Thứ Hai, 26 tháng 5, 2014

Lịch sử cơ cấu tổ chức khóa 6 - Cập nhật tháng 7/2018



Đã đăng Thứ hai 26/05/2014
Các bạn K6 xem và bổ sung vào đây nhé:
Bổ sung tháng 7/2018 phần chữ mầu tím in nghiêng.

Trước lớp 5 (1965)
     ở Hà Bắc
Từ tháng 4/1965 : 1 lớp (chưa gọi là Trung đội)
Từ tháng 6/6/1965 :
2 trung đội
C trưởng: thầy …………… - CTV: thầy ……………
Phụ trách : thầy Bình, thầy Cừ


Lớp 5 - Đại đội 5 (1965 – 1966)
    ở Đại Từ
3 trung đội:
B1 học Trung văn –
B2 và B3 học Nga văn
C trưởng: thầy Phạm Ngọc Kha -
CTV: thầy Bùi Xuân Trường
Phân hiệu hiệu trưởng PH2: thầy Nguyễn Văn Xiêm


Lớp 6 - Đại đội 6 (1966 – 1967)
    Học kỳ 1 ở Đại Từ
4 trung đội (B4 là số mới lên đầu năm học):
B1 học Trung văn –
B2 và B3, B4 học Nga văn –
(B4 học …?)
C trưởng: thầy Phạm Ngọc Kha -
CTV: thầy Bùi Xuân Trường


    Học kỳ 2 ở Y Trung
C61 học Nga văn – 3 trung đội (B1, B2, B3)
C trưởng: thầy Phạm Ngọc Kha -
CTV: thầy Bùi Xuân Trường



C62 học Trung văn – 2 trung đội (?) (B4, B5,)
C trưởng: thầy Nguyễn Nam Ninh -
CTV: thầy ……………
Phân hiệu hiệu trưởng PH2: thầy Nguyễn Văn Xiêm


Lớp 7 - Đại đội 7 (1967 – 1968)
    Học kỳ 1 ở Y Trung.
    Học kỳ 2 qua trường mới.

Kết thúc Lớp 7 chuyển qua khu cấp 3 ở dãy nhà khóa 4 mới về nước
C71 học Nga văn – 3 trung đội (B1, B2, B3)
Hình như lúc này các Tiểu đội mang tên từ A1 … cho tới A9 hay A10 gì đó

C72 học Trung văn – 2 trung đội (?) (B4, B5)
C trưởng: thầy Phạm Ngọc Kha -
CTV: thầy Bùi Xuân Trường


C trưởng: thầy Nguyễn Nam Ninh -
CTV: thầy Soạn
Phân hiệu hiệu trưởng PH2: thầy Nguyễn Văn Xiêm


Lớp 8 - Đại đội 8 (1968 -1969)
    ở Hưng Hóa
5 Trung đội
(B1, B2, B3 học Nga văn – B3 là Trung đội giỏi
B4, B5 học Trung văn)
C trưởng: thầy Lê Thanh Phong –
CTV: thầy ……………

Thuộc Tiểu đoàn 3
D trưởng: thầy Lê Ngọc Bình -
CTV: thầy Nguyễn Duyệt


    Một số đi Thạch Thất (CT23)
đợt 1 (Đồng Lạc)
C trưởng: thầy …………… - CTV: thầy ……………
PH trưởng: thầy Lê Hùng


Lớp 9 - Đại đội 9 (1969 – 1970)
    ở Hưng Hóa
5 Trung đội
B3 trở lại B bình thường ?
(lớp này học Nga văn)
C trưởng: thầy Bạch Quốc Bính? –
CTV: thầy Soạn

Thuộc Tiểu đoàn 3
D trưởng kiêm CTV: thầy Nguyễn Duyệt


    Một số đi Thạch Thất (CT23)
đợt 2 (Đồi Dền)
học tắt 2 lớp 9 và 10
C trưởng: thầy …………… - CTV: thầy ……………
PH trưởng : .......





1 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014

Lần đầu họp Ban Giám đốc Liên doanh




Hôm nay tôi kể với các bạn câu chuyện mà tôi đã “nuốt” trong lòng suốt 8 năm làm ở LD.

Hồi đó, Liên doanh mới thành lập, tất cả nhân viên chưa tới 20 mạng. Sau một loạt thủ tục nhận giấy phép, họp Hội đồng quản trị, bổ nhiệm các Giám đốc, thuê văn phòng tạm, tuyển những nhân viên đầu tiên …. Lu bu đủ thứ mất mấy tháng cho tới 1 ngày tất cả các Giám đốc mới có mặt tại VN. Vậy là có lịch họp BGĐ lần đầu tiên.

Nhận được lịch họp, tôi cũng hơi run. Trước tới giờ mình tham dự các cuộc họp giao ban của Công ty VN thấy toàn nói bậy chẳng ra làm sao, nhưng lần này với tụi Tây chắc phải đàng hoàng, ko thể để chúng nó coi thường. Vậy là tôi ngồi nguyên buổi chiều chuẩn bị cho cuộc họp ngày hôm sau. Nào là kết quả đã làm, nào là dự kiến cho Công ty trong mấy ngày tới, cho tương lai, nào là quan hệ đối nội, đối ngoại, nào là các chính sách, nội quy ban đầu … đủ thứ tùm lùm viết kín 1 trang A4. Lại còn tra từ điển xem lại tiếng Đức, tiếng Anh các từ chuyên môn …. Rồi nghĩ cách trình bày sao cho chúng nó hiểu …. Đủ thứ chuyện. Trong khi đó tôi liếc thấy mấy thằng Tây tụ tập trong phòng thằng TGĐ nói chuyện um sùm cả tiếng đồng hồ rồi kết thúc trong tiếng cười ha hả. Thôi thì kệ mẹ nó. Tụi nó chắc quen cách làm việc hiện đại rồi nên chẳng có gì phải chuẩn bị cả, còn mình phải ráng từng bước, từng bước thôi.

Hôm sau tới giờ họp. Tôi ngồi cùng 4 thằng Tây. Mở đầu. thằng TGĐ nói mấy câu chúc mừng BGĐ đầu tiên đã được hình thành và mời mọi người có ý kiến. Tôi lặng lẽ ngồi yên đợi tụi Tây nói trước xem cái “rơ” họp của chúng nó ra sao rồi “liệu cơm gắp mắm”.

Thằng đầu tiên phát biểu chĩa ngay vào tôi hỏi tại sao trang bị cho các GĐ điện thoại kiểu này mà không phải kiểu kia, tại sao máy vi tính lại thế này … Tôi nghe thấy hơi tức cười, nhưng cũng giải thích cho nó hiểu tình hình thực tế của nước mình và tình trạng ở văn phòng tạm cho tới khi xây nhà máy. Mấy thằng khác cũng lập tức ồn ào hỏi tôi đủ thứ nào là tại sao ghế mầu đen? Tại sao bàn quá nhỏ? Tại sao không đi dây điện thoại theo kiểu này? Tại sao? Tại sao? …. Đủ kiểu hết. Lúc đầu tôi còn cố lịch sự trả lời chúng nó, nhưng một hồi tôi bỗng sực tỉnh liếc nhìn thấy thằng TGĐ ngồi kế bên tôi hơi ngả người ra sau, miệng mủm mỉm cười không hỏi câu nào.

Ah, Đan Mạch chúng mày! Tôi bỗng hiểu ra, chúng nó coi mình chỉ là thằng sai vặt. Tôi bỗng thấy sùng lên. Nuốt cục tức vào bụng, tôi nói: Tất cả những gì tụi mày thắc mắc nãy giờ để con thư ký của tao trả lời. Còn nếu buổi họp chỉ có thế này thì lần sao tao cử thư ký đi thay, tao không có thời gian để làm những chuyện vặt vãnh!


Thằng TGĐ thấy vậy vội can thiệp: Thôi, hôm nay thế là đủ. Tao sẽ nói chuyện riêng với từng thằng trong BGĐ về công viếc sắp tới. Vậy là cuộc họp BGĐ đầu tiên chấm dứt.

Khi trong phòng họp chỉ còn lại tôi và thằng TGĐ, tôi nói: Ở bển, các BGĐ chúng mày họp chỉ nói toàn những chuyện như vậy à? Ở VN bọn tao đúng là có yếu kém hơn tụi mày về kinh tế và nhất là về quản lý, nhưng nhưng chuyện như thế này không phải để cho các GĐ nói trong cuộc họp. Tao đã hy vọng sẽ học được cái gì đó trong các cách quản lý của tụi mày, nhưng không ngờ tụi mày làm việc không bằng mấy thằng học nghề của tao trước kia. – Thằng TGĐ hốt hoảng: Tao xin lỗi, xin lỗi! Đây là vì hôm qua khi ngồi với nhau, tụi tao sợ ở VN tụi mày suy nghĩ khác có thể không hiểu những gì tụi tao sẽ đưa ra trong cuộc họp, nên hôm nay tụi nó mới như vậy, chớ tao không …

Không nghe nó nói hết câu, cục uất ức nãy giờ đã nuốt xuống nay bỗng trào lên cổ họng tôi. Đan Mạch chúng mày! Thì ra tụi mày không chỉ coi thường tao mà còn coi thường người VN tụi tao không biết gì! (Lúc này tôi mới hiểu: cuộc họp BGĐ thực sự đã được họp chiều hôm qua không có tôi!)

Tôi chìa tờ giấy chuẩn bị họp của tôi cho nó xem (tiếc rằng trong giấy tôi viết tùm lum bằng đủ thứ tiếng Việt, Đức, Anh) và nói: đây là những gì tao nghĩ sẽ bàn trong buổi họp hôm nay, chứ đâu phải như vừa rồi. Thằng TGĐ nhìn vào tờ giấy, luôn miệng xin lỗi rồi hứa sẽ không bao giờ có chuyện như vậy xảy ra nữa và xin tôi đừng báo cáo cho Hội đồng Quản trị, … v.v. và v.v.

Từ đó về sau, chuyện đó đúng là không bao giờ xảy ra. Nhưng riêng tôi không bao giờ quên buổi họp đầu tiên đó. Càng nghĩ tôi càng thấy tức và thấy nhục vì bị bọn Tây coi thường cả cái xứ mình chứ không chỉ riêng gì mình mình (giờ mới thấu hiểu nỗi nhục thuộc địa của các phụ huynh mình thời xưa!). Tôi đã chôn sâu câu chuyện đó vào lòng không nói cho bất kỳ ai biết cho tới 8 năm sau khi tôi chuẩn bị ra đi. Trong lúc bàn giao với thằng kế nhiệm, tôi kể cho nó nghe về buổi họp BGĐ đầu tiên và nói: Em là người đầu tiên nghe anh kể chuyện này. Bây giờ CTLD đã khác nhiều, chuyện đó chắc chắn sẽ không xảy ra, nhưng trong tâm tụi nó vẫn coi người VN mình chẳng ra cứt gì đâu. Em phải lựa đó mà làm việc với tụi nó sao cho không nhục danh dân VN mình!

PS. Thực lòng mà nói, sau này tôi đã học được rất nhiều cách điều hành 1 buổi họp BGĐ của tụi nó. Rất khoa học và rất có hiệu quả!




 ❧ ❀ ❧ 






0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Thứ Bảy, 24 tháng 5, 2014

Triều ngỗng với Bạn Trỗi HN

Trieu Le Trong: Tôi đang ở HN, vui lắm, nhiều thằng bị thương...



Toàn cảnh đại tiệc...
... đón Triều ngỗng ở HN.



Bạn cũ gặp nhau.
Thêm bạn mới.



Lại thêm bạn mới.
Quân tiếp viện... Quân, Tuấn Anh, Lê Trung



Đón chào Triều ngỗng tại Hà Nội
Hai thằng đang cắn nhau... tranh Em Assolute vodka nằm ở giữa...



Nhậu đồ Hung Triều ngỗng vừa mang về



Người về từ bển, náo loạn trời Nam.


0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2014

Phòng thủ tích cực

Phòng thủ tích cực


- Nhiều nhà sử học Việt Nam hiện nay vẫn còn phân vân trong việc đánh giá công-tội của Hồ Quí Ly. Theo tôi, Hồ Quí Ly hoàn toàn có tội đối với đất nước Đại Việt, dân tộc Việt. Đó là, sau khi tiếm ngôi Nhà Trần, đã hành xử chính trị sai lầm, cải cách và định hướng xây dựng kinh tế sai lầm khiến dân chúng đã ca thán càng thêm ca thán, lòng người đã ly tán càng thêm ly tán, dẫn đến thế nước thời mạt Trần vốn đã yếu lại càng suy yếu thêm dưới thời Đại Ngu. Thế nước yếu cùng với bất tài quân sự đã hợp thành nguyên nhân làm cho cuộc kháng chiến của Hồ Quí Ly chống quân Minh thất bại. Không biết kế thừa cách đánh giặc tài tình của những thế hệ trước trong chỉ đạo chiến tranh, gây ra cảnh nước mất nhà tan chính là tội lỗi nặng nhất của Hồ Quí Ly.

- Một thể hiện nổi bật và có thể coi là một hình thức quan hệ có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ xã hội nói chung giữa người và người được gọi là sự đấu tranh. Đấu tranh trong xã hội loài người là hiện tượng giải quyết mâu thuẫn, gồm hai hay nhiều lực lượng người kháng cự nhau, xung đột nhau, nhằm khuất phục nhau vì mục đích tối hậu là danh lợi-quyền lợi. Sự xuất hiện đấu tranh lẫn nhau trong xã hội loài người, xét ở tầm mức sâu xa nhất, là hiện tượng có nguyên nhân hoàn toàn tự nhiên, nhưng nếu xét ở bình diện coi loài người là một tồn tại tương đối độc lập, tách rời khỏi tự nhiên, thì có nguyên nhân vừa tự nhiên vừa nhân tạo, hay có thể nói, có nguyên nhân tổng hợp từ hai nguyên nhân, nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân khách quan có tính sâu xa, tất yếu, còn nguyên nhân chủ quan có tính (duyên cớ) trực tiếp, ngẫu nhiên.

- Quan sát ở bình diện bao quát hơn, đấu tranh trong xã hội loài người có cội gốc tự nhiên là đấu tranh sinh tồn trong thế giới sinh vật, đồng thời cũng là bộ phận hoàn chỉnh, hợp thành cuộc đấu tranh sinh tồn ấy. Thực chất của đấu tranh sinh tồn là nỗ lực tồn sinh trước sự vận động biến đổi của ngoại cảnh-nội tình, do đó mà biểu hiện đặc trưng trong vận động của nó là có tính bị kích hoạt, tính căng thẳng, tính quyết liệt. Đấu tranh trong xã hội giữa người với người, vì có thêm sự tham gia của tư duy trừu tượng dưới dạng ý chí, nên không những đương nhiên phải có đặc tính ấy, mà đặc tính ấy còn đột biến về mức độ sâu rộng cũng như mạnh mẽ và trở nên đặc thù, coi như chỉ ở loài người mới có. Mặt khác, cũng do có sự chi phối bởi trí tuệ, sự hoạch định bởi ý chí con người, nên bất cứ cuộc đấu tranh nào trong xã hội, dù ít dù nhiều, đều hàm chứa sự vận dụng quyền mưu. Đấu tranh trong nội bộ loài người là hiện tượng tự nhiên-xã hội, xảy ra trong tự nhiên-xã hội, nên tất yếu phải tuân theo những nguyên lý-qui luật của tự nhiên-xã hội. Vậy, thực chất của thực hành quyền mưu trong một cuộc đấu tranh là trên cơ sở suy đoán, phân tích đã "nắm bắt" được đặc điểm, tình hình về mối tương quan lực lượng tham gia đấu tranh cũng như về môi trường tự nhiên-xã hội của cuộc đấu tranh đó mà hoạch định sách lược, thủ thuật trên tinh thần sáng tạo, biết tranh thủ và vận dụng qui luật, để từ đó vận động chuyển hóa lực lượng một cách phù hợp qui luật theo hướng tối ưu nhất có thể, nhằm tạo ra lợi thế áp đảo (nguyên nhân), khuất phục đối phương (kết quả), đi đến thắng lợi (nhân nào quả nấy!). Hay nói đơn giản hơn, quyền mưu là những cách thức, phương thức, biện pháp được đề ra, được vận dụng vào việc chỉ đạo, tiến hành trong đấu tranh nhằm hướng tới thắng lợi.

- Như thế, thực chất của một cuộc đấu tranh giữa người với người rõ ràng là cuộc đấu trí-lực nhằm phân định thắng-thua trong tranh quyền đoạt lợi, và vì vậy mà quá trình đấu tranh xã hội cũng được coi như đồng thời là quá trình phát sinh, phát triển, và ngày càng hoàn thiện lý thuyết về thủ đoạn giành thắng lợi với tên gọi: "Quyền mưu". Trong đấu tranh, ai có quyền mưu hay hơn, thực hành quyền mưu giỏi hơn, nghĩa là có mục đích và phương pháp đấu tranh hợp lý hơn, thì có khả năng giành thắng lợi cao hơn. Qua đó mà thấy, dương cao ngọn cờ chính nghĩa cũng là một quyền mưu, nhưng không phải cứ có chính nghĩa là giành được thắng lợi!

- Có thể phân tương đối đấu tranh trong xã hội thành hai loại là đấu tranh không vũ trang và đấu tranh có vũ trang. Xét về mặt căng thẳng, quyết liệt thì đấu tranh vũ trang (còn gọi là chiến tranh), vì hầu như chỉ có thể khuất phục nhau bằng cách triệt tiêu lực lượng của nhau (trong đó chủ yếu là bằng giết chóc đồng loại!), nghĩa là có tính "kẻ mất người còn", do đó mà cũng có tính tang thương, tính dã man tàn bạo, nên chính là hình thái tột độ, cực đoan nhất của đấu tranh giữa người với người. Cũng vì lẽ đó, chiến tranh là nơi trình hiện sắc nét nhất, dồn dập nhất, biến hóa nhất, đầy đủ nhất về hoạt động quyền mưu và đối chọi quyền mưu giữa các lực lượng tham chiến.

- Về đại thể, cũng có thể phân chiến tranh thành hai loại, đó là chiến tranh xâm lược - chống xâm lược và chiến tranh huynh đệ tương tàn (nội chiến). Nói chung, chiến tranh xâm lược-chống xâm lược là cuộc xung đột vũ trang giữa hai lực lượng, một bên là lực lượng xâm chiếm lãnh thổ nhằm cướp bóc của cải, tài nguyên thiên nhiên của nhân dân bản địa và hơn nữa, nhằm nô dịch họ, một bên là lực lượng bản địa chống lại sự xâm chiếm nhằm cướp bóc ấy (kháng chiến vệ quốc). Không phải là tất định, nhưng trong chiến tranh xâm lược-chống xâm lược, thường thì lực lượng tiến hành xâm lược, vì chủ động gây chiến, tàn phá, dùng bạo lực vũ trang áp chế để chiếm đoạt quyền lợi sống còn của nhân dân sở tại, nên mang tính phi nghĩa, còn lực lượng đứng lên chống xâm lược, vì có mục đích duy nhất là bảo vệ quyền lợi sống còn chính đáng của mình, của nhân dân mình, nên mang tính chính nghĩa.

- Trong mọi cuộc chiến tranh, lực lượng nào cũng mong giành được thắng lợi chung cuộc, nhưng muốn thế, phải tìm cách tiêu diệt lực lượng đối phương, đập tan ý chí chiến đấu của đối phương, do đó ý tưởng tiến công trở thành ý tưởng chủ đạo và thường trực trong quá trình xây dựng kế hoạch tác chiến, và hiện tượng nổi trội, có tính phổ biến trong đấu tranh vũ trang đương nhiên là hành động tấn công. Tuy nhiên tùy thuộc vào tình hình về điều kiện, hoàn cảnh thực tế của chiến trường cũng như về sự tương quan lực lượng giữa các bên tham chiến mà tùy lúc, tùy thời kỳ, tùy nơi không phải thực hành tấn công mà trước hết là chống tấn công, giữ vững trận địa hay bảo toàn lực lượng, tránh bị tiêu diệt, nghĩa là phải thực hành phòng thủ, phòng ngự, rút lui chiến thuật-chiến lược. Nói cách khác, có nhiều hình thức chiến đấu trong chiến tranh như tiến công, tấn công, phòng thủ, phòng ngự trận địa, rút lui,..., nhưng tựu trung lại, có hai phương thức chiến đấu cơ bản trong chiến tranh là tiến công và phòng ngự, với tiến công đóng vai trò là yếu tố tiền đề. Hai phương thức này là nguyên nhân tồn tại của nhau, có mối quan hệ chuyển hóa lẫn nhau, vì trong tiến công vốn hàm chứa tính phòng ngự cũng như trong phòng ngự vốn hàm chứa tính tiến công nên tiến công có thể chuyển biến sang phòng ngự và ngược lại phòng ngự có thể chuyển biến sang tấn công, tùy thuộc vào sự đánh giá tình hình diễn biến chiến trường và quyết định chủ quan của mỗi lực lượng tham chiến.

- Xét riêng chiến tranh xâm lược - chống xâm lược, vì có dã tâm và mưu đồ từ trước nên lực lượng xâm lược, dù cố che đậy bằng bất cứ chiêu bài nào thì bao giờ cũng là kẻ chủ động tìm cách gây hấn trước. Cũng vì đã sẵn mưu đồ và đã nung nấu ý chí xâm lược cũng như có thể dự đoán được khả năng phát sinh những tác động bất lợi về chính trị, kinh tế, quân sự đến cuộc xâm lược khi chiến tranh kéo dài, cho nên thường thì kẻ xâm lược mở màn chiến tranh với một lực lượng vũ trang hoàn bị nhất, hùng hậu nhất có thể, nhằm áp đảo lực lượng kháng chiến, hòng giành thắng lợi trong thời gian ngắn nhất. Điều đó giải thích hiện tượng trong lịch sử chiến tranh, hầu như lực lượng xâm lược nào cũng chọn phương án chiến tranh tấn công bất ngờ, vũ bão, liên tục, nhằm đánh nhanh thắng nhanh, và khi không thực hiện được phương án đó, bị sa lầy, phải chuyển sang cầm cự, co cụm phòng thủ, thì cũng là lúc nguy cơ bại trận một cách ô nhục đã hiển hiện nhãn tiền.

- Dân tộc Việt có hai đức tính cực kỳ quí báu là hiền hòa và bất khuất. Hai đức tính ấy đã được hun đúc nên ngay ở thời tiền sử, từ quá trình mưu sinh của tổ tiên dân tộc Việt trong một thiên nhiên trù phú nhưng không sẵn đãi bày, êm đềm nhưng cũng lắm lũ lụt bão giông. Đó là hai đức tính nền tảng cơ bản, tương phản mà cũng tương hợp nhau, tác động chuyển hóa nhau, tạo tiền đề xuất hiện những đức tính đẹp đẽ khác mang tính truyền thống trong tâm hồn dân tộc Việt, chẳng hạn như bình tĩnh khi cân nhắc, kiên quyết khi hành động trong những tình huống khó khăn, hiểm nghèo, mà tiêu biểu nhất đó là có tinh thần yêu quê hương-đất nước nồng nàn nhưng không hề cuồng tín dân tộc. Ai cũng có thể rút ra được nhận định có ý nghĩa kết luận đó từ kho tàng truyền thuyết Việt Nam mà tiêu biểu là sự tích "Sơn Tinh, Thủy Tinh", sự tích xây dựng thành Cổ Loa, sự tích Thánh Gióng, sự tích "Bánh chưng, bánh dầy"...

- Việt Nam, trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại từ khi lập quốc (nước Văn Lang) cho đến nay, ở thời đại nào cũng vậy, chỉ là một tổ quốc đất không rộng, người không đông, ấy vậy mà đã từng dám đương đầu với mọi đội quân xâm lược hùng mạnh, thậm chí là hùng mạnh nhất khu vực, nhất thế giới đương thời, và hơn nữa là dù đôi khi phải chịu thất bại tạm thời thì sớm muộn gì cũng giành thắng lợi chung cuộc một cách oanh liệt, cũng tự giải phóng ách ngoại xâm bằng những chiến thắng hết sức vẻ vang. Đó chính là truyền thống chống ngoại xâm đầy tự hào của dân tộc Việt.

- Có được truyền thống chống ngoại xâm đầy tự hào trước hết là vì dân tộc Việt hiền hòa mà bất khuất, bất khuất trong hiền hòa, nhưng không phải hoàn toàn vì điều đó, mà còn vì điều tối quan trọng này, với kinh nghiệm tích lũy được từ công cuộc đấu tranh trường kỳ, nỗ lực bảo vệ và duy trì sống còn trước thiên tai bão tố lũ lụt cũng như trước địch họa xâm lăng với không ít những bài học đau thương trong suốt thời kỳ tiền-sơ sử dựng nước, dân tộc Việt đã dần đúc kết được đường lối hành động cốt yếu mà cũng chung nhất, có tính qui luật, có tầm chân lý (có thể coi là một luận điểm tinh hoa trong kho tàng nghệ thuật quân sự thế giới!) cho bản thân mình trong đấu tranh chống quân xâm lược, đó là đối với một dân tộc nhỏ, trên một lãnh thổ không rộng, muốn đối đầu thắng lợi trước một thế lực xâm lược bạo cường, có sức mạnh áp đảo ban đầu, thì phải nêu cao được ngọn cờ chính nghĩa, hướng tới qui tụ quốc dân thành một khối đoàn kết, trên dưới một lòng xả thân vì quê hương-đất nước, từ cơ sở nền tảng ấy mà ứng phó, xây dựng lực lượng vũ trang, chuẩn bị thế trận, phát động kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ.

- Như vậy, phương châm lấy đấu tranh trường kỳ khuất phục chủ trương đánh mạnh, thắng nhanh của quân xâm lược đã trở thành sách lược hàng đầu, thể hiện cô đọng nhất đường lối chống xâm lược của dân tộc Việt, và lịch sử Việt Nam cũng chỉ ra rằng, trước bất cứ lực lượng xâm lăng dù hùng mạnh đến cỡ nào chăng nữa, một khi dân tộc Việt tiến hành và duy trì được cuộc kháng chiến trường kỳ, tạo được xu thế càng đánh càng mạnh, thì đều giành được thắng lợi.

- Đặc trưng nổi bật của kháng chiến trường kỳ và đồng thời cũng là phương thức tác chiến chiến lược được áp dụng vào giai đoạn đầu kháng chiến của dân tộc Việt chính là PHÒNG THỦ TÍCH CỰC. Phòng thủ tích cực không phải là phòng ngự co cụm bị động mà trái lại là cuộc chủ động hành binh lớn theo kế hoạch một cách đầy linh động sáng tạo nhằm tạm thời tránh né giao chiến lớn, bảo toàn lực lượng và tiếp tục xây dựng lực lượng kháng chiến, đồng thời cũng là một cuộc dàn binh tạo thế trận thiên la địa võng, tích cực tiến công quấy rối tiêu hao lực lượng địch ở mọi lúc mọi nơi khi có thời cơ thuận lợi. Hay có thể nói phòng thủ tích cực là lấy linh động chiếm giữ những nơi xung yếu trên tinh thần phòng tránh bị tiêu diệt, tạo tình thế buộc địch phải phân tán, dàn mỏng binh lực, làm quyết sách chiến lược, lấy cơ động tạo cơ hội thuận lợi phản kích, đột kích, đánh tiêu hao sinh lực địch vào mọi lúc mọi nơi làm quyết sách chiến thuật.

- Rất có thể dân tộc Việt đã nhận biết được cái tinh thần như một lẽ tự nhiên của phương thức phòng thủ tích cực ngay từ thuở hồng hoang, sơ sử dựng nước, trong công cuộc trị thủy ở miền châu thổ chằng chịt sông hồ ao chuôm lầy lội, quanh năm mưa bão, thường xuyên lũ lụt. Thử hình dung cư dân ở miền châu thổ ấy xử sự thế nào trong mùa bão tràn nước nổi, khi lũ từ thượng nguồn cuồn cuộn đổ về. Ở yên một chỗ là chết chìm, chạy dài mãi ra biển là chết trôi, vậy muốn sống còn thì cư dân ở đó chỉ còn cách phải chống cự lại. Nhưng làm sao mà chống lại được sức nước ồ ạt bạo cuồng lúc ban đầu của thiên tai? Họ sẽ tránh né bằng cách tạm sơ tán ra xung quanh, lên những vùng có thế đất cao, đồng thời đoàn kết lại, hợp sức cùng nhau, tích cực kề vai sát cánh đắp đê, dựng lũy giữ thổ, khơi ngòi tiêu thủy để hạn chế sức mạnh của nước, và đợi khi nước dần hạ thì họ đồng loạt trở về tiềp tục be bờ đắp đập, khôi phục lại nhà cửa, ruộng vườn...Hình ảnh phòng thủ tích cực trong kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc Việt, nhìn ở góc độ cách điệu tinh giản nhất và hồn nhiên nhất, phải chăng cũng là như thế? Tuy nhiên, xét trên bình diện lý thuyết tổng quát, thì phòng thủ tích cực là một đề tài khoa học có nội dung sâu rộng thuộc lý thuyết quyền mưu, không chỉ áp dụng cho riêng chiến tranh mà cho cả đấu tranh của con người vói thiên nhiên, cả đấu tranh giữa người với người trong xã hội (chính trị, quân sự, ngoại giao) nói chung.

- Vì thấm nhuần được ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt của phòng thủ tích cực, nên trước những lực lượng xâm lược hùng hậu, có sức mạnh áp đảo ban đầu, ông cha ta thường lấy phòng thủ tích cực làm bước đi chiến lược đầu tiên của cuộc kháng chiến được xác định tư tưởng là toàn dân, toàn diện và trường kỳ. Chủ yếu nhờ thực hiện và thực hiện được một cách tài tình bước đi chiến lược đó mà các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên đời Nhà Trần, chống quân Minh thời Lê Lợi, chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ trong thời đại Hồ Chí Minh đều đã giành thắng lợi có tính thần kỳ.

- Hồ Quí ly, như đã nói, chỉ vì tham vọng đế vương mù quáng mà gây vô vàn đau thương cho dân tộc Việt. Tội lỗi nhất là tổ chức một cuộc chống xâm lăng thất bại thảm hại. Bởi vì sao? Thứ nhất, Hồ Quý Ly thực hiện cải cách kinh tế vì chỉ muốn củng cố vương triều mình chứ không phải thực sự vì cuộc sống của đại chúng, của dân tộc Việt, nên từ đó làm cho dân tình oán thán, lòng người ly tán đến mức mà theo lời Nguyễn Trãi: "Trăm vạn người, trăm vạn lòng". Rất buồn khi lịch sử còn lưu lại chuyện, khi Hồ Quí Ly hỏi tả hữu: "Làm thế nào có trăm vạn quân để đánh giặc Bắc?", Hồ Nguyên Trừng (con trai thứ của Hồ Quí Ly, một tướng quân sự có tài của Đại Ngu) đã nói: "Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi!". Thứ hai, xét về mặt số lượng và chất lượng thì quân đội Đại Ngu không thua kém, thậm chí có mặt còn trội hơn đội quân xâm lược Nhà Minh, nhưng vì bất tài, không có một chút mẫn cảm quân sự, nên Hồ Quí Ly đã không tiếp thu được tinh hoa chống xâm lược của dân tộc Việt, nghĩa là không biết lấy phòng thủ tích cực mà lại lấy phòng ngự trận tuyến làm quyết sách chiến lược, thụ động chờ giặc huy động tập trung binh lực tiêu diệt nhanh chóng hết tiền đồn phòng ngự này đến chiến tuyến phòng ngự khác, khi rút lui thì chạy dài, không tạo được thế trận đánh giặc trường kỳ, vừa đánh vừa củng cố lực lượng, đồng thời nhờ có thời gian mà tỏ dần tính chính nghĩa để càng đánh càng mạnh, chờ cơ hội lật ngược thế trận...

- Tất cả những khẩu khí còn lưu lại đến ngày hôm nay của các vị anh hùng dân tộc Việt trong đấu tranh chống xâm lược đều hàm chứa trong đó cái "ý tưởng tôn vinh" phòng thủ tích cực, như "Kiên thủ chờ suy" của Trần Hưng Đạo, "Đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo" và "Lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều" của Nguyễn Trãi, hay "Người khéo thắng là thắng ở chỗ rất mềm dẻo chứ không phải lấy mạnh đè yếu, lấy nhiều hiếp ít" của Quang Trung... Nhưng tựu trung nhất, cái cơ sở tự nhiên, có vai trò cội nguồn khách quan xuất phát cho mọi quyết sách quyền mưu đúng đắn, là chân lý sáng ngời này:
Dĩ bất biến ứng vạn biến
Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm

(Lấy sự chính nghĩa, am hiểu thời cuộc, thông thuộc qui luật để chủ động, bình tĩnh ứng phó thích hợp trong mọi hoàn cảnh, trước mọi biến đổi tình hình.
Lấy tâm hồn yêu-ghét, mong cầu của đại chúng nhân quần làm nền tảng mà suy xét sự đời, từ đó mà biết lấy "vì dân vì nước" làm mục đích tối thượng cho hành động, cũng có nghĩa là biết hành động hợp lòng dân.)

- Ngày nay, tiến trình văn minh đã làm cho tính năng hủy diệt của vũ khí và trang thiết bị chiến tranh đạt mức nhanh, mạnh và chính xác đến ghê hồn. Điều đó làm cho cách bày binh bố trận chống xâm lược cũng phải biến đổi khác hẳn xưa kia. Tuy vậy, tối ưu lựa chọn để có cơ may cao nhất giành thắng lợi đối với một lực lượng kháng chiến yếu hơn trước một đế quốc bạo cường lăm le xâm lược có lực lượng mạnh hơn, thậm chí hoàn toàn áp đảo, vẫn là phòng thủ tích cực trên nền tảng kháng chiến trường kỳ-toàn dân-toàn diện, vì đó là chân lý bất di bất dịch!




0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

Bạn Trỗi gặp mặt Budapest



K6

Đào Trường Thắng v

Đào Trường Thắng


Đào lợn
0982 231 244, +84909496866 Viber
HN

9/6/2012

đến giờ mới thấy phải "sống cho mình" tí nên 2 VC lên đường đi 1 vòng châu Âu. Điểm đầu tiên là Wien (TP đáng sống nhất hành tinh), thăm Phượng. CN rồi 2VC Phượng đưa sang Hung thăm Trỗi Bu. Đúng dịp này, Võ Hùng K8 sang Hung dự giải Golf đang thăm Triều ngỗng, thế là có buổi gặp mặt tại nhà Quang. Đào Thắng kì công mang tặng rượu từ lô mấy nghìn lít do bạn tự ngâm đã nhiều năm nay (K6 SG đã được thưởng thức cuối năm ngoái). Rượu ngon, bạn hiền, uống cái lên đầu ngay :) Đạo ta, Quốc tử luyện giọng chuẩn bị hát Trường ca nhé! (Xin lỗi ACE , hôm nay mới viết được vài dòng thuyết minh).

TTh


K4, K6, K8, K9

K4, K6, K8, K9
Tại nhà Triều ngỗng. Ảnh FB Vo Hung Pham.

3 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Thứ Ba, 13 tháng 5, 2014

Em Mơ



Cuối năm 1979 tôi nhận quyết định về làm trợ lý thông tin của một trung đoàn, trung đoàn bộ nằm tít tận Tây Bắc sát biên giới Lào. Nằm chờ ở nhà khách sư đoàn để đón xe về đơn vị ê đít nửa tháng giời mà xe chẳng có. Ngày ba bữa cơm, có hôm cả nhà khách chỉ có mỗi mình tôi thế là nhà bếp đành ghép cho ăn chung. Bữa ăn có tôi, tay quản lý nhà khách và ba em nuôi quân người Thanh Trì tướng mạo phốp pháp, mặt lúc nào cũng như quả cà chua được nhà vườn ủ Acetelen chờ sáng hôm sau đem ra chợ bán. Vớ được những hôm như vậy thật là đời lên tiên vì chỉ có những bận như thế tôi mới được bổ sung thêm tí đạm, tí mỡ và điều quan trọng là được căng bụng.
Mà lạ! vẫn tiêu chuẩn như thế, thậm chí tôi còn có tiêu chuẩn cao hơn vì ăn tiêu chuẩn sỹ quan vùng biên giới, hải đảo ngày thường khi ăn với mấy tay sỹ quan đang nằm chờ ở nhà khách thức ăn chả có chó gì ngoài chậu canh “đại dương” lõng bõng, hai ba miếng đậu phụ toàn bã nhạt thếch và ba lưng cơm. Thế mới biết “giàu nhà kho, no nhà bếp”. Chả trách tôi có thằng bạn hồi thi tuyển đại học kỹ thuật quân sự bị rớt hắn cứ nằng nặc đòi tổ chức chuyển cho kỳ được qua học viện hậu cần. Đúng thật “người khôn thì khôn từ tấm bé” tôi lại nhớ tới câu nói của bà nội tôi khi xưa.
Ăn sáng xong đang nằm chèo queo hút thuốc vặt, “bốc phét” với mấy tay sỹ quan cũng trong cảnh chờ việc, bỗng tôi thấy tay quản lý nhà khách bước vào phòng mồm hắn oang oang :
- Đ/c Duy có đây không nhỉ?
-Tôi đây, có việc gì không đ/c?
- Đ/c lên thanh toán, có xe chở quân trang lên trung đoàn đấy, liên hệ với đ/c Quýnh lái xe mà đi nhờ.
- Đồng chí ấy đang ở đâu? Tôi hỏi.
- Hắn đang ngồi tán tỉnh mấy em nuôi quân của tôi trên dãy nhà ngang trên kia kìa không nhanh hắn mà lôi mấy em ra quán thì có mà “giời” tìm.
Khoảng 8 giờ 30 tôi đã có mặt bên cạnh chiếc xe Gaz hai cầu chở đầy quân trang được phủ bạt kín mít. Tôi hỏi Quýnh lái xe:
- Chỉ có hai ta thôi à?
- Còn ông chính ủy trung đoàn nữa.
Quýnh vừa dứt lời, tôi thấy một ông đại úy đi xe đạp tới đằng sau có chở một cô bé da ngăm ngăm nhưng khá xinh, tôi nhìn hơi quen quen, nghĩ bụng chắc con gái đưa tiễn bố.
- Xong cả chưa? Ông đại úy hỏi :
- Báo cáo chính ủy xong hết cả rồi chỉ còn tạt qua phòng quân y Quân Chủng nhận nốt thuốc nữa là ta xuất phát
-Thưa chính ủy có đ/c Duy sỹ quan mới ra trường về trung đoàn ta nhận công tác xin đi nhờ xe.
Ông đại úy quay sang phía tôi chìa tay ra bắt ngắm nghía một lúc rồi vui vẻ:
-Tốt rồi! sỹ quan trẻ mới ra trường hả? tướng mạo, tư thế chững chạc đấy, tớ hoan nghênh.
Xe nổ máy, vứt ba lô và leo phắt lên thùng xe tôi vẫn còn cố ngoái đến vẹo cả cổ lại phía sau nhìn cô gái con vị chính ủy miệng thì toác ra nở nụ cười “cầu thân”. Cô gái cũng đưa tay ra vẫy lại với giọng Hà thành quyến rũ
- không nhận ra em à? Em là Hà học với Vân bạn của anh ở trung cấp quân y trên Sơn Tây.
Xe chạy được một quãng tôi mới nhớ ra, thì ra Hà học cùng lớp với bạn tôi lại là con gái vị chính ủy trung đoàn nơi tôi tới nhận công tác. Lạ thật! cuộc đời lắm cái tình cờ.
Xe chạy tới cục hậu cần rồi đỗ trước cửa kho phòng quân y. Đứng cạnh đống thùng cacton có đánh dấu chữ thập đỏ chói là một chiến sỹ gái đeo quân hàm binh nhất.
Cô chiến sỹ tuổi cỡ mười chín, đôi mươi mặt tròn vạnh, má hây hây, chân cẳng có vẻ dài, hai bím tóc dày cắt ngắn tết đuôi sam vắt vẻo hai bên vai trông ngồ ngộ. Bộ quân phục còn mới được tay thợ Hà thành khéo léo sửa lại vừa khít làm tôn thêm cặp ngực căng. Cái vòng eo sao tròn và thon thế? cặp mông thì vươn ra phía sau chắc nịch như hai nắm cơm mà lại cong “vút lên” mới tức chứ, cứ như chọc tức thiên hạ.
Sao lại có một cô chiến sỹ khả ái thế nhỉ? tôi tự hỏi lòng mà chả giải thích được.
- Đồng chí thiếu úy ơi! Chuyển hộ em hàng lên xe với!
Đang mải nhìn ngắm, lại nghe cô chiến sỹ ăn nói xưng hô tức anh ách chả đúng điều lệnh gì “đồng chí”, “em, anh” loạn cả lên cứ như đĩa cơm rang thập cẩm mà có lần tôi được một thằng bạn trúng quả lôi lên Hàng Buồm chiêu đãi. Định phớt “Ănglê” nhưng thôi chả nhẽ … được “nhời” như cởi tấm lòng, vứt đi vẻ mặt lãnh đạm cố hữu đối với đàn bà con gái, nhất lại là đàn bà con gái đẹp khi chưa quen biết. Tôi nhảy xuống tay thoăn thoắt chuyển những thùng cacton lên thùng xe, toàn là thuốc men bông băng quân y.
Chỉ một loáng những thùng thuốc đã được xếp gọn gàng.
Nhìn tôi làm việc vị chính ủy buột miệng “tay này ngon đây”. Hàng chuyển lên xe xong chính ủy nói:
- Mơ! Cháu lên cabin ngồi với chú, hơi chật một chút nhưng êm chứ ngồi trên thùng xe đường xấu hơn ba trăm cây số đèo dốc thì còn gì là...
- Cháu ở trên này cũng được, với lại còn phải bảo quản hàng, chính ủy cứ yên tâm.
Vị chính ủy liếc xéo qua phía tôi. Trong lòng ông tôi biết ông đang nghĩ: yên tâm thế quái nào được con bé ngon hơ hớ thế, lại vớ tay thiếu úy trẻ măng đẹp giai, hừng hực thế kia? mà phẩm chất đạo đức của tay sỹ quan mới về này nào đã kiểm tra được đâu mà tin tưởng. “ Lửa gần rơm …” không khéo “phải vạ” thì chết. Bao nhiêu năm làm công tác chính trị tư tưởng trong đơn vị vốn phức tạp vì có quá đông quân nhân nữ ông đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm.
- Thôi được “dưng phải cẩn thận” đấy!!!
Vị chính ủy chép miệng thở dài đem theo nỗi lo ngập ngừng leo lên cabin.
Xe nổ máy, chúng tôi bắt đầu xuất phát khởi đầu cuộc hành trình.
Xe chạy được một lúc để xóa đi sự im lặng cô gái tự giới thiệu: em tên là Mơ quê em ở Ý-Yên, Hà - Nam - Ninh. Em nhập ngũ được hơn một năm. Sau huấn luyện được cử đi học y tá sáu tháng, ra trường em về công tác tại ban hậu cần trung đoàn phụ trách kho quân y và là y tá của trung đoàn bộ …
- Anh về nhận công tác ở trung đoàn à? Anh bao nhiêu tuổi? quê quán, ông bà, bố mẹ sống chết ra sao … Mơ dồn dập “điều tra” tôi.
Thấy em xinh đẹp lại thật thà chất phác dễ chịu chứ không như mấy em được “giời” phú cho tí nhan sắc là kênh kiệu khinh người coi lũ đàn ông chúng tôi như rơm rác. Thế là như kẻ tội đồ chỉ mong sao được giảm bớt án, tôi vanh vách cung cấp cho nàng toàn bộ lý lịch trích ngang của mình, tuy nhiên tôi dấu tịt chuyện tôi đã có bạn gái.
Bản “kê khai lý lịch” của tôi cho Mơ có khi còn chi tiết và cụ thể hơn cả bản tôi khai với tay trợ lý cán bộ, phòng tổ chức Quân Chủng.
Thế rồi chúng tôi thân nhau. Xe chạy qua thị xã Hòa Bình, đi theo lối đường mới qua trị trấn Mai Châu, tới ngã ba Mãn Đức thì dừng lại ăn trưa.
Mãn Đức là thị tứ nằm giữa vùng sơn cước nơi có ngã ba đường. Một hướng từ Hòa Bình lên rẽ đi Mai Châu, Sơn La và một chiều xuôi Thanh Hóa (chả biết sau gần ba mươi năm con đường này có thay đổi gì không) nó cũng chính là con đường “Tây Tiến” thủa nào trong bài thơ của Quang Dũng.
Cơm trưa như một bữa tiệc gồm măng xào thịt hoẵng, thịt lợn rừng luộc, canh măng chua nấu với xương, một đĩa nộm măng và một hũ ớt chỉ thiên rừng ngâm cay xé, món nào cũng măng vì măng đang vào mùa mà lạ món nào nấu với măng cũng hợp. Lần đầu tiên trong đời tôi được xơi những món đặc sản ngon thế. Tuy nhiên bữa ngon bị giảm bớt đi thi vị vì vừa ăn tôi vừa lo chỉ sợ khi ăn xong khi “Goopbachop” tiền để thanh toán tôi biết móc đâu ra để trả, hơn nữa tôi có ý định để dành tí tiền còm còn lại trong túi để nếu có điều kiện sẽ “bao” em Mơ lấy “điểm”.

Thú thực, nói các bạn đừng cười trong túi tôi lúc đó chỉ còn mười mấy đồng tiền “cụ Hồ” là cùng. Nhưng rồi bữa cơm được Quýnh, lái xe chiêu đãi toàn bộ với thái độ hết sức “thanh thản, nhẹ nhàng” nó nhẹ nhàng như chiều thứ bảy tôi ra quán mua lẻ điếu thuốc thơm More đen thui dài như cái đũa vậy. Nhẹ hết cả người và thầm cảm ơn sự lịch thiệp và hào phóng của Quýnh.
Sau này tôi mới biết cánh lái xe trung đoàn tôi giàu lắm. Xe quân sự biển đỏ, trùm bạt kín mít chuyên chạy tuyến quốc lộ sáu: Điện Biên – Lai Châu – Sìn Hồ biên giới Lào. Đi công tác gánh lái xe thường kết hợp buôn thuốc lá, mì chính, quần bò, áo phông, dép Lào, đồng hồ … thậm chí tôi nghe đồn có tay liều còn chở cả “cơm đen” ngày ấy không ngặt như bây giờ mà lãi suất lại cao. Đồn thổi thế thôi chứ tôi chả thấy ai trong trung đoàn bị công an chống ma túy sờ gáy. Có lẽ một phần họ ngại vì mấy tay lái xe trung đoàn tôi mặt lúc nào cũng đỏ như người bị “ tăng xông” đang lên cơn. Trong cabil khẩu AK nòng súng thường trực lúc nào cũng thập thò nơi cửa xe với hai băng đạn được nạp đầy buộc kẹp lại ngược chiều nhau. Thử hỏi như vậy thì còn thằng chó nào dám dây vào cho rách việc.
Ăn uống nghỉ ngơi xong chúng tôi tiếp tục hành quân. Chiều Tây bắc lành lạnh, tôi nhìn qua khoảng trống nơi cuối xe thấy hai bên đường cây rừng xanh thẫm. Những cây cổ thụ cao chon von một hai người ôm, xung quanh phong lan giăng lưới vây kín, bông tím bông vàng thật tuyệt. Đèo vòng vèo nhiều cua, lắm dốc, mặt đường cực kỳ xấu nhiều lúc tôi tưởng bị hất vọt ra khỏi thùng xe. Có lúc nhìn thấy bánh xe kề bên mép vực chỉ cần chệch đi mươi phân thôi là coi như đời đi đứt, là vĩnh viễn tôi bỏ lại em Vân cô quạnh một mình nơi trần gian đầy khổ ải và cạm bẫy này.
Nằm cách tôi một quãng tôi thấy Mơ đã thiu thiu, còn tôi sau những giây phút háo hức khám phá ban đầu vùng đất Tây Bắc xa lạ cũng dần trôi qua. Mệt, buồn ngủ tôi cũng rúc vào đống chăn màn quân trang còn sực nức mùi hồ làm một giấc. Chúng tôi cứ lăn lóc trên đống quân trang vừa ấm, vừa êm thật “thoải mái” mặc cho chiếc xe rung lên như xóc ốc. Đang ngủ ngon tự nhiên tôi thấy bên mình nóng hổi và mùi đàn bà con gái xộc lên ngây ngất. Mở mắt ra Mơ đã nằm sát bên tôi. Ngại quá, thấy Mơ vẫn say sưa tôi nhẹ nhàng xích ra xa nàng tới cự ly an toàn rồi tiếp tục nốt cơn mộng mị của mình.
Bừng tỉnh, ngoài trời tối thui đêm đã xuống tự lúc nào và bên tôi mùi cơ thể đồng trinh đầy quyến rũ của Mơ vẫn từng chập phả sang. Lạ thật! rõ ràng mình đã cẩn thận nằm xa nàng đến cả mét rồi cơ mà? Thì ra tôi có dịch chuyển đi đâu chăng nữa trong cái thùng xe chật hẹp này thì cuối cùng sự rung xóc do đường xá quá xấu lại gom, lại dồn dịch chúng tôi lại với nhau hoàn toàn ngẫu nhiên do cơ học. Tôi thề với các bạn hay đa nghi là tôi không hề có toan tính cá nhân gì trong “vụ” này, còn Mơ chẳng biết em nghĩ gì về tôi?
Xe chạy tới ranh giới giữa Hòa Bình và Sơn La thì chúng tôi dừng xe ăn tối và nghỉ ngơi chuẩn bị cho nửa chặng đường còn lại.
Sau khi lên xe lúc này chúng tôi đã tự nhiên hơn, nằm sát bên nhau không còn ngượng ngập nữa. Chúng tôi chuyện trò rất lâu. Chuyện mãi rồi cũng tới hồi vãn, quay lại đối diện, bốn mắt tìm nhau trong bóng đêm dày đặc, chỉ còn thấy hơi thở dồn dập ấm áp, nồng nàn thật gần, trong tiếng máy nổ ầm ỹ của chiếc xe Gaz cổ lỗ tôi vẫn nghe thấy tiếng thình thịch của trái tim mình thổn thức. Rồi hai bàn tay lần tìm hai bàn tay, bàn tay mịn màng nóng bỏng của em tự lúc nào đã nằm gọn trong bàn tay tôi. Rồi bàn tay không tìm bàn tay nữa nó chu du đâu đó trong bóng đêm … và hai trái tim non trẻ kia không còn đủ lý trí để kiểm soát tình cảm của mình và cứ thế họ cuộn tròn vật vã trong đống quân trang, thế gian lúc này đối với họ chả còn gì đáng để quan tâm.
Trong si mê cuồng loạn tôi bỗng giật mình và hơi đẩy nhẹ Mơ ra. Sao lại thế này? lý trí mách bảo hay cảnh cáo tôi? Vừa chia tay Vân, cô bạn gái chiều hôm trước! Chân ướt chân ráo về đơn vị ngày đầu tiên, không lẽ lại thế này sao?
Chuyện vỡ lở thì còn mặt mũi nào dám nhìn thấy Vân. Bẽ mặt anh sỹ quan trẻ, chưa “cống hiến” được gì mà đã để lại điều tiếng cho đồng đội, cho đơn vị thì còn ra quái gì nữa. Bất chợt tôi thấy sự tin tưởng kỳ vọng trong ánh mắt của vị chính ủy trung đoàn lúc sáng lại hiện ra nghiêm khắc.
Ân hận và tự trách mình, lý trí lúc này đã “vùng dậy” trong tôi và từ đó trở đi tôi cố né xa Mơ mặc sự níu kéo hờn dỗi của nàng.
Tôi nói: “không được đâu em ơi”. Cơn dục vọng trong Mơ như ngọn lửa bùng cháy quyết liệt bị gáo nước dội vào bởi câu nói của tôi làm cho nguội lạnh đi. Từ đó tới sáng cho đến khi về tới trung đoàn chúng tôi chẳng nói với nhau gì thêm nữa.
Tôi ở ban tham mưu, em ở ban hậu cần tôi cố giữ khoảng cách mặc dù mỗi lần thấy đôi mắt ướt của em nhìn tôi đắm đuối, trái tim tôi lại nhói lên niềm ân hận, tôi biết em đã phải lòng mình. Nguyên do cũng chỉ tại cái mồm chết tiệt của tôi tự dưng lại đi “bốc phét” với em là chưa có bạn gái mới đâm ra khổ, khổ tôi, khổ lây cả sang em.
Có lần một anh trong tiểu ban nằm cùng phòng với tôi bị đau mắt, chín giờ tối còn nhờ tôi xuống chỗ Mơ xin thuốc, thế là tôi đi. Đứng trước cửa phòng em, hai cánh cửa bằng liếp khép hờ bên trong ngọn đèn dầu leo lét, tôi đứng ngoài nói vọng vào
- Mơ ơi cho anh xin ít thuốc nhỏ mắt.
- Anh vào phòng em chơi, trong giọng nói ngạc nhiên của Mơ.
Tôi ngại ngần lưỡng lự
- Anh vào phòng em một lát không được à! Mơ nói như trách móc
- Thôi, anh đứng ngoài này được rồi.
Vài phút sau tiếng của Mơ:
- Thuốc đây anh.
Tôi đưa tay qua khe cửa, chẳng có thuốc nào cả, cánh cửa liếp bỗng mở toang bất ngờ Mơ nắm chặt lấy tay tôi kéo vút vào trong phòng rồi cánh cửa liếp ập lại, ngọn đèn dầu trong phòng vụt tắt. Tôi hết hồn nhưng rồi chúng tôi cũng không thoát nổi những nụ hôn nóng bỏng đầy giận hờn bị dồn nén từ lâu. Lục đục mất một lúc “lâu” rồi tôi cũng “vùng thoát ra được” với lọ thuốc còn nguyên date trong tay.
Tôi dấu biến chuyện này chả dám nói với ai. Sau này nghe mấy em văn thư trung đoàn trong lúc “nông nhàn” xa gần bóng gió Mơ là “đệ tử ruột” của anh trung đoàn phó hậu cần dân đi Nga về mà anh lại chơi thân với tôi, chả biết thực hư ra sao? Nhưng từ đó tôi kiên quyết xa lánh em.
Sau một năm phục vụ ở trung đoàn tôi cũng có chút ít thành tích, được anh em trong đơn vị yêu mến và may mắn không có điều tiếng gì. Cuối năm 1980 tôi nhận quyết định điều động đi nhận công tác ở một đơn vị khác mới được thành lập ở duyên hải miền trung.
Hôm tiễn tôi anh em đứng chật xung quanh chiếc xe “téc” chở xăng của đơn vị, xe này về Hà nội nhận xăng mà tôi đi nhờ. Trong đám đông tôi nhìn thấy Mơ mắt ngân ngấn nước, xe nổ máy bỗng em lao tới dúi vào tay tôi bọc mía (thứ mía tím mềm dòn ngọt đặc sản của Sơn La) rồi nói vội “anh đem đi đường ăn cho đỡ khát, đừng quên em”.
Chiếc xe “tec” chỉ có mình tôi ngồi vắt vẻo trên bồn xăng chạy ra phía cổng trung đoàn rồi nhập vào con đường số sáu hướng Hà Nội, chiếc xe lọt thỏm giữa hai triền núi và khuất dạng sau đoạn đường cong nơi có tấm biển xanh cắm cạnh đường “Thị trấn MC cách 3 km”.

T/p HCM – 5/2008


 ❧ ❀ ❧ 


Lấy từ Facebook của Duy Đảo






0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Thứ Hai, 12 tháng 5, 2014

Kỉ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ



"Nhóm nhỏ" Bạn Trỗi K3 về nguồn Điện Biên Phủ 12-16/04/2014
Tại quần thể tượng đài chiến thắng trước khi rẽ vào Sở chỉ huy của Võ Đại tướng tại Mường Phăng.
Ảnh Quang Việt



Mời xem bài:
  1. Hội thảo 60 năm Chiến Thắng Điện Biện Phủ - Trịnh Thành Công, 10/05/2014, Blog K3.
  2. Trỗi khóa 3 kỷ niệm 7-5-2014 tại Hà Nội - ngcuong50, 08/05/2014, Blog K3.
  3. HÔM NAY MÙNG 7 THÁNG 5 - Thanh Minh, 07/05/2014, Blog K4.
  4. Kỷ niệm 7/5 của con cháu tướng lĩnh BTTM (ĐBP) - HữuThành.Nguyễn, 07/05/2014, Blog K4.
  5. Nhóm nhỏ kỉ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ - TQtrung, 06/05/2014, Blog K4.
  6. Bài viết độc quyền của PGS.TS Đặng Anh Đào về phu nhân tướng Giáp - TranKienQuoc, 12/05/2014, Blog K5 Báo liếp.
  7. Có người đặt ra câu hỏi và tự trả lời? >> Chiến thắng Điện Biên Phủ... - TranKienQuoc, 11/05/2014, Blog K5 Báo liếp.
  8. Đón khách quý TQ nhân 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ - TranKienQuoc, 02/05/2014, Blog K5 Báo liếp.
  9. Phim 3D đầu tiên về Điện Biên Phủ - TranKienQuoc, 04/05/2014, Blog K5 Báo liếp.
  10. Ảnh đẹp Tây Bắc - Quang Việt, 19/04/2014, Blog K5 Báo liếp.
  11. Về nguồn - Quang Việt, 19/04/2014, Blog K5 Báo liếp.
  12. Thăm lán bác Văn - Quang Việt, 16/04/2014, Blog K5 Báo liếp.
  13. HÀNH TRÌNH LÊN MIỀN TÂY BẮC - SA PA - Về nguồn Điện Biên Phủ - TrunDC, 13/04/2014, Blog K3.
  14. VÌ SAO KHRUSHEV GỌI ĐIỆN BIÊN PHỦ LÀ ‘PHÉP LẠ’? - Lê Đỗ Huy, TQtrung st, 27/04/2014, Blog K5 TintucBanTroik5.
  15. Nhân dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện biên phủ - VNQ, 11/04/2014, Blog K8.

0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Thứ Sáu, 2 tháng 5, 2014

Những thằng bạn cùng làng



"NHỮNG THẰNG BẠN CÙNG LÀNG" Là câu chuyện tôi kể cho các bạn nghe về thân phận của lớp thanh niên nông thôn sinh vào những năm 53-54, lứa tuổi tôi. Họ đã đã đi qua chiến tranh, là nhân chứng... Chiến tranh đã qua lâu nhưng nỗi buồn thì cứ mãi mãi. Nhân ngày 30-4 tôi gửi các bạn câu chuyện về những năm tháng ấy.


Chúng tôi sàn sàn tuổi nhau sinh ra và lớn lên ở vùng quê bốn bề sông nước. Quê tôi là vùng đất bãi nên quanh năm làng xóm ẩm ướt lụt lội. Làng tôi có tên hẳn hoi nhưng thiên hạ có việc tới thăm khi tìm đường chỉ hỏi tên tục của làng, làng “Lằn”. Chả biết vì sao làng tôi lại có tên như thế. Theo các cụ cao niên thì “ Làng Lằn ” đã có từ lâu lắm, từ cái thời mà cụ tổ đầu tiên của chúng tôi tới mảnh đất này khẩn đất.
Chiến tranh đã qua tự lâu thằng chết đã yên phận thằng sống cũng ngót nghét trên dưới 60. Chơi với nhau từ thuở cởi truồng chăn trâu cắt cỏ mài đít ở trường làng, may mắn “Ơn Đảng, ơn chính phủ” hầu như chúng tôi đứa nào cũng học được tới lớp 5. Đa phần học tiếp đến lớp 7, chỉ có tôi và Vinh là leo được đến cấp 3. Đại học ư! Hai từ đại học ngày ấy đối với chúng tôi, những đứa trẻ ở một vùng quê hẻo lánh, nghèo khó sao nó xa xôi thế, giống như ngôi chùa Cao trên đỉnh Yên Tử mà chiều chiều đi dậm cáy, dậm tôm đứng trên con đê bên dòng sông Văn Úc ngước nhìn qua lớp lớp mây xám.
Tất cả lứa chúng tôi trừ những thằng quặt quẹo, không đủ tiêu chuẩn lý lịch, năm 70-72 sau trước đều nhập ngũ trở thành người lính. Cuộc đời mỗi đứa sướng khổ hình như trời đất đã sắp đặt cả, chả đứa nào thoát được số phận

Thắng chơi với bọn tôi nhưng nhiều tuổi hơn khi học lớp 4 chúng tôi có trò chơi “chong chóng”, trò này do tôi bày ra. Bằng cách lấy cắp cái môi múc canh bằng nhôm của bà già trong chạn bát, đập bẹt, cắt thành hình cánh quạt như cánh quạt máy bay. Sau đó dùng đinh đục hai lỗ nhỏ ở giữa. Lấy cuộn chỉ bằng gỗ đã hết, đóng hai cái đinh guốc vào đầu cuộn chỉ sao cho khớp với hai cái lỗ trên cánh quạt, cắm cánh quạt vào. Lấy đũa ăn cơm chọc vào lõi cuốn chỉ giữ chặt. Tay kia dùng một sợi dây cuộn quanh ống chỉ giơ lên ngang đầu kéo thật mạnh sợi dây. Thế là cánh quạt quay tròn vút lên không trung. Trong một lần sơ suất, cánh quạt xoẹt vào mắt Thắng, thế là hai “cửa sổ tâm hồn” thằng bạn mất toi một. Ngày ấy lấy đâu ra thuốc thang mà chữa, bệnh viện tỉnh thì xa … Thế là Thắng có biệt danh “chột” từ đấy. Chỉ là chuyện không may thời con trẻ thò lò mũi, chân đất, toét mắt nhưng tôi cứ day dứt mãi.
Thắng không phải đi bộ đội vì chột mắt mà giả tỉ như hai mắt có sáng đi chăng nữa thì cũng chẳng bao giờ Thắng được đi bộ đội vì bố Thắng “xỏ nhầm giầy tây”. Nghe các cụ trong làng, ngày xưa có thời gian bố Thắng đi lính Dõng. Những năm ấy lý lịch như thế thoát ly làm anh công nhân cầu đường, hay chân ba toa trong trại lợn huyện còn khó huống hồ đi bộ đội, thế là Thắng phải ở lại quê.
Thắng có nhiều tài nhưng sau này làm được nhà, sắm tủ Buyphê, giường Modec cũng là nhờ ở tay thợ mộc giỏi. Thắng lấy vợ sớm, vợ Thắng đẹp. Vợ Thắng là người thiên hạ chả biết ở đâu lang bạt tới làng tôi rồi được sư chùa thu gom về làm công quả ở chùa làng. Sau khi cưới, Thắng đưa vợ về nhà không ở chùa nữa. Vợ Thắng “sòn sòn, sòn đô sòn” ba năm hai đứa, đẻ một mạch năm sáu mặt con, nhà kinh tế vững thóc khoai trong buồng lúc nào cũng có.
Thắng chết lâu rồi cũng dễ trên dưới chục năm, chết vì bệnh gan, vì rượu. Thắng là thằng về với ông bà ông vải sớm nhất trong mấy đứa bọn tôi.
Những thằng còn sống lâu lâu gặp được nhau, trên chiếu rượu đứa thì nói Thắng sướng, cả đời chỉ nằm nhà sờ vú vợ chẳng phải nếm mùi chiến tranh. Đứa lại kêu Thắng khổ, chết mà chả biết chiến tranh là gì. Sướng hay khổ ở đời cũng là tuỳ theo suy xét của mỗi người, nhưng tóm lại Thắng đã yên phận mình.

Hà là con ông Rĩnh chả biết có họ hàng gì không mà tôi cứ gọi bố của Hà là Chú Rĩnh. Chú Rĩnh là đội trưởng đội sản suất. Ngày ấy đội trưởng sản xuất là khá lắm trong buồng cót thóc bao giờ cũng đầy. Ấy vậy mà nhà chú quanh năm phải ăn gạo cũ vì thóc thừa từ những vụ trước lưu cữu. Chú chết đã được vài năm, chết vì ung thư dạ dày. Lúc chú ốm nặng đúng dịp tôi về quê. Tôi có tới thăm biếu chú ký đường và mấy hộp sữa. Thời gian sau thì nghe tin chú mất. Trong đội sản xuất ngày ấy có cô Khánh, cô Khánh ở sát nhà tôi. Chồng cô tái ngũ, là lính pháo phòng không, chú hy sinh khi cùng đơn vị đánh trả máy bay Mỹ bảo vệ nhà máy xi măng Hải Phòng. Lúc đó cô còn trẻ, tướng mạo phốp pháp lắm, đám đàn ông trai tráng trong làng đi bộ đội sạch cả, chả còn ai để cô cũng như cánh đàn bà đơn chiếc trong làng lườm nguýt, chuyện trò. Nghe bà con trong làng đồn cô Khánh ngủ với chú Rĩnh. Ngày ấy đâu có sẵn dụng cụ tránh thai như bây giờ mà chả thấy cô chửa đẻ. Mấy ông cán bộ xã bênh chú chửi những kẻ độc miệng: “ Nếu chúng nó ngủ với nhau thì phải đẻ đái! Đừng có mà nói mò, vu vạ cho cán bộ đảng viên là theo đuôi phản động, vi phạm vào chủ trương chính sách của đảng, của chính phủ tù mọt gông”. Nên bà con ngọng, sợ vãi đái chỉ dấm dúi chõ mồm vào tai nhau thì thào, vớ vẩn! nghe chửi dại mặt còn là nhẹ.
Có tối tôi sang nhà chú Rĩnh chơi, thấy chú chổng mông trên cái chõng tre, trước mặt là ngọn đèn dầu và cuốn sổ cộng điểm chấm công cho xã viên. Chả biết chú tính toán ra làm sao mà thấy miệng chú lúc nào cũng lẩm bẩm như cúng giỗ, thỉnh thoảng lại thấy chú xoè hai bàn tay ra trước mặt đếm từng ngón một. Cái bút chì trên tay lâu lâu lại thấy chú đưa đầu bút lên miệng “mút”. Tôi hỏi chú, chú bảo “ Cho chì thấm nước bọt viết cho rõ nét.”
Có hôm vừa thấy tôi vác mặt sang chơi chú đã hét toáng lên như đi câu vớ được cá to:
- May quá tao đang bí! Mày lại đây! Lại đây! cộng hộ chú. Mấy ngày dồn lại điểm nhiều quá tao đang hoa hết cả mắt lên đây. Cứ tính đi, tính hộ chú, nếu cần tao chi thêm công điểm cho phần của mẹ mày.
Đã nhiều lần tôi giúp chú, vì cái khoản cộng trừ của chú hơi bị yếu.
Tám giờ tối mỗi ngày bà con trong đội sản xuất đều phải có mặt ở nhà chú, ai cũng mang theo cuốn vở như những ngày “ bình dân học vụ” trong phong trào diệt dốt của Đảng phát động sau chiến thắng Điện biên.
- Bà Đa hôm nay được 10 điểm.
- Cô Hữu được 12 điểm.

- Bà Dần 6 điểm.
- Ơ! sao tôi được có 6 điểm! Bà Dần cãi lại
- Bà già rồi, đội giao cho mỗi con trâu ghẻ mà chăm sóc cũng chả ra đâu vào đâu. Nghe bà con phản ảnh con trâu toàn bị đi ỉa mà hay bị bỏ đói, cho nên 6 điểm là ưu tiên rồi còn thắc mắc gì nữa. Đáng lý ra bà hết tuổi lao động, phải được nghỉ ngơi theo đúng chính sách của Đảng mới phải.
Bà Dần nghe chú Rĩnh giải thích tự nhiên quai hàm cứng lại, chả dám nói gì thêm
….
Đại loại việc chấm công báo điểm tối tối ở nhà đội trưởng sản xuất mang tính ước lệ hơn là tính hợp lý và công bằng. Thường chả ai thắc mắc. Điểm cộng dồn tới mùa thì chia bằng thóc. Sau khi gặt đập ở sân hợp tác là tới phần chia thóc. Dụng cụ chia là một cái thùng vuông bằng gỗ.
- Bà A hai thùng.
- Bà B một thùng rưỡi …. ( thùng rưỡi mới là rầy rà vì đong nửa thùng đâu có phải chuyện dễ)

Sau khi đổ đầy thóc vào thùng dùng một cái ống tre gạt ngang miệng là xong một đơn vị “thùng”.
Thóc đem về nhà phơi, sảy, dần, sàng phần phải nộp thuế theo nghĩa vụ số còn lại các gia đình dè dặt độn thêm sắn khoai mà sống. Rồi lại úp mặt vào đất, còng lưng phơi mông cho giời mòn mỏi năm này nối tiếp tháng kia như cái kim đồng hồ quả lắc nhà ông Thùng đầu làng đựơc đội công tác chia ngày cải cách ruộng đất, đều đặn quay tròn.
Hà là con cả của chú Rĩnh. Hà chơi thân với tôi. Hà lắm tài từ làm súng phốc bắn quả rau đay, tới câu cá bẫy chim, dậm tôm, dậm cá… Học hết lớp bảy Hà nghỉ không học nữa. Hà nói “ Thầy em có biết chữ quái nào đâu mà cũng làm tới chức đội trưởng sản xuất. Chả biết anh thế nào? chứ em cứ động đến chữ, đến sách vở là đầu nó mỏi, hai mắt tự dưng muốn díp lại chỉ muốn lăn quay ra giường . Em tính rồi học cũng chả để làm gì. Nghỉ học ở nhà sáng sáng dậy sớm đi nhặt cứt chó chăm cho miếng ruộng phần trăm trồng thuốc Lào tới vụ còn giúp thầy bu em được tí tiền chứ trông chờ vào thóc chia hợp tác thì có mà …”

Quê tôi ngày xưa là đất trồng thuốc lào. Có lẽ cùng vệt đất do phù sa của sông Văn Úc, sông Luộc, sông Thái Bình bồi đắp nên khắp một vùng từ Tiên Lãng, Vĩnh Bảo cho tới tận làng tôi thuốc lào đặc biệt ngon. Chả hiểu sao đã là anh thuốc lào thì phải tưới bằng phân chó khói mới đượm và say. Giống như ớt phải tưới bằng phân gà mới cay. Nhớ ngày đóng quân ở đảo Kôkông chúng tôi làm công ăn chia với bọn Thái Lan, trồng Cần Sa. Bọn Thái kỹ tới mức không cho chúng tôi bón bất cứ thứ gì ngoài phân gà. Hàng tuần thuyền chở phân gà từ Thái vượt biển chuyển qua. Khi chúng tôi hỏi thì nó nói Cần Sa phải tưới bằng phân gà mới tăng chất lượng, tăng độ “phê”.
Những năm ấy làng xóm thanh bình lắm, đến trộm cắp vặt còn không có huống hồ … thế mà chả hiểu sao bà con nuôi lắm chó thế. Chả biết có phải bà con nuôi chó để lấy cứt bón thuốc Lào hay không? Đi ra đường sơ ý một tí là dẫm phải cứt chó nhất là các cụ già mắt mũi kèm nhèm. Có cụ đi đám giỗ mặc cái quần ta nâu cả năm mới diện một lần. Thế quái nào đi đường “quệt” phải cứt chó, lúc ngồi nhắm rượu, trên mâm có 5 cụ thì mắt mũi cụ nào cũng toét cả, cụ này đổ cho cụ kia cuối cùng người nhà phải lao vào “can thiệp” sai con cháu kiểm tra rồi lột quần của cụ bị “dính cứt ” đem ra ao “gột”. Thế là một cụ quần đùi “hầu” bốn cụ quần dài ngồi nhâm nhi cho đến hết cỗ.
Cánh trẻ con làng tôi thời bấy giờ sáng sáng phải dậy thật sớm một tay xách cái rổ bằng tre có buộc dây lót lá chuối, một tay cầm cái kẹp giống như cái kẹp của cánh thiếu niên nơi thị thành dùng để nhặt hạt táo bán cho hiệu thuốc bắc trong phong trào gây quỹ đội thời 61-62. Hôm nào ngủ quên, dậy muộn thì đến nước đái chó cũng chả còn mùi chứ đừng nói tới cứt, cho nên chúng tôi phải dậy thật sớm. Nhiều khi đánh chửi nhau cũng chỉ vì bãi cứt chó.
Sống ở đất thuốc nên chúng tôi đều tập toẹ rồi nghiện hút. Hà nghiện hút từ năm 8-9 tuổi. Buổi sáng chả có gì tống vào dạ dày, bụng réo sôi ùng ục như hợp tác xã tôi vôi xây trụ sở, đành vớ cái điếu bát của thầy làm một “ bi ” cho đầy phổi rồi say quắc cần câu nằm co tới tận trưa.
Để làm ra được cân thuốc Lào vất vả còn hơn cả trồng lúa. Đất trồng thuốc Lào phải làm thật kỹ. Sau khi bón lót bằng phân chuồng thì đặt giống. Khi cây được 3-4 lá là bắt đầu tưới phân chó và chăm sóc. Lá thuốc lào cay thế mà vẫn có sâu rệp xơi được. Nếu không xử lý, lá bị sâu ăn quăn lại, cây chậm lớn chất lượng thuốc coi như vứt. Người ta phải nấu cơm nếp nát rồi cuốn vào đầu cái que cứ thế lăn trên những lá nào bị rệp, bị sâu. Tất cả rệp lớn, rệp bé … bị cơm nếp dính vào hết … Khi lá thuốc đã già là tới khâu thu hoạch. Thuốc hái về được tước đi phần cuộng và gân, phơi trong bóng mát cho vàng rồi xếp lớp cuộn tròn lại như cái dò lụa ngày tết nhưng dài, có khi dài tới một mét, mét rưỡi cũng không chừng.
Ở quê tôi người ta phải lặn lội sang tận Tiên Lãng, Vĩnh Bảo mời thợ về thái thuốc. Dụng cụ thái thuốc dân trong nghề gọi là “ Cầu ”. “Cầu” gồm một đường “ray” có độ dốc. Đường “ray” này dùng để đặt bó thuốc đã cuộn lên trên. Phía cuối của “cầu” là một cái lỗ để bó thuốc chui qua, đồng thời đây cũng là bộ phận “lấy cữ”. Xắt dày hay mỏng là do người thợ đẩy cuộn thuốc di chuyển nhanh hay chậm trên đường ray. Dao thái thuốc giống như lưỡi kiếm Nhật nhưng không có chuôi dầy hơn có tay nắm ở giữa để người thợ cầm khi thái, đặc biệt rất sắc cạo được cả lông chân. Người thợ ép dao vào “cữ” đều đặn đưa dao lên xuống, sợi thuốc đều tăm tắp cứ thế tuôn ra.
Khi thái xong, thuốc được rải đều trên những tấm liếp, được hồ bột và nhuộm màu. Màu là nguyên liệu tự nhiên từ củ rừng ( hình như là củ nâu). Sau khi hồ và đánh màu thì phơi gió cho khô rồi đóng bánh phân loại. Phân loại thuốc phải nhờ đến các cụ cao niên có nghề hút vài chục năm để đánh giá. Cụ nào được mời thử thuốc sáng phải dậy sớm, mồm phải để thật “thối”, không được đánh răng, không được ăn uống gì. Nhiều khi mẻ thuốc phải thử cả tuần lễ mới xong vì có khi “bi” đầu tiên bắn thử, thuốc ngon quá các cụ say quắc cần câu lăn quay ra phản. Gia chủ lại phải làm cơm rượu chờ cho các cụ tỉnh thết đãi, sáng hôm sau các cụ mới lại tiếp tục được. Công đoạn thử này rất quan trọng vì nó liên quan đến chất lượng từng mẻ thuốc, liên quan tới giá cả. Thuốc Lào đóng bánh được cất giữ trong chum lót lá chuối khô chờ thời, khi nào được giá mới tung ra thị trường.

Khi học lớp 5 không hiểu sao Hà bị bệnh. Trời mùa đông lạnh ngắt mà Hà cứ tồng ngồng lao xuống sông ngâm cả ngày. Người nhà phải dỗ dành mãi Hà mới chịu lên bờ. Rồi như người trầm cảm Hà ngồi thu lu trong góc nhà chả đi đâu và nói năng với ai, nhìn ai cũng lừ lừ đôi mắt. Ông Nghị, y tá duy nhất trong làng, thời tây ông từng làm cho Pháp ở bệnh viện Đồn Thủy tận Hà Nội tiếng tây ông thạo lắm. Ông đoán Hà bị bệnh động kinh. Ông Khúc, thầy cúng ở chùa làng thì lại phán “ Nhà Hà bị động long mạch mồ mả”. Nhưng gia đình mời ông cúng bái mãi mất cả thủ lợn, đàn gà và mấy mẻ rượu lậu mà chả giải được. Bỗng dưng Sau một thời gian tự nhiên Hà khỏi bệnh, lại khoẻ mạnh nhanh nhẹn như xưa.
Năm 71 Hà đi bộ đội. Tôi còn nhớ có một lần Hà chiêu đãi chúng tôi ở cửa hàng ăn uống trên phố huyện trong kỳ nghỉ tranh thủ giữa 2 đợt huấn luyện được về thăm nhà. Bữa tiệc gồm cơm độn ngô vàng tươi, đậu phụ sốt cà chua, khoai tây xào và đĩa cá rán. Chả biết có phải là cá rán không nhưng bây giờ nhớ lại cái món cá rán ngày ấy là cá nướng thì đúng hơn vì vẩy cá xém đen. Ngẫm lại thời bấy giờ cửa hàng ăn uống quốc doanh mà món nào cũng rán với xào thì có mà sạt nghiệp. Bữa cơm chỉ mất mấy hào bạc và cái tem gạo mà Hà được thanh toán ở đơn vị. Thế mà bốn đứa ăn no, ăn như chưa từng bao giờ được ăn.
Thời thế lộn tùng phèo cả. Cái món cá nướng hạng bét của ngày xưa nghèo đói ấy lại trở thành món đặc sản của ngày hôm nay.
Sau này nghe Hà kể ngày tiễn anh em bộ đội đi nam ở ga Tiền Trung, trong đoàn người đưa tiễn hôm ấy không có ai là bạn bè người thân của Hà. Chả biết trong hàng ngàn người lính ra đi trong chiều đông năm ấy có ai buồn như Hà không? Hà ngơ ngác chờ người thân trên đường ke sân ga, khi lên tầu Hà cố nhoài người qua ô cửa toa ngoái lại mãi cho tới khi mấy nhịp cầu Lai Vu phía xa bé dần, bé dần rồi khuất hẳn sau làn khói đen. Hà lấy hết sức ném bọc quà qua ô cửa con tàu đang lao nhanh xuống đường rồi nói to với những người đang còng lưng đạp xe trên đường 5 “ Gửi hộ về quê theo địa chỉ … ”. Thế rồi bọc quà cũng được ai đó gửi qua bưu điện về quê cho bố mẹ Hà. Quà là bộ quần áo Tô châu phát trước khi đi nam cho bố và bộ quần áo cũ cho em cùng cái mũ cối tầu.
Kỷ niệm Hà tặng tôi trong những ngày sắp rời xa miền bắc là cuốn tiểu thuyết Ruồi Trâu. Hà nói mua ở hiệu sách huyện. Tôi vẫn ngạc nhiên về món quà này cho tới hôm nay. Tôi chả thấy Hà đọc sách bao giờ thế mà tự dưng lại nhận được món quà hết sức nhân văn của giới học sinh sinh viên có học thời ấy.
Sau ngày hoà bình gặp lại nhau nghe Hà kể đơn vị Hà năm ấy đi nam để bổ sung quân cho chiến trường đông nam bộ. Dọc đường hành quân đạn bom quân số rơi rớt lớp chết, lớp sốt rét một số tụt tạt … Hà là một trong những người lính vào “đến đích”. Tới Tây Ninh quân số được phân chia cho nhiều đơn vị. Một số xuống đồng bằng số còn lại bổ sung cho các đơn vị miền.
Một lần Hà nghe tin hơn chục thằng trong đó có mấy đứa cùng làng nhập ngũ một đợt hành quân bị vướng mìn Claymo “đi” sạch cả. Khi nhận được tin Hà úp mặt vào võng khóc mấy đêm liền, thương cho những thằng bạn vắn số.
Đánh nhau, chống càn bom vùi đạn dập tưởng rồi cũng theo bạn bè thế mà thoát. Sau này sốt rét nặng quá Hà bị đẩy lại phía sau cho bộ phận sản xuất.
Tình cờ trong một lần chuyển gạo cho đơn vị Hà gặp được ông bác họ Làm chỉ huy một trung tâm huấn luyện của miền. Rồi được bác gọi về làm chân công vụ. Hơn năm quản lý trà thuốc bưng bê cho thủ trưởng thì Sài Gòn giải phóng. Ngày ấy cùng nhóm phục vụ thủ trưởng trong rừng ngoài Hà, lính bảo vệ, còn có hai em nấu cơm và y tá việt kiều Campuchia. Cứ một tuần vài tối Hà lại phải xuống kêu y tá lên đấm lưng cho thủ trưởng. Có hôm thủ trưởng nói “ Hôm nay cho y tá nó nghỉ gọi “cấp dưỡng” lên thay ca đấm lưng cho tao”. Sau này Hà mới biết các thủ trưởng trong rừng hầu như thủ trưởng nào cũng như thế cả. Sau khi bắt thề sống thề chết không được hé răng với ai Hà vít đầu tôi: “ Ông bác họ em có cả con với cô y tá”.
Ngày ấy là chiến tranh, là sống, là chết, thôi thì … đằng nào các anh cũng là liệt sỹ, đã hy sinh cho tổ quốc, “đùn” thêm “đứa con” cho các anh nữa cũng chả sao, chắc các anh thông cảm. Vậy nên những trường hợp bị “lỡ” của các thủ trưởng như ông bác họ của Hà sau này đều được tổ chức “hợp thức hoá” thành con em “liệt sỹ” có chế độ chính sách hẳn hoi.
Giải phóng xong Hà muốn về quê ngay. Nhưng công việc nhiều. Mãi tới đầu năm 1976 ông bác họ mới gọi Hà lên. Ông ôn tồn: “ Quê hương đã thống nhất bây giờ là lúc cần có nhiều lực lượng để củng cố xây dựng đất nước. Hiện nay bên dân sự đang cần một số cán bộ nòng cốt để phát triển: Ngành Hải quan, công an và các khối kinh tế. Quân đội cũng đang có chủ trương giảm bớt quân số. Cho cháu 3 lựa chọn: Hải quan, công an và kinh tế. Kinh tế thì bộ thuỷ sản đang thành lập một xí nghiệp đánh cá lớn hoạt động trên biển đó là xí nghiệp đánh cá Chiến Thắng. Đợt này cho cháu về phép thăm gia đình rồi suy nghĩ chọn hướng nào thì tùy. Vào phép bác sẽ cho chuyển ngành. Ngữ mày chữ ít, sức khoẻ lại kém không phục vụ quân đội lâu dài được. Là người lính từng kinh qua bom đạn chiến tranh nay hoà bình tăng cường cho lĩnh vực kinh tế thì quý lắm cháu ạ.”
Rồi ông bảo quản lý đơn vị chuẩn bị cho Hà gói quà. Khi sắp xếp đồ đạc mở gói quà ra Hà hết sức cảm động, trong đó gồm hai cây thuốc lá Rubiquen quân tiếp vụ, xấp vải đen, vải hoa, ký mỳ chính, ít mỳ tôm, bánh kẹo và cái bật lửa chiến lợi phẩm thu được trong dinh Độc Lập có chữ ký của kẻ bại trận, tổng thống Thiệu, làm kỷ niệm.
Quãng cuối năm 1976 tôi có dịp vào Nam. Khi chuẩn bị ra Bắc theo địa chỉ tìm tới thăm Hà. Tôi không còn nhớ căn nhà Hà ở lúc đó nằm ở phố nào chỉ nhớ gần nhà thờ Cha Tam mãi bên quận 5. Đấy là ngôi nhà mặt phố hình ống ba tầng lầu. Hà mở khoá đưa tôi qua tầng 1 lên tầng 2, Hà ở một phòng rộng. Phòng ốc lộn xộn chăn nệm tứ tung, bánh mỳ, đồ ăn thừa, thuốc lá, vỏ rượu vứt lỏng chỏng. Mở tủ lạnh Hà dúi cho tôi chai bia con cọp. Hai đứa cụng chai trong tiếng gió thổi vù vù của cái quạt trần tuốc năng và 3 chiếc quạt cây Hitachi chạy hết số.
- Chạy gì mà lắm quạt thế? Gió thế này khéo cảm thì chết.Vừa nói tôi vừa đưa cả hai tay lên đầu giữ mớ tóc bị mấy cây quạt thổi dựng đứng lên.
- Để nhớ cái thời bão gió tháng 8 ngoài quê anh ạ. Hà cười. Trong nụ cười có cái gì đó hoài cổ chất phác rất thương.
- Nói vui thôi. Em đang thử tải mấy cái quạt. Chạy ròng rã 4 ngày 4 đêm rồi đấy, tính gửi ra Bắc làm quà nhỡ làm sao lại đâm mang tiếng.
- Ấy chết!
Hà giật mình lao tới cái nồi cơm điện cắm từ sáng. Mở nắp nồi bới một hồi Hà lôi ra haichiếc đồng hồ. Một chiếc Ôrient và một Selko dính đầy cơm nếp nhão nhoẹt. Rồi phóng vào toalet sau một hồi cọ rửa cầm hai cái đồng hồ sáng loáng trong tay đi ra, vừa đi vừa gật gù.
- Đúng là cái anh Nhật “nùn Japăng” tốt thật! vẫn chạy êm ru chính xác đến từng giây mà mặt đá cứ trong vắt chả có tý hơi nước nào.



Rồi Hà quay sang tôi:
- Em mới mua định một cái để đeo, một cái gửi về quê cho thầy em. May quá … Tiện gặp anh đây tặng anh một cái làm kỷ niệm, anh thích cái nào thì lấy, còn một cái nhờ anh đem về quê cho thầy em, để thầy em biết giờ mà đánh kẻng hợp tác chứ cái kiểu xem giờ theo bóng nắng thì … Toàn đồng hồ nguyên tử, tự động cả đấy, khỏi phải lên giây.

Buổi trưa Hà đưa tôi đi ăn ở nhà hàng tầu, nhà hàng Đông Kinh. Tôi còn nhớ có món gà rô ty ăn với mỳ xào thập cẩm. Cả đời quen cầm cuốc, cầm cày có biết dao dĩa phóng sết là quái gì đâu nên chọc ngoáy lung tung hất văng cả mỳ xuống nền nhà may mà đùi gà chỉ văng ra bàn nên thu hồi được. Tức mình tôi dùng tay vừa xé vừa xúc tuy dân dã nhưng tiện vả lại ăn uống như thế cảm thấy tự tin hơn.

Quãng 2 giờ chiều hai thằng về đến nhà. Căn nhà thênh thang vẫn chỉ có tôi và Hà lúc này tôi mới thắc mắc. Hà nói: “ Nhà này là nhà em ở từ ngày tiếp quản. Rồi ra quân chuyển ngành ở lại luôn. Chả ai thiết cái nhà như bao diêm sâu hun hút, lại nằm trên con phố mở cửa ra là bị tra tấn toàn tiếng ngoại quốc “Ngộ ngộ, lị lị” chả biết đâu mà lần. Hàng quán ăn uống thì món nào cũng đầy mỡ ngọt lừ như chè đường ngày tết…”
Trong khi Hà ngủ tôi mới có dịp thăm quan hết 3 tầng lầu, phòng nào cũng tủ giường đồ đạc. Tò mò tôi lôi một cái ngăn tủ trong phòng của Hà.
Trời ơi! Nhẫn, sao lại nhiều nhẫn thế, nhẫn vàng hẳn hoi, nhưng sao lại để hớ hênh thế?
Tôi có hỏi, Hà giải thích “ Toàn vàng mạ thôi anh ơi, Cả đời có biết vàng bạc là gì đâu, em bị chúng nó lừa.” Hà chẳng giải thích gì thêm, khuôn mặt bình thản.
Với tay bật cái catsec giọng cô ca sỹ như kẹo kéo gặp trời nắng to vọt ra từ hai chiếc loa đặt trên nóc tủ vừa buồn vừa lạ chả như những thứ nhạc mà tôi từng nghe mấy chục năm qua.
Đêm ấy tôi ngủ lại với Hà. Chai rượu chứa thứ nước màu hổ phách trong vắt vật đổ hai thằng khi tiếng chuông nhà thờ Cha Tam đầu phố điểm giờ nguyện buổi sớm.
Hà kể sau khi trả phép vốn quen mò tôm bắt cá lặn lội sông nước nên Hà xin bác cho chuyển nghành về xí nghiệp đánh cá Chiến thắng. Ngày ấy đám thuỷ thủ Chiến Thắng là giàu lắm. Cá vừa kéo lưới là con buôn đã thu mua ngay trên biển. Tiền cá, tiền dầu, tiền vượt biên hối lộ có chuyến đột xuất mỗi thuỷ thủ kiếm cả cây vàng. Tàu thuyền ra khơi ngày ấy rất khó biên phòng cấp phép kỹ và kiểm soát gắt gao. Chỉ riêng xí nghiệp đánh cá chiến Thắng mới được cấp phép ra khơi xa. Nên đôi khi vớ được tàu vượt biên bị hối lộ là vì thế.
Hà giữ tôi ở lại chơi. Được hai ba ngày thì rủ tôi đi Vũng Tàu. Chúng tôi nhảy xe đò, xuống bến kêu xe ôm chạy thẳng ra bãi trước. Dúi cho tôi ổ bánh mỳ kẹp thịt còn nóng và bịch café đá Hà vừa mua rồi chỉ vào chiếc ghế đá ven bờ biển bảo tôi ngồi chờ. Hà lững thững đi về phía đám đông đang bu quanh hai tàu cá cập dưới bãi. Vừa nhìn thấy Hà đám đàn bà con gái thương lái bỏ cả cá bu lấy:
-Xếp Hà! xếp Hà! Hôm nay không đi biển à?
Thì ra đó là đám bạn hàng của Hà mỗi lần tàu về Vũng Tàu. Hà nói với một cô dáng như chủ vựa: “ Chuẩn bị cho anh ít tôm, cá ngon để tối tiếp bạn. Có con Mú, con Hồng nào to 3-4 kg giữ lại cho anh để sáng mai đem về thanh phố làm quà cho ông bác”.
- Có chứ! xếp cần loại 3- 4 kg chứ “ loại” 50-60 kg tươi rói lúc nào cũng sẵn hầu xếp. Giọng cô chủ vựa oang oang cất lên. Cả lũ đàn bà con gái trên bãi hùa theo cười xoe xóe.
- Tối nay bọn anh nghỉ ở nhà Duyên.
- Được rồi! hai xếp cứ yên tâm về trước tắm giặt nghỉ ngơi giữ sức đi mọi cái bọn em sẽ lo. Vừa nói cặp mắt cô chủ vựa vừa đong đưa như rượu trong ly trên tay của kẻ say.
Duyên là em gái cô chủ vựa. Duyên có đứa con nhỏ, chồng chết trận nhà ngay chợ trung tâm là điểm phân phối cá cho các bạn hàng bán lẻ. Duyên mặn mà chứ không đẹp ngỗ nghịch ào ạt như bà chị không chồng của mình.
Đêm ấy cơm ngon, rượu say và lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là sự ấm áp dịu dàng của cánh phụ nữ phương nam.
Trong xí nghiệp của Hà đám thuỷ thủ hầu như đều dân bắc, gốc gác lính tráng trận mạc với nhau. Hà sống một mình phóng khoáng hay giúp đỡ mọi người nên anh em rất thương. Ngay đến căn nhà sau này Hà cũng rủ những anh em độc thân khó khăn chưa có nhà đến ở. Khi bạn có gia đình Hà cũng nhường hai tầng lầu cùng một căn phòng nơi tầng 2 còn trống cho bạn.
Rồi căn bệnh cũ,“động kinh”, như định mệnh sau mười mấy năm bỗng dưng tái phát nhưng lần này thì nặng hơn. Xí nghiệp đưa Hà vào viện điều trị. Được ít ngày thì Hà trốn viện và bắt đầu cuộc sống lang thang vô định. Anh em trong xí nghiệp bổ đi tìm. Nhưng tìm làm sao giữa cái thành phố lộn xộn và rộng lớn lại đang khó khăn vật lộn sau chiến tranh. Hà lang thang chẳng biết những đâu cả năm rồi bỗng nhiên mò về được quê. Cơ quan biết tin cho người về nhà đón Hà vào lại Sài Gòn để chữa bệnh. Nhưng bệnh tình Hà ngày càng nặng nhớ nhớ quên quên lúc thì ngồi ôm đầu hét:“Máy bay ném bom”. Lúc thì khóc gào kêu tên những thằng bạn đã chết. Lúc thì ôm khúc cây bắn súng miệng pằng pằng … Hà điên thực rồi. Xí nghiệp đành cho người đưa Hà trở lại quê. Hàng tháng vẫn gửi tiền lương và thuốc cho Hà điều trị. Sau nhiều năm xí nghiệp làm nghĩa cử cuối cùng với Hà, với một người lính đã giải ngũ đó là giải quyết chính sách. Hàng tháng Hà có sổ mất sức hơn 600.000 đ. Nghe nói số tiền này hai mẹ con, rồi cả cô em bị bệnh như Hà nữa sống nhờ vào đó mấy chục năm qua.
Câu chuyện tình nghĩa xí nghiệp cũ nơi Hà công tác bây giờ kể lại người nghe ngỡ chuyện hoang đường. Nhưng đúng là đã có một thời người ta sống với nhau tử tế như thế. Thời quá vãng xa xôi ấy không còn nữa. Nhiều khi gặp bạn bè cũ trong hơi men chỉ biết thều thào vào tai nhau ngậm ngùi: “Bao giờ cho tới ngày xưa”.
Hà vẫn sống. Mấy năm nay tôi không về quê nghe người làng nói dạo này Hà không còn tỉnh người gầy đét, mắt trũng sâu hai gò má nhô cao. Cứ sáng sớm đầu đội mũ bảo hiểm, quần dài, áo bảo hộ chân đất là Hà đi. Đi cho tới khi lặn mặt giời Hà lại mò về nhà. Có hôm người làng thấy Hà tha thẩn trên sân ga Tiền Trung cách nhà gần 20 km. Hà tìm đến đúng sân ga nơi mà 40 năm trước Hà cùng những đứa bạn tuổi 18-20 ngờ ngệch hồn nhiên bước chân lên tàu. Hà vẫn còn may mắn, nhiều đứa bạn ra đi với Hà chiều đông năm ấy không có cơ hội như Hà dù chỉ mong được làm cái bóng vật vờ của chính mình để quay về làm khổ cha khổ mẹ. Hình hài những thằng bạn đã chết giờ chỉ còn là những tấm ảnh truyền thần nhoè nhoẹt màu do ông thợ vẽ trên phố huyện nghĩ ra. Cho dù bạn có căng mắt hàng giờ, dù hồi ức kỷ niệm của bạn có sâu đậm, dạt dào đến bao nhiêu chăng nữa tài thánh bạn cũng không thể nào luận ra được là ai, là thằng bạn nào đang ngồi kia chơ vơ trên nóc tủ bên tấm bằng tổ quốc ghi công loang lổ màu thời gian, tư lự ngắm lũ nhện giăng tơ bắt muỗi mỗi chiều chạng vạng.

Như lời ông thầy Khúc ở chùa làng thì số của Vinh “ sướng từ bé sướng đi”.
Lúc mới sinh Vinh đã mũm mĩm, mặt phật, da trắng, tai to và đặc biệt là dễ nuôi. Nghe bu Vinh nói: “ Thằng này ngày bé khi được vài tháng tuổi chỉ cần nước cơm hoà tí nuối hột là nó có thể đả hàng bát”. Bố Vinh là cán bộ nhà nước ăn tem phiếu. Trong kháng chiến chống Pháp ông từng là xã đội trưởng du kích, hoà bình lập lại thoát ly là cán bộ trong ngành lương thực lên tới chức trưởng phòng của sở. Ông ít khi về thỉnh thoảng mới tạt qua nhà khi có việc như cúng giỗ, ma chay, cưới xin … hoặc lắm khi mua được chục ký gạo ít mỳ chính hay vài thước vải, cái lốp xe phân phối … ông mới qua nhà đem về cho vợ cho con.
Nhớ cái ngày mới có Mỳ chính do Trung quốc viện trợ, một lần bố Vinh về phép sau khi mâm cơm được dọn có đĩa rau muống luộc, bát nước rau vắt chanh, bát mắm cáy và quả trứng vịt sốt cà chua. Khi cả nhà đã yên vị chung quanh mâm cơm ông mới từ tốn lôi ở túi áo ngực ra cái lọ Pelexilin rồi trịnh trọng:
- Vinh đâu! lấy cho bố cái tăm.
Ông cầm cây tăm nhúng vào bát nước rau sau khi vẩy cho cây tăm bớt nước Ông mới từ tốn mở lọ Pelexilin cắm que tăm vào rồi rút ra nhúng vào bát nước rau. Dùng muôi ngoắy cho đều, múc một ít đưa lên miệng nhấp nhấp môi, mắt nhắm lại, ông gật gù: “Ngon, ngon … t u y ệ t …” Cả nhà ngạc nhiên, ngỡ ngàng rồi vui vẻ xơi bữa cơm xum họp.
- Bà thấy thế nào? Có ngọt không? Mỳ chính Trung Quốc đấy. Mấy anh em được phân phối chia nhau tôi trưởng phòng nên được cả lọ anh em khác chỉ được nửa lọ thôi. Ông giải thích.
-Tôi thấy chả có vị gì. Bà thật thà. Rồi chợt nhận ra lỡ lời không muốn làm ông và các con mất vui bà nói vớt: “ Hình như có ngọt hơn một tẹo thì phải …”
Một hôm đặt nồi cháo suông. Sau khi cháo đã nhuyễn bà lấy lọ Mỳ chính ra nêm nếm theo như cách của ông.
- Cháo nhạt toèn toẹt chả ra chó gì. Bà lầm bầm.
Tức mình bà dốc cả lọ pelexilin vào nồi. Trời ơi! nó ngang và lợ không thể nuốt nổi thế là đành phải đổ nồi cháo cho lợn.

Khi học cấp ba, Vinh phải trọ học ở phố huyện cho gần trường, vì từ nhà tới huyện hơn chục cây số. Nhà nghèo ăn còn bữa đói bữa no đào đâu ra xe đạp mà đi, họa có mơ. Vinh kể: Vinh trọ học ở nhà tay y sỹ tên Tược, ông Tược có tật từ bé bị thọt một chân, là cán bộ phòng y tế phụ trách khối “sinh đẻ kế hoạch” của huyện. Ngoài giờ học Vinh hay phụ giúp gia đình chủ nhà nên tay y sỹ rất quý. Một lần về nhà ngày chủ nhật tay y sỹ nói với Vinh: “ Cho chú mày cái này về nhà làm quà đón tay cho mấy đứa em”. Vừa nói tay y sỹ vừa dúi cho Vinh một bọc giấy báo to. Về nhà lôi bọc quà mở ra chia cho các em thì ra một bọc toàn “ Cabôt” nước ngoài viện trợ. Mấy đứa em la lên mừng rỡ “Bong bóng bay chúng mày ơi!”
- Cái này chúng em phải đổi cả bộ lông gà cho mấy bà ve chai mới được một cái đấy, một hào chỉ được hai cái thôi.
- Ô hay! Sao bong bóng này miệng nó lại to thế nhỉ mà chỉ toàn một màu. Chỉ được cái thổi bao nhiêu hơi cũng chả vỡ, dai thật đấy. Thậm chí thổi chán đổ đầy nước vào chơi, nó dài ngoẵng ra như quả bí xanh nhún nhảy lên xuống như tôn ngộ không đánh Bạch Cốt Tinh trong phim tàu, còn dai hơn cả bong bóng lợn ngày tết.
Vừa nghe thấy mấy đứa em nói “một hào chỉ được có 2 cái” Trong đầu Vinh đã nghĩ ngay ra “tiền” Bọc này chí ít cũng cả trăm cái chứ chả chơi. Thế là Vinh nói với mấy đứa em. Chỉ một loáng sau trẻ con trong làng đã đổ dồn về nhà Vinh. Bọc bong bóng hết veo. Vinh bán rẻ một hào 3 cái. Bỗng dưng phút chốc trong lưng quần Vinh có tới bốn năm đồng bạc. Số tiền này bu Vinh có bán phần tư số thóc vụ mùa cũng chả ra.
Thế là lần sau Vinh lại xin tay y sỹ. Vinh thật thà nói là bán cho đám trẻ trong làng làm bóng bay được tiền, nên tay y sỹ bắt Vinh phải ăn chia. Phi vụ này Vinh làm ăn khá, sắm được cả kính đen, những 3 đồng bạc. Đeo cho oách với lại cũng đỡ nhức mắt những trưa hè nghỉ học cuốc bộ về quê. Mãi sau này nghe mấy bà sồn sồn trong làng kháo nhau Vinh mới vỡ nhẽ nó không phải là bong bóng bay bình thường mà là cái túi chuyên dùng, để bịt “b…” đàn ông, khi vợ chồng gần nhau cho khỏi đẻ con. Lúc đầu bà con thấy hay hay sợ đẻ đái, con cái nhiều lấy cứt cho chúng ăn. Với lại được nhà nước cho không tội gì, thử cho biết Nhưng sau này chả ai thèm dùng, cho không cũng chả ai “dây”. Nên mới có chuyện trong buồng tay y sỹ phụ trách khâu đẻ đái kế hoạch tồn hàng ngàn cái bao cao su là vì thế. Qua thực tế sử dụng bà con phản ảnh với tổ chức: “Đeo cái của nợ ấy vào vướng víu, cồm cộm, khó chịu lắm, mất cả sướng đi.” Có ông khi sử dụng sau một hồi thao tác liền vùng dậy tháo ra vứt đến xoạch một cái xuống gậm giường lầm bầm chửi:
-Mẹ tiên sư nó! ăn đã phải độn quanh năm giờ đến cái khoản sung sướng này cũng lại phải độn nữa thì chết quách đi cho nó xong sống ở đời làm quái gì nữa.
Rồi tự dưng đang nằm lim dim gãi đùi vợ bỗng nghe thấy tiếng hai con chó cắn nhau ỳ xéo dưới gậm giường.
-Thôi chết! chúng tranh nhau cái của nợ kia không khéo ăn vào không tiêu hoá được lăn ra chết thì toi. Hai con chó con mới mua mất đồng bạc tận chợ huyện. Tự dưng lại đi chuốc gánh lo vào người đúng là…
Vinh kể ông Tược thọt sau này khổ, bị mất chức, thu hồi đảng tịch về vườn vì tội hủ hoá. Ông bị bắt quả tang khi đang luyến ái, trên người chả còn tí quần áo. Dân quân cứ thế còng tay dong ông dọc con phố từ kho thương nghiệp sang công an huyện. Bà con đổ ra xem tụm năm tụm bảy chỉ trỏ rồi thì thầm: “Người chả ra người một chân thì to, một chân thì bé, mà cái chân bé sao lại ngắn thế nhỉ? Các bà nhìn kìa …chỉ được cái ấy thì …” Một bà cao hứng thò cả tay ra chỉ. Mấy bà trong nhóm nhìn theo rồi vội quay đi úp mặt vào lưng nhau cười ré lên hai tay vỗ thùm thụp.

Quãng năm 67-68 chả biết quy hoạch “nhầm” hay đo đạc thế chó nào mà bộ Quốc Phòng lại phê duyệt cho đường ống dẫn dầu quân sự dã chiến chạy qua làng tôi. Lúc đầu bà con trong làng hãi lắm, chỉ sợ máy bay trinh sát Mỹ nó “soi” thấy. Cái kẹp tóc trên đầu các mẹ máy bay nó còn chụp hình, to như đòn gánh huống hồ đường ống dẫn dầu lừng lững như bắp đùi bà chửa mà đoạn qua làng dài cả chục cây số chứ có ít đâu. Nó mà bỏ bom thì tan hết làng chứ chả chơi. Nhưng mãi sau này chả thấy bom đạn gì, hoá ra toàn tin vịt cả. Thỉnh thoảng ống dầu bị vỡ bà con trong làng đổ xô nhau đi vớt. Có nhà đổ cả bể 2-3 khối nước mưa tích trữ ăn uống quanh năm để chứa dầu. Khi có tin ống dầu vỡ bà con trong làng chạy như chạy giặc. Người cầm chậu, người cầm nồi … thôi thì cứ cái gì vớt, chứa được dầu là vơ vội lao đi. Vinh kể có một lần sau khi ngâm nước tới ngang lưng để vớt dầu. Vớt xong cánh đàn bà con gái lên bờ gánh dầu về nhà. Vừa bước lên bờ cứ thế quần chị em tuột xuống tận háng, mông trắng phau. Đồng loạt chả ai bảo ai như duyệt binh chị em ngồi thụp xuống bỏ cả dầu lấy tay che, thế là công cốc, dầu vớt được đổ hết. Có bà, có cô còn bị “dầu ăn” dị ứng sưng hết cả bộ phận phụ khoa, phải lên tận bệnh viện huyện điều trị tốn khối tiền.
Sau này tìm nguyên nhân Vinh giải thích: “ Dầu là dung môi, nó giống như là … món xáo chó, khi ta hầm xương phải cho đu đủ xanh vào cho chóng nhừ, cho nên cao su gặp dầu cũng giống thế, sẽ bị mủn ra, mà cạp quần chị em ta luồn toàn thun cao su từ xăm xe đạp cũ cắt ra nên sau thời gian ngâm dầu cao su bị phân huỷ thành thử chun quần không còn tác dụng nữa nên quần các mẹ bị tuột là vì thế. “Đúng là con nhà có học có khác”. Bà con nghe Vinh giải thích thì chịu.
Năm 71 Vinh nhập ngũ. Vì có văn hoá nên Vinh được chọn đi học lái xe. Tình cờ trong bộ phận tuyển quân có ông sỹ quan ở binh chủng “đặc biệt” thấy Vinh trắng trẻo đẹp trai cao ráo lại có văn hoá nên ông điều đình với bộ phận lái xe để xin. Thế là Vinh trở thành người lính. Sau huấn luyện Vinh và một số chiến sỹ được chọn lọc nhận nhiệm vụ “đặc biệt” thay mặt cho hàng ngàn, hàng vạn … người lính ra trận được ở lại miền bắc, ở lại thủ đô trực tiếp bảo vệ đảng, bảo vệ cơ quan đầu não TW.
Cả đời binh nghiệp mấy chục năm không mấy khi Vinh phải xa thủ đô yêu dấu. Sau 3 tháng huấn luyện Khởi đầu Vinh làm liên lạc kiêm công vụ cho cán bộ tiều đoàn. Vinh thật thà chịu khó lại có văn hoá, chữ đẹp, viết lách được, không nghiện ngập thuốc xái, trà cháo thì chả biết. Toàn những “thứ” mà chỉ cần nghe lướt qua, thủ trưởng dù khó tính cách mấy cũng phải xiêu lòng. Cho nên mấy năm sau nhập ngũ Vinh bị các thủ trưởng giữ rịt không cho đi đâu. Rồi các thủ trưởng cho Vinh ôn văn hoá thi đại học, Vinh chọn đại học pháp lý. Bốn năm đèn sách từ anh hạ sỹ quan Vinh tốt nghiệp chuyển ngạch và được điều động về bộ tư lệnh làm chuyên môn. Ngày ấy tốt nghiệp đại học luật còn hiếm nhất là trong quân đội nên Vinh như mỳ chính cánh. Từ trợ lý dần dần theo năm tháng Vinh lên chức dần, bây giờ quân hàm đại tá có vị trí cao, lương tháng hơn chục triệu, được cấp đất xây nhà giữa thủ đô. Gia đình hạnh phúc, vợ bác sỹ, con cái ngoan ngoãn xinh xắn học giỏi. Nhìn gia cảnh Vinh chúng tôi thèm dỏ rãi.
Thỉnh thoảng gặp nhau trong ngôi nhà mấy tầng to đẹp của Vinh quen cung cách bỗ bã “làng Lằn” có lần tôi buột miệng: “ Tiền ông đào đâu ra mà sẵn thế?”
Vẫn thật thà chả dấu tôi Vinh chậm rãi: “ Ngày xưa thời còn hàn vi thì vợ chồng tớ nấu rượu nuôi lợn tích cóp mỗi năm mỗi tí, sau này lương lậu khá hơn hai vợ chồng tằn tiện mỗi năm cũng dư chút chút. Khi phố xá văn minh bà con chửi quá đành phải bỏ nuôi lợn dù bao năm kinh ngiệm. Phân lợn ông biết rồi đấy, nó thối quá bà con khối phố chịu không nổi. Thế là phèo! nguồn thu chính bị mất nhưng bù lại, thời gian đó tớ được “cử” đi làm kinh tế ở vùng biển phía nam. Nói là đi làm kinh tế chứ thực chất là đi giám sát các tàu đánh cá của Thái. Theo thoả thuận với ta tàu cá Thái được đánh bắt trong lãnh hải của ta ở một số toạ độ nhất định, nhà nước thu tiền. Để kiểm soát ta cử sỹ quan chuyên trách đi cùng với tàu bạn để kiểm tra việc thực hiện quy định. Chỉ cần xuê xoa một tí là có tiền bồi dưỡng. Cho nên mỗi chuyến như thế khi về ngoài quà cho vợ mấy cặp xilíp Thái, cái quần bò cho con … anh em đơn vị ký tôm, ký mực khô. Quà cho thủ trưởng thì … hì … hì” :
- Cậu biết rồi đấy. Vinh nói, hai mắt tít lại cười.
Đêm đầu tiên sau mấy tháng xa nhà dù đã có quà cho vợ mà nàng vẫn ấm ức chổng mông về phía mình. Tức mình tớ mới vén màn chui ra tìm cái ca táp kéo phẹc mơ tuya ngăn đựng giấy tờ lôi cái phong bì dầy dầy mà chủ tàu Thái nó biếu trước khi chia tay, rồi chui vào màn dúi cho vợ. Nàng bật dậy như robôt ôm chầm lấy tớ “Thế mà cứ dấu, đồ chết tiệt thôi cởi nốt ra nhanh lên đang thèm muốn chết đây”. Căn phòng bỗng chốc tối om.
Mỗi năm đều đều ra bắc vào nam xuống đơn vị kiểm tra. Nhất là khi có vụ việc vi phạm pháp luật dưới đơn vị, mà chuyện đó không nhỏ thì to đơn vị nào mà chả có. Anh em họ quý mỗi lần xuống giải quyết như thế cũng có đồng ra đồng vào.
Tích tiểu thành đại, bao nhiêu năm bóp mồm bóp miệng hà tiện cho nên ông hỏi tại sao “sẵn tiền” thì tình thực là vậy chả dấu gì ông.
Ngắm kỹ Vinh dù đã gần 60 nhưng trông thằng bạn vẫn phong độ, da trắng hồng tính tình vẫn như xưa chất phác, hồn hậu, chu đáo. Tôi nói với Vinh: “Tiếc là Ông thầy Khúc ở chùa làng không còn, nhưng dù đã mất ông cũng nên sắm cái lễ về quê thắp nhang tạ ơn ông ấy.”
….
Có phải là số phận không? Tôi cứ đắn đo tự hỏi rồi lại tự giả nhời. Nhiều khi không muốn tin nhưng như cuộc đời của ba thằng bạn cùng làng mà tôi vừa kể cho các bạn nghe kia thì là cái quái gì nhỉ? Chẳng lẽ không phải là số phận! Đúng như lời ông thầy Khúc ở chùa làng “ Cuộc đời mỗi người sướng khổ đều do trời đất sắp đặt cả, chả ai thoát và chọn lựa được số phận”.


 ❧ ❀ ❧ 

Lấy từ Facebook của Duy Đảo





2 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>