắm phía bên sông, căn chính xác rồi “zum” cho sát lại như có thể sờ thấy, với thấy được. Nhưng kết quả chỉ là những bờ vai trắng trắng, những cái cổ thon thon, các em ngồi dưới nước ngâm đến cổ, thì thử hỏi các bác, ống nhòm còn có tác dụng gì, chỉ còn nằm phục, chờ cho đến lúc các nàng tắm xong lên bờ họa chăng. Nhưng cũng công cốc, khi các nàng đi lên, quái lạ! quần đen của các cô gái trung du sao lại dài thế nhỉ, tôi cứ thắc mắc trong đầu mà chả biết hỏi ai vì tôi thấy các nàng kéo quần lên tới tận gần vai, che hết cả khoảng ngực trần cái mà chúng tôi chờ đợi, tò mò. Chỉ còn lại bờ vai và cái cổ trắng thấp thoáng. Nhưng cũng chỉ cần thế thôi đối với chúng tôi, những chú “cún” đang tập tọe lớn cũng đủ để háo hức, rạo rực biết chừng nào.
Thế rồi tình cờ tôi rê ống nhòm sang bãi khoai cách đó một quãng xa nơi có mấy con bò đang ăn cỏ, bỗng tôi nhìn thấy, cái gì thế này? tim tôi đập loạn xạ, một cặp mông thấp thoáng trong bãi khoai, trời ơi! chết tôi rồi! tôi lặng im không để đứa nào trong nhóm biết, tôi chỉnh lại độ nét cho sáng sủa, rõ ràng rồi “zum” lại gần hơn để quan sát. Rõ ràng là cặp mông hiện lên to tướng trước mắt tôi. Nhưng sao nó gân guốc và đen thui thế này? mải tưởng tượng cho tới khi cặp mông bị cái quần nâu kéo lên và cái “vật” kia đứng dậy thì té ra đó là “tác phẩm” của ông lão chăn bò ngồi giải quyết “nỗi buồn”. Xui không chịu được tôi nói to: Thôi trả ống nhòm cho nhà các ông, nhức hết cả mắt, chả được tích sự gì.
Chiều xuống thật nhanh, tôi đã nghe thấy tiếng còi tàu xuôi mãi bên mạn Việt trì vẳng tới, nói với đám bạn: Về thôi! muộn chúng nó giải tán mất suất cơm chiều thì cứ gọi là chết đói. Chúng tôi tất tả ra về bỏ lại phía sau những dấu chân tròn tròn in trên triền cát. Đi phía trước tôi chiếc đài bán dẫn thằng bạn đeo vắt chéo qua vai hất qua hất lại đập đập vào cặp mông quá khổ theo nhịp bước chân của hắn, từ trong chiếc radio vẳng ra tiếng một bài hát quen quen được volume hết cỡ “Hồng Hà ơi! Ta nhớ mùa thu xưa năm nào …”

T/p HCM- tháng 4/2008



NHỮNG CHUYỆN CHẢ NÊN ĐỌC

Đào Duy

Khi trường Trỗi ở Hưng Hóa, quãng hè năm 1969 chúng tôi học hết lớp 8. Nhóm chúng tôi có mấy thằng trong lớp chơi thân với nhau, sau ba tháng hè về nghỉ cùng gia đình hôm lên trường gặp lại nhau thấy thằng nào trông cũng lạ, béo ra, thằng thì trắng như bột tôi hỏi: Sao trắng thế? hắn ấm ức: Bà già “cấm cung” bắt ở nhà “vỗ béo” và tâm sự cho vơi nỗi nhớ. Thằng thì đen thui, vì theo gia đình đi Đồ sơn, Bãi cháy nghỉ mát. Thằng nào đầu cũng húi cua, tỉa đuổi trông là lạ và một điều dễ nhận thấy là bọn tôi đứa nào cũng lớn phổng lên. Lễ mễ đeo ba lô, túi xách từ Trung Hà đi bộ qua Hưng Hóa tới sân bóng trước cổng trường chúng tôi vứt ba lô, đồ đạc vào một đống rồi nằm lăn ra thở. Sau đó lần lượt từng thằng lôi “lương thực” dự trữ mà các bà, các mẹ xót con dúi vào ba lô bắt đem theo. Thôi thì đủ: Xôi gà, cả một con gà luộc to tướng đã hơi bị “thiu thiu” vì đi xe nóng từ sáng đến giờ, kệ! chả sao ngon tuốt, ăn xong mấy ngày sau chẳng thấy “ỉa đái” gì, xuýt nữa vứt đi có phải là phí không, mà cũng chả vứt được, ai cho vứt cơ chứ, trước con gà hấp dẫn và những cái miệng háu đói kia. Bánh mỳ bơ, bơ thì chảy ra nhão nhoẹt, phải lấy lá chuối làm thìa xúc. Bánh kẹo đủ loại có cả cam, quýt tráng miệng. Một thằng còn vứt ra một cục to to như quả bóng chẳng biết là gì, hóa ra là cơm nắm thử xem, ôi! tuyệt, xơi với thịt nạc rang mặn, bùi bùi, cay cay, thơm thơm mùi tiêu sao mà sướng thế. Bỗng một thằng giật mình: Từ từ còn cái này. Hắn lôi ra một cái lọ to trăng trắng bên trong chúng tôi tưởng là đường, hắn giải thích: Mẹ tao bảo đây là mỳ chính “tàu” của bố được cung cấp hiếm lắm, mẹ cho một ít đem đi “bồi dưỡng”, khi ăn cho thêm vào thức ăn cho nó đậm đà hơn nữa nó còn có tác dụng bổ óc. Thế là thằng bạn tôi nó đổ thốc vào cả bơ, cả thịt, cả xôi, cả gà … mẹ nó, bổ béo, đậm đà đâu chả biết ăn vào chỉ thấy ngang phè phè mất hết cả ngon thà cứ để như lúc trước lại hay, nhưng đổ đi thì tiếc, cứ nuốt … Sau khi đã no nê là lúc bắt đầu chúng tôi thấy khát một thằng bỗng nói: Suýt nữa quên còn bình tông nước chanh mẹ tao bắt đem theo. Đưa ra đi, đồ chậm hiểu - chuyền tay nhau tu gần hết bi đông nước chanh mát tới tận óc, chúng tôi nằm lăn trên bãi cỏ thư giãn kể lể những chuyện mà chúng tôi hái lượm được ngoài xã hội trong ba tháng hè. Tự nhiên thằng bạn bên cạnh tôi nhổm dậy, hắn nói: - Trước khi lên trường “lừa”mãi không “ăn cắp” được tao mới bốc phét với ông già là có ông thầy nghiện thuốc lá nặng muốn xin bố một bao lên làm quà, trong khi “tổ chức” chưa có ý kiến gì, cho chắc ăn tao “xoáy” được bao Thăng long của bố tao đây, hảo hạng đấy thơm lắm, hút vào là nhớ đời, thằng nào có gan “thưởng thức” thì đi xin lửa, thằng nào không thích thì thôi không ép. Tôi nói: Để tao đi cho. Nói rồi tôi cầm bao thuốc lao đi, bọn bạn “ruột để ngoài da” của tôi chúng nó ngu ngơ đâu có biết thâm ý tôi. Tôi chui ngay vào nhà lão trọc thợ may nằm ngay cạnh sân bóng, nhà lão có cô con gái cỡ tuổi chúng tôi đang độ trổ mã, xinh xinh, vì nàng mà nhiều bác trường ta ngó nghiêng trồng “cây si”. Một dịp may hiếm có để tiếp cận con gái lão. Tôi muốn được nhìn thấy nàng, xem sau ba tháng hè “xa cách” nàng phổng phao thêm được chút nào không. Thấy cái đầu hói của lão thợ may cúi rạp xuống chiếc máy may cũ rích đang rên lên từng chập “xoành xoạch, xoành xoạch …” - Chào bác! bác có khỏe không? Tôi xã giao, nhưng mắt thì dáo dác nhìn xem con gái lão ta đâu, thoáng thấy nàng từ dưới nhà đi lên tay chân tôi run rẩy như chính mình là người tình của nàng thực sự, miệng ú a, ú ớ: Cháu mới Hà nội lên có bao thuốc ngon mời bác một điếu. Tay đưa, miệng nói còn đầu thì ngoẹo mẹ nó sang phía khác, phía em đang đứng trước gương chải tóc làm dáng. Lão trọc cũng niềm nở dừng tay vì tự dưng lại có một thằng “cha căng chú kiết” chả quen biết gì mặt mũi lại non choèn choẹt mời thuốc ngon mà lão thì nghiện nặng.- Cảm ơn cháu! thuốc này bây giờ có tiền tài thánh cũng chả lùng ra, ngày trước tớ toàn xài Salem, Cotap mấy mươi năm nay mới lại được “hít” cái anh thuốc thơm này, quý hóa quá, cảm ơn cậu. Mà này bác bảo, hôm nào có quần áo rách đem ra đây bác bảo em Nhung nó tích kê cho, giá “dẻ” ( Nhung tên con gái lão). Tôi sướng âm ỷ và nhớ như in từng chữ, từng lời dặn dò của lão, không lẽ để cho chắc ăn tôi lại đi “ngoặc tay” với lão, tôi chỉ sợ lão đổi ý. Tôi nghĩ, giá kể lời bố mẹ, lời thầy cô răn dạy mà tôi nhớ lâu, nhớ dai được như thế này thì chả bao giờ tôi phải có trong danh sách “tăng cường” quân số cho phân hiệu Thạch thất trong đợt “thanh lọc” vừa rồi của trường. Nhưng may thay hai tháng cuối năm tôi có tiến bộ nên “ thoát” vậy nên tôi mới còn có mặt trong cái “bè lũ” chết tiệt đang vắt chân chữ ngũ nằm chờ tôi ở sân bóng ngoài kia. Tôi nói ngay: - Quần áo của chúng cháu rách nhiều lắm ạ. Tôi liếc vào chiếc gương thấy bóng nàng tủm tỉm cười trong đó. Lão trọc bật lửa hút điếu thuốc tôi mời, tiện thể tôi cũng mồi luôn và rút ra một điếu nữa nói: - Bác đễ dành điếu này chốc nữa bác lại hút. Ôi! cảm ơn cậu, cho mình xin thêm mấy điếu nữa, chứ các cậu còn nhỏ chưa biết thưởng thức hút nó phí đi. - Vâng ạ! Thế là gần nửa bao thuốc vào túi lão trọc vì tính dại gái của tôi, nhưng với tôi chả hề gì vì từ bây giờ trở đi tôi sẽ được nhìn thấy nàng luôn luôn, nàng là của tôi, của riêng tôi, muốn gặp nàng chỉ cần xé tý đầu gối quần là tôi đã có lý do để gặp nàng … tôi cứ mơ màng quên cả hút đến nỗi lão trọc tiếc của la toáng lên: Ấy kìa hút đi chứ cháu, không hút thì đưa đây cho bác, để thuốc nó cháy không “tải” thế kia hoang quá.
Bạn bè tôi chờ lâu chúng nó chửi um lên: Có điếu thuốc đi xin lửa mà cứ như đi cày thuê cho địa chủ ấy, lâu thế? Mà lại mất toi nửa bao có chết không cơ chứ, một hai thằng “nghiện” trong nhóm xót của cứ rên lên như bị chứng nhiệt miệng lại ăn phải khế chua. Tôi trình bày sự tình thằng nào thằng ấy suýt xoa tiếc rẻ và ra chiều ghen tị với tôi.

Trong ba lô của chúng tôi sau khi nghỉ hè lên có biết bao nhiêu điều bí ẩn nằm trong đó, tôi kể cho các bạn nghe, tôi chỉ biết trong ba lô nhóm của tụi tôi thôi đấy nhé.
Trước tiên là tôi, khi lên trường tôi lấy trộm được của ông già con dao găm Mỹ sáng quắc còn nguyên cả bao da. một bên là lưỡi một bên là cưa có rãnh ở giữa ai nhìn thấy cũng phải mê cho nên tôi mới dám liều như thế. Thằng bạn tôi thì lôi trong túi cóc ba lô của nó ra một cái hộp tròn tròn có nắp, trên nắp lại có cả gương soi, hay nó ăn cắp hộp trang điểm của mẹ nó để đút lót cho con gái lão trọc định phỗng tay trên người đẹp của tôi, máu nóng trong người tôi đã bắt đầu bốc lên, thì ra không phải, đó là một chiếc la bàn xịn của dân trinh sát. Chiếc la bàn sơn màu cỏ úa có những mũi tên dạ quang mà buổi tối nó sáng như ban ngày, chả thế có khi giữ trưa hè không chịu ngủ chúng tôi vùng dậy chổng mông lên trùm kín chăn cho nó tối để ngắm nhìn dạ quang của những cái kim la bàn run rẩy đung đưa theo hướng Bắc mồ hôi, mồ kê tuôn như tắm nhưng vẫn thấy thích chứ làm sao đủ kiên nhẫn “kìm lại được cái sự sung sướng” mà chờ đến tối. Một thằng khác lại “cuỗm” được của bố chiếc đèn pin hình thước thợ lạ hoắc vì chúng tôi chỉ quen với đèn pin “tàu” có in nổi hình con hổ ở nắp mạ kền trắng toát dài dài mà thôi. Riêng “cu” Dũng hắn lục lọi một hồi do cất kỹ quá dưới tận đáy ba lô, hắn cúi đầu xuống rất bí mật rút ra, các bác có biết gì không? một cái ống nhòm trinh sát của Mỹ mới cáu cạnh làm bọn tôi sướng rên lên chuyền tay nhau trầm trồ…
Tôi còn biết ở một vài nhóm khác có những ông bạn liều lĩnh còn đem cả súng bắn chim thậm chí cả khẩu súng lục “ám sát” bé tí hiệu “Valte” của bố lên trường, thế có chết không cơ chứ. Nhưng những tên này không “giữ của” được lâu vì chỉ mấy hôm sau đã bị bố phát hiện, phóng ô tô lên trường thu hồi ngay và cho một trận quắn mông đít ở trong xe. Có thằng còn khoe cả chiếc bút máy Pilot của Nhật nắp vàng óng - Chữ thì xấu như ma, dùng nó phí đi. Chúng tôi chửi, rồi làm công tác tư tưởng cho thằng bạn, cuối cùng hắn cũng xiêu lòng bán quách cho tay “trí thức” Vỹ Đại, thợ chữa đồng hồ ngoài phố, số tiền đó giúp chúng tôi chi tiêu trong một thời gian dài. Còn Tô Tâm thằng bạn nằm kề tôi hắn còn đem lên cả một cái đài bán dần Soni ba “băng” to như viên gạch, chúng tôi dùng để nghe nhạc, nghe tin tức, nghe chuyện cảnh giác tối thứ bảy … Thật thú vị. Chiếc đài này đã có lần chúng tôi định gạ Tâm “quy ra thóc” để chi tiêu trong những ngày “giáp hạt” nhưng thấy giá trị của nó lớn quá nên chả thằng nào dám mở mồm.

Năm học mới bắt đầu, chúng tôi hối hả lao vào học, sau ba tháng hè tự do bây giờ bị ép vào kỷ luật, bọn tôi thấy hơi bị gò bó nhưng rồi mọi thứ đâu vào đấy lại quy củ như xưa.

Chủ nhật là ngày nghỉ chả có ai kiểm soát nổi chúng tôi, chúng tôi cứ phương châm “Ta đi theo lối nhỏ là nối an toàn” tỏa đi khắp nơi. Một buổi sáng tiết trời chớm sang đông. Chúng tôi kéo nhau đi chơi từ sáng sớm. Ra phía sau đồi chui vào nhà dân mua sắn và trứng gà luộc. Cho tất cả vào hai cái ống quần được buộc túm lại rồi quàng qua cổ. Đồ nghề chúng tôi đem theo đủ cả: Dao găm, la bàn, ống nhòm, đài đóm và ngân khố là số tiền còn để dành được của thằng bạn bán chiếc bút máy Pilot mà tôi đã kể. Chúng tôi kéo nhau ra bãi sông Hồng phía trên thị trấn chừng hai cây số. Sông Hồng mùa này nước cạn, dòng sông lững lờ trôi, êm ả thanh bình. Hai bên bờ những bãi ngô, bãi mía và khoai xanh ngắt kéo dài từ gần mép nước cho tới chân đê. Chúng tôi chui vào bãi mía ven sông. Đã có lần chúng tôi bị lạc trong đó mất mấy tiếng đồng hồ không tìm được lối ra, cũng may nghe được tiếng còi tàu nên chúng tôi cứ theo hướng đó đi theo nên ra được mé sông, thoát! tìm được đường về. Nhưng lần này thì chúng tôi cóc sợ vì chúng tôi đã có la bàn. Chui vào giữa bãi mía chúng tôi dùng dao găm Mỹ triển khai một khoảng rộng rồi trải nilon bỏ sắn và trứng luộc ra và chọn những cây mía ngọt nhất, mập mạp nhất đánh chén. Xong lăn ra nghe đài ngủ tới chiều mới chui khỏi bãi mía ra sát mé sông đá bóng (bóng làm bằng lá ngô, lá chuối khô buộc lại) nhảy xa, nhảy cao “múa võ” cho tới khi mệt đừ chúng tôi mới lao xuống sông tắm.
Bỗng một thằng phát hiện xa xa phía bên kia sông có mấy cô thôn nữ ra sông xách nước và tắm thấp thoáng sau bãi ngô non, chúng tôi cố căng những cặp mắt tò mò nhìn qua phía bờ bên kia nhưng chả rõ. Bỗng một thằng nhớ ra “ống nhòm đâu sao không dùng”. Ừ nhỉ! cả một lũ ngu! chúng tôi mặt thộn ra. Thế là chúng tôi tranh nhau dùng ống nhòm chĩa sang phía bên kia sông. Dù phải chờ lâu nhưng rồi cũng tới lượt tôi. Tôi hướng ống nhòm về phía mấy cô gái đang tắm phía bên sông, căn chính xác rồi “zum” cho sát lại như có thể sờ thấy, với thấy được. Nhưng kết quả chỉ là những bờ vai trắng trắng, những cái cổ thon thon, các em ngồi dưới nước ngâm đến cổ, thì thử hỏi các bác, ống nhòm còn có tác dụng gì, chỉ còn nằm phục, chờ cho đến lúc các nàng tắm xong lên bờ họa chăng. Nhưng cũng công cốc, khi các nàng đi lên, quái lạ! quần đen của các cô gái trung du sao lại dài thế nhỉ, tôi cứ thắc mắc trong đầu mà chả biết hỏi ai vì tôi thấy các nàng kéo quần lên tới tận gần vai, che hết cả khoảng ngực trần cái mà chúng tôi chờ đợi, tò mò. Chỉ còn lại bờ vai và cái cổ trắng thấp thoáng. Nhưng cũng chỉ cần thế thôi đối với chúng tôi, những chú “cún” đang tập tọe lớn cũng đủ để háo hức, rạo rực biết chừng nào.
Thế rồi tình cờ tôi rê ống nhòm sang bãi khoai cách đó một quãng xa nơi có mấy con bò đang ăn cỏ, bỗng tôi nhìn thấy, cái gì thế này? tim tôi đập loạn xạ, một cặp mông thấp thoáng trong bãi khoai, trời ơi! chết tôi rồi! tôi lặng im không để đứa nào trong nhóm biết, tôi chỉnh lại độ nét cho sáng sủa, rõ ràng rồi “zum” lại gần hơn để quan sát. Rõ ràng là cặp mông hiện lên to tướng trước mắt tôi. Nhưng sao nó gân guốc và đen thui thế này? mải tưởng tượng cho tới khi cặp mông bị cái quần nâu kéo lên và cái “vật” kia đứng dậy thì té ra đó là “tác phẩm” của ông lão chăn bò ngồi giải quyết “nỗi buồn”. Xui không chịu được tôi nói to: Thôi trả ống nhòm cho nhà các ông, nhức hết cả mắt, chả được tích sự gì.
Chiều xuống thật nhanh, tôi đã nghe thấy tiếng còi tàu xuôi mãi bên mạn Việt trì vẳng tới, nói với đám bạn: Về thôi! muộn chúng nó giải tán mất suất cơm chiều thì cứ gọi là chết đói. Chúng tôi tất tả ra về bỏ lại phía sau những dấu chân tròn tròn in trên triền cát. Đi phía trước tôi chiếc đài bán dẫn thằng bạn đeo vắt chéo qua vai hất qua hất lại đập đập vào cặp mông quá khổ theo nhịp bước chân của hắn, từ trong chiếc radio vẳng ra tiếng một bài hát quen quen được volume hết cỡ “Hồng Hà ơi! Ta nhớ mùa thu xưa năm nào …”

T/p HCM- tháng 4/2008

Tin buồn! Cụ bà Trần Duy Hưng từ trần

Start:     May 8, '08 10:00a
End:     May 8, '08 1:00p
Location:     Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng 5 Trần Thánh Tôn, an táng tại Nghĩa trang Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội



Chiều qua, 1/5/08, gia đình thông báo:

Cụ bà Trần Duy Hưng đã ngưng thở tại tư gia, hưởng thọ 95 tuổi.

Tang lễ tổ chức từ 10g-13g ngày thứ năm, 8/5/08, tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng 5 Trần Thánh Tôn.

Truy điệu 13g cùng ngày và đưa đi an táng tại Nghĩa trang Xuân Phương, Từ Liêm.



Xin chia buồn cùng các anh Trần Tiến Đức, Trần Chính Nghĩa, Trần Thắng Lợi (k1 Học viện), Trần Quyết Tâm k4, Trần Chiến Thắng k6 và đại gia đình!

Được đăng bởi Kiến Quốc tại „Blog Bạn Trỗi”: 7:30 SA Thứ sáu, 02 tháng năm, 2008



Các bạn Trường Trỗi tập trung 10g45 và vào viếng tập thể lúc 11g.




TranKienQuoc nói... (10:28 Ngày 09 tháng 5 năm 2008)

Sáng qua trong lễ tang cụ Nhữ Thị Tý (cụ bà Trần Duy Hưng) có anh em k1 Học viện và các đòan k4, k6 Trỗi và đông đảo bạn bè thân hữu.

13g di quan, đưa cụ về nhà ở Lê Phụng Hiểu rồi dọc Tràng Tiền, Bờ Hồ ra đường Trần Duy Hưng về Xuân Phương, Từ Liêm - quê cụ Hưng. Thật ý nghĩa!
Có xe CSGTHN dẫn đường. Tại nghĩa trang Xuân Phương, Hội Người cao tuổi đón cụ và làm các thủ tục. 15g10 hạ huyệt. Mọi người bỏ nắm đất cuối cùng cho cụ và lấp đất xong thì trời đổ mưa tầm tã.



Xem:

1. Tin buồn! - TranKienQuoc.

Start:     May 8, '08 10:00a
End:     May 8, '08 1:00p
Location:     Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng 5 Trần Thánh Tôn, an táng tại Nghĩa trang Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội



Chiều qua, 1/5/08, gia đình thông báo:

Cụ bà Trần Duy Hưng đã ngưng thở tại tư gia, hưởng thọ 95 tuổi.

Tang lễ tổ chức từ 10g-13g ngày thứ năm, 8/5/08, tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng 5 Trần Thánh Tôn.

Truy điệu 13g cùng ngày và đưa đi an táng tại Nghĩa trang Xuân Phương, Từ Liêm.



Xin chia buồn cùng các anh Trần Tiến Đức, Trần Chính Nghĩa, Trần Thắng Lợi (k1 Học viện), Trần Quyết Tâm k4, Trần Chiến Thắng k6 và đại gia đình!

Được đăng bởi Kiến Quốc tại „Blog Bạn Trỗi”: 7:30 SA Thứ sáu, 02 tháng năm, 2008



Các bạn Trường Trỗi tập trung 10g45 và vào viếng tập thể lúc 11g.




TranKienQuoc nói... (10:28 Ngày 09 tháng 5 năm 2008)

Sáng qua trong lễ tang cụ Nhữ Thị Tý (cụ bà Trần Duy Hưng) có anh em k1 Học viện và các đòan k4, k6 Trỗi và đông đảo bạn bè thân hữu.

13g di quan, đưa cụ về nhà ở Lê Phụng Hiểu rồi dọc Tràng Tiền, Bờ Hồ ra đường Trần Duy Hưng về Xuân Phương, Từ Liêm - quê cụ Hưng. Thật ý nghĩa!
Có xe CSGTHN dẫn đường. Tại nghĩa trang Xuân Phương, Hội Người cao tuổi đón cụ và làm các thủ tục. 15g10 hạ huyệt. Mọi người bỏ nắm đất cuối cùng cho cụ và lấp đất xong thì trời đổ mưa tầm tã.



Xem:

1. Tin buồn! - TranKienQuoc.