Theo con đường Bác Hồ
Thứ Bảy, tháng 10 22, 2011Rating: | ★★★★★ |
Category: | Books |
Genre: | Biographies & Memoirs |
Author: | Sơn Tùng |
Nhà văn Sơn Tùng kể chuyện Bác Hồ - Năm 2001
Ban đầu không ít tác phẩm của ông (tiểu thuyết, kịch bản phim) đã bị 1 bộ phận quan chức phụ trách ngành VHTT "kết án". Ông không nao núng, vẫn kiên trì "dựng" lại chân dung thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh bằng tâm hồn trong sáng và nghệ thuật viết tài hoa.
Trong quá trình đi tìm tư liệu về Bác, nhà văn Sơn Tùng đã phát hiện nhiều vấn đề thuộc loại "Thâm cung bí sử"... Ông ghi chép, kết nối, tổng hợp để góp phần soi rọi vào 1 số mảng tối trong bức tranh xã hội đến nay vẫn còn bị coi là khu vực nhạy cảm, động vào là "phạm húy"!
Sơn Tùng đã được mời tới nói chuyện ở 1 số cơ sở hạn chế. Những bản ghi chép, ghi âm bài nói của ông (vốn coi là mật - không phổ biến), dần dần được phổ biến theo con đường không chính thống, đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự nóng bỏng khiến chúng ta càng khâm phục tài quan sát và những dự cảm của ông.
http://vn.360plus.yahoo.com/luson.quelam/article?mid=9871
THEO CON ĐƯỜNG BÁC HỒ
Lược ghi buổi nói chuyện của nhà văn Sơn Tùng ngày 27/4/2001 tại Trường Cán bộ Quản lý Giáo dục Đào tạo *
—-****—-
... Xin giới thiệu, bác Sơn Tùng là nhà văn mà nhiều người đã biết đến, qua các tác phẩm của bác. Trong buổi nói chuyện hôm nay, bác sẽ cung cấp cho chúng ta những thông tin rất bổ ích. Mặc dù bác đang mệt, nhưng rất nhiệt tình với chúng ta, bác vẫn nhận lời nói chuyện với trường chúng ta hôm nay.
Bây giờ tôi xin nhường lời cho bác Sơn Tùng.
Trước đây, tôi đã nói về cái nôi sinh thành của Bác, hôm nay tôi nói một số giai đoạn, một số sự kiện có ảnh hưởng lớn đến Bác mà không nói có hệ thống vì thời gian cũng không có nhiều.
Ta đọc sách, ta đọc lịch sử, ta biết Bác Hồ sinh ở làng Chùa, quê ở làng Sen, sau vào Huế học. Tôi nghiên cứu, tôi thấy thế này: nếu Bác Hồ không đi vào Huế từ thủa thiếu thời thì con người ấy cũng bị hạn chế, hạn chế về mặt văn hoá cội nguồn và thanh lịch ở đất kinh đô.
Huế là trung tâm văn hoá của cả nước ta vào thế kỷ 19, Bác Hồ vào Huế cuối thế kỷ 19, lúc đó Huế là trung tâm của cả nước. Ở Nam Bộ, cụ Phan Thanh Giản đi thi phải ra Huế, còn khúc ruột miền Trung từ Bình Thuận trở ra đến Quảng Nam, thi hương là phải ra Huế. Đầu thế kỷ 20 mới có trường thi hương ở Bình Định. Ở Bắc thì Lạng Sơn trở vào cũng phải vào Huế để thi Hội. Diện mạo các nhà trí thức, các nhân sỹ, các ông quan (xin nói thực có một thời kỳ cực đoan, đã nói “quan” là phong kiến, quan là xấu, ở Chí Linh tôi nói thế mà suýt bị bắt).
Nói các quan “xấu” như thế sao lại truyền giòng nối dõi văn hoá Việt Nam mấy nghìn năm được!? Cố nông thì làm sao giữ được văn hoá vật chất của dân tộc? Chúng ta vô cùng quý trọng cố nông, người thợ nhưng nói đến diện mạo văn hoá là phải nói đến trí thức. Các gia đình khoa bảng, gia đình nhà quan truyền từ đời này qua đời khác-các ông quan tham nhũng thì cá biệt thôi. Tất cả tham nhũng thì còn gì là văn hoá Việt Nam, bản lĩnh, bản sắc Việt Nam. Không có Nguyễn Trãi thì ta làm gì có văn hoá thế kỷ 17, thế kỷ 18 sang thế kỷ 19 cũng vâỵ. Ở nhà cái ông giàu nhất nước, mà xưa nay chưa có nhà nào mà cha con đồng triều là tể tướng, là thân sinh Nguyễn Du và Nguyễn Du. Bác Hồ của chúng ta chính là con người nối tiếp những cái (văn hoá cội ngồn) này chứ.
Thế kỷ 19, Bác Hồ sinh ra năm 1891, tôi nói đây là nói nghiêm cứu từ gốc. Bây giờ nói Bác sinh năm 1890, nhưng tôi nghiêm cứu tử vi của Bác thì Bác sinh năm 1891. Bác đi làm cách mạng, Bác khai 1890, nhiều người chúng ta khi đi học, đi hoạt động cũng khai bớt hoặc thêm tuổi như thế. Bác sinh năm 1891. 1895 Bác vào huế, tuổi ta là 5 tuổi, tuổi bắt đầu có trí nhớ, tuổi mà người ta dễ nhớ nhất là tuổi này, tuổi lên 5 đến lên 10. Bác 5 tuổi đi theo cha mẹ vào Huế khi ông Nguyễn Sinh Khiêm đưa cho tôicuốn “Tất Đạt tự ngôn” là tháng 6-1950. Sau đó ít tháng thì cụ qua đời. Trong “Tất Đạt tự ngôn” thì cụ có ghi ba bài thơ về thời niên thiếu của em trai mình, tức Bác Hồ.
Ba bài thơ này cũng hấp dẫn tôi. Thời đó tôi là một anh thanh niên học sinh, mới đi hoạt động Đoàn thanh niên cứu quốc (chưa phải Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh). Cụ đưa cho tôi đọc bài thơ hay quá đi, thấy tôi ngỡ ngàng không tin, thì cụ nói thế này:
Cháu ạ, bây giờ nhớ gì ghi nấy. Bọn Tây nó “thuốc” bác bằng rượu khi bác đi tù. Bác vào nhà tù 1914, sau bác chống lại thì 1918 nó đày vào cực Nam Trung Bộ. Bác vốn không phải là người nghiện rượu, nhưng sau này thì không có rượu là bác không chịu được và trí nhớ của bác mất dần đi. Bạn học của bác đi thi vào năm 1904 đỗ cử nhân, đó là ông Đào Nhữ Tuyên, con trai cụ Đào Tấn. Anh em bác học vào loại giỏi nhưng không đi thi. Bây giờ bác không còn được như xưa, nhớ cái gì thì bác ghi vào đây, chứ không có hệ thống. Cháu là người có tấm lòng muốn tìm hiểu gia cảnh nhà bác thì bác đưa cho cháu cuốn ghi chép này, thấy có ích thì cháu dùng, khai thác, không nữa thì đốt, đừng giao..cho ai, vì trong này bác ghi nhiều cái không tiện nói ra. Trong đó bác có ghi họ Hồ là thế nào... về họ Nguyễn thì thế nào... và ngày chú Thành mở nước độc lập thì là Hồ Chí Minh, chứ không lấy họ Nguyễn là vì sao? Trong cuốn này cũng nêu ra bài thơ đó là: Trên dèo ngang hai bài thơ 1895, còn bài nữa là “Ba ông phỗng” năm 1903.
Cụ Khiêm kể lại:
Hôm đó cả nhà bác chuẩn bị đi vào Huế, bác ngủ với bà ngoại, em Thành ngủ với mẹ, còn chị Thanh thì ngủ với dì An. Đêm đêm bác thấy bà khóc, ngày bà vui, đêm nào cũng nghe thấy bà khóc. Sáng hôm sau thấy bà đi xin mo cau cả làng (xưa dân ta lấy mo cau làm gàu múc nước). Bác với chú Thành mới lấy mo cau cắt thành cái thuyền đem thả ao trước nhà, bà không cho, bà bảo đây là dép của các cháu, cha mẹ cháu để đi vào kinh đô, thời đó chưa có nhiều dầy dép như bây giờ. Bác thấy bà ngoại đo chân cha mẹ, đo chân cho 2 em bác.
(Bây giờ mới thấy các cụ ta ngày xưa đi tìm cái chữ ở kinh đô Huế, đi trên những phương tiện như vậy, không dép săm bô như ta bây giờ, ngày ấy có đôi dép da bò đã quý rồi)
Bác hỏi: - Mẹ, tại sao đêm bà lại khóc?
Về sau mới biết tâm sự của bà thế này: lúc đầu cha mẹ bác tưởng bà khóc vì bán ruộng cho con rể vào kinh đô học: bán mất 5 sào. Bà ngoại đêm nằm buồn mà khóc, không phải tiếc bán 5 sào ruộng cho con rể vào kinh đô học, vì “chữ nó sẽ đẻ ra ruộng, chứ ruộng không đẻ ra chữ” bán ruộng cho con đi học, có chữ về thì cái chữ nó lại đẻ ra ruộng. Còn cái ruộng bán đi đánh bạc thì mới mất, nên không có gì mà khóc cả. Khóc là vì bà không có con trai. Ông tú thì mất rồi, con rể coi như con trai, con gái là chỗ dựa, bây giờ cả nhà kéo đi vào Huế, bà ở nhà cô đơn một mình, hai cháu trai và cháu gái cũng đi, (vì thế nên cha mẹ bác chỉ cho hai anh em đi vào huế, còn chị Thanh phải ở lại quê với bà, để sớm hôm có bà có cháu).
Như vậy cha mẹ bác quyết định vào Huế không phải là để làm ăn sinh sống trở thành người Huế đâu, mà muốn cho anh em bác vào Huế để học. Cha bác vào đó để làm bạn với các nhà khoa bảng ở kinh đô. Các ông qua thời đó đều là Tiến sĩ, là Hoàng giáp, là Đình nguyên, ít ra là Cử nhân. Đúng là cha bác vào trong Huế đã tạo ra được một cái “chiếu văn”, các ông quản trong triều thường đến đó bình văn, bình thơ cùng với các cụ đồ ở kinh đô.
Ông Khiêm kể tiếp:
Khi đi dép mo cau, một lúc là rách phải thay cái khác, còn chú Thành thì được cha cõng trên lưng. Trên cao chú quan sát hỏi hết chuyện này đến chuyện khác: núi này là núi gì mà cao thế? Bà ngoại hay ví “trèo truông mới biết truông cao” là nghĩa nó ra làm sao? Có được bao nhiêu nước để gọi là biển. Chú ấy hỏi nhiều chuyện. Còn bác thì chân nó đau, đi mấy ngày liền, có khi bác khóc. Mẹ bác lại động viên: “Em nó vui vẻ hỏi chuyện này chuyện khác con là anh mà chẳng vui chi cả”. Chú thì được cha cõng, đến đường bằng thì chạy tung tăng, hỏi nhiều thứ, còn lạ mắt cho nên mẹ bác nói em thông minh hơn anh. Rồi cụ Khiêm nói: mà chú ấy thông minh hơn bác thật...?Lúc đến chân Đèo Ngang, đường lúc đó có đoạn sát với biển, không như đường ô tô bây giờ. Đến chân Đèo Ngang, có bãi cỏ rất bằng, mẹ bác mới đặt gánh xuống, cha bác xếp ô lại bảo: chỗ này phằng phiu, nghỉ lại đây ăn cơm nắm, để rồi leo đèo, Bác ngồi xuống thì ôm bàn chân rộp, còn chú Thành thì nhảy chơi, mới hỏi cha:
- Thưa cha, cái gì ở trên kia mà đỏ, lại ngoằn ngèo như rứa? Cha bác nói:
- Đó là con đường mòn vắt qua đèo, tí nữa ta phải đi leo trèo lên đó, lên cái đường mòn đó.
Thế rồi chú Thành mới ứng khẩu luôn một bài thơ. Sau này bác ghi lại trong cuốn sách “Tất Đại tự ngôn” này:
“Núi cõng con đường mòn
Cha thì cõng theo con
Núi nằm ì một chỗ
Cha đi cúi lom khom
Đường bám lì lưng núi
Con tập chạy lon ton
Cha siêng hơn hòn núi
Con đường lười hơn con”
Nói về văn, thơ, tôi là anh thanh niên năm 1950 tiếp xúc với bài thơ này trong cuốn “Tất Đại tự ngôn” của người anh ruột Bác Hồ viết lúc 5 tuổi thì tôi hơi sững sờ. Ông Khiêm nói tiếp:
Lúc đó, cha bác mới mở cái ví vải lấy lá số tử vi của con ra xem, bác mới biết cha đã lấy tử vi cho các con. Cha bác nói với mẹ:
- Với thiên tư này, thằng bé sẽ khó nuôi, có lẽ, quan Đào Tấn với ông ngoại đã nói như thế không nhầm.
Rồi bác Khiêm lại nói:
- Lúc đó bác cũng chẳng có bụng dạ gì, vì chân phỏng rộp đau. Ăn cơm nắm uống nước đựng trong quả bầu khô xong, cả nhà lại leo núi, chú Thành lại được cha cõng trên lưng. Cụ Khiêm nói, anh em bác ở làng Sen chỉ biết ao, biết sông, biết hồ, biết núi, chứ biển chưa thấy. Hôm đó, đến đỉnh đèo thì dừng lại nghỉ, bác lại ngồi ôm chân, chú Thành lại chạy nhảy, rồi nói:
- Cha ơi, cái ao ở đây sao lớn thế? Cha bác nói:
- Không phải ao đâu con ơi, đó là biển đấy chứ.
Lúc đó, đứng trên đèo Ngang là nhìn thấy biển, ở đây thì xuống là đến Ròn tức là Cảnh Dương của Quảng Bình. Lần đầu tiên thấy biển lại cứ gọi là ao, cha bác phải nói là biển. Chú ấy lại hỏi:
- Cha ơi, tại sao bò nó lại lội trên biển? Cha bác cười bảo:
- Không phải bò đâu con ơi, đó là cánh buồm, thuyền nó chạy trên biển đó.
Chú ấy ứng khẩu đọc bài thơ.
“Biển là ao lớn
Thuyền là con bò
Bò ăn gió no
Lội trên mặt nước
Em nhìn thấy trước
Anh trông thấy sau
Ta lớn mau mau
Vượt qua ao lớn”
Cụ Khiêm nói một câu tâm sự, mà cũng là tâm trạng:
– Cháu ạ, con người ta có số mệnh. Số mệnh có khi nó xuất ra thành ý. Cái thông thường, cái lẽ thường anh là phải nhìn thấy trước chứ vì anh ra đời, khôn hơn. Nhưng đây lại nói là “em nhìn thấy trước anh, anh trông thấy sau”, cái khẩu khí đó cũng là cái ứng mệnh. Bác là anh, bác đau chân, bác không còn nhìn những gì ở xung quanh, nhưng chú ấy quan sát, chú ấy lại ứng khẩu được cái đó “ta lớn mau mau, vượt qua áo lớn”. Cái khẩu khí ấy là cái “ứng mệnh” nên suốt cuộc đời chú Thành phải đi hết nơi này nơi khác, năm châu bốn biển, còn bác chả thấy gì, bác cứ yên vị, bác sống trong xó quê như thế này!...
Cụ Khiêm nói với tôi điều đó năm 1950, sau này tôi công bố hai bài thơ ấy trên báo Văn nghệ số Tết năm 1980, lúc đó là chuẩn bị Đại hội 5. “Búp sen xanh” chưa ra, tôi mới đưa hai bài thơ này và viết lại cái đoạn gặp cụ Nguyễn Sinh Khiêm. Khi đó nhà văn Nguyễn Văn Bổng là Tổng biên tập báo Văn nghệ trước khi đăng mới đến hỏi tôi:
- Có chính xác không anh? Mới 5 tuổi mà làm hai bài thơ, trẻ con thì trẻ con thật nhưng rất trí tuệ; – Tôi nói:
- Anh cứ đăng đi, có chi tôi chịu trách nhiệm.
Đến khi báo ra thì người đến gặp tôi là bác Khương Hữu Dụng, nhà thơ nổi tiếng về thơ Đường, bác rất giỏi, bác năm nay 95 tuổi đang sống (Tôi cho rằng ở Quảng Nam ta có bác Khương Hữu Dụng, một nhân cách nhà thơ, nhà giáo, bác dạy học suốt thời tuổi trẻ, sau cách mạng Tháng 8 bác mới thôi dạy học. Xưa bác viết báo Tiếng Dân chủ cụ Huỳnh Thúc Kháng). Cụ hỏi tôi:
- Tôi mới được đọc hai bài thơ của Bác Hồ thời thơ ấu hay quá mà mình cũng nghi quá, ông có thêm chữ nào vào đây không?
- Chết, ai lại làm cái việc này thưa bác? – Tôi nói.
(Ta phạm sai lầm là khi viết cái điển hình chăn nuôi để phong anh hùng, chiến sĩ thi đua thì thường mượn lợn hàng xóm thả vào chuồng, mời nhà báo đến, toàn “tạo” thêm thành tích ba lăng nhăng. Còn đây là viết về vĩ nhân, đây là viết về Bác Hồ, mình thêm là mình có tội. Còn nếu của tôi thì tôi thành tác giả, việc gì mà nói là của Cụ Hồ). Cụ Dụng lại cười tươi, nói:
- Đọc xong mình sợ quá. Trần Đăng Khoa nó giỏi nhưng thời nay nó khác, nó có thông tin báo chí tuyên truyền nhanh, có hệ thống, thời đó thì không có mấy, thời đó làm gì có báo chí như vậy. Thông minh như Trần Đăng Khoa tưởng tượng “cành lá dừa như cái lược chải trên trời”, “quả na chín là quả na mở mắt”, “gà gọi mặt trời lên”... Bên này hai bài thơ Bác hồi nhỏ mà tầm tư tưởng lớn quá.
Sau này đưa vào cuốn “Búp Sen Xanh” thì Thủ tướng Phạm Văn Đồng có mời tôi lên làm việc, Thủ tướng có hỏi về hai bài thơ. Thủ tướng mời tôi ngày 10-4-1982, lúc đó đã kết thúc Đại hội 5, bác Phạm Văn Đồng nói như thế này:
- Tôi có mấy điều để nói với đồng chí, có những điều Bác Hồ kể với tôi, vì tôi sống có một mình... thỉnh thoảng ăn cơm với Bác, sau khi ăn xong hai người thường ngồi bên ao cá kể chuyện thời nhỏ của Bác. Nhưng lần này tôi thấy đồng chí lại biết khai thác được những chuyện như thế này. Tôi không hiểu tại sao đồng chí lại biết những chuyện này? Đồng chí cũng không phải là thư ký của Bác, đồng chí là nhà báo, thỉnh thoảng có đi với Bác nhưng chắc không bao giờ Bác kể chuyện này, trong đó có trường hợp cô út Huệ là người tiễn Bác xuống tàu. Trong sách có ba bài thơ, bài thơ thứ ba không nói, còn bài thơ Đèo Ngang tại sao đồng chí lại tìm được?
Bác Đồng mời tôi lên thì bao giờ tôi cũng có cái “thủ thân”, được khen thì tốt, nhưng khi bị hỏi thì sẵn sàng có cái “thủ thân” mà chìa ra. Tôi mang cả cuốn “Tất Đạt tự ngôn” đi theo, tôi nói:
- Cụ Khiêm giao cho tôi tháng 6-1950 thì tháng 9 cụ qua đời. Cụ có ghi trong sách hai bài thơ này. Tôi chìa ra thì bác Đồng bảo tôi:
- Đồng chí đã lấy tư liệu chu đáo như thế này, vì không ai hiểu Bác Hồ bằng anh chị ruột của Bác. Đồng chí lại có cái duyên may được gặp các anh chị Bác Hồ, lại được các cụ tin cậy giao cho cuốn sách ghi chép của cụ cuối đời và kể lại thế này. Các cụ nhà nho khi về già thường kỹ tính lắm, không dễ nói ra đâu.
Sau tôi phải nói thật với bác Đồng: ông Bùi Xuân Phong xưa là bạn của cụ Hoàng Xuân Hành (chú ruột, mẹ Bác Hồ), cùng đi với cụ Hành, không phải tự nhiên các cụ kể cho biết đâu. Cụ Bùi Xuân Phong hy sinh ở Nhã Nam thời cụ Hoàng Hoa Thám nay vẫn chưa tìm thấy mộ cụ tú Bùi. Nói điều đó là để bác (Đồng) tin được. Bác Đồng lại nói:
- Tôi hỏi đồng chí như thế vì đọc trong cuốn sách có nhiều điều xúc động, nhưng có hai bài thơ ở Đèo Ngang tôi cứ bâng khuâng, giá mà biết trước cái này thì Bác còn sống mà nhắc lại chắc lý thú lắm. Nhưng Bác “đi mất rồi”! Có khi nào mà cái tuổi lên 5 mà cấu trúc được bài thơ ngắn, cấu trúc ấy lại tạo ra được giữa cái “tĩnh” với cái “động”, tư duy này tư duy “Dịch lý”.
Bác Đồng là người giỏi Dịch lý, con quan mà. Các đồng chí để ý ngày bác Đồng mất, họ chiếu cái phim về Thủ tướng Phạm Văn Đồng, có đoạn quay cái nhà thờ của gia đình bác Đồng ở Quảng Ngãi, thì người ta quay xa xa, không quay cận cảnh bàn thờ vì toàn là những ông đội mũ cánh chuồn. Gia đình bác Đồng nhiều người làm quan, như thế “họ” sợ mất lập trường nên không dám quay rõ. Bác Đồng là con quan, học giỏi, học hành kỹ lưỡng nên mới thấu hiểu được “cái động”, “cái tĩnh” trong bài thơ của Bác Hồ.
Rõ ràng cái gì thuộc về thiên nhiên tạo đều “tĩnh”, cái gì thuộc về con người là “động”. “Núi cõng con đường mòn”, Cha thì cõng theo con”, “Đường bám lỳ lưng núi” là tĩnh, “con tập chạy lon ton” là động. Thơ có thể là chưa hay nhưng nó có cái thần, cái lời ngộ nghĩnh của đứa trẻ, điều đó dễ hiểu, đó là vấn đề tư tưởng, tầm nhìn này hơi lạ, Rồi còn bài lên đỉnh đèo, tại sao biển như thế vẫn gọi là cái ao, mặc dù cha nói đó là biển, mà vẫn cứ: “Ta lớn mau mau, vượt qua ao lớn”. Thế thì có lý trí gì không? Không chỉ là xúc cảm xuất thần của một đứa bé. Sau này Bác đi năm châu bốn biển: Lịch sử nay đã cho thấy Bác Hồ đi bốn biển thì thấy, năm châu thì chưa thấy. Đến bây giờ không biết Bác có thăm Úc không. Ta thường nói Bác Hồ đi năm châu bốn biển, theo lịch sử ghi thì Bác mới chỉ đến bốn châu thôi. Tôi nói:
- Thưa, Bác Hồ đến Sitnây tháng 11-1913, đi với cụ Đào Nhật Vinh, hiện nay cụ Vinh ở số nhà 13 đường Nguyễn An Ninh, gần chợ Bến Thành.
Tôi nói với Bác Đồng năm đó cụ Đào Nhật Vinh đang sống. Sau giải phóng miền Nam, tôi vào Sài Gòn sưu tầm tài liệu về Bác Hồ thì Dược sư Hồ Thị Tường Vân, con gái cụ Hồ Tá Bang giới thiệu gặp cụ Đào Nhật Vinh, người ở huyện Trực Ninh, Nam Định, xuống tàu năm 1912 (Bác Hồ năm 1911), cụ Đào Nhật Vinh gặp Bác Hồ ở tận Nam Mỹ, Achentina, sau này gặp (Bác) ở Đaka, Sênêgan, đến đầu năm 1917 gặp lại Nguyễn Tất Thành cuối đại chiến thứ nhất, Vì sau đó ông không đi tàu nữa mà lên Boócđô, lấy vợ đầm,... Sau này ông lại lấy một bà Việt Nam. Nếu cụ (Vinh) kể không thì không ổn, không đủ để tin số ảnh cụ chụp với Bác Hồ năm 1946 ở Pari khi Bác là thượng khách thăm chính thức nước Pháp (lúc đó cụ đang ở Pháp mở Hotel ở Boócđô).
Gặp cụ Vinh tôi mới cung cấp một số tư liệu với bác Đồng. Bởi vì viết về Bác Hồ, chúng ta chẳng có mấy ai nghiên cứu về Bác đi đến tận nơi tận chốn Bác sống, hoạt động để tìm tòi tra cứu cả, báo chí nước ngoài họ viết thế nào thì ta chép lại, Đảng ta chưa bao giờ bỏ ra một số tiền cung cấp cho những người có tâm huyết thật sự đi lần theo dấu viết Bác. Đã có ông nhà báo Mạnh Việt ở báo Tiền Phong thành tâm xung phong đi, nhà nước chỉ cấp cho một cái giấy phép thôi, còn đi đến đâu ông nhờ đồng bào, mà đến nay vẫn chưa có chuyến đi nào cả. Ngay cả việc quan hệ giữa nhà nước ta với nhà nước khác cũng chỉ trao đổi công văn đi lại, cũng chưa có người đến. Chỉ đến khi anh Hồng Hà lúc đó là phóng viên Báo Nhân Dân đi sang hội nghị Pari với Lê Đức Thọ, nhân tiện ở đó nghiên cứu (về Bác) ở Pháp, rồi sanh Anh, thế thôi; chứ thực sự để hẳn người nghiên cứu về Bác Hồ thì không có. Vì vậy, nó cứ thất thoát đi. Bên ngoài người ta cứ tiếp tục gửi về rất nhiều (tư liệu).
Hai bài thơ ấy giúp bác Đồng hiểu thêm về Bác Hồ, về sự manh nha của một thiên tài. Thiên tài không phải tự nhiên xuất hiện, mà cả một quá trình, mà đây là giai đoạn manh nha. Cuối buổi gặp bác Đồng mới nói về ý định của bác.
- Tôi nghe đồng chí bị thương ở mặt trận bề, khó khăn lắm!? Anh em xuống nhà (anh) nói đồng chí ở chật chội lắm! Tôi có trao đổi với anh em để lo cho đồng chí một chỗ ở, để đồng chí đỡ vất vả...
- Thưa Thủ tướng, cảm ơn Thủ tướng. Bây giờ Thủ tướng cho tôi căn hộ, Thủ tướng mang tiếng, tôi cũng mang tiếng. Bởi lẽ tôi trẻ trung làm được công việc đột xuất mà Thủ tướng thưởng thì không ai nói. Thủ tướng là người lãnh trọng trách lo cho cả đất nước. Một người đột xuất như Đặng Thái Sơn chẳng hạn, làm cái việc được giải thưởng Sôpanh, người châu Á đầu tiên được giải, thì Thủ tướng cho một căn hộ, để Đặng Thái Sơn đón bố là Đặng Đình Hưng về ở, anh Hưng bị cái án “Nhân Vân Giai phẩm”, bây giờ khổ quá, nay con ông làm được cái việc vinh quang đó. Thủ tướng cho một căn nhà. Ai cũng quý cả, quý tấm lòng của Thủ tướng, quý lòng hiếu thảo của người con đối với cha, như thế là đẹp.
Tôi là người tham gia cách mạng sớm, ra đi vào chiến trường B, trả lại căn hộ tiện nghi ở số nhà 58 Nam Đồng cho phòng quản lý nhà đất quận Đống Đa. Nay trở về, đòi không được. Thuê một chỗ khác cũng không được. Tôi biết cái nhà đó... thì to tiền lắm. Bây giờ họ bán đồ điện. Nhà tôi đòi không được, giờ tôi lại lên đây, tôi không xin (nhà) mà Thủ tướng cho một xuất ở thì tôi mang tiếng, Thủ tướng cũng mang tiếng: Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì mang tiếng “ban phát” cho cá nhân người này người kia: còn tôi thì mang tiếng: tưởng ông này thế nào, hoá ra đi nghiên cứu cụ Hồ, viết sách cụ Hồ xong rồi “để xin nhà”. Dân ta thường nói “Ăn mày nhà quan không sang hơn ăn mày ở chợ”. Tôi cũng nói thực lòng với bác Đồng như thế nên bác rất quý. (Nay thấy anh Trần Tam Giáp, thư ký bác Đồng viết bài để đăng báo Nhân dân ngày giỗ năm Cụ “ra đi”, anh có nhắc đến chi tiết này).
Như thế là đến như bác Phạm Văn Đồng ở gần Bác, một trong những người gần gũi nhất của Bác Hồ như bác Võ Nguyên Giáp, bác Trường Chinh... xưa người ta nói “Tứ trụ” là vậy! Nhưng thời niên thiếu của Bác thì không có điều kiện để tìm hiểu để biết được. Còn tôi có duyên may trong quá trình đi khai khác để sau này viết, trước chỉ nghĩ ghi lại để cung cấp cho đời sau, nhưng sau khi đã có cái “vốn” mới nghĩ đến chuyện “đi buôn xa buôn gần” viết cái này cái khác.
Như thế là tuổi nhỏ Bác Hồ đã được khai tâm chữ nho rồi. Trong nhà bà ngoại và mẹ khai tâm cho Bác lúc 3 tuổi; 5 tuổi thực sự học chữ nho. Có người nói Bác học ít là ngộ nhận, không phải. Vào đến Huế, ông Nguyễn Sinh Sắc tạo ra một cái “chiếu” trí thức, gọi là các văn nhân thời đó, từ Đào Tấn đến Nguyễn Thượng Hiền, Đặng Nguyên Cẩn... đều đến nhà này. Sau này là Phan Văn San tức Phan Bội Châu, vào Huế gặp cái “chiếu” của ông Nguyễn Sinh Sắc ở trong ngõ Đông Ba. Tại sao viết về Bác người ta lại “ngại” viết về cái này lắm? vì toàn là các gương mặt phong kiến, quan lại cả. “Họ” tưởng rằng Bác Hồ sinh ra từ cái “chiếu Mác Lênin”, thực ra Bác Hồ sinh ra từ cái “chiếu quan trường” như thế này thì “giảm” mất cái giá trị nháy nháy của Bác đi. Cái này các giới nghiên cứu Việt Nam cần làm rõ Bác Hồ là con đẻ của Việt Nam, còn Mác Lênin có đến với Bác là một cái vô cùng quan trọng, nhưng là một mảng cấu thành thứ hai, không thể nào là “nền tảng” được, nền tảng là “Văn hoá Đại Việt”, văn hoá Việt Nam đi từ nàng Âu Cơ. Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, trăm con, có miền ngược miền xuôi... Còn Mác là sản phẩm của thế kỷ 18,19 dưới ánh sáng của Châu Âu ông vĩ đại ở thời đó, nhưng vĩ đại đến mức nào đó... chứ cái này năm 1924 Bác đã viết rất rõ:
“Học thuyết Mác là học thuyết của Châu Âu mà Châu Âu chưa phải là cả thế giới. Vì Mác không có điều kiện để nghiên cứu văn hoá phương Đông và lịch sử phương Đông, chúng ta có quyền bổ sung cho học thuyết Mác bằng văn hoá và lịch sử phương Đông”
Đây là tôi nói lại ý của Bác. Những điều ấy Bác viết từ năm 1924 lại cho là “hỗn”, là “đại xét lại” rồi còn gì nữa! Mác thì nói về giai cấp vô sản và tư bản, còn Bác thì Bác đi tìm vấn đề giải phóng dân tộc. Còn đây là vấn đề của Châu Âu phát triển chủ nghĩa tư bản thì phải đánh đổ tư bản để giải phóng vô sản. Bác thì khác, có vấn đề giai cấp đấy, nhưng không phải giai cấp như ở châu Âu. Văn hoá của Bác không được đưa ra suốt bao nhiêu năm, bây giờ đã được đưa vào “Toàn tập” rồi (in lần thứ 2)
Con người có tư tưởng như vậy thì cái nôi phải như thế nào? Hồi nhỏ Bác đã gặp và chịu ảnh hưởng những gương sáng nào, diện mạo nào?
Trên “chiếu văn” của Nguyễn Sinh Sắc nào là Đào Tấn, tổng đốc An Tĩnh sau về làm thượng thư Bộ Công, rồi thượng thư Bộ Hình, rồi đến Nguyễn Thượng Hiền. Nếu quên nói vị hiền tài này là tôi có lỗi với Bác, là không đầy đủ sự hình thành nhân cách của Bác. Rồi cụ Cao Xuân Dục – một ân nhân của ông Sắc, cụ Đặng Nguyên Cẩn đốc học, thân sinh cụ Đặng Thai Mai, cụ Ngô Đức Kế... Cái “chiếu” của Nguyễn Sinh Sắc năm 1896, 1897, 1898, 1899... từng ấy năm là nơi hội tụ khá đầy đủ các nhà khoa bảng lớn ở đất nước ta, trong đó có tiến sĩ Trần Đình Phong người Yên Mã, huyện Yên Thành, Nghệ An (đỗ cùng khoa với Phan Đình Phùng)
Những người đó đi đến “chiếu” của Nguyễn Sinh Sắc thì cậu bé Nguyễn Sinh Cung (còn gọi là Côn) hầu trà hầu nước cha tiếp những vị khách này thì chịu ảnh hưởng khá lớn, lại chứng kiến việc vua Thành Thái bị đi đày. Ông Khiêm có kể lại câu chuyện mà sau tôi dựng lại trong phim “Hẹn gặp lại Sài Gòn”, viết trong “Búp sen Xanh” tái hiện lại.
Căn cứ vào lời kể của ông Khiêm, bà Thanh, (tôi) tra lại cái gốc vấn đề. Biết bao nhiêu người kể cho tôi nghe, sau khi vừa giải phóng xong, đi đến đâu... (mất một đoạn ngắn nghe không rõ) chỉ đưa cái thần của nó thôi:
Nhân dân nô lệ từng đàn
Vui chi bệ ngọc ngai vàng riêng ta?
Thế là các anh phê ngay:- Tại sao lại đề cao Thành Thái như thế này? Thành Thái ngồi trên ngai vua làm chi có chuyện thương dân như thế này?
Khi chìa bản gốc ra, tôi nói: – Nếu thực sự yêu ông cha, quý trọng ông cha thì những bài thơ này (còn) phải đưa vào dạy trong trường nữa chứ!
Từ đó tôi không đưa bài thơ này ra nữa vì có người còn nói thơ này của Triều tiên, có người lại nói bài thơ này thơ Đường chứ đâu phải thơ của Thành Thái. Vừa rồi trường Quốc học Huế đã công bố chính thức bài thơ đó của vua Thành Thái. Còn khi tôi đưa ra thì người ta nói ông Sơn Tùng mượn bài thơ nổi tiếng bên Hàn Quốc (ông nói là Hàn Quốc chứ không nói Triều tiên), khổ thế!
Ông Khiêm kể tiếp:
Buổi sáng hôm đó cha bác ngồi trước linh sàng khói hương nghi ngút không vào Đại nội để chầu. Mọi khi ăn sáng một bát cháo hoa rồi vào nhà Tả Vu chầu vua, nhưng hôm đó đi ra đi vào không thấy cha chầu, chú Thành mới hỏi:
- Thưa cha, hôm nay cha không vào tả Vu để chầu?
Lúc đó ông Sắc làm thừa biên Bộ lễ, thì “người ta” nói: – Tại sao cha Bác Hồ lại làm thừa biên Bộ Lễ của triều Nguyễn bán nước thế này (hồi đó không được nói, còn bây giờ thì nói thoải mái).
Nồi cháo, ba cha con ăn sáng, vẫn để đó, cha cứ ngồi thắp hương, hỏi thì cha nói:
- Vua đã bị bắt giam ở nhà Thái y rồi. Ông Khiêm mới hỏi:
- Thế có biến trong triều hở cha? Cha nói:
- Không có biến chi cả, toà Khâm sứ nó bắt vua:
Thế thì bây giờ ta đọc lại bài thơ của vua Thành Thái làm khi ra Bắc mà bác Khiêm thuộc từ đó được bác chép lại, chữ của Bác, Bác mất đi rồi thì cháu còn bút tích. Bút tích của cụ Khiêm chữ nho rất đẹp. Khi phát ngôn nhân của đoàn ta ở hội nghị Pari nghe được bài thơ này thì giật mình: Mình là dòng dõi Tôn nhất mà không biết (đó là ông Nguyễn Minh Vỹ).
Hôm ở Câu lạc bộ Thăng Long, tôi nói vui: – Thưa các bác, đây toàn là “quan đại thần” cả, nào là Bộ Chính trị, nào là Bộ trưởng... nhưng tôi hỏi bây giờ ai trong lãnh đạo Đảng còn nhớ thương dân bằng ông vua này?
Võ võ văn văn ý cẩm bào
Trẫm vi thiên tử độc gian lao
Tam bôi hoàng tửu quần lê huyết
Sổ trản thanh trà bách tính cao
(Quan võ, quan văn họ chỉ sung sướng với bộ cẩm bào, lấy làm hãnh diện sang trọng với bộ áo. Ta đây làm vua ở ngôi thiên tử mà cô đơn, không ai hiểu ta. Uống ba chén rượu trong hoàng cung như uống máu quần chúng nhân dân. Uống một chén trà tiến vào cung vua như uống mồ hôi trăm họ).
Một ông vua ngồi trong cung ăn ngon, mặc đẹp mà thấy đau xót vì dân cực khổ, nói nôm na như vậy, thế thì ta không học vị vua yêu nước, thương dân này thì học ai? Học cha ông học ngay đây này, thanh liêm thì học ở đây, ở thế kỷ 20 này.
Thiên lệ lạc thời dân lệ lạc
Ca thanh cao xứ khốc thanh cao
(Nước mưa trên trời kia phải chăng nước mắt của trời cũng như nước mắt của trăm họ rơi xuống. Tiếng hát trong hoàng cung cao bao nhiêu thì tiếng khóc ngoài đời càng cao bấy nhiêu)... Ghê gớm quá! Thấy trời mưa mà như thấy nước mắt của dân đổ xuống! Bây giờ bọn tham nhũng không còn biết xấu hổ với cha ông.
Can qua thử hội hưu đàm luận
Lân tuất thương sinh phó nhỉ tào
(Cái việc mất nước nguyên nhân thế nào lúc này ta thôi bàn, phải bàn cái chỗ này: tìm con người cứu nước thì ai đây, phó cho ai đây!)
Vậy Nguyễn Tất Thành không ảnh hưởng ở những người này thì ảnh hướng ở đâu?
Cha làm quan trong triều, buổi sáng đó không ăn sáng mà ngồi trước nén hương, vì thấy vua bị bắt, chánh khâm sứ Trung kỳ nó bắt. Lệnh bên kia tố cáo đó là “có âm ưu lật đổ” do Trương Như Cương là ông cậu, em mẹ vua, tố cáo. Nỗi đau như thế mà ta không đem cho anh em đồng chí đồng bào biết để mà học. Đây là nhân cách làm vua, nhân cách làm tướng, nhân cách làm thầy. Học là học ở đấy chứ đâu. Tôi cho rằng ta rời bỏ cha ông, rời bỏ cái văn hoá dân tộc là không đúng, tất nhiên ta không dân tộc hẹp hòi, phải học cái tinh hoa của nhân loài, của dân tộc khác, nhưng học cái tinh hoa thôi, cái gì hợp thì ta học. Chính Bác Hồ là con đẻ của văn hoá dân tộc, đi ra thiên hạ, nằm gai nếm mật, đến nơi này nơi kia để khảo sát.
Về điều này tôi nói với đồng chí Tố Hữu lúc đó là Trưởng ban tuyên giáo, Uỷ viên Bộ chính trị... khi duyệt kịch bản phim của tôi ông bảo cái phim “Hẹn gặp lại Sài Gòn” lúc bấy giờ lấy tên là “Con đường năm ấy” là để khẳng định con đường của Bác Hồ, tôi nói:
- Bác Hồ là hệ quả của văn hoá dân tộc, là truyền thống yêu nước, chứ không phải là Mác Lênin. Mác Lênin nền tảng từ đầu, mà là một mảng phần sau. Ông Tố Hữu nói:
- Không, không, giai đoạn này tôi không thích ca ngợi, giai đoạn Nguyễn Tất Thành chẳng là cái gì cả, giai cấp vô sản giác ngộ thì mới đến được chủ nghiã Mác Lênin, đó là lượng thành chất...
Hôm đó cả anh Hà Xuân Trường, Thứ trưởng Bộ văn hoá, Chủ tịch Hội đồng nghệ thuật quốc gia, đã duyệt (phim) rồi lên xin ý kiến ông Tố Hữu ; anh Vũ Năng An giám đốc xưởng phim truyện, anh Hải Ninh là đạo diễn; anh Đào Xuân Tùng, đồng tác giả kịch bản “Con đường năm ấy” và nhà văn Hoàng Tích Chỉ ngồi nghe anh Lành nói thế...
Ông Tố Hữu còn nhấn từng tiếng:
- Phải sang Pháp, giai đoạn ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc nhờ giai cấp vô sản Pháp giáo dục cho mới trưởng thành. Chỉ có Nguyễn Ái Quốc, chứ còn Phan Chu Trinh ở bên ấy bao nhiêu năm có biết gì đâu? Rồi Phan Văn Trường cũng ở Pháp rất lâu mà có biết gì đâu? Chỉ có giai cấp vô sản Pháp giáo dục cho (Nguyễn Ái Quốc)... còn giai đoạn Nguyễn Tất Thành chưa là cái gì cả!
- Kính thưa anh – tôi nói: – một thanh niên 20 tuổi đẹp trai như thế, con quan thừa biện Bộ lễ, nho học có, tây học có, học troisieme annéc Quốc học Huế, học chữ nho người ta gọi là “kiêm bị”, có thể đi thi được, nếu lấy cô vợ đẹp được quá đi chứ! Tại sao Nguyễn Tất Thành bỏ tất cả để ra đi? Bài học ấy lớn quá. Ngay trong tâm hồn Nguyễn Ái Quốc có cả sự hoàn chỉnh nhân cách phương Đông để đi đối thoại với phương Tây. Nếu không biết gì khi sang bên kia thấy gì cũng vơ cả, như thế thì hỏng. Nguyễn Tất Thành ra đi thì cô út Huệ ở lại, cô là con quan Bộ Công Lê Quang Hưng, Nguyễn Tất Thành bỏ cả cái tình cảm, tình yêu này mà đi vào nghĩa lớn, thì đó là bài học.
Khó là như thế, bây giờ tìm hiểu Bác Hồ, lịch sử của Bác là con đẻ của dân tộc này, kết hợp với mọi cái, tìm lượm được mọi cái hay ở bên ngoài. Ở bên Mỹ hiện nay có mấy cuốn sách viết về Bác, nay người ta vẫn tiếp tục nghiên cứu, nhất là Lady Borton, bà hiện đang ở Khách sạn La Thành, bà nói tiếng Việt như anh em mình, bà chuyên nghiêm cứu Bác Hồ thời ở Mỹ.
Như vậy, Bác Hồ vào Huế là để học thêm được cái gì ở Huế ở tuổi thơ ấy? Đó là cái nôi văn hoá của dân tộc hội tụ ở Huế. Huế là văn hoá bản địa của kinh đô, đặc biệt các diện mạo đại khoa vào trong Huế. Một con người như cụ Cao Xuân Dục, (đến nay hai lần tôi đề nghị với Nghệ An mà chưa đặt cái tên đường cho cụ), tất cả các bộ sách Sử và văn hoá ở triều đình Huế có đến bây giờ được sắp thành văn bản là do ông. Cụ Cao Xuân Dục là ông quan từng làm tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên, sau xuống dưới này, cùng Hoàng Cao Khải.
Dân ta công bằng lạ lùng, đây không phải là quy định trong sách đâu. Ông Hoàng Cao Khải lúc đó phải điều cả cụ Cao Xuân Dục đi dẹp Bãi Sậy.
Cả hai ông cùng đi dẹp Bãi Sậy nhưng cụ Cao Xuân Dục không bị mang tiếng là Việt gian mà Hoàng Cao Khải mang tiếng đại Việt gian. Làm quan nhân nghĩa rất khó, nhất là ẩn tại triều.
Những bài học của ông cha ta lớn như thế mà nó còn có quan hệ xung quanh diện mạo Hồ Chí Minh đều ảnh hưởng từ những cái này. Ông Đào Tấn cũng vậy, làm tống đốc An Tĩnh mà khởi nghĩa Phan Đình Phùng, phong trào Phan Bội Châu mà ông cũng không mang tiếng đàn áp khởi nghĩa Phan Đình Phùng, đàn áp phong trào Phan Bội Châu mà ông cũng không mang tiếng đàn áp, trái lại còn dựng được vở tuồng “Hộ thành” ca ngợi Phan Đình Phùng, ông ngầm giúp đỡ khở nghĩa Phan Đình Phùng, ngầm giúp đỡ phong trào Phan Bội Châu. Cao Xuân Dục cũng vậy, ông xuống Bãi Sậy mà không đàn áp, nên ông không mang tiếng đàn áp mà trở thành một nhà văn hoá.
Tất cả sách Sử từ xưa để lại đều là ở cụ Tổng tài Quốc sử quán, cụ đỗ cử nhân, đồng khoa với cụ Phan Đình Phùng, nhưng đại khoa cụ không đỗ. Đầu thế kỷ (20) này cụ vừa là Tổng tài Quốc sử Quán vừa là thượng thư Bộ Học, vừa là tế tửu Quốc tử giám, vừa là Đông các Đại Học sĩ tứ trụ triều đình. Cụ về hưu năm 1923 nhưng vẫn là nhà văn hoá, con của cụ là Cao Xuân Tiếu , cháu nội Cao Xuân Huy nhà lão học lớn nhất nước ta hiện nay, nhất là Cao Xuân Hạo. Một gia thế như thế đều có quan hệ với gia đình cụ Sắc.
Nguyễn Sinh Sắc được học là nhờ hồi đó được hưởng một suất khuyến học. Cụ Cao Xuân Dục để ra một số ruộng khá lớn để lấy hoa lợi giúp cho học sinh nghèo. Ông Sắc được nhận số tiền khích lệ đó, đồng thời được vào Quốc Tử Giám cũng là nhờ cụ Cao Xuân Dục. Nếu nghiên cứu Bác Hồ mà không nghiên cứu những khía cạnh này thì nó mất cội nguồn nhân nghĩa. Cội nguồn nhân nghĩa ở gia đình Bác Hồ đứng được ở Huế, sống được ở Huế và tiếp cận được những vấn đề văn hoá... đều là nhờ cụ Cao Xuân Dục, cụ có những ân nghĩa đối với thân sinh Bác Hồ.
Như vậy (nghiên cứu) lịch sử phải công bằng, phải đi tìm những cái từ cội nguồn. Nói như thế để các thầy các cô sau này nghiên cứu về Bác Hồ cần nghiên cứu bổ sung thêm, hoàn chỉnh thêm. Con người anh hùng dân tộc được sự nuôi dưỡng qua nhiều bước đường, qua nhiều thời kỳ mới nên con người đó, chứ không phải tự dưng nó đến. Thế thì ông Cao Xuân Tiếu mua ngôi nhà của lính “khố vàng” cho ông Nguyễn Sinh Sắc để ông Sắc đưa vợ con vào ở. Đó là điều quan trọng thứ nhất. Thứ hai là: khi bà Sắc chết rồi ông Sắc chưa đỗ đại khoa (đến 1901 khoa Tân Sửu ông mới đỗ). Trong khi còn tang vợ vừa mới qua đời, con trai út vừa mới chết, ông Sắc cùng ông Phan Chu Trinh cả hai ông đều bị đánh hỏng trong khoa thi này. May sao cụ Cao Xuân Dục là Chánh chủ khảo Hội đồng khảo thí khoa Tân Sửu (1901), khi phúc khảo lại toàn bộ thì thấy có hai bài của hai ông Phan Chu Trinh và Nguyễn Sinh Huy (lúc này ông Sắc đổi tên là Huy). Cụ Cao Xuân Dục nói:
- Chết, những bài này mà đánh hỏng thì hậu thế người ta nói thi cử không công bằng.
Ông làm tờ trình lên Bộ học và lúc đó cụ Đào Tấn cũng góp phần tâu lên vua Thành Thái xét lại hai vị sĩ tử này. Hai sĩ tử này xét về văn bài phải là hàng đầu bảng mà bây giờ đánh hỏng là không được. Lúc bấy giờ có hai phái: – phái Nguyễn Thân muốn đánh hỏng, nói là hai ông này phê phán nhà Nguyễn đầu hàng Pháp, là “khinh ngôn”. – phái nữa là Đào Tấn nhận xét thi cử là để chọn những hiền tài, đánh hỏng những người thế này thì hậu thế người ta khinh lại. Sau cả hai phái đều lấy lại nhưng dung hoà là không lấy tiến sĩ nữa mà lấy phó bảng, nên hai ông đều là phó bảng. Đời vua Thành Thái, khoa thi này có 9 tiến sĩ, 11 phó bảng, lấy thêm 2 phó bảng thì cụ Phan Chu Trinh bị đội bảng thứ 13, cụ Sắc thứ 11.
Nói như thế thấy rằng cụ Cao Xuân Dục có mối liên quan hệ tình cảm sâu sắc với gia đình Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, rất nhiều tình tiết như thế. Sau khi đỗ đại khoa thì vua Thành Thái ban “ân tứ vinh quy”, ban áo mão để đi dự tiệc vườn Thượng uyển được “kén vợ”, chọn một cô nào thì tuỳ ý. Nguyễn Sinh Sắc được cụ Cao Xuân Dục định gả con gái yêu của cụ là Cao Thị Trâm làm vợ kế để giúp cho các cháu đang thơ như thế này, mà đứa nào cũng học giỏi, ngoan, nên cụ mời Nguyễn Sinh Sắc đến tư dinh, ông nói trước để khi ông Sắc chọn (vợ) sẽ lấy Cao Thị Trâm, con quan đại thần. Cụ nói: – Tôi muốn giúp anh người hiền đức mà “thất nội trợ... ”
Ông Sắc bèn phủ phục xuống nói: – Con xin tạ ơn Cụ lớn và xin Cụ lớn miễn cho con việc này, là vì con được như hôm nay là nhờ cha mẹ vợ, gia đình vợ, bây giờ vợ mất rồi, con rể đỗ đại khoa, vinh quy bái tổ mà lại nằm trên cáng và một võng người con gái khác cùng về theo thì điều này đau đớn cho mẹ vợ của con. Vậy xin quan lớn, miễn cho con, chứ không phải con chê, chê là không phải, là xúc phạm... nên con xin tạ cái ơn hải hà này.
Đó là nhân cách một quan đại thần, nhất phẩm triều đình muốn chọn người tài để gả con gái cho, mà con gái thì mới 18 tuổi, trong khi ông tân khoa đã 3 con rồi, có tài, để giúp “nâng khăn sửa túi” cho ông (Sắc) này, giúp ông nuôi con, dựng nghiệp. Tôi nói phụ thêm về điều này. Cụ Cao Xuân Dục gả con gái cho vị Hoàng giáp Tiến sĩ Đặng Văn Thụy (cụ Đặng Văn Thụy là thân phụ của hai phó bảng Đặng Văn Oánh, Đặng Văn Hướng), gả con gái cho phó bảng Hoàng Tăng Bí, thân sinh ông Hoàng Minh Giám; gả con gái cho phó bảng Lê Xuân Mai làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An...
Khi tôi tìm vào nhà cụ Hồ Tá Bang (người sáng lập trường Dục Thanh), nhiều người kể lại, Nguyễn Tất Thành ngày xưa còn trai trẻ mà đã để được trong trí nhớ mọi người đương thời những ấn tượng tốt đẹp, không dễ đâu. Chứ không phải lên đến lãnh tụ người ta mới quý. Người ta quý Bác Hồ đi cứu nước, cứu dân là bước sau này, còn trước hết, khi Bác còn là một cậu học trò đã có nhân cách học trò, làm thày giáo có đức độ người thày. Là cậu bé khi làm thơ đã có cái gì manh nha biểu hiện ở con người ấy, đứa bé ấy đã biểu hiện những đức tính đẹp, đức tính đẹp đó cũng biểu hiện những truyền thống nho gia trong gia đình, trong quê hương, trong thầy học vv... đã tác thành từ buổi ban đầu của những con người thời còn trẻ như Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Khiêm, nhất là Nguyễn Tất Thành.
Tôi “đi tìm” Bác Hồ là tìm ở những khía cạnh này, không phải “tìm” Bác Hồ trên con đường Mác Lê nin, cái đó là sau, đó là bước quan trọng nhưng là thứ hai. Cái cốt cách con người sau trở thành diện mạo tiêu biểu cho nên văn hoá dân tộc là chính cái ấy, là ở những khía cạnh này, trong gia đình, trong bạn bè của cha, của người thầy... tất cả giai đoạn ở Huế này rất quan trọng. Và chính điều ấy lại biểu hiện một khía cạnh nữa là sau khi ông Sắc trở về quê, chăm sóc mẹ vợ, thì có “trát” của Đô sát viện (như Ban tổ chức bây giờ, các quan được cử đi đâu là do Đô sát viên cử) mời Nguyễn Sinh Sắc vào làm quan ở Bộ Lễ. Vì mẹ vợ không có con trai, nuôi con rể ăn học, nay ở một mình, nên ông xin ở lại chăm sóc mẹ vợ. Ông Sắc đưa các con đi khắp nơi, các vùng quê có dấu ấn sâu đậm vừa xẩy ra ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, những nơi thực dân Pháp tàn sát trong các cuộc khởi nghĩa Cần Vương, Văn Thân, Đông Du... Thế thì Bác Hồ hồi nhỏ được cụ Sắc đưa đi khắp vùng Nghệ Tĩnh, ra đến tận Quỳnh Đôi, đất gốc của họ Hồ.
Ông Khiêm kể chuyện như sau:
- Cha Bác ở xóm Du Đồng mấy tháng, gần dinh cụ Thượng, sau gọi là cụ Quận (tức quận công Hoàng Cao Khải, như ấp Thái Hà) và tôi có đến gặp cụ Lê Thước, hỏi thì cụ Thước kể:
- Hôm đến dinh Hoàng Cao Khải để ăn mừng khánh thành cái dinh thự của cụ Quận công, có mời các quan sở tại đầu tỉnh cho đến các quan huyện. Trên cái sân lớn, ngoài có tường hoa, đám trẻ con cứ nhìn qua khe tường thấy các quan trong sân toàn uống rượu tây, thì cái đám học trò, cái đám trẻ đó (như cụ Khiêm kể lại – trẻ nhưng toàn học trò chữ nho, nào là Phạm Gia Cần, Lê Thước, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Khiêm), thấy các quan trong đó đọc thơ, bình thơ để mừng quan Quận công mới xây dựng xong dinh thự. Đặc biệt có một cái bể cạn rất lớn trong đó có núi non bộ, cây si tính đến trăm tuổi, có ba ông lão nho nhỏ. Các quan bình thơ trong sân, đám học trò đứng ngoài nói to một câu “Các quan làm thơ dở quá!”
Nghe thế, ông Hoàng Trọng Phu ra quát lũ trẻ, thì một số bỏ chạy (cụ Khiêm, cụ Thước, cụ Cần đều kể như thế), chú Thành chạy nhưng chậm thôi. Lúc đó cụ Hoàng Cao Khải mới ra, nói:
- Thôi, đừng doạ nạt các cháu, nhà mình đang có chuyện vui lớn, các cháu đến mà đuổi thì dân làng người ta cười. Các cháu nói gì thì nói, nhà mình có tiệc mà nạt các cháu không được. Rồi cụ nói tiếp: – Cháu nào khi nãy chê thơ của các quan thì bây giờ đọc cho các quan nghe một bài thơ, ông thưởng.
(Ông Hoàng Trọng Phu trẻ thì nạt, còn cụ Hoàng Cao Khải già thì mời các cháu vào) Đám trẻ độ chục đứa mới quay lại, Cụ Hoàng nói tiếp.
Cháu nào khi nãy chê thơ các quan, bây giờ vào đọc bài thơ, dù có dở ông cũng thưởng, vào đây.
(chuyện này cụ Khiêm kể cho tôi nghe năm 1950, sau ngày giải phóng miền Bắc, năm 1957 tôi đi gặp cụ Lê Thước, cụ Phạm Gia Cần để đối chiếu).Các quan thấy đám trẻ thì cũng chạy ra. Nguyễn Tất Thành nhìn thấy ba ông phỗng ở trên núi non bộ, nói:
Thưa cụ, cháu đọc bài thơ ứng khẩu này, nếu có sai thì cụ đừng phạt cháu.
Cụ Quận nói: Cháu cứ đọc đi, ông không phạt cháu đâu
“Kìa ba ông lão bé con con”
(Mọi người cười, “ba ông lão” lại “bé con con” thế mới ngộ nghĩnh)
“Biết có tình gì với nước non”
(Các quan cũng chưa thấy gì cả, nghe xong hai câu thơ không ai nói với ai, tất cả đều im lặng)
“Trương mắt làm chi ngồi mãi đó
Hỏi xem non nước mất hay còn?”Ông Hoàng Trọng Phu nói: – Thằng này hỗn, con ai đấy?
Cụ Hoàng Cao Khải mới hỏi: – Thế cháu con ai?
Nguyễn Tất Thành chưa kịp trả lời, thì Lê Thước nói:
- Bẩm Cụ Quận, đây là con thầy Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc bên Ngệ An sang đây.
Cụ Hoàng Cao Khải đỗ cử nhân, còn cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ đại khoa cùng với cụ Nghè Ngô Đức Kế, cụ Khải mới nói: – “Hổ phụ sinh hổ tử”, rồi cụ chống gậy đi vào. Còn Hoàng Trọng Phu thì nói: - Cái tay này nó lớn lên nó sẽ làm loạn.
Khi có bài thơ trong tay rồi, tôi thấy trong bài đó có cái gì hơi hướng tứ thơ của cụ Tam Nguyên Yên Đổ. Khi đó tôi đang công tác ở Đại học Nhân dân, đem trao đổi với các thầy cô tôi nói cái này như thơ Nguyễn Khuyến. Thời bấy giờ người nghiên cứu thơ Nguyễn Khuyến nhiều để đi nói chuyện là nhà thơ Xuân Diệu. Tôi đến hỏi thì Xuân Diệu nói cụ Nguyễn Khuyến có một bài thơ “ba ông phỗng” nhưng hoàn toàn khác. Cụ Nguyễn Khuyến đỗ tam nguyên nhưng cụ bất hợp tác với Pháp. Cụ chỉ nhận làm quan Toản tu Quốc sứ quán rồi cáo quan về làng. Triều đình mời cụ ra làm Tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên. Cụ từ chối. Nhưng sợ mang tiếng không hợp tác với Pháp nên cụ nhận làm “gia sư” cho gia đình cụ Hoàng Cao Khải ở ấp Thái Hà. Cụ Hoàng Cao Khải cũng muốn mời được ông Tam nguyên về dạy học cho con cháu mình thì cũng sang.
Cụ Nguyễn Khuyến ở trong nhà một thời gian thì cũng yên tâm, sau đó về cái đất Bình Lục (Hà Nam) của mình cũng đỡ bị chúng theo dõi. Bấy giờ cụ Hoàng Cao Khải muốn có một bài thơ tức cảnh hoặc tự sự của cụ Nguyễn Khuyến để làm kỷ niệm và cũng là cái sang được cụ Tam Nguyên tặng thơ.
“Ông đứng làm chi đó hỡi ông
Trơ trơ như đá vững như đồng
Đêm ngày gìn giữ cho ai vậy
Non nước đầy vơi có biết không”
Cũng bốn câu, cũng ba ông phỗng và cái núi non bộ ngoài này với trong kia là một mẫu hình làm ra. Sau khi sưu tầm hai bài thơ đó, thì thấy đúng thơ là người, mà con người của thời đại nào ra thời đại ấy, có khác. Đây ta nói về những nhân cách. Cụ Tam Nguyên có cái nỗi đau buồn của cụ là mất nước, nhưng thế hệ của mình là bất lực “trơ trơ như đá vững như đồng”, nhìn cái thế lực thực dân lúc đó như cái trụ đá rất cao lớn, toàn đá tảng... sự tồn tại, sự bền vững xây trước dinh Hoàng Cao Khải. Còn Nguyễn Tất Thành thì đặt ra câu hỏi:
“Kìa ba ông lão bé con con
Biết có tình gì với nước non
Trương mắt làm chi ngồi mãi đó
Hỏi xem non nước mất hay còn?”
Nó khác, nó có hùng khí: “Trương mắt làm chi ngồi mãi đó! Hỏi xem non nước mất hay còn?”
Tôi nói vui với các đồng chí lãnh đạo của ta, 65 tuổi là nên về đi thôi, anh sẽ bất lực trước các hiện thực, sự sôi động của thời đại, cái tuổi 70, 60 khi suy nghĩ mạnh thì huyết áp bốc lên có làm gì được nữa đâu, rồi ba cái thầy quân sư quạt mo nó nói dài dài thì vâng, cứ gật... Thôi tuổi 70 thì lực bất tòng tâm, trừ trường hợp đặc biệt rèn luyện lắm thì mới được như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, năm nay 90 tuổi mà vẫn thông minh đến thế, minh mẫn đến thế, cái kết luận trong buổi bế mạc hội nghị trung ương 11 của đồng chí Lê Khả Phiêu là trong thư của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Thư của đồng chí Nguyễn Đức Tâm như thế... thư của ba vị tướng như thế... thư của nhóm các ông tướng Chu Huy Mẫn, Nguyễn Quyết làm như thế thì ông Giáp viết rất chiến lược, rất sát. Thư của ông (Giáp) như thế này; tôi đọc gần như nguyên văn:
“Kính thưa Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và các đồng chí cố vấn.
Tôi bị dị ứng thời tiết cho nên phải vào Nam (chữa dị ứng theo tôi tự hiểu hai nghĩa, một là dị ứng thời tiết bị rôm sảy, còn “dị ứng” nữa ngoài này nó nhiều chuyện bầy hầy; rồi người này người nọ chạy đến hỏi này khác rồi lợi dụng tiếng cụ nói nó sinh phiền, cho nên cụ vào Sài Gòn cụ ở). Nhưng thấy tình hình không bình thường, vô cùng nguy hiểm là sự chia rẽ của cấp cao Trung ương ta. Sinh thời, Hồ Chí Minh, Người luôn luôn nhắc một điều là phải đoàn kết, muốn đoàn kết thì phải phê bình tự phê bình thật mạnh. Và đứng trước nguy cơ tham nhũng như thế này, tình hình bên ngoài thế này mà mất đoàn kết, mỗi đồng chí có trách nhiệm không tự phê bình một cách kiên quyết, trong sáng, mà phê bình trên tình anh em đồng chí...
Tết vừa rồi, đồng chí Đỗ Mười có đến thăm tôi. Đồng chí Đỗ Mười có nói tình hình sức khoẻ, muốn nghỉ cố vấn. Tôi hoàn toàn nhất trí vì Đảng ta đã trưởng thành và các đồng chí lãnh đạo kế nghiệp đã trưởng thành không cần cố vấn, thì đồng chí Đỗ Mười lại nói có đọc ở Lênin một vấn đề là Đảng nên có một Ban kiểm soát bên cạnh Ban chấp hành trung ương do Đại hội bầu ra để giám sát. Tôi nói với đồng chí Đỗ Mười thế này: Đảng ta không cần bầu ra một Ban giám sát như vậy. Nếu như thế, Đảng sẽ có hai đầu thì nguy hiểm. Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại hội, như thế là rất sáng suốt.
Đó là vấn đề thứ nhất. Vấn đề thứ hai tôi xem các hoạt động vừa đây như là khuynh đảo của một cá nhân, hoạt động như là đảo chính trong Đảng, tôi đề nghị Trung ương phải kiểm điểm thật nghiêm khắc và làm rõ vấn đề này.
Xuống đoạn dưới viết: “Đại hội 9 này là Đại hội gì? Đề nghị Trung ương “Dân chủ” là trên hết, “trí tuệ” thứ hai, “đổi mới” thứ ba, “đoàn kết” thứ tư, bốn điểm...
Hôm nay thấy thông báo bế mạc hội nghị lấy bốn điểm này.
Không dân chủ thì làm sao mà đấu tranh vạch ra được cái lỗi này, có dân chủ thì mới đấu tranh chống tham nhũng, chỉnh đốn Đảng mới ra trò chứ, không dân chủ thì cũng không đưa trí tuệ vào được. Dân chủ, trí tuệ... muốn trí thì phải đưa người có học hành vào, thời buổi internet mà không biết tiếng Anh thì làm sao được. Ai đời người lãnh đạo vào phòng máy vi tính lại hỏi: “làm gì mà nhiều vô tuyến thế này”. Đau khổ cho người lãnh đạo thế chứ. Như thế thì làm sao tiếp nhận tất cả trí tuệ ở internet vào được? Mà cách đây mấy năm Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhắc Đảng ta phải lo ngay việc giáo dục đào tạo tin học. Năm em đi thi tin học quốc tế ở Thổ Nhĩ Kỳ về mang lại vinh quang cho đất nước, nước mình đi vào tin học muộn màng như vậy mà các em nó giỏi như thế thì không ai nói đến. Bộ giáo dục không nói, Tổng bí thư không nói, bóng đá thì rùm beng lên, bóng đá vinh quang, đón tiếp đề cao... nhưng tại sao tin học các cháu nó đem vinh quang về như thế mà... gọi điện thoại cho Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, cho cái xe đón 5 cháu... Thời nay không có trí tuệ thì làm gì được. Bây giờ phải biết nhiều sinh ngữ tiếp nhận được cái bên ngoài, họ có nói bằng tiếng Việt đâu mà nghe? Vậy là Dân chủ, trí tuệ, Đổi mới, Đoàn kết... 90 tuổi mà sáng suốt như thế. Nay cụ ra đây rồi, vì đại hội sắp khai mạc, ra rồi nhưng cụ nằm ở viện, ở nhà thì người ta đến, đến thì sinh chuyện. Thế mà “người ta” đã tung đồng chi Võ Nguyên Giáp đã tổ chức một cuộc họp Quân uỷ Trung ương phê phán cái này cái khác. Không! Ông có còn làm việc gì ở Quân uỷ Trung ương đâu! Quân uỷ trung ương có phải của Ông (Giáp) như trước nữa đâu, nhưng họ lấy đó làm cái cớ, để làm cái bảo chứng, cái độ tin cậy. Ông đã bị người ta dựng ra bao nhiêu chuyện rồi, ở Đại hội 7 người ta dựng ra cả một bộ hồ sơ mà đồng chí Nguyễn Đức Tâm đọc trên 30 trang “đồng chí Giáp hoạt động lật đổ...
Như vậy, là thấy chuyện đấu tranh trong Đảng ta mấy chục năm qua là như vậy. Bác Hồ chúng ta đi trên con đường từ thuỷ chung là Nước được độc lập. Dân thì ai cũng có cơm ăn áo mặc, được no ấm, còn tất cả mọi thứ chỉ là phương tiện, chứ còn mục đích của Bác Hồ là nước độc lập, Dân thì hạnh phúc ấm no, cho nên trong Di chúc Bác nói mong muốn suốt đời tôi ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, như vậy là suốt đời không có gì quý hơn Độc lập tự do. Nước độc lập mà Dân không có cơm ăn áo mặc thì Độc lập ấy cũng là vô nghĩa.
Lời cảm ơn của nhà trường:
PHẦN PHỤ LỤC
Nói chuyện với đồng chí đại tá Cao Nham:
Trích một số thư mới đây của CCB Trần Nhật Độ, nguyên Chính uỷ Bộ Tư lệnh Binh chủng Đặc công (Khu tập thể Nam Đồng – Đống Đa – Hà Nội).
(Một số chuyện kể trong phụ lục này (tuy chưa đầy đủ) để minh chứng rằng nhà văn Sơn Tùng đã nói đúng).
—-****—-
* Nội dung trên đây được Ba Sàm đánh máy lại từ một tài liệu photocopy, đã được đăng trên blog BS hai năm trước, bị tin tặc xóa, nay đăng lại (14/9/2011).
http://anhbasam.wordpress.com/theo-con-duong-bac-ho/Xem thêm:
1. Sơn Tùng: Hồ Chí Minh http://anhbasam.wordpress.com/son-tung-ho-chi-minh/ - Blog BaSam
2. William J. Duiker (Người dịch: Nguyễn Thành Nam): "Ho Chi Minh, a life" - Hồ Chí Minh, một cuộc đời. http://vietsuky.wordpress.com/hcm-mot-cuoc-doi/ - Blog BaSam
0 comments:
Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)
- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>