1.
-
Bố ơi, ở nhà có bác Thọ ra, với cả bác gì bí thư xã nữa.
Nghe thằng Tùng thông báo, Thông cảm thấy có “dấu hiệu mệt mỏi” ở lưng, chỗ năm kìa tai nạn. Ông Thọ là trưởng chi kiêm trưởng họ, hồi trẻ công tác xã hét ra lửa, đi bộ đội về thì đổi nết sang “âm lịch”, thích ăn trầu thuốc và nghe các cụ kể tích xưa, chả bao giờ rời quê đi đâu. Bí thư xã là ông Mật nói năng như đánh trống, rất hay dùng những từ “chính trị” hệ trọng. Hai bác ra, là có chuyện tày trời rồi.
Làng Bùm quê Thông ở miền Trung, giải đồng bằng hẹp chạy ngoằn ngoèo bị kẹp giữa những dãy núi thấp cằn cỗi. Sông Đỗ nhỏ, dốc tưới mát cho ruộng đồng nhưng cũng lấy luôn đất mùn, phân gio mỗi mùa lũ, đá sỏi đổ xuống dọn cả tháng mới hết. Nghèo kiệt, những sắn với khoai bắt nạt hạt cơm hiếm hoi trong nồi, chả có lấy mống khoa bảng, nhưng dân Bùm lại mơ mộng, chế ra điệu hát “Tiễn chàng lai kinh ứng thí” nổi tiếng. Tổng Lại Xá tít đầu tỉnh có họ Nguyễn Đức đỗ đạt nhiều nức khắp vùng, làng Bùm muốn chiết lấy một cành bèn chọn cô gái sắc nước hương trời gả cho con trai Nguyễn Đức nhưng bắt ở rể. Cái hạt giống sang trọng ấy chả may lại lép, trai Nguyễn Đức đẻ ra ở Bùm cũng chỉ đến đi sau đít trâu ặc ặc là cùng.
Thành hoàng đầu tiên là vị Lạc tướng thời Hùng Vương đi đánh giặc “đỗ” lại lấy một bà vợ ở đây. Các triều vua sau, tuỳ vào sự yêu ghét của mình, lại thay đổi liên tục, lúc ông quan văn mặt mũi khó hình dung như công tích, lúc tổ một nghề giờ chả còn dấu vết gì. Cách giờ đôi ba trăm năm cả vua Lê chúa Trịnh ngoài Bắc Tây Sơn mé giữa trong cùng chúa Nguyễn, dân chúng rất chi lúng túng, cuối cùng “bầu” lại ông Lạc tướng. Những năm sáu mươi chống mê tín dị đoan quét tàn tích phong kiến, Thành hoàng thoạt kỳ thuỷ ấy bị thổi bay cùng ngôi đình bé nhỏ. Sắc phong, hoành phi câu đối bài vị gia phả đốt tiệt, tượng lớn tượng nhỏ bê bỏ lò nung vôi. Những vị chủ trương, những ông thực hiện, những thằng chống phá phong trào hồi ấy giờ chả còn ai. Thế là đứt, là tiệt cả rễ con rễ cái từ quá khứ đâm lên.
Thời chiến, Bùm là cái túi đựng bom đạn ác liệt, khi bộ đội mở qua làng con đường tiếp đạn cho địa phương. Những cửa nhà ngả ra chống lầy cho xe đi, những thanh niên không trở về. Ngày xã nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang, Thông đứng trên gò Luỷ nhìn xuống đám đông, thấy những đàn bà trắng khăn tang, có cảm giác rất lạ.
Rồi cũng đến lúc yên hàn. Được yên tâm gieo cái cây mình muốn, quay vòng gối vụ trên thửa ruộng của mình, chả giàu được nhưng cũng đủ ăn. Được đi đó đây cất nhà, bế con, chạy xe cho thiên hạ, có anh lên bằng đường ăn học. Ngôi nhà to nhất là của lão Phái, hai nhiệm kỳ con dâu cứ vừa đẻ là đi sang bên Đài Loan, mang theo bầu vú căng sữa lành. Cất mình lên để được có xe con về như làng Hầu lắm quan, tấp nập thương lái về cất hàng dệt tay như làng Nhự, là một giấc mơ lớn. Vì chửa có gì, nên dân Bùm luôn luôn phải mơ ước, đắm đuối một ông Thánh lớn vọt lên hay phát mỏ người tài ra ngoài ăn to nói lớn cưỡi đầu thiên hạ. Mỗi lần một anh thoát ly về phép, nấu nồi chè tươi to đùng và nửa thúng kẹo cu đơ, cả xóm đến nghe kể chuyện làm ăn xây cất nơi khác, hỏi những kinh nghiệm ấy nọ, uống no nước đi đái lại hỏi tiếp mặc cho anh kia mót vợ. Mà anh nào mang về nửa túi dứa bánh mỳ đem chia thì được quý ơi là quý.
Rời làng từ mười bẩy tuổi để vào đại học, thi thoảng mới về ngắm hàng tre lơ thơ đầu sông máng, những nóc nhà đã lợp ngói nhưng lè tè thấp, Thông thấy mình nhiều cảm giác trái ngược. Thương vì đơn sơ, phong cảnh cứ trụi thùi lụi, nhưng “tắm” hẳn trong tình làng xóm thì lại rất vướng víu. Tôn ty thứ bậc, những dò hỏi râm ran của những con người cả đời sống trong luỹ tre như tấm màng vô hình mà dầy chặt, dai dẳng vô cùng khiến kẻ ở phố về rất khó xử theo ý mình, như muốn thăm ai lại sợ người không được thăm trách, quà cáp thế nào cho “bình đẳng”. Kính nhưng mà xa, anh dùng cách ấy để “gián cách” quê nhà mà không bị đứt gốc, nộp đủ đồng cười đồng khóc đồng họ đồng hội nhưng không ý kiến ý cò gì bao giờ. Để các cụ nghị luận với nhau cho sướng, anh trung niên nhiễm thói thị dân tự nghĩ tự quyết xác định, mình cứ góp phần to hơn người khác là được, nhưng hơn chút đỉnh thôi, quê ta không thích chơi trội.
Nhưng hai bác ra tận nơi là không lẩn được rồi. Thắm sẽ về muộn, nên Thông qua Hàng Buồm mua sáu lạng thịt quay hàng mấy cô trắng ngậy mịn mỡ, cả kiệu muối, giò chả, ghé góc chợ Hàng Da lấy nửa con vịt có tỏi tía pha nước chấm. Không đơn giản được, dù biết các cụ chả ăn được bao nhiêu. Nghĩ thế cơn oải đã dồn lên.
2.
Té ra thằng Tùng báo cáo không rành. “Báo để chú biết là tôi thì đã nghỉ cả mấy chân công tác, chỉ còn chăm lo việc họ việc làng, nhưng bác Mật thì đã lên huyện mấy năm nay rồi, tiến bộ rất nhanh. Cánh Tàm Thôn chia nhau các phòng giáo dục, văn hoá thì Bùm mình có ông Chược phó bí thư thường trực, bác Mật là trưởng ban tuyên huấn huyện, lại còn chỉ đạo họ ấy chứ”, ông Thọ nhanh nhẩu. Và kéo Thông ra nói nhỏ: “Chú phải giáo dục cho vợ con thế nào, tôi đã nói thế mà thằng bé chỉ pha nước rồi trốn biệt lên phòng. Bọn trẻ là dễ hỏng vì ba cái thông tin trên mạng lắm đấy”. Thông ậm ừ lễ phép, lại đi thay tuần trà còn đặc cắm tăm nhưng nghĩ bụng: “Thế này là thành sự lớn rồi đây”. Ông Thọ lớn tuổi hơn ông Mật, gọi theo vai trên cũng phải, anh con bác đằng vợ kia mà, nhưng tính về đằng mẹ thì vẫn còn trên ông Mật, xưng hô thế là nể trọng người đi công tác thôi. Nhưng sa vào cuộc phân ngôi thứ tôn ty quê mình thì hoạ có là điên. Bèn gọi con xuống trách qua loa, bảo nó đi mua rau sống có cả hành hoa với lại đủ chanh ớt nhá.
- Rượu thì thôi.
Ông Thọ lôi trong ba lô ra cái can ba lít, túi gạo nếp, đỗ xanh, một lũ gừng tỏi tươi. “Rượu nhung hươu. Các thứ trồng được cả. Cho trẻ con biết món quê hương chú ạ”. Ông nói hiền lành, nhưng Thông vẫn cảm thấy sức ép đang dồn lên, bèn lễ độ “các bác xơi nước, em đi chuẩn bị, hôm nay mẹ cháu về muộn”. Khác với mọi khi ăn to nói lớn, ông Mật đối xử điềm đạm, vẻ của người thoát ly, lên huyện chứ không phải hạng phong trào hô to là thắng. “Chú không phải vẽ quá, chúng anh định mượn chén bàn công việc là chính”,
Bữa rượu đang độ thì Thắm về, rất rối rít với những ông anh quê chồng. Giỏi thật đấy, về đâu mấy bận mà hỏi thăm được tận cụ Ứng già nhất họ và lũ lỹ con cái ông Thọ, cứ như dân tổ chức. Rồi Thắm càng mừng rỡ khi biết xã có thế trong các cuộc bầu bán ở huyện, “chắc chắn được thế là nhờ ở uy tín bác Mật rồi”. Sang vì vợ, Thông thấy hởi lòng hởi dạ tuy biết chắc “thủ trưởng” của mình đang nghĩ lung đoạn khách ở bao lâu, phải giúp giập cái gì đây. Sự thính nhậy đàn bà, nó cứ là phải thế.
Cỗ to, khách ăn ít nên thừa ú hụ, cất vào tủ lạnh thì mai không thể đem ra đãi lại nữa. Phải món mới và thừa mứa. Cái sự tiếp khách quê nó phải thế, không thể khác, dù chả tiếc tiền nhưng lại là cái cách rách cho chủ nhà. Thắm hăng hái tiếp cho hai bác nhiều quá, làm Thông phải “phanh” lại. “Mình cứ để tự nhiên, bác ăn gì thì gắp…”.
Hỏi han những chuyện bao đầu, thì biết năm nay lúa mất nhưng đỗ lạc được. Cây cao su, cây quế đang được “phát động” sau cây keo, còn bạch đàn đang “triệt để”, nghĩa là hạn chế trồng. Làng khuất nẻo, chả có thế mạnh nào đẩy lên làm “mũi nhọn” được, cũng chẳng ai về cắm dự án, nên cứ tằng tằng vậy thôi.
- Còn ngót dăm chục hộ nghèo chú ạ. Điện đi qua bìa vườn mà không câu dây vào nhà được. Một tồn tại không nhỏ là mấy năm nay bão lũ không héo lánh đến nên tiền của cứu trợ không ai rót nữa.
Ông Thọ nói bình thản, nhưng Thông hơi nhăn nhó: “Nhưng em thấy lắm khoản đóng góp quá, đồng đình đồng họ ăn hết vào đồng điện”.
- Đấy lại là cái các anh ra muốn bàn với chú. Nhưng uống cái đã.
Ông Thọ ngửa cổ rồi đặt phịch chén xuống. Kể thì rượu quê pha nhung hươu êm thật, tuy có hơi khê nhưng nói những chuyện phải nghĩ nó không hợp. Dù biết tẹo nữa phải nghe những chuyện để lo với lắng, Thông vẫn cạn hết chén thứ năm. “Mà bác Mật chả uống mấy cũng ít ra lời là thế nào, anh em mình ít khi gặp nhau bác ơi…”. “Thôi chú thông cảm anh là Mật nhưng từ ngày lên huyện sáng chào buổi sáng trưa giao lưu tối liên hoan sắp vỡ mật rồi”, giọng rất tỉnh.
*
* *
Hai bác bảo không cần pha chè nữa vừa mất ngủ vừa thận yếu tiểu đêm. Rồi vào chuyện, khi Thắm đã dọn dẹp xong, xin phép lên gác, còn thằng Tùng thì rút vào cái “ổ” để liên lạc với thế giới từ lúc nào.
Ông Thọ nói trước: “Như chú đã biết, cách đây gần dăm chục năm tỉnh ta đi đầu trong phong trào triệt để đình chùa, chống mê tín dị đoan quét sạch tàn tích phong kiến. Mà làng ta lại hăng quá, đi đầu tỉnh, phá sạch miếu mạo với những nơi thờ phụng. Giờ nghĩ lại chả biết phải hay chẳng phải, chỉ biết là rất hãi. Ông Phụng bí thư thời đó cả nhà phát điên, dân quân chặt cây đa lấp mắt rồng thì anh dở người anh đẻ con quái thai. Giờ an lành rồi, bên Đông bên Đoài xây lại đình chùa, ta không thể không làm. Lần chú về thì đình mới đã tụ nóc, lợp ngói, nay thêm tường bao, trồng lại đa đề với đào ao cho nó soi bóng xuống. Nhưng bên trong thì rỗng, hoành phi câu đối đã đem thưng chuồng trâu ráo, nhìn vào hậu cung trống toang rất sốt ruột. Nghe bảo ông cụ Thụng ngày xưa đem giấu được bài vị thờ ông Lạc tướng tôi mừng quá, đến xin thì ông ấy bảo đấy là cụ Thậm, mà cụ Thậm chết từ tám hoánh, con cháu chả biết gì”.
“Giờ thì phải có nội dung để thờ. Chưa có chùa thì các vãi ra đình kể hạnh cũng được. Nhưng khách đến hỏi thờ ai, không có câu chữ Nho kể công tích các vị với phong vị sản vật quê hương nào cả. Nói tóm lại là phải đầu tư tiếp. Chú vừa bảo quê nghèo mà phải góp nhiều quá, kể cũng đúng. Nhưng thế lại là không hiểu tình cảm làng nước rồi. Người tỉnh lắm tin tức nghe cứ loạn cả lên, nhưng ở làng thì phải có cái để tin theo chứ. Anh muốn bàn với chú huy động tiền của hảo tâm để hoàn thiện được cái nội thất bên trong đình”.
- Em tưởng truyền thống thôn trưng cả trong nhà văn hoá rồi mà, Thông nói.
- Nhà nước cho những nhà văn hoá thôn đấy nhưng có ai đoái đâu. Khách không bao giờ, người làng nghe đài xem tivi chả ra đấy rặt mấy tờ báo cũ. Bao giờ họp bổ thuế, phổ biến phí khuyến nông phí thuỷ lợi phải quét bụi đến khổ. Đấy là việc xã, anh nói ngắn thôi, để bác Mật phổ biến chuyện huyện…
Nhưng Thông chưa sẵn sàng để quán triệt ông Mật, còn dùng dằng tiếc ngôi đình xưa nhỏ mà đẹp quá, em học xa chỉ nhớ mùi nhang với mốc thếch trong gian thờ, trồng nụ trồng hoa trước cây đại, chứ có nghĩ đến nhà văn hoá bao giờ đâu. Ông Thọ bị cuốn theo cơn nhớ nhung quá khứ cứ “thì thế” “thì thế”, muốn à ơi tiếp nhưng thấy ông Mật đã bắt đầu căng cứng thì ngưng ngay.
- Báo cáo với các đồng chí là tôi xin thay mặt huyện uỷ, uỷ ban quán triệt đến các đồng chí phần thứ ba trong nghị quyết của huyện ủy ra tháng trước, ông Mật mở đầu, và đã được hội đồng nhân dân huyện nhất trí thông qua. Như các đồng chí đã biết, đặc điểm tình hình huyện Thanh Hạ có nhiều thuận lợi cũng như khó khăn, nhiều cơ hội tiến lên xong cũng không ít phức tạp. Quyết tâm của huyện là phải tìm ra một mũi nhọn làm đột phá khẩu về kinh tế xã hội, cho nên sau rất nhiều các bàn thảo và một loạt những lấy ý kiến…
Đến đây thì Thông nhũn nhùn nhùn. Cái cảm giác đi họp quen thuộc, cuộc rượu làm mắt anh sụp xuống, may mà ông Mật mải “giở băng” không nhận thấy. May là anh kịp tỉnh để nghe mấy câu kết thúc.
- Trên cơ sở mục đích yêu cầu, những thuận lợi khó khăn như vậy, chủ trương tận dụng mọi nguồn lực, huyện quyết tâm…
*
* *
Khách quê ra đi đường mệt, sớm ngáy pho pho, nhưng chủ nhà trằn trọc, uống rượu khát một phần, phần chính là vì câu chuyện. Thấy chồng khó ngủ, Thắm bảo ban nãy căng da bụng chùng da mắt lắm cơ mà rồi ngó lơ lên trần. “May là em không có quê”.
- Em bỏ quê thì có, Thông lầu bầu.
- Gốc một nơi, các cụ bỏ đi sớm, đẻ một nơi rồi lớn lên một chỗ, quê còn biết mình đâu mà lý lịch cứ xưng ra. Em khai quê Hà Nội chả thấy sao cả.
- Nhưng anh thì khác. Anh rất muốn đưa thằng Tùng về mà nó chả tha thiết gì. Cội rễ là cái vô hình nhưng rất quan trọng. – Thông chuyển sang giọng hài hước - Đứng về mặt triết học, nó giải quyết câu hỏi “Ta là ai, ta đi về đâu?” đấy.
- Thằng Tùng thì đừng mong gì quá. Anh cứ đưa nó về như đi du lịch trước đã.
- Ừ, có lẽ thế hơn.
Thông đáp, cảm thấy vợ có lý. Mắt đã hơi díp díp thì Thắm lại líp nhíp: “Hôm nay em đưa một đoàn khách văn hoá Trung Quốc thăm Văn Miếu, họ rất thích thú khi đọc được những chữ của mình. Em thì phải bấm bụng tự bảo “Các đại trí thức của nước tôi đến đây lại chả đọc được gì”. Cũng là một cái gốc đấy, nhưng ta đã bỏ rồi. Hôm hội thảo quốc tế về bản sắc văn hoá, một Việt kiều thế hệ thứ ba bảo tôi không có khái niệm quê hương, giờ tôi là người quốc tế, nghe bất nhẫn nhưng cũng khó có thể khác”.
Những lời của vợ làm Thông bối rối. Chả tìm đâu ra câu đáp, chả nhẽ đem những “lý luận” kiểu “quê hương là chùm khế ngọt, cho con trèo hái mỗi ngày” ra đáp lại. Mà Thắm có tranh luận đâu, chỉ rỉ rả kể. Bèn đáp lại: “Nhưng các bác đã ra là hệ trọng rồi, mình phải cố giúp hết sức, ít nhất là chu đáo trong những ngày các bác ở nhà mình”.
- Em thấy chả sao cả, nhưng em rất bận, hôm nào về muộn anh lấy thức ăn trong tủ ra nấu, kẻo vợ anh lại mang tiếng hẹp bụng.
Câu đáp làm Thông nhẹ người, nhưng lại tiếc những buổi thể thao rồi ra bãi bia ăn tục nói phét. Kể cũng lạ, đàn ông bằng tuổi mình ở đây còn bóng banh nhố nhăng chạy theo gái trẻ, mà ở quê nghe câu nhiếc “thằng này đ. biết đẻ con trai không cho nó vào mâm” là có thể đánh nhau được. Nghĩ đến đấy lại muốn, bèn quàng tay sang vợ xoa xoa. “Mà cũng phải xem quê hương thế nào chứ”, Thắm bắt đầu thích nhưng còn cố nói.
Buồng dưới nhà thức dậy rất sớm, phần nhớ thuốc lào, phần lo việc. Ông Thọ điểm lại phần quà cho những người có thể gửi gắm, ông Mật nhắc chú đừng để đình làng át mất di tích khi anh quán triệt cho họ hàng và hàng huyện, cứ thế rỉ rẩm.
3.
Cuộc họp “sơ khởi”, “tiên phát” – như cách ông Mật gọi - đồng hương Thanh Hạ, ngoài Thông có ba người, tất nhiên đều đang đảm trách những vị trí danh vọng nhất ngoài Hà Nội. Thanh niên, dù đại gia nứt đố đổ vách gọi sau, vì “chúng nó ít máu quê hương”, cứ để cha mẹ điều động. Theo lời hẹn, họ đều sớm có mặt khiến “ban tổ chức” yên lòng. Đó là đại tá Bùi Thế Nhiệm, trước khi về hưu là phó chủ nhiệm chính trị binh đoàn X. Ở tuổi gần bát thập, khổ sở vì bệnh suyễn, ông nói ngay “đừng hút thuốc lào nhớ” và rất ít ra lời. Bài là giảng viên đại học, có tên trong chấp hành một hội nghề nghiệp gì đó. Và Phương, phóng viên văn hoá ở một toà soạn, bài vở đã vài lần nhắc đến sông núi, truyền thống quê nhà.
Sau tuần trà nước, ông Thọ gửi mỗi người một túi lạc “gọi là quà quê”. Ông Mật thay mặt đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong Thanh Hạ cảm ơn sự giúp đỡ bấy lâu của những người con xa quê hương, rồi mở đầu. Ông nhắc đặc điểm huyện nghèo, “giê đê pê” tính ra thấp nhất tỉnh, đa phần xã ở diện một ba lăm, bao năm qua lãnh đạo tìm một hướng đi lên cho huyện, phải nói là rất bí. Kinh tế ngoài bốn “lờ” là lúa lợn lang luồng thì đủ ăn là may, chả trông vào đâu cả. “Nhân lực trước là một thế mạnh, chiếm nhiều vị trí chủ chốt trong tỉnh, nhưng mấy nhiệm kỳ vừa rồi đám Cù Khê, Ba Lạt cậy kinh tế khá lên ào ào, những quyết định, dự án quan trọng họ lôi về hết, mỗi lần họp tỉnh không khỏi tủi. Huyện quyết tâm đi lên bằng chính trị, cụ thể là xin cho bằng được cái di tích thời chiến tranh chống Mỹ hay chống Pháp đều được. Có thế mới tạo ra thế mạnh, người ta đi đâu về đâu đều ghé chỗ đấy ôn lại truyền thống, ta mở dịch vụ phúng viếng bên cạnh như ở các nghĩa trang liệt sĩ quốc gia, tuyên truyền mạnh mẽ trong nhân dân và thanh niên cả nước. Dần dần, Thanh Hạ khôi phục được vị thế trong tỉnh, động viên được nguồn lực đỡ bên ngoài…”
Ông Mật lục cặp lấy ra mấy tập giấy. “Đây là nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện mới thông qua, tôi đã gạch dưới những câu liên quan đến điều vừa truyền đạt tới bác và các anh”. Nhìn cách tiếp nhận nghị quyết của các “đối tượng”, Thông thấy ngay là hỏng rồi. Anh đảng viên ngoài phố khác ở huyện, càng khác anh trong luỹ tre chứ. Mà không biết mấy ông này, trừ bác Nhiệm, có phải đảng viên cả… Nhưng lời kết luận của tuyên huấn đã vang lên:
- Như thế gọi là đi lên bằng nội lực. Các bác các anh người đã nghỉ người còn đương chức nhưng đều có sẵn các mối quan hệ và hiểu biết. Bát máu đào hơn ao nước lã. Huyện rất cần sự đóng góp của các bác các anh, bằng chất xám trước, chứ vật chất thì sau đã.
Ba vị khách đều im phắc. Ông Nhiệm và Bài còn liếc vào tập nghị quyết chứ Phương đã gạt phắt sang bên, hỏi ngay: “Thế huyện định xin lập di tích ở đâu?”.
- Cũng chưa rõ lắm. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp, đâu đâu trong huyện cũng có đóng góp, hy sinh, làng nào mà chẳng vài mươi liệt sĩ.
- Chưa có địa điểm cụ thể thì khó lắm, Phương lúc lắc cặp kính tổ bố.
- Thật ra thì chọn ngã ba ở thị trấn huyện là tốt nhất. Chiến tranh, đấy là túi bom, đường hành quân vào Nam đi qua, địch nhất quyết đánh phá, ta nhất quyết thông đường, hy sinh nhiều vô kể kể cả bắt được phi công Mỹ. Bây giờ chỗ ấy chụm vào thêm mấy con đường nữa, có cái kỉ niệm, tượng đài chẳng hạn, người ta dễ dừng lại thăm viếng.
- Người cũ còn ai không anh? – Phương lại hỏi.
- Tiếc là không. Ông Oánh huyện đội trưởng hồi ấy mất năm kìa, ông Chống xe thồ bà Yên hát Ví làm cọc tiêu sống đã đi cả. Còn độc cụ Diểu dân quân thì lẫn lộn. Tôi mới tìm hiểu đến đấy.
- Thế thì anh phải đi tìm thôi, lấy lại lời người sống sót. Mà nhanh lên kẻo các cụ đi cả.
- Rồi huyện sẽ làm, giọng ông Mật đã dịu lại. Nhưng trên này các anh biết ông nào đóng to mà trước kia chiến đấu ở đấy, hoặc chỉ dính dáng thôi…
Ba “đối tượng” chính nhìn nhau. “Nghĩa là chưa có gì để lập hồ sơ chứ gì? Thế thì lại phải đi tìm”, Phương lẩm bẩm. “Còn phải mất thời gian đấy. Tôi biết rõ chuyện chạy bằng di tích, chả phải nói xuông, có sự thực sờ sờ mà được đâu”.
- Thế thì huyện mới cậy đến các bác các anh ngoài này. Chuyện tốn kém quà cáp trong ấy cũng liệu là phải có rồi. Nhưng bây giờ xin sang nội dung của xã ta. – Ông Mật chuyển sang ông Thọ - Chú trình bầy đi.
“Luận văn” miệng của ông Thọ được “soạn” kỹ rồi, nhưng chuyện của cấp huyện to tát mà cũng nhiều vấn đề quá, nên ông quên mất. Nhãng một lúc nó mới xếp lại mạch lạc được, giọng quê rề rà như nói chỉ cho mình nghe, ý chân phác nhưng lại được “khán thính giả” chăm chú hơn.
- Bốn mươi năm thờ cúng đứt mạch, giờ mới thấy đuổi thần thánh đi là sai, thấy mình như cái cây trốc gốc. Hội hè làng nọ xã kia mở lại cả, các bà làng mình ngày rằm ngày một chả biết kể hạnh thắp hương ở đâu. Ngôi đình đã dựng lại còn đơn sơ quá. Cái bia năm “triệt để” đập mất, chả biết gốc tích ra làm sao. Làng nghèo, thôi thì trăm sự nhờ các bác các anh góp tay mở miệng vận động người họ người xã đi đâu đâu công đức cho bằng người. Cứ nghĩ đến hội bên làng Phủng vạn người nô nức mà tủi, mà thành hoàng bên ấy chỉ là anh nhặt cứt trâu, sao bằng Ngài nhà mình. Lời quê dông dài, thế cũng là nhiều đấy ạ…
Những lời rất nhũn nhặn mà chả ngờ lại làm ông giảng viên đại học bùng lên. Sự phản ứng dù được kiềm chế vẫn rất khó nghe:
- Tôi nói thế này không đúng chỗ, vì các bác không phải người gây ra. Nhưng hồi tôi có giấy gọi đại học, chính quyền xã ỉm đi không cho gia đình biết. Không có người lên Hà Nội dò danh sách gọi học có mình thì tôi giờ cũng là anh chân đất mắt toét đi theo đít trâu còn gì.
- Chuyện xưa rồi anh ơi…
Thông cất lời cản nhưng Bài lơ đi. “Mà tôi được gọi đi nước ngoài. Không được đi Tiệp hồi ấy trong diện viện trợ cắt lại cho lưu học sinh thì gia đình cũng chả nuôi được tôi học trong nước. Trần xì mỗi tháng mười tám đồng ăn học thế nào được. Giữ giấy gọi lại là ông anh của anh đấy”, Bài chỉ tay vào ông Thọ. “Hồi ấy chủ tịch xã quyền thế, yêu ghét ai là lấy tay che cả mặt trời được”.
Bài đứng phắt dậy đi nhanh ra cửa, rồi quay lại cũng nhanh như thế. Ừng ực hết cốc nước cho cơn giận xuôi xuống, vẫn đứng thế, ông lại xả:
- Tôi biết các bác không có lỗi, không liên quan trong chuyện này. Tôi cũng biết quê ta nghèo, muốn có danh cho thiên hạ tỏ mặt vua biết mặt chúa biết tên. Nhưng không nói không chịu được. Làng nghèo nhỏ bằng cái teo mà mang danh cách mạng ra đè nhau quá đáng quá. Đúng là giống kỳ mục kỳ nát có quyền là cậy quyền. Hồi nhỏ ở làng tôi khổ đến nỗi bây giờ ngửi thấy mùi khoai là buồn nôn. Không thoát ra được thì là khố giây chứ còn gì, mà giờ các bác lại bảo chúng tôi là những niềm tự hào của làng Bùm. Thôi tôi nói thế thôi, chứ cũng yêu quê hương chứ. Tôi sẽ góp tiền làm đình và gặp ai thì bảo họ làm giống mình…
Giọng đã dịu lại. Những lời đã ra làm đại biểu quê hương khấp khởi, thì Phương lại gây chuyện, có ôn tồn hơn.
- Hôm nọ tôi về nhà, ra ngắm qua đình mới rồi. Làm đúng nền cũ là phải, nhưng so với đình xưa thì trơ trẽn, trống trải quá. Tôi có kỷ niệm rất đau hồi chống mê tín dị đoan, xã buộc ba con trâu vào cột đình kéo đổ, bà cụ tôi ra can bị lão Phụng bí thư hét dân quân trói gô gốc duối. Cụ nhìn cảnh phá đình đau đớn phải ngất đi, tỉnh lại cứ nói sảng chết thôi chết thôi sao ác thế. Tiếc là những đứa phá đình không sống thì cũng thân tàn ma dại rồi, không tôi nhét cứt vào mồm nó. Thử hỏi cái trụ sở ủy ban, nhà văn hoá với nhà cộng đồng thôn, xây chả phải bằng tiền dân đấy, nhưng ai đi xa về gần có nhớ đến không? Chả báu lắm đấy. Người ta chỉ biết mái đình la xuống đầu đao véo lên, tiếng chuông chùa lan xa thôi. Thế mà tiệt mà đứt, giờ phải tính cất lại thì có ngu nào ngu bằng. Đang nhiên đem thằng mới về vứt tổ tông đi.
Ai nấy lặng ngắt. Ông Thọ mặt đuỗn ra, ông Mật xám như chì mẹ cha cái tụi thành phố nó chửi chúng mình dễ quá. May mà ông Nhiệm cất giọng, dù chậm rãi mà rành rọt, những điều ai cũng phải lắng nghe:
- Nếu kể tủi hờn ra thì tôi cũng góp được đấy. Năm 53 đang chính trị viên tiểu đoàn, về đến đầu làng gặp cụ Sức bảo anh quay đi ngay không đội cải cách bắt. Nhà tôi gieo mầm cách mạng đầu tiên, cuốn sử Đảng bộ xã ghi gì đâu, cứ phe giáp mình mà kể. Nhưng thôi. Lịch sử nào cũng có nhiệm vụ của mình, vì lẽ riêng mà chỉ nhớ đến điều dở thôi là không nên. Đánh giá, rút bài học này nọ là việc của trên và các ông chức năng, ta là những con người bình thường thì hãy quan tâm đến việc bình thường, như nguyện vọng của huyện hôm nay… Anh Phương vừa hỏi một chuyện rất thực tế. Điều tôi muốn hỏi anh Mật là một thực tế khác: thời buổi làm kinh tế, sao Nghị quyết lại xác định đi lên bằng chính trị? Tính thế liệu có hợp không nhỉ…
Vừa giãn nguời ra vì câu ủng hộ, ông Mật phải co ngay lại. Cái điều, cái giọng của con người từng ở ngôi cao ấy làm ông phải so đo. Câu trả lời bật ra không ngờ lại rất “nôm na”.
- Nói thật với bác lâu nay Thanh Hạ ta lép về khoản cán bộ so với các nguồn khác trên tỉnh. Như các bác đều biết tỉnh ta có ba vùng miền núi, đồng bằng và duyên hải. Trong chiến tranh cơ quan tỉnh rút lên miền núi ta, sau này nguồn cán bộ cũng lấy từ đấy. Nhưng sang thời kinh tế thị trường thì bao nhiêu rường mối về tay đám đồng bằng với thị xã cả. Tổ chức, phó bí thư trực bên Hạ Câu, ngân hàng, bưu điện, hải quan béo bở không Cù Khê thì Ba Lạt, còn lại ta chỉ văn hoá xã hội èng èng mà lại dưới trướng phó chủ tịch người Vạn Hoa. Họ có ghế rồi đưa con cái, phe cánh về ùn ùn, chiếm hết chỗ ngon. Đại hội Đảng bộ tỉnh bầu khoá mới rồi bí thư huyện ta may mà vừa đủ phiếu vào tỉnh uỷ, mà ông này người nơi khác, cử về một nhiệm kỳ làm nguồn lên chỗ mới thôi, còn những anh gốc Thanh Hạ bầu cho nhau thì được phiếu nào hay phiếu ấy. Tay lẻ khó vỗ là thế. Đi đại hội về chết giấc vì tức. Mà thời chiến những chỗ ấy ít bom đạn, hy sinh sao bằng Thanh Hạ ta. Có một di tích hoành tráng trong huyện để rồi trung ương, cả nước biết đến, ta không thể không lưu ý các vị mỗi khi đại hội phải bầu bán này nọ là đừng quên cái nơi đã chịu đựng cho cả tỉnh trong chiến tranh mà dành hết các vị trí về mình. Trả giá rồi thì phải đòi lại chứ, các anh huyện khác hưởng hết à? Đấy là cái điều không ghi vào nghị quyết được ạ.
- Ra là thế…
Người đáng kính nhất chỉ buông vậy, rồi ngả hẳn mình không nói năng gì nữa. Sự im lặng của ông nặng như núi ngàn cân đè chịt những người khác khiến chẳng ai mở mồm nổi.
4.
Cuộc “họp” vãn, hai ông chủ trì đều nặng trĩu, chả biết kết quả là thành công hay thất bại. Đi thuyết phục đám đồng hương ra phố này không dễ chút nào, ông Mật cáu. Tức nhất là cái thằng Phương, tuổi kém mình bề bề mà nó cứ cật vấn ra điều phải lứa, dễ những lúc được hỏi ông bộ trưởng ông uỷ viên cũng láo thế được chắc? Thằng Bài trí thức dậy đại học mà không biết nhẽ, sao cứ quàng vào chúng ông những chuyện người trước làm không phải. Nhưng anh ách nhất lại là ông Nhiệm, nói năng như không còn gì là người huyện người làng nữa, nghị quyết đã nêu mà cứ vặn. Mà lại đã qua quân ngũ, phải biết thế nào là sự lãnh đạo, ra trên dưới chứ.
Ra là đồng hương rồi nhưng đã mất gốc, không trông cậy được. Họp không đi đến đâu là do tuyển chọn nhân sự, những gương mặt mời đều do Thông nêu ra. Nhưng đang ở nhờ, ông Mật chỉ bảo “Lần sau không bảo mấy vị này nữa”. “Đây mới chỉ là dạo đầu bác ơi”, Thông cười hơ hớ. “Còn phải đi gặp gỡ, thuyết phục, trình bầy, nhất là phải nghe, không nghe người ta không giúp đâu”. Càng ở lâu, ông Mật sẽ càng thấy Thông có lý. Nào ngờ được là khi đi thực hiện sứ mạng huyện giao, còn không ít lần, ông còn phải đối đầu với câu hỏi “sao lại chính trị đi trước?” ông Nhiệm đã nêu. Mà có phải lúc nào cũng thưa lại thật thà như lần này được đâu.
Bí, tức mà không trút đi đâu được. Lại sáng ra chả có con văn thư sai nó pha nước…
Không trầm trọng như Mật, ông Thọ cảm thấy sau những cắc cớ vặn vẹo nêu ra, mấy vị tỉnh thành có cái nỗi niềm gì na ná mình. Họ đi nhiều hơn, thấy nhiều hơn, hẳn thế, nên nói ra phải ít hơn, ít nhưng có chiều gần gụi. Đêm đến, nửa tỉnh nửa mơ, ông sống lại ngày ra quân ấy, cái rằm tháng giêng cách nay hơn ba chục năm.
Sáng sớm, các vãi ra đình ngạc nhiên thấy trung đội dân quân tập hợp đằng đằng dưới gốc đa râu ria lòng thòng, bên cạnh ba bốn con trâu lực lưỡng. Xã đội trưởng Cù Đại súng khoác vai oai vệ bảo “Đã quán triệt mấy tuần nay mà các bà còn làm lễ là thế nào”.
- Ơ, tôi tưởng chỉ nói chứ làm thật?
Nghe bà Câu lơ ngơ, Đại làm nghiêm. “Từ nay triệt để. Dứt khoát với tàn tích phong kiến”, rồi vào gian giữa nhổ nắm hương mới thắp ở chính điện ném ra mắt rồng. “Chúng tôi làm nhiệm vụ, các bà cản trở đừng trách. Chính quyền là ở trên đầu ngọn súng! Các đồng chí...”
“Chát! Huỵch!...”. Dưới sức lực điền, tấm bia sau tam quan bay ngay diềm mái. Sau đợt nghỉ, phần thân có chữ ngoằn ngoèo vỡ vụn, rồi đến lượt ông rùa cõng bia. Tất cả rồi sẽ vào lò vôi xây trụ sở.
Dây thừng buộc vào cột đình, trâu kéo người du, mãi mới đổ. Câu đầu cửa võng khuỵu trước, ban thờ bài vị nhào sau. Trong đám bụi mù, Đại phát hiện ra ông chú lén ôm mấy ống quyển đựng sắc các triều phong cho ngôi đình, bèn hạ lệnh trói gô lại. Tội nghiệp lão khoá sinh thi trượt kỳ Nho học cuối nằm dưới bụi chuối râu tóc tả tơi, mặt ướt tràn trụa, khóc không ra tiếng. Từ đấy ra người câm.
Những giấy gỗ vải lụa cho vào lửa, xiêm áo Bà Chúa cháy vèo. Đức Ông, La Hán đắp đất nhào xuống mắt rồng mắt trâu. Còn pho Quan Âm bằng đá bên chùa, xã đội Đại lệnh Thọ buộc vào đít trâu kéo đi. “Cho lên bờ mương”, chả bảo kéo đến đoạn nào thì cho thỏm.
Pho Nghìn mắt nghìn tay ấy rất đẹp, thấy bảo một bà buôn dâu con làng Bùm cung tiến thời còn vua. Giật đùng đùng, nẩy tưng tưng, cái đầu Phật ngần ngật sau hai con trâu đực. Chốc chốc một cánh tay đá vướng gốc duối long ra, con mắt trên bàn tay như chớp chớp đến là vui. Ra giữa đồng, gần tha ma gốc gạo, Phật lăn tòm xuống mương, trâu đánh mấy không lôi lên được. Mệt rồi, thôi nhà người nằm đấy vậy.
Sáng sau Cù Đại phê bình Thọ không “triệt để phong kiến”, để cái tàn tích ấy nằm lại trên đất thôn là không được, phải ra vớt lên vứt ra xa. Nhưng “nhà người” đã không còn ở đấy.
Thọ đi bộ đội đánh nhau rất lâu, không xanh cỏ cũng chả đỏ ngực nhưng về được, mà lành lặn. Ngày hấp hối, bà cụ gọi anh đến bảo tao giấu Phật dưới búi tre ông Đà, biết thế để sau này thỉnh về thờ lại, không thế thì sao mày về được con ơi. Nghe thế, vâng dạ thế nhưng cứ để nguyên thế không động đậy gì đến. Cù Đại đã hoá rồ suốt ngày cởi truồng đi rong mấy lần cóc chết cho vào mồm. Mả điên phát từ đấy, con cái Đại cứ tàng tàng chả kinh gì hôi tanh. Ông Phụng bí thư không chỉ huy cụ thể “chiến dịch” nhưng là người ra chủ trương vợ bị chó dại cắn chết thảm.
Rồi ra những người có liên quan nữa… Rồi ra xã ấy thôn nọ ở ngay bên cạnh với cả những chỗ rất xa xôi, thấy bảo không thiếu chuyện tương tự. Mình không duy tâm đến mê lú nhưng không tin không sợ tý nào là không được, là dễ ra ác độc, cứ con đấu cha trò vả mặt thầy như hồi bé mình đã xem, sau này mới biết là cải cách ruộng đất, là ác chứ còn gì.
Bao năm không ngờ lại ra thế này. Ông Thọ tỉnh giấc mơ rất kinh, bảo Thông cho lên bàn thờ thắp hương. Rì rầm khấn, ông nhủ Thần Phật với các cụ rằng bàn thờ nhà Thông không có các cụ nên con chỉ vái vọng thôi, rằng con sợ lắm, hối hận lắm rồi vì đã làm những việc không nên làm, may là mẹ còn để phúc lại, nay con phải để phúc lại cho con con và cho con chúng nó. Lòng con đang rất không ổn. Những điều hôm qua còn sáng rõ nay tù mù, đáng ngờ, những bất di bất dịch long lở lả tả. Lại những thứ đã đem chôn lù lù hiện về ám quẻ, xua thế nào cũng không đi.
Thật lắm thứ nữa không thể nói ra. Những nỗi niềm tràn ứ không thể hở ra với bác Mật bên cạnh đâu, bác ấy nhiều lý luận, phê bình cho mà toé khói ra...
- Tưởng bác duy vật hẳn rồi… Thế bác tin hẳn vào “các cụ” à?
Câu hồn nhiên của Thông hoá ra lại rất ác, “ác” chả kém câu ông Nhiệm cật vấn ông Mật. Phải một tý ông Thọ mới ậm ờ, chả ra trả lời: “Chưa biết tin đâu thì bấu vào các cụ”, và lảng sang chuyện khác. Tôi thấy nhà chú sinh hoạt lạ, sáng vợ đi đằng vợ chồng đi đằng chồng, thằng con suốt ngày trong buồng, được cái đến bữa xuống nấu rồi mời hai bác ra ăn rồi cháu đi học ạ. Tối cũng thế, chồng thể thao vợ nhảy nhót về rất muộn, toàn ăn vào cái lúc người ta đã ngậm tăm. Chú để thằng khác ôm vợ mình quay quay ngoài sàn không sợ à… Thông cười hơ hơ làm ông thấy mình đang lo bò trắng răng.
5.
- Ai đấy?
- Em ạ. Em ở làng Bùm.
- Làng Bùm nào?
- Làng Bùm trong Thanh Hạ.
- Thanh Hạ nào?
- Tận miền Trung cơ ạ. Làng em đang xây lại đình chùa, xin các bác phát tâm công đức cho Thành hoàng làng em và Chư Phật có chỗ ngồi. Cái chỗ ngày xưa bị phá đi mất rồi.
- Sao lại phá chỗ các Ngài?
- Dạ, là những ông ngày xưa phá, không phải chúng em. Giờ các Ngài vất vưởng đâu đâu không được, làng quyết tâm xây lại, mời về để thờ, nhưng thiếu mất một chút.
- Thế đây, tôi xin ủng hộ. Không cần phiếu công đức đâu.
- Em xin bác. Cảm ơn bác ạ.
*
* *
- Hôm nay có thi môn gì đâu mà mua hương.
- Đâu. Có hai bà nâu sồng đến bán hương xây đình chùa ở quê.
- Lại có cả giấy công đức. Xem nào… Làng này ở đâu chứ có phải làng mình mà góp!
- Nói giọng miền Trung, đi ra cũng xa xôi nên mua cho họ.
- Chín thẻ à?
- Ừ, họ bảo đàn bà thì chín.
- Thế đưa bao nhiêu?
- Ít thôi.
- Ít là bao nhiêu?
- Đã chả muốn nói lại cứ hỏi. Chín mươi nghìn.
- Ôi giời! Cậu có căn tu đấy.
- Mất tiền thì không tiếc, nhưng tức là như là mình bị lừa.
- Đã công đức còn so đo, đúng cái đồ…
- Thôi không nói nữa!
- Lần sau ai vào họ xin cả người, cho luôn!
*
* *
- Ai bấm chuông đấy?
- Tôi ạ, xin các bác phát tâm…
- Thôi đi đi! Sáng ra đã nhiễu.
- Làng trong quê xa, tận miền Trung bão lụt, muốn làm lại ngôi đình, chúng tôi có giấy giới thiệu của uỷ ban với sổ chứng nhận công đức mà.
- Tôi biết các vị rồi. Kiểm tra bể phốt với bình ga ông bà nào chả có giấy tờ. Nhiễu!
*
* *
- Ôi giời làng Bùm à? Tôi chả biết Bũm Bùm nào, nhưng quê tôi cũng thế, đuổi các vị đi rồi giờ rước về, phải tội lắm nhưng còn hơn không. Đây tôi cúng một ít…
*
* *
- A di đà Phật!
- A di đà Phật! Hôm nay khuyến thiện thế nào?
- Bạch thầy cũng được. Có bà mời vào nhà hỏi han, cho uống nước. Nhà có bàn thờ Chúa, biết con đi quyên tiền làm chùa, ở nhờ nhà chùa mà vẫn đưa tiền, con thấy lạ.
- A di đà Phật, thì cũng người Nam ta cả…
*
* *
Tấp tểnh, thất thểu, các vãi làng Bùm đi xin lộc khắp nơi. Lạ cho giống đàn bà. Đàn ông chỉ độc chủ trương, chứ sang xã bên, lên tỉnh huyện, ra tận Thủ đô, vào miền Nam, chỉ có họ đi được...
Có người về ngay, thất vọng trước sự bàng quan của người đời. Những đứa phũ hắt cả chậu nước vào mặt không ác bằng kiểu từ chối lịch sự nhưng nhìn người ta như không nhìn, hàng tháng trời không quên được kiểu tử tế ấy. Có người hớn hở bị dốc bị tiền cho ban kiến thiết để Ngài có chỗ ngồi cho con dân được lạy tạ, bao nhiêu mệt nhọc nhịn nhục lậy lục quên hết . Dân phố lỵ, tỉnh thành cũng lạ, sống trên tiền, trong bụi bặm lâu năm, góp của đấy nhưng chả mấy người mời vào nhà cho được cốc nước. Tội nhất là bà Năm xóm Tám đi cả tháng nhịn đói khát không dám phạm vào lộc Ngài lúc về rộc như con mắm, chỉ đôi mắt sáng trưng.
Ông Thọ là trưởng ban kiến thiết, ngồi thu tiền luôn. Thỉnh thoảng bị tiếng riếc “báng bổ thần thánh, đem đập các Ngài đi giờ phải rước các Ngài về có nhục không”, ông chả lấy làm điều. Lo nhất là các Ngài có về, về rồi có phạt không. Dù sao công sức các vãi có kết quả, tiền bòn mót được cứ mỗi rằm mỗi một dầy thêm một ít, tuy đa phần bạc vụn. Ông bàn với các cụ thôi có ít làm ít, cái đình đơn sơ thôi, Thành hoàng ở giữa bên Đức Ông bên Chư Phật còn điện Mẫu lui sang hẳn bên, chỉ thấy ậm ờ. Bốn chục năm vô thánh vô thần chỉ họp hành kiểm điếm đấu tố giờ quay lại thờ cúng ngọng nghịu quá. Nhưng ngọng còn hơn không chứ, các Ngài xá tội cho. Làng mình nghèo có vậy làm vậy có khi lại may, chả biết những chỗ tiền đè chết người người ta tính tiêu pha ra sao nhỉ. Đã chả có anh tiêu không minh bạch phải đem nhau ra xử đấy à… Những nỗi lo, niềm vui nhỏ nhoi làm giấc ngủ của ông khấp khởi bồng bềnh, như được gần một cõi huyền bí ít ô trọc hơn.
Ông Mật thì không được vậy. Hồ sơ xin di tích lập lại ba lần các “cố vấn” ở Thủ đô vẫn kêu “không cụ thể, bên văn hoá về kiểm tra thế nào nó cũng hạch”. Cụ thể thế nào được, vì “nhân chứng” thời chiến không còn, còn thì không ngọng cũng lẫn. Khó nhất là “vật chứng”, tức cái địa điểm phải “bầu” lên làm anh hùng, huyện nhất trí ở ngã ba thị trấn rồi, nhưng tại sao ở đấy, dịch lên dịch xuống sang ngang vài trăm mét có được không, thì trả lời rất khó. Người Thủ đô họ giúp đấy nhưng phải trên cơ sở phù hợp với luật Di sản với những quy định dưới luật gì đấy cơ, chứ có nói không rằng đây là trên cơ sở nguyện vọng của huyện uỷ, uỷ ban và toàn thể nhân dân trong huyện được thể hiện qua nghị quyết huyện uỷ mà thuyết phục được à. Đến lúc tàm tạm rồi, hồ sơ họ nhận rồi thì lại phải chờ, chờ và xin địa chỉ đến thăm chị và các cháu tận nhà, người cành lộc hươu người miếng mật gấu kèm theo.
Lâu lâu lại thăm một người “có liên quan” ở cấp cao hơn. Hơn hai năm trời ném đá xuống ao bèo, xin có cái “chính trị” mà trời không thấu.
Tức nhất là cái thằng trên bờ không thủng cho thằng dưới nước. “Tôi tưởng chuyện ấy đơn giản”, bí thư huyện nói vẻ bâng quơ làm ông uất khí. Cái thằng trẻ ranh từ công tác đoàn mà lên chỉ toàn tay không bắt giặc, cứ thử cho đi như ông xem. May là còn có nhà Thông. Hết sức thông cảm, phòng riêng ở bao lâu cũng được, thân tình rồi thì có gì ăn nấy, nó giúp được gì thì giúp còn việc mình mình cứ đi. Tiện nhất là vợ nó bận bịu đi cả ngày, thằng con chào bác xong cun cút lên phòng bật máy tính, mình đỡ giơ cái mặt ra. Nhưng cũng có cái phiền, mình thích rượu nó chỉ uống bia, ban đêm thèm thuốc đến chết phải chịu, đang thu cả hai chân lên ghế thấy vợ nó về thời hạ xuống, ngậm cái tăm vứt vội đi. Chả phải là ai bảo, tự ông thấy thế thì ngượng.
Gần hai năm giời đi lại chỉ nhúc nhích được tý. Hồ sơ xin di tích xếp hàng bên cơ quan di sản cao bằng núi.
Rồi cô vợ đi suốt ngày của Thông, ngang qua bàn nước ông nào ông nấy đăm chiêu ngỗng ỉa, đánh rơi câu:
- Sao anh không đến cái Lan con chồng dì Bỉnh, anh con cô con cậu với em dâu nó là thư ký ông Tĩnh…
6.
Pha được cốc nước cam nóng, bà Hợp đem vào buồng ngủ, thấy chồng đã duỗi dài, mắt khép lại, bèn đặt nó xuống đầu giường. Ông Tĩnh vẫn khoẻ nhưng hay bị tiệc tùng tiếp khách, có tý bia vào là thế, khiến cái bản năng thầy thuốc của bà phải cảnh giác. Năm ngoái bộ trưởng Đ. mới nhậm chức đã chả xuất huyết não sau phen quá vui là gì. Chồng bà sắp nghỉ, cũng là đoạn lắm tâm sự cần chú ý. Bà Hợp tắt đèn, sang phòng riêng của mình, nơi có một núi sách và những cây bút, giờ thay bằng máy tính.
Nhưng ông Tĩnh chưa ngủ, chỉ lơ mơ thôi. Chất men, một chút thôi, đem lại cảm giác thật dễ chịu, để mà khỏi phải nghĩ đến đại sự ở tầm quốc gia. Còn một năm nữa là hết nhiệm kỳ, biết mình sẽ không tại vị nữa vì quá tuổi và vì vài lý do nhạy cảm nữa, ông hay cho phép mình lơ mơ. Để mà sống lại với quá khứ có thật và nhớ những điều chưa từng xẩy ra, thật kỳ lạ là nó cứ trộn lẫn, và cũng hình dung đôi chút về tương lai lui về. Nghỉ nhưng không phải hưu hắt, còn khối chân danh dự, những hội nghị thắp sáng quá khứ soi rọi tương lai cần ông có mặt, kể chuyện xưa hay đơn giản chỉ đứng lên đáp lễ. “Hạ cánh từ từ”, không sốc, thế là quá hợp lý với độ tuổi của ông rồi.
Chiến tranh, những ngày này, hay hiện lại không quá ùng oàng máu me, trung đoàn rút về hậu cứ còn được phần ba là may. Nó lại nhỏ nhẻ những chi tiết vụn vặt, như giấc ngủ ngon lành không bị trợ lý tác chiến đánh thức, củ khoai bếp trung đoàn để giành. “Đi cho
đoạ hè”, mạ Quảng Trị nói sao mà khó bắt chước. Rất hay gặp là một khoảng rừng quang đãng, không quá chói nắng, có con suối vắt qua, ông cùng ban tham mưu làm liều thuốc lào say ngã ngửa. Rừng sáng và mát mẻ, ráo mồ hôi lại tỉnh táo đi tiếp được. Cuộc chiến có thằng về thằng không, ông là kẻ may mắn, ngưng súng đạn lại lên một lèo đến cái ghế quyết định nhiều việc trọng của đất nước bây giờ.
Cuộc gặp sáng nay với đại biểu từ địa phương lên làm Tĩnh thấy xốn xang. Cậu trưởng ban tuyên huấn huyện, khá rụt rè, đặt vấn đề trước đây anh đã tham gia chiến đấu ở Thanh Hạ, đem lại cho quê hương niềm vinh hạnh lớn. Giờ đây Thanh Hạ muốn phát triển lên thành vùng kinh tế du lịch văn hoá trù phú, ngặt nỗi thế mạnh chỉ có lúa lợn lang luồng. Dân cư nghèo kiệt chất phác, chiến tranh xẻ nhà xẻ cửa ra cho các binh đoàn kéo qua, đến bình thời mới phát hiện ra mình chả biết cách làm ăn giầu tẹo nào. Tắc đường kinh tế thì phải lấy chính trị làm mũi nhọn. Huyện uỷ, uỷ ban, các ban ngành đoàn thể họp hành mãi, chỉ thấy quá khứ vẻ vang thời chiến là đáng đẩy lên làm mũi nhọn nhất. Ông Tĩnh đã chiến đấu ở Thanh Hạ hồi chống Mỹ, vậy nên huyện đề nghị giúp cho một cái di tích cách mạng.
“Chúng em chọn thôn Ba thị trấn huyện làm nơi đặt di tích. Vì thứ nhất, đấy là chỗ giao nhau giữa quốc lộ và hai tỉnh lộ, nhiều khách hơn chỗ khác. Thứ nhì, thủ trưởng hồi chiến tranh về huyện nhà mở đường thâm nhập vào phía Nam, sau này xe tăng, tên lửa, cơ giới ta tập kết về chuẩn bị cho chiến dịch K. thắng lớn, đẩy lui lớp phòng ngự tuyến đầu của địch tạo thế dằng co cho tới ngày tổng tấn công thắng lợi. Thứ ba, huyện giờ chả biết trông vào đâu để mở mày mở mặt, như tỉnh bên họ có ngã ba Đồng Lộc, nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang Đường 9 khách về nườm nượp như một điểm hành hương về nguồn. Đi lên bằng chính trị nó có nhiều ý nghĩa ạ. Như giáo dục lớp trẻ trông vào đấy mà tự hào về quê hương. Dựng một tượng đài lên, là các đôi cưới xin có thể ra chụp ảnh. Và trên hết, kéo được khách về thăm, đem lại nguồn thu cũng như các ý tưởng đầu tư cho huyện phát triển lên”.
Trưởng ban tuyên huấn Thanh Hạ ngưng lời, đợi ý thủ trưởng. Ông Tĩnh im ắng dăm phút, sắp xếp các ý nghĩ rồi phát, các ý kiến dầu chỉ là “sơ khởi”, “của cá nhân tôi thôi”, nhưng làm người nghe tá hoả:
- Tôi rất trân trọng chủ trương của huyện. Nhưng còn mấy băn khoăn thế này… Một, là đường vào phía trong lúc tôi vào mở lớn trên nền đường mòn mà các anh đi trước mở từ cuối những năm năm nươi. Mình chỉ là người đi sau, gắn liền với giai đoạn đánh lớn có hoả lực mạnh, làm sao dám nói đấy là điểm mở đầu của đường vào chiến dịch K. Tôi cũng quên khá nhiều rồi. Hai, là sao lại chọn chính trị làm điểm đi lên. Đang là giai đoạn làm kinh tế, huyện chọn cách nào kéo được người ta đến làm ăn chứ, chỗ này thì tôi có thể ủng hộ được vài dự án.
Khách huyện im bặt, trời rét mà chân tóc ướt rịn. Tởn vì lời nói điềm đạm mà có gang có thép, nhưng nghĩ đến nhiệm vụ huyện giao, ông Mật ngập ngừng: “Dạ, nhưng chúng em trộm nghĩ là thủ trưởng đang ở vị trí có thể quyết định được đâu là điểm khởi đầu của con đường lịch sử mà báo chí thế giới phải nhắc đến”.
- Anh nói thế không đúng. Phải tôn trọng lịch sử, làm thế là xoá công người đi trước. Hồi ấy hai trăm người đã bỏ mạng để mang được ba tấn súng đạn vào trong kia, mình dẫm lên thế nào được.
Giờ thì im hẳn, nghe tiếng chuông đồng hồ điểm như tiếng súng. Khách muốn rút nhưng đã ra cấm khẩu đành ngồi im chịu trận, may anh thư ký nhẹ nhàng bảo: “Thôi các anh cứ về. Thủ trưởng mới phát những ý đầu, còn cân nhắc tiếp. Dù thế nào thủ trưởng cũng không quên sự khó nhọc của các anh đã ra đây”. Tưng nấy lời là kết quả của chiếc mật bò tót được tặng.
Bèn líu ríu đứng dậy chúng em không dám quấy quả nhiều quá, có gì xin thủ trưởng bỏ qua, chỉ vì đây là nguyện vọng của đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong huyện. Chợt ông Tĩnh quay sang: “Thế huyện mình là huyện gì?”.
- Dạ, chúng em Thanh Hạ.
Năm phút im phăng phắc, ông mới lẩm bẩm “Ừ nhỉ, ừ nhỉ…”, mặt chìm vào xa xăm, chỉ anh thư ký nhắc khách cứ về đừng tắt hy vọng. Ông Tĩnh dặn anh nhận hồ sơ di tích Thanh Hạ, tiễn họ về ân cần, tình nghĩa, nhưng tâm trạng còn không ngừng xao động.
Không xao động sao được. Đấy là một trong những bí ẩn lớn nhất của chiến tranh, của đời ông kia mà…
7.
Năm 197…, trung tá Tĩnh đuợc lệnh đưa một tốp tinh nhuệ vô Trung dọn một cái “ổ” chuẩn bị đánh lớn vào sau lưng địch. Trợ lý trinh sát, bản đồ, trinh sát pháo binh, phòng không, y tá, thông tin, anh nuôi, toàn lính tráng thứ quý hơn vàng. Cấp trên phái đến một trung uý rắn đanh, nhỏ người nhưng mới nhìn đã biết rất thiện chiến. Tuấn đã trinh sát thực địa vài lần, làm việc với địa phương các phương án dự phòng, giữ bí mật, đảm bảo hậu cần... Địa điểm đóng quân ở Thanh Hạ, làng xã nào không biết, chỉ là những dấu đánh số trong bản đồ. Người già trẻ em sơ tán lên giáp biên giới Lào cả, còn độc dân quân ở lại. Trung đội ấy trang bị súng bộ binh chả khác gì quân chủ lực, cả thời gian đóng quân gần như không thấy anh đàn ông nào, kể cũng hơi hơi đáng lo.
Nhưng cái gợn ấy tan ngay khi người chỉ huy bộ đội thấy trung đội được tổ chức rất chặt, biết rõ việc. Đêm xuống, sau bốn tiếng hành quân, Tuấn liên lạc được với huyện đội, dẫn Tĩnh cùng hai trợ lý tham mưu xuống làng. Gọi thế, nhưng toàn hầm là hầm náu dưới những thân cây lực lưỡng. Chui vào một căn, dù ánh đèn dầu rất yếu, họ vẫn kịp thấy hai cô gái, một thút thít khóc, cô có tuổi hơn đang rất giận dữ.
- O Thim.
Anh huyện đội gọi ngập ngừng, chưa muốn giới thiệu ngay. Cô lớn tuổi bảo đồng đội: “O về kiểm điểm lại quan điểm. Đang bom đạn lại có hành vi thế à”, nhỏ thôi nhưng vẫn căng. Cô có lỗi đứng dậy chào lí nhí rồi trèo khỏi hầm.
- O Thim ni xã đội. Còn đây là thủ trưởng Tĩnh, các anh trợ lý. Anh Tuấn thì gặp rồi…
Nghe anh huyện đội vắn tắt, Thim đứng nghiêm “Báo cáo thủ trưởng chúng tôi đã sẵn sàng. Ta đi ngay ạ!”. Nhưng Tĩnh muốn nghỉ. Đôi giầy chật phản anh, phải rút chân ra một lúc cho máu thông lại đã. Câu chuyện giữa anh huyện đội và Thim loáng thoáng lọt vào tai anh câu “o Niềm luyến ái với lái xe, tôi gọi lên chấn chỉnh trước, kẻo mất kỷ luật toàn trung đội”. Ôi giời các bố lái xe, không có các bố ấy thì chết, mà có các bố ấy cũng chết. Anh huyện đội động viên o ngăn chặn trước là phải, đây không trực tiếp quân giặc nhưng vẫn là chiến trường, cái nhiệm vụ chúng ta sắp làm đây còn quan trọng hơn trong chỗ có địch, phải quán triệt thật kỹ.
Họ đi dưới tán rừng tối om độc một giống cây, hỏi thì “Chúng em gọi “nhọ nhẹ”, bên dưới rất ít bụi. Trèo lên một khoảnh đồi lúp xúp đất đầy rễ con, người phụ nữ mang cây tiểu liên, thắt lưng đầy kẹp đạn rất dẻo dai, chốc chốc dừng lại đợi thủ trưởng đau chân. Chỗ này dân đã di cả, các đường vào đặt chốt chặn, có suối, tán rừng rậm, có thể đặt sở chỉ huy. Chỗ kia cằn cỗi chỉ ẩn được một trung đội. Kể thì đơn vị lớn quá, rừng núi hẹp đóng sẽ rất chật, nhưng đành chịu, đào hang mà ở thôi. Xen giữa những tính toán và cái đau trong giầy, Tĩnh ngửi thấy mùi mồ hôi chua nồng, nhưng không đến nỗi khét như của lính.
Họ đi hết đêm, sáng ra thì phân tán để ngủ, thường hai anh một “phòng” khoét dưới đất, mình thủ trưởng một nơi. Chả ai biết trời đất gì nữa, đến khi dậy thấy vách hầm xung quanh hoạ báo dán kín. Ăn cơm trưa, mọi người bảo ngửi ra mùi gì lạ lạ, lạ nữa là hơi khó ngủ.
- Chỗ đàn bà mà”, Tuấn lẩm bẩm rồi hít mỗi nơi mỗi tý. Thủ trưởng không biết chứ trinh sát bọn em thính mũi hơn chó.
Trưa hôm sau Tĩnh bàn xem có thể đi ban ngày được không, vì đêm hôm nhìn rất loáng quáng và lệnh trên muốn tập trung đại quân sớm. “Có cả hoả lực mạnh”, anh chỉ nói thế mà không nhắc đến pháo phòng không, pháo mặt đất và có thể cả tên lửa sẽ kéo vào. “Chia làm hai tốp đi cho nhanh, tức là ít nhất hai người dẫn đường”
- Thủ trưởng để em thu xếp. Hơi ít người đấy ạ.
Thim nói rồi con cón ra phía cuối rừng. Hẳn là dưới một gốc nhọ nhẹ, các cô có căn hầm của mình. Giờ thì Tĩnh mới ngắm được kĩ, Thim vào loại đàn bà to xương, cao lớn, gò má nhọn, thân hình không thể nói là mỡ màng. Ngoài kia, vượt xa khỏi những túi bom như đây, đàn bà cũng mỏng mình “tờ giấy viết thư còn gọi bằng cụ”, nhưng dù sao cũng nhiều nữ tính hơn. Kể thì thương thật, không có chiến tranh họ hương sắc khác chứ. Trong khi Tĩnh vân vi những ý nghĩ ấy thì Tuấn đánh một câu: “Mẹ kiếp, lưng dài như chó liếm cối l. bằng lá tre, chồng đi vắng khó lắm…”.
- Cậu tăm nhanh nhỉ, trợ lý bản đồ cậy đất bám trên báng súng cười gằn.
- Tớ còn biết cả vấn đề của các em kìa. Trung đội có cô kêu trời nóng quá cởi quần áo ra suối cười, không dốt riêng lây cả hầm.
- Bốc phét. Những chỗ ta qua cũng đầy nữ dân quân làm gì ra có.
- Tớ chả biết. Nhưng mà đây có.
Chuyện của cấp dưới cứ thủng thẳng, còn Tĩnh lo thắt ruột vì những bãi đáp cho hàng đống xe pháo to lồ lộ. Nhưng khi Thim trở lại với một cô gái vuông vức bánh chưng, anh không khỏi ngắm kỹ dáng người cô. Quả là cứng. Lưỡng quyền cao, dóng chân dài. Vai vuông đeo quân hàm chắc đẹp. Cả ngày anh đi theo cái lưng dài miên man đến con chó liếm cối, nó liếm cơm nóng giã muối vừng chắc. Thim có giác quan thật nhậy, có lúc hô cả đám thục mạng vào tán cây, mấy giây sau chiếc trinh sát mới vụt qua. Có lúc vượt qua bãi trống Tĩnh muốn chạy gằn thì cô thủng thẳng “không phải giờ của nó đâu thủ trưởng ạ”. Lúc nghỉ ở bãi đá ven suối, nhá miếng lương khô mằn mặn, Tĩnh thấy mình thật khó rời mắt khỏi đám tóc rối sau gáy Thim. “Tóc không rụng, chả biết kinh nguyệt có đều được?”, suýt nữa chàng trung tá để câu ấy trôi khỏi miệng.
Chuyến trinh sát có kết quả tốt. Ngày đi, đêm về làm việc trên bản đồ, đánh dấu những bãi đáp xe, chỗ náu từng trung đội, tiểu đội một. Khó nhất là địa điểm đặt pháo phòng không, kín đáo, bất ngờ nhưng phải đủ thoáng để ngắm bắn và có đường “biến” cho nhanh lúc nó tập trung không quân giã. Giữa những quãng ngưng là tuần chè rừng chiêu khoai lang khô dân quân cho. Tĩnh luôn phải thán phục cái bản năng sống của Tuấn, vùng trống mênh mông, không dân mà có hôm lôi ra chai rượu sắn.
“Em chỉ cần cái bật lửa và con dao là sống được”, Tuấn nói tránh khi anh hỏi kiếm đâu, rồi chuyển sang những câu tếu táo. Đôi khi hắn đẩy “cử toạ” vào tình thế rất khó xử. “
Thứ nhất rượu say ngà ngà, thứ nhì công tác đường xa mới về”, tôi đố mọi người là gì nào?”, làm gáy Thim ửng như phải phát. Quả là cái kho vĩ đại chuyện đực cái. Những anh về phép phải vợ hành kinh. Những bọ mạ thắc mắc bộ đội ngửi mồm con gái. Hôm nghỉ ven suối hắn hát “
Ta là con của bố ta mẹ ta, nhớ nhà là ta phắn ta chuồn…, đố là gì đấy?”. Rồi tự trả lời: “Là lính đào ngũ. Tôi cũng đã từng đào ngũ, rất sợ…”
Chả biết có phải vì nghe mãi, mà giữa giấc ngủ mê mệt, Tĩnh hay mơ gặp vợ. Hợp tình tứ mà đoan trang, kín đáo, khi cười chưa bao giờ khoe hết hàm răng trắng đều tăm tắp, hình như luôn muốn giấu nét tươi lồ lộ đi. Và anh, trong những kỳ gần gụi hiếm hoi, vẫn chưa bao giờ đòi được vợ “trong giờ hành chính”. Chỉ là đêm sẫm, khi con ngủ say, và chả bao giờ được bật đèn cho anh ngắm mê muội vưu vật.
Chỉ có bất chợt trưa ấy về, nghe tiếng dội nước sau nhà. Cửa buồng tắm bị giật toang, một miền đẹp đẽ, sáng đến chói mắt khiến Tĩnh ngỡ ngàng. Con đực bước đến vục mặt vào đám đen đen xoăn rối lấp lánh những giọt nước...
Những giấc mơ như giọt sương làm dịu ánh ngày khắc nghiệt. Làm quên đi những lần hút chết, nỗi lo lắng binh đoàn giấu quân, nó cũng khiến Tĩnh như không khi thừa biết trong cái hốc nào đó, Tuấn đang làm gì với cô dân quân mình trắm bánh chưng. Hồi ở doanh trại nhìn lính trẻ sáng dậy lòng khòng “đi tìm chổi” Tĩnh đã rất buồn cười, mà giờ đây nửa đêm, trong hầm, thèm vợ đến nóng dẫy, anh phải ghì chặt đống ham muốn cứ trỗi dậy. Ôi giời, Hợp trần truồng, cuống cuồng, đâu có ra cô trí thức vẫn làm anh tự hào.
Chuyến đi nguy hiểm này dính chút hơi mái vào, không ngờ làm Tĩnh chơi vơi, đêm đêm hụt hẫng “tiếp đất” không vững chút nào. Những mình trắm mật mẩy. Những tóc rụng xơ xuộm kinh nguyệt tắt. Những má xạm gót nứt mà múi to múi ngỏ ngần ngật … Đồ ngu, quân hại thủ trưởng, càng che nó càng lấp lánh con suối.
Nhất là cái mồm thằng Tuấn bảo con y tá dân quân “hôm qua thủ trưởng anh lên cơn sốt mà em lục lọi khiếp quá”. Thảo nào đang rét run mà chỗ ấy của anh lại ấm ấm. Đồ mất dậy! Quân thảo mai! Lúc mình tỉnh nó xoen xoét hôm trước có hai mẹ con đi lạc vào trận địa thằng bé xinh ơi là xinh bọn em cho ăn đường với lương khô rồi thi nhau sờ chim đứa nào cũng bảo của tao của tao. Liệu nó có bảo của mình giống con giun chết? Người ốm không dậy được cười khùng khục nghiêng hầm.
8.
Nhiệm vụ hoàn thành. Trên cử một đoàn xe tải vào thử, tất nhiên ngày đi đêm nghỉ. Khỏi phải nói sự gieo neo của quân và dân Thanh Hạ khi chín cỗ đại xa bắt đầu lăn trên đất huyện. Những mệnh lệnh thay đổi liên tục. Quân kéo vào rồi lại kéo ra, đều để nghi binh. Nhà cửa, giường cưới, cánh cửa lớp mẫu giáo tháo xuống. Những chàng nàng chưa kịp buông lời đã phải lao đi xoá giấu vết. Sau này, sau bao nhiêu năm, đã ở ngôi bực tót vời, ông Tĩnh không hiểu sao tất cả những hy sinh anh hùng ấy đều chỉ hiện lại lờ mờ. Còn sót lại, rất rõ, là tiếng hô trong tối xẫm của Thim: “Xe đến rồi. Ra vác đạn các o ơi!”.
- Đạn đâu mà vác. Chỉ có pháo thôi. Bọn anh mỗi thằng mỗi khẩu. - Giọng đàn ông vạt vào đêm.
Quần quật, huỳnh huỵch, rồi tất cả chìm vào giấc mê mệt, thây kệ ngày mai ai mất ai còn, chúng nó có phát hiện được gì… Nhóm trinh sát chiến lược của Tĩnh sẽ di chuyển vào trong, nơi rừng rậm muỗi vắt kinh khủng hơn. Và có thể trong vài tháng tới không còn gặp dân, gặp thì phải giấu mình thật kỹ. K., cái căn cứ lớn trên định nhổ bất ngờ làm thay đổi một tương quan trên chiến trường đã sắp ở gần quá rồi. Trong đêm, những người lính dầy dạn không nghĩ đến những gì đang đón họ. Nghĩ mãi rồi, quên rồi.
Hai ngày sau máy bay trinh sát địch quần y ỷ, nhưng bom đạn thì không. Xe cộ giấu thế là ổn, đám lính lái sinh hoạt rất có kỷ luật, cứ thế này có thể kéo cả binh đoàn vào được. Nhưng không có dân, chỉ độc trung đội của Thim thì “gãy lưng” mất. Chỉ ướm trước được đến thế, vì trên đã lệnh tốp của Tĩnh vào sâu hơn, sát chân căn cứ bộ tổng định “hót” bất ngờ.
Đang riu riu trên sạp nứa thì có tiếng bước chân bên ngoài. Ngọn đèn bão chập chờn một cô Thim cứng cáp, tóc xơ và thưa, quần ống xắn ống không, nách áo xẫm cả mảng.
- Mai các thủ trưởng đi hè.
Thim dựa khẩu súng vào vách, ngồi xuống sạp, toả ra mùi chua chua ngầy ngậy làm Tĩnh choáng váng.
- Ừ. Đời lính nay đó mai đây… - Nhận thấy mình đang “mềm yếu”, Tĩnh cố tự chủ, chuyển sang những câu cần thiết phải nói trong tình huống này, tuy anh đã nói ban chiều – Trong những ngày qua đoàn đã được trung đội dân quân các o giúp đỡ rất nhiều. Không có thì không biết xoay xở ra sao nữa. Nói cảm ơn thì không đủ, chúng tôi rất nhớ, và sẽ báo cáo cấp trên để biểu dương khen thưởng trung đội o Thim.
- Nhiệm vụ mà thủ trưởng, chúng em chỉ biết hết sức mình. Có gì khuyết điểm mong đoàn thông cảm.
- Có gì mà phải thông cảm, Tính ngạc nhiên. O nói làm tôi áy náy…
- Thì là cái việc hôm đầu o nớ giăng mắc với anh bộ đội, rồi bệnh lây cười, chị em có lúc không làm chủ được mình trong quan hệ. Thôi, thủ trưởng đi ngủ lấy sức mai hành quân.
Thim đã với cây súng, thì bất ngờ cái mùi kia lại quất vào óc Tĩnh, đòn mạnh chí tử. Anh chồm dậy kéo cô đổ xuống. Họ vật nhau trong căn hầm chật chội, dúi mũi vào nách áo đẫm mồ hôi, mồm chun lên ngột ngạt, tay gạt tay, chân lùi dúi dụi, nhưng tịnh không kêu. Rồi cuộc đề kháng tắt ngấm, mặc cho đôi tay đàn ông lục lọi. Không thể dìu dặt, Tĩnh phủ lên cô những cuống cuồng nóng dãy, nhưng tấm thân thênh thang trắng loá vẫn cứng quèo, dù rất ấm nhưng không thể gọi là cộng hưởng. Anh đã tắt rất nhanh, hổn hển lăn ra sạp, ngượng ngùng đôi chút nhưng lập tức kéo bễ.
Chả biết bao thời gian đã qua, thân dưới Tĩnh lại nóng lên vì bàn tay chà đi chà lại, cả dìu dặt lẫn mạnh tợn. Thim thành phe chủ động, lên trên anh, hít hà, hổn hển, tham lam đòi rút hết tuỷ. Tội nghiệp anh lính chiến, sức vóc bao nhiêu đã dốc cả cho những ngày qua. Giữa bóng tối đen kịt chợt bật lên tiếng khúc khích, người này lan sang người kia, làm đêm man dại loãng đi một chút.
- Thủ trưởng đi hè!
Trong những tia sáng đầu tiên của ngày rọi qua cửa hầm, Thim đứng vấn lại tóc, tay ve vẩy cái chun, những bộ điệu thật đàn bà. Cô trung đội trưởng khắc khổ gương mẫu vụt biến mất, chỉ còn tấm thân cao, thẳng như dóng tre bánh tẻ đang khoác lại khẩu súng. Từ đôi mắt sâu chảy tràn xuống dòng ánh sáng chan chứa phả phê. Cái hình ảnh ấy, của hạnh phúc, Tĩnh biết mình sẽ đem theo xuống dưới mồ.
Chuyến vô trong rất không may mắn. Dọc đường, y tá, nuôi quân, trợ lý tác chiến lần lượt nằm xuống. Không có dân, bộ đội địa phương yểm trợ, với sự lì lợm chưa từng thấy, những người còn lại vẫn nắm được bố phòng của căn cứ K.
Trở ra hậu phương chỉ còn Tĩnh và trợ lý bản đồ, cùng những tài liệu trả bằng xương máu.
Nhưng K. cũng không tồn tại. Còn thế nào được, khi bộ tổng tập trung một lực lượng lớn cả quân số lẫn hoả lực quyết tâm “nhổ”. Địch bất ngờ, các căn cứ xung quanh muốn ứng cứu nhưng sợ mình cũng mất luôn. Con đường ta mở từ Thanh Hạ ngoằn ngoèo, thắt như ruột gà ngày cũng như đêm rung bần bật nhưng dai nhách, thông được vào một vùng rộng lớn có dân và những cơ sở cũ. Chiến dịch thắng lợi, trung tá Tĩnh về một cơ quan tham mưu cấp cao hơn, nơi anh lãnh những nhiệm vụ gian nan chẳng kém, cùng những cơ hội được vua biết mặt chúa biết tên.
Chiến tranh lớn kết thúc rồi đến vài chiến tranh “nhỏ”, rồi công cuộc xây dựng. Là người lính thật sự, Tĩnh “húc” hết, từ kiểm tra tuyến phòng thủ đến làm đường chiến lược cho kinh tế vừa cho quốc phòng, luôn luôn ở các vùng biên giới. Từ đó đến vị trí bây giờ thì cứ tằng tằng mà tiến, không phải lanh lợi thăm thú kết giao nhiều quá. Đơn giản là Tĩnh có cái người ta cần, và công lao, thứ mà ông luôn biết có xương máu những người đã cùng đi với mình góp vào. Hoà bình về, vài lần công tác, ông ghé vào Thanh Hạ, tìm không thể ra khu rừng ngày ấy. Kể lại, thì người ta bảo các o dân quân lừa anh, làm gì có cây nào là nhọ nhẹ. Trí nhớ bội bạc, và mình cũng bội bạc như sự bội bạc của cậu trợ lý bản đồ - không còn giữ được tấm bản đồ đánh dấu những cao điểm xưa.
Giữa những săn đón chăm sóc thủ trưởng trung ương về thăm lại chiến trường xưa của cán bộ Thanh Hạ, ông có những ngơ ngẩn xuất thần, uống nhiều và mệt cũng rất nhanh. Quay lại với kỉ niệm là cái đoạn con người ta oải, muốn nghỉ rồi. Năm sau. Không, vài tháng nữa thôi, nhiệm kỳ của ông kết thúc. Tổ chức đã nhắm người khác, và ông cũng muốn buông. Buông là phải, những quan hệ dân sự làm anh đàn ông cả đời làm lính chóng mặt rất nhanh. Giai đoạn “hạ cánh” có chức năng chuyển giao là chính, nên ông có nhiều thì giờ. Tĩnh không thích viết hồi ký, thấy những người ấy hay “nhớ lại những điều chưa từng xảy ra”. Ông cũng đã quên nhiều quá. Giờ là lúc sống lại. Nhưng ký ức lại tàn nhẫn xoá đi nhiều quá, chẳng hạn ông không thể nhớ mình đã ra khỏi chiến tranh như thế nào, cảm giác đầu tiên về thành phố miền Nam đầu tiên mình tiến vào…
Lại có những câu hết sức “vớ vỉn” như cách bọn thanh niên con ông nói bây giờ, thì gột thế nào cũng không đi. Trong một thị xã bị tàn phá, bà cụ nhai trầu bỏm bẻm ngắm ông bảo “Chú này có chữ “Thọ” sau lưng. Rồi sẽ lên rất to”.
Và Tuấn, cậu trung uý nhỏ nhắn rắn đanh. Ngày rời khỏi căn hầm “với Thim”, Tĩnh đã hành quân theo cái cách không ngửi được, luôn tụt lại dù mang nhẹ nhất. Nheo nheo cặp mắt soi mói, Tuấn tửng tửng “Đầu gối thủ trưởng có vấn đề rồi…”. Đúng là dân trinh sát. Kệ mẹ mày, tao đang ngất ngây con gà tây đây, Tĩnh cười trong veo, đủng đỉnh đi. Hết chiến tranh ông về nhà Tuấn, không kể chuyện con của mẹ đã lĩnh nguyên một quả mìn trong hàng rào ở K.
9.
Việc nặng tình với ký ức phả phê dưới hầm dục Tĩnh chiều nguyện vọng của Thanh Hạ. Bao năm nay, giữa những lý giải rõ rành được về chiến tranh, binh nghiệp, cuộc sống bình thời, ông phải dừng bước trước bao câu hỏi khác, dù nhỏ nhoi thôi nhưng bao nhiêu là bí mật.
Như về Tuấn, đã mất mà còn làm Tĩnh không thôi ngạc nhiên vì lòng yêu đời không bao giờ cạn. Những câu chuyện đực cái kể giữa hai trận bom, những phát hiện về em ấy em nọ hé mở cho ông một nguồn mạch khác, khiến khi nghĩ về nó, ông thấy mát lành, đỡ đi những áy náy trong công việc, quan hệ trên dưới. Như về các o dân quân cười không thể dừng. Bệnh điên tình dễ lây.
Và tất nhiên, về Thim, sao
lúc đó bỗng đẹp rực rỡ. Cả ông nữa, mắt mũi tay chân, tất cả các bộ phận của cơ thể của ông đều “nói” khi hoà vào cô, nhưng cả hai đều không ra một lời nào, là làm sao? Bao năm nay ông tự hỏi nếu mở mồm thì sẽ là câu gì, đều không ra. Có người vợ đẹp đẽ, trí thức và đàn bà đều đến nơi, ông chưa từng khao khát một ai khác, nhưng đã không thể quên những ấm nóng dúi dụi dưới căn hầm xưa. Không ít lần, giữa những lớn lao tót vời, ông tưởng mình bắt lại được cái mùi chua chua ngầy ngậy nọ, rồi buồn rầu thấy nó lẩn mất. Đúng ra thì là ông không bắt lại được nó.
Với sức tác động lớn từ Tĩnh, cơ quan duyệt cấp bằng di tích chiến tranh cách mạng nhanh chóng làm việc với huyện Thanh Hạ. Dù chưa thuyết phục lắm, sau vài lần bổ sung gọi là, hồ sơ xếp hạng được thông qua với chữ ký của thứ trưởng phụ trách di sản. Rắc rối cũng có, như khi người trợ lý bản đồ cũ hỏi Tĩnh sao lại lấy thôn Ba thị trấn huyện làm điểm khởi đầu cho chiến dịch đánh K.? “Thì nó bắt đầu cho giai đoạn đánh lớn. Còn những nơi người đi trước bắt đầu cuộc gùi thồ vũ khí vào trong ta cũng không quên, nhưng địa phương lại chưa đề đạt”, Tĩnh giải thích. Vài ba tờ báo đăng thắc mắc về điểm khởi đầu chưa thuyết phục, sau vài nhắc nhở nội bộ liền tạnh. “Lịch sử phải luôn luôn được viết lại”, kinh điển nói thế cơ mà, ta cứ “viết đi” cái đã.
Một tượng đài hoành tráng dựng lên giữa thị trấn Thanh Hạ, nơi mấy con đường cắt nhau, đắp nổi nữ dân quân vác đạn, lính tráng các binh chủng, cả tên lửa, xe tăng, pháo phòng không. K. là chiến dịch hiệp đồng binh chủng, mở thông huyết mạch vào một vùng rộng lớn sau lưng địch kia mà. Bên cạnh là nhà lưu niệm, tất nhiên phải có xẻng cuốc đào hầm, mũ sắt, dù pháo sáng, nhưng con người thì không được cụ thể mấy. Lèo tèo vài tấm ảnh, loại tìm được ở bất cứ bảo tàng nào. “Huyện nghĩ đến việc xin công nhận di tích khi chiến tranh qua đã lâu, những nhân chứng vật chứng, rất tiếc là không còn tìm được”, bí thư Thanh Hạ áy náy nhận trong lễ khánh thành di tích.
Hôm ấy cả nhà Thông có mặt. Về quê trong ngày vui, để cho thằng Tùng biết thế nào là quá khứ vinh quang, dĩ nhiên. Và vì lời biểu dương của ông Thọ: “May là họ ta có cô dâu Thắm lắm quan hệ”. Ngày ông Thọ với ông Mật ra dầm dề ngoài Hà Nội, hết họp đồng hương quán triệt tới tong tả chạy cửa này công đường nọ mà không ăn thua, đã nản lắm. Đến lúc chán chả buồn nói thì Thắm “đánh rơi” mối liên hệ đến thư ký ông Tĩnh. Ở nhà thì tằng tằng nhì nhằng tròn vai, nhưng đến cơ quan, Thắm là một đấng “siêu thủ trưởng”, tết nhất thay mặt sếp đem quà đi biếu đủ các cửa. Đang tuyệt vọng mà lại vớ được cái cọc, trúng phóc. Đâm ra sang vì vợ, Thông nghĩ mình có nhẽ phải đi xem tử vi có thân cư thê không.
Buổi lễ diễn ra như thường thấy. Diễn văn tưởng niệm của bí thư nhấn mạnh Thanh Hạ có thế mạnh về chính trị, sẽ đi lên từ truyền thống của quá khứ vẻ vang, hy vọng các đoàn du lịch lấy cụm di tích làm điểm nhấn, mang lại công ăn việc làm và nguồn thu cho huyện. Các o áo dài bưng khay đựng kéo cho quan chức cắt băng khánh thành. Máy ảnh máy thu hình điều như chong chóng. Trong số đại biểu các ban ngành trung ương, tỉnh cùng về, tiếc rằng không có người có công kiến tạo tương lai tươi sáng ấy. Tĩnh gửi thư ký mang lẵng hoa về chúc mừng. Rất bận, hẳn thế. Và vì cả cái hội chứng chiến tranh chẳng giống ai của ông.
10.
Nhà Thông rồi tất tả về Bùm. Ngày tốt khai trương di tích cũng là ngày khánh thành đình thôn. Nhỏ nhắn, không hoành tráng nhưng tử tế, từ xa, nó đã đem lại cảm giác quen thuộc, với bộ mái xà xuống thấp, những bức tường xây gạch già để mộc. Cây đa còn non bắt đầu xoã xượi bộ râu, hứa hẹn một sức sống khoẻ khoắn. Bên trong thờ Phật, Thánh Mẫu, riêng ban giữa, bài vị trên ngai còn chưa viết gì. “Còn phải cử lại Thành hoàng chú ạ. Đuổi đi rồi, nay vời lại không biết các vị còn về…”, ông Thọ trầm ngâm trước câu thắc mắc của Thông.
- Mà cũng không biết các vị tên tuổi công tích thế nào, vì bài vị xưa đốt tiệt. Thành thử ngay cả hô thần nhập tượng cũng không biết hô thế nào. Tượng Thành hoàng chưa có, ngôi Nghìn mắt nghìn tay cụ tôi giấu, tôi đào lại dưới búi tre ông Đà.
Ông Thọ nói thêm. Ông bận áo the khăn xếp mới, chân dận đôi dép lê tổ ong rung rúc, thằng Tùng bảo trông chả giống ai nhưng lại cứ thích đi theo.
Ngày trọng. Việc trọng. Các cụ khăn áo tề chỉnh, ăn nói can hệ, nhưng phải cố giấu vẻ rầu rĩ. “Cũng là vì trùng dịp khánh thành di tích trên huyện, các ban ngành đều tất tả trên ấy nên chả ai về”, lại là lời giải thích của ông Thọ. Nhưng Thông thấy chả sao. Đình là đình thôn, dân Bùm từ nay đã có chỗ đi về, chả phải họp hành bình bán nhau chỗ nhà văn hoá cộng đồng vừa lạnh vừa lạ thế nào. Rồi sẽ đào ao mắt rồng, trồng thêm gốc đại gốc đề, xây tường cho trẻ khỏi lùa trâu vào. Rồi sẽ vận động con cháu đi xa góp những cuốn thư, câu đối, bức hoành, cả tượng nữa… Bao giờ có lên có thể làm cả hai dãy tả hữu vu. Đấy là những việc phải lo, nhưng ngày rộng tháng dài, khắc tự thân khắc lo được. Làng nghèo, chịu vậy. Có điều nghèo quá thanh niên bỏ đi hết, người ở lại rất lo khi chết có được mấy mống đưa…
Bên gian thờ Phật, các vãi xếp bằng kể hạnh, bắt đầu ngượng ngập vì bao năm chả ề à, rồi dần có đà, lời lẽ sinh sôi ra. Thông ngạc nhiên thấy Thắm và cả thằng Tùng xà xuống chiếu các vãi, ngồi nghe không thôi nhưng thành kính, thỉnh thoảng xua ruồi bâu trên phẩm oản khoanh khoai. Anh đã và sẽ còn góp tiền về công đức cho ngôi đình ấm áp của mình, của dân Bùm mình. Và không bị Thắm kèo nhèo cho chỗ không đáng, hẳn thế.
Lễ “hạ” ngôi đình đơn sơ, thủ tục giản tiện bởi các cụ, tự làm lấy theo lối vô sư vô sách, đã quên tiệt những lề thói quan viên xưa, không có cả tượng để hô thần nhập vào. Nhưng ai nấy thành kính. Đều là ở chữ “Tâm” thôi.
- Sao không thấy bác Mật? Nãy trên huyện em cũng không thấy, tưởng đang ở làng…
Nghe Thông hỏi nhỏ lúc đợi cỗ, ông Thọ trầm ngâm rồi nhỏ nhẻ: “Là bệnh tư tưởng. Lúc nãy trên huyện chú có thấy rước tấm bằng di tích chỉ là bản phô tô thôi không? Ngày chạy được bằng, bác ấy khai quà cáp tốn kém, tổng chi ra bốn triệu, nhưng huyện chỉ thanh quyết toán có hai triệu rưỡi. Bác ấy tức mình chỉ đưa ra bản chụp thôi, còn bản chính còn giữ trong nhà. Mà tay bí thư cũng tệ, chạy xong xuôi rồi quyết bác ấy phải nghỉ hưu đúng tuổi”.
Ông Thọ hỏi “cũng không có trên huyện à?”, rồi lầm bầm: “Hội các cụ cũng vời ra việc làng đấy, nhà người không ra chả biết là vì sao. Tôi đoán bác ấy đang công tác, khăn xếp áo the không tiện, thôi thì lúc về hưu lại áo the khăn xếp vậy”.
Việc làng việc họ với lại việc huyện té ra là còn rất ngổn ngang. Nghèo kiệt, trống toang, ngơ ngác, và run rẩy khi bị hò đóng góp, nhưng dân gian lại có vẻ yêu ngôi đình, rộn rịp đi lại xúng xính thưa thốt. Thế còn với anh thị dân lúc nào cũng toan tính tất bật thì sao? Có lẽ nó sẽ níu giữ ta, cho chút tĩnh tâm giữa ồn ào tranh chưởi, sẽ làm vợ con ta muốn về, dù chỉ để chơi thôi. Những ý nghĩ làm Thông thấy chóng say hơn, và vì ngoài kia, ngoài trời, mưa lây phây làm lá với râu cây đa tơ thẫm lại.
T.C 2009
Nguồn:
HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM - phienbancu.vanvn.net
http://phienbancu.vanvn.net/News.asp?cat=33&scat=&id=2286
http://phienbancu.vanvn.net/News.asp?cat=33&scat=&id=2321
http://phienbancu.vanvn.net/News.asp?cat=33&scat=&id=2333
Bản cua
Báo Đại biểu Nhân dân P1,
P2,
P3,
P4 29-30-31/08_01-9/2011
(Phần 1)
Ông Thọ với ông Mật ra dầm dề ở Hà Nội, hết họp đồng hương quán triệt tới tong tả chạy cửa này công đường nọ. Ông Thọ là trưởng chi kiêm trưởng họ, hồi trẻ công tác xã hét ra lửa, đi bộ đội về thì đổi nết sang âm lịch, thích ăn trầu thuốc và nghe các cụ kể tích xưa. Bí thư xã là ông Mật nói năng như đánh trống, rất hay dùng những từ chính trị hệ trọng. Họ ở lại nhà Thông, bàn nhau tìm cách xin công nhận di tích lịch sử cho huyện nhà.
*
* *
Cuộc họp “sơ khởi”, “tiên phát” – như cách ông Mật gọi - đồng hương Thanh Hạ, ngoài Thông có ba người, tất nhiên đều đang đảm trách những vị trí danh vọng nhất ngoài Hà Nội. Thanh niên, dù đại gia nứt đố đổ vách gọi sau, vì “chúng nó ít máu quê hương”, cứ để cha mẹ điều động. Theo lời hẹn, họ đều sớm có mặt khiến ban tổ chức yên lòng. Đó là đại tá Bùi Thế Nhiệm, trước khi về hưu là phó chủ nhiệm chính trị binh đoàn X. Ở tuổi gần bát thập, khổ sở vì bệnh suyễn, ông nói ngay “đừng hút thuốc lào nhớ” và rất ít ra lời. Bài là giảng viên đại học, có tên trong chấp hành một hội nghề nghiệp gì đó. Và Phương, phóng viên văn hóa ở một tòa soạn, bài vở đã vài lần nhắc đến sông núi, truyền thống quê nhà.
Minh họa của Thanh Huyền
Sau tuần trà nước, ông Thọ gửi mỗi người một túi lạc “gọi là quà quê”. Ông Mật thay mặt đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong Thanh Hạ cảm ơn sự giúp đỡ bấy lâu của những người con xa quê hương, rồi mở đầu. Ông nhắc đặc điểm huyện nghèo, “giê đê pê” tính ra thấp nhất tỉnh, đa phần xã ở diện một ba lăm, bao năm qua lãnh đạo tìm một hướng đi lên cho huyện, phải nói là rất bí. Kinh tế ngoài bốn “lờ” là lúa lợn lang luồng thì đủ ăn là may, chả trông vào đâu cả. “Nhân lực trước là một thế mạnh, chiếm nhiều vị trí chủ chốt trong tỉnh, nhưng mấy nhiệm kỳ vừa rồi đám Cù Khê, Ba Lạt cậy kinh tế khá lên ào ào, những quyết định, dự án quan trọng họ lôi về hết, mỗi lần họp tỉnh không khỏi tủi. Huyện quyết tâm đi lên bằng chính trị, cụ thể là xin cho bằng được cái di tích thời chiến tranh chống Mỹ hay chống Pháp đều được. Có thế mới tạo ra thế mạnh, người ta đi đâu về đâu đều ghé chỗ đấy ôn lại truyền thống, ta mở dịch vụ phúng viếng bên cạnh như ở các nghĩa trang liệt sĩ quốc gia, tuyên truyền mạnh mẽ trong nhân dân và thanh niên cả nước. Dần dần, Thanh Hạ khôi phục được vị thế trong tỉnh, động viên được nguồn lực đỡ bên ngoài…”
Ông Mật lục cặp lấy ra mấy tập giấy. “Đây là nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện mới thông qua, tôi đã gạch dưới những câu liên quan đến điều vừa truyền đạt tới bác và các anh”. Nhìn cách tiếp nhận nghị quyết của các đối tượng, Thông thấy ngay là hỏng rồi. Anh đảng viên ngoài phố khác ở huyện, càng khác anh trong lũy tre chứ. Mà không biết mấy ông này, trừ bác Nhiệm, có phải đảng viên cả… Nhưng lời kết luận của tuyên huấn đã vang lên:
- Như thế gọi là đi lên bằng nội lực. Các bác các anh người đã nghỉ người còn đương chức nhưng đều có sẵn các mối quan hệ và hiểu biết. Bát máu đào hơn ao nước lã. Huyện rất cần sự đóng góp của các bác các anh, bằng chất xám trước, chứ vật chất thì sau đã.
Ba vị khách đều im phắc. Ông Nhiệm và Bài còn liếc vào tập nghị quyết chứ Phương đã gạt phắt sang bên, hỏi ngay: “Thế huyện định xin lập di tích ở đâu?”
- Cũng chưa rõ lắm. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp, đâu đâu trong huyện cũng có đóng góp, hy sinh, làng nào mà chẳng vài mươi liệt sĩ.
- Chưa có địa điểm cụ thể thì khó lắm, Phương lúc lắc cặp kính tổ bố.
- Thật ra thì chọn ngã ba ở thị trấn huyện là tốt nhất. Chiến tranh, đấy là túi bom, đường hành quân vào Nam đi qua, địch nhất quyết đánh phá, ta nhất quyết thông đường, hy sinh nhiều vô kể, kể cả bắt được phi công Mỹ. Bây giờ chỗ ấy chụm vào thêm mấy con đường nữa, có cái kỷ niệm, tượng đài chẳng hạn, người ta dễ dừng lại thăm viếng.
- Người cũ còn ai không anh? – Phương lại hỏi.
- Tiếc là không. Ông Oánh huyện đội trưởng hồi ấy mất năm kìa, ông Chống xe thồ bà Yên hát Ví làm cọc tiêu sống đã đi cả. Còn độc cụ Diểu dân quân thì lẫn lộn. Tôi mới tìm hiểu đến đấy.
- Thế thì anh phải đi tìm thôi, lấy lại lời người sống sót. Mà nhanh lên kẻo các cụ đi cả.
- Rồi huyện sẽ làm, giọng ông Mật đã dịu lại. Nhưng trên này các anh biết ông nào đóng to mà trước kia chiến đấu ở đấy, hoặc chỉ dính dáng thôi…
Ba đối tượng chính nhìn nhau. “Nghĩa là chưa có gì để lập hồ sơ chứ gì? Thế thì lại phải đi tìm”, Phương lẩm bẩm. “Còn phải mất thời gian đấy. Tôi biết rõ chuyện chạy bằng di tích, chả phải nói suông, có sự thực sờ sờ mà được đâu”.
- Thế thì huyện mới cậy đến các bác các anh ngoài này. Chuyện tốn kém quà cáp trong ấy cũng liệu là phải có rồi. Nhưng bây giờ xin sang nội dung của xã ta. – Ông Mật chuyển sang ông Thọ - Chú trình bày đi.
“Luận văn” miệng của ông Thọ được soạn kỹ rồi, nhưng chuyện của cấp huyện to tát mà cũng nhiều vấn đề quá, nên ông quên mất. Nhãng một lúc nó mới xếp lại mạch lạc được, giọng quê rề rà như nói chỉ cho mình nghe, ý chân phác nhưng lại được khán thính giả chăm chú hơn.
- Bốn mươi năm thờ cúng đứt mạch, giờ mới thấy đuổi thần thánh đi là sai, thấy mình như cái cây trốc gốc. Hội hè làng nọ xã kia mở lại cả, các bà làng mình ngày rằm ngày một chả biết kể hạnh thắp hương ở đâu. Ngôi đình đã dựng lại còn đơn sơ quá. Cái bia năm “triệt để” đập mất, chả biết gốc tích ra làm sao. Làng nghèo, thôi thì trăm sự nhờ các bác các anh góp tay mở miệng vận động người họ người xã đi đâu đâu công đức cho bằng người. Cứ nghĩ đến hội bên làng Phủng vạn người nô nức mà tủi, mà thành hoàng bên ấy chỉ là anh nhặt cứt trâu, sao bằng Ngài nhà mình. Lời quê dông dài, thế cũng là nhiều đấy ạ…
Những lời rất nhũn nhặn mà chả ngờ lại làm ông giảng viên đại học bùng lên. Sự phản ứng dù được kiềm chế vẫn rất khó nghe:
- Tôi nói thế này không đúng chỗ, vì các bác không phải người gây ra. Nhưng hồi tôi có giấy gọi đại học, chính quyền xã ỉm đi không cho gia đình biết. Không có người lên Hà Nội dò danh sách gọi học có mình thì tôi giờ cũng là anh chân đất mắt toét đi theo đít trâu còn gì.
- Chuyện xưa rồi anh ơi…
Thông cất lời cản nhưng Bài lơ đi. “Mà tôi được gọi đi nước ngoài. Không được đi Tiệp hồi ấy trong diện viện trợ cắt lại cho lưu học sinh thì gia đình cũng chả nuôi được tôi học trong nước. Trần xì mỗi tháng mười tám đồng ăn học thế nào được. Giữ giấy gọi lại là ông anh của anh đấy”, Bài chỉ tay vào ông Thọ. “Hồi ấy chủ tịch xã quyền thế, yêu ghét ai là lấy tay che cả mặt trời được”.
Bài đứng phắt dậy đi nhanh ra cửa, rồi quay lại cũng nhanh như thế. Ừng ực hết cốc nước cho cơn giận xuôi xuống, vẫn đứng thế, ông lại xả:
- Tôi biết các bác không có lỗi, không liên quan trong chuyện này. Tôi cũng biết quê ta nghèo, muốn có danh cho thiên hạ tỏ mặt vua biết mặt chúa biết tên. Nhưng không nói không chịu được. Làng nghèo nhỏ bằng cái teo mà mang danh cách mạng ra đè nhau quá đáng quá. Đúng là giống kỳ mục kỳ nát có quyền là cậy quyền. Hồi nhỏ ở làng tôi khổ đến nỗi bây giờ ngửi thấy mùi khoai là buồn nôn. Không thoát ra được thì là khố dây chứ còn gì, mà giờ các bác lại bảo chúng tôi là những niềm tự hào của làng Bùm. Thôi tôi nói thế thôi, chứ cũng yêu quê hương chứ. Tôi sẽ góp tiền làm đình và gặp ai thì bảo họ làm giống mình…
Giọng đã dịu lại. Những lời đã ra làm đại biểu quê hương khấp khởi, thì Phương lại gây chuyện, có ôn tồn hơn.
- Hôm nọ tôi về nhà, ra ngắm qua đình mới rồi. Làm đúng nền cũ là phải, nhưng so với đình xưa thì trơ trẽn, trống trải quá. Tôi có kỷ niệm rất đau hồi chống mê tín dị đoan, xã buộc ba con trâu vào cột đình kéo đổ, bà cụ tôi ra can bị lão Phụng bí thư hét dân quân trói gô gốc duối. Cụ nhìn cảnh phá đình đau đớn phải ngất đi, tỉnh lại cứ nói sảng chết thôi chết thôi sao ác thế. Tiếc là những đứa phá đình không sống thì cũng thân tàn ma dại rồi, không tôi nhét cứt vào mồm nó. Thử hỏi cái trụ sở ủy ban, nhà văn hóa với nhà cộng đồng thôn, xây chả phải bằng tiền dân đấy, nhưng ai đi xa về gần có nhớ đến không? Chả báu lắm đấy. Người ta chỉ biết mái đình la xuống đầu đao véo lên, tiếng chuông chùa lan xa thôi. Thế mà tiệt mà đứt, giờ phải tính cất lại thì có ngu nào ngu bằng. Đang nhiên đem thằng mới về vứt tổ tông đi.
Ai nấy lặng ngắt. Ông Thọ mặt đuỗn ra, ông Mật xám như chì mẹ cha cái tụi thành phố nó chửi chúng mình dễ quá. May mà ông Nhiệm cất giọng, dù chậm rãi mà rành rọt, những điều ai cũng phải lắng nghe:
- Nếu kể tủi hờn ra thì tôi cũng góp được đấy. Năm ‘53 đang chính trị viên tiểu đoàn, về đến đầu làng gặp cụ Sức bảo anh quay đi ngay không đội cải cách bắt. Nhà tôi gieo mầm cách mạng đầu tiên, cuốn sử Đảng bộ xã ghi gì đâu, cứ phe giáp mình mà kể. Nhưng thôi. Lịch sử nào cũng có nhiệm vụ của mình, vì lẽ riêng mà chỉ nhớ đến điều dở thôi là không nên. Đánh giá, rút bài học này nọ là việc của trên và các ông chức năng, ta là những con người bình thường thì hãy quan tâm đến việc bình thường, như nguyện vọng của huyện hôm nay… Anh Phương vừa hỏi một chuyện rất thực tế. Điều tôi muốn hỏi anh Mật là một thực tế khác: thời buổi làm kinh tế, sao nghị quyết lại xác định đi lên bằng chính trị? Tính thế liệu có hợp không nhỉ…
Vừa giãn người ra vì câu ủng hộ, ông Mật phải co ngay lại. Cái điều, cái giọng của con người từng ở ngôi cao ấy làm ông phải so đo. Câu trả lời bật ra không ngờ lại rất nôm na.
- Nói thật với bác lâu nay Thanh Hạ ta lép về khoản cán bộ so với các nguồn khác trên tỉnh. Như các bác đều biết tỉnh ta có ba vùng miền núi, đồng bằng và duyên hải. Trong chiến tranh cơ quan tỉnh rút lên miền núi ta, sau này nguồn cán bộ cũng lấy từ đấy. Nhưng sang thời kinh tế thị trường thì bao nhiêu rường mối về tay đám đồng bằng với thị xã cả. Tổ chức, phó bí thư trực bên Hạ Câu, ngân hàng, bưu điện, hải quan béo bở không Cù Khê thì Ba Lạt, còn lại ta chỉ văn hóa xã hội èng èng mà lại dưới trướng phó chủ tịch người Vạn Hoa. Họ có ghế rồi đưa con cái, phe cánh về ùn ùn, chiếm hết chỗ ngon. Đại hội Đảng bộ tỉnh bầu khóa mới rồi bí thư huyện ta may mà vừa đủ phiếu vào tỉnh ủy, mà ông này người nơi khác, cử về một nhiệm kỳ làm nguồn lên chỗ mới thôi, còn những anh gốc Thanh Hạ bầu cho nhau thì được phiếu nào hay phiếu ấy. Tay lẻ khó vỗ là thế. Đi đại hội về chết giấc vì tức. Mà thời chiến những chỗ ấy ít bom đạn, hy sinh sao bằng Thanh Hạ ta. Có một di tích hoành tráng trong huyện để rồi trung ương, cả nước biết đến, ta không thể không lưu ý các vị mỗi khi đại hội phải bầu bán này nọ là đừng quên cái nơi đã chịu đựng cho cả tỉnh trong chiến tranh mà giành hết các vị trí về mình. Trả giá rồi thì phải đòi lại chứ, các anh huyện khác hưởng hết à? Đấy là cái điều không ghi vào nghị quyết được ạ.
- Ra là thế…
Người đáng kính nhất chỉ buông vậy, rồi ngả hẳn mình không nói năng gì nữa. Sự im lặng của ông nặng như núi ngàn cân đè chịt những người khác khiến chẳng ai mở mồm nổi.
*
* *
Cuộc họp vãn, hai ông chủ trì đều nặng trĩu, chả biết kết quả là thành công hay thất bại. Đi thuyết phục đám đồng hương ra phố này không dễ chút nào, ông Mật cáu. Tức nhất là cái thằng Phương, tuổi kém mình bề bề mà nó cứ cật vấn ra điều phải lứa, dễ những lúc được hỏi ông bộ trưởng ông ủy viên cũng láo thế được chắc? Thằng Bài trí thức dạy đại học mà không biết nhẽ, sao cứ quàng vào chúng ông những chuyện người trước làm không phải. Nhưng anh ách nhất lại là ông Nhiệm, nói năng như không còn gì là người huyện người làng nữa, nghị quyết đã nêu mà cứ vặn. Mà lại đã qua quân ngũ, phải biết thế nào là sự lãnh đạo, ra trên dưới chứ.
Ra là đồng hương rồi nhưng đã mất gốc, không trông cậy được. Họp không đi đến đâu là do tuyển chọn nhân sự, những gương mặt mời đều do Thông nêu ra. Nhưng đang ở nhờ, ông Mật chỉ bảo “Lần sau không bảo mấy vị này nữa”. “Đây mới chỉ là dạo đầu bác ơi”, Thông cười hơ hớ. “Còn phải đi gặp gỡ, thuyết phục, trình bày, nhất là phải nghe, không nghe người ta không giúp đâu”. Càng ở lâu, ông Mật sẽ càng thấy Thông có lý. Nào ngờ được là khi đi thực hiện sứ mạng huyện giao, còn không ít lần, ông còn phải đối đầu với câu hỏi “sao lại chính trị đi trước?” ông Nhiệm đã nêu. Mà có phải lúc nào cũng thưa lại thật thà như lần này được đâu.
Bí, tức mà không trút đi đâu được. Lại sáng ra chả có con văn thư sai nó pha nước…
(Phần 2)
Không trầm trọng như Mật, ông Thọ cảm thấy sau những cắc cớ vặn vẹo nêu ra, mấy vị tỉnh thành có cái nỗi niềm gì na ná mình. Họ đi nhiều hơn, thấy nhiều hơn, hẳn thế, nên nói ra phải ít hơn, ít nhưng có chiều gần gụi. Đêm đến, nửa tỉnh nửa mơ, ông sống lại ngày ra quân ấy, cái rằm tháng giêng cách nay hơn ba chục năm.
Minh họa của Thúy Hằng
Sáng sớm, các vãi ra đình ngạc nhiên thấy trung đội dân quân tập hợp đằng đằng dưới gốc đa râu ria lòng thòng, bên cạnh ba bốn con trâu lực lưỡng. Xã đội trưởng Cù Đại súng khoác vai oai vệ bảo “Đã quán triệt mấy tuần nay mà các bà còn làm lễ là thế nào?”
- Ơ, tôi tưởng chỉ nói chứ làm thật?
Nghe bà Câu lơ ngơ, Đại làm nghiêm “Từ nay triệt để. Dứt khoát với tàn tích phong kiến”, rồi vào gian giữa nhổ nắm hương mới thắp ở chính điện ném ra mắt rồng. “Chúng tôi làm nhiệm vụ, các bà cản trở đừng trách. Chính quyền là ở trên đầu ngọn súng! Các đồng chí...”
“Chát! Huỵch!...” Dưới sức lực điền, tấm bia sau tam quan bay ngay diềm mái. Sau đợt nghỉ, phần thân có chữ ngoằn ngoèo vỡ vụn, rồi đến lượt ông rùa cõng bia. Tất cả rồi sẽ vào lò vôi xây trụ sở.
Dây thừng buộc vào cột đình, trâu kéo người du, mãi mới đổ. Câu đầu cửa võng khuỵu trước, ban thờ bài vị nhào sau. Trong đám bụi mù, Đại phát hiện ra ông chú lén ôm mấy ống quyển đựng sắc các triều phong cho ngôi đình, bèn hạ lệnh trói gô lại. Tội nghiệp lão khóa sinh thi trượt kỳ Nho học cuối nằm dưới bụi chuối râu tóc tả tơi, mặt ướt tràn trụa, khóc không ra tiếng. Từ đấy ra người câm.
Những giấy gỗ vải lụa cho vào lửa, xiêm áo Bà Chúa cháy vèo. Đức Ông, La Hán đắp đất nhào xuống mắt rồng mắt trâu. Còn pho Quan Âm bằng đá bên chùa, xã đội Đại lệnh Thọ buộc vào đít trâu kéo đi. “Cho lên bờ mương”, chả bảo kéo đến đoạn nào thì cho thỏm.
Pho Nghìn mắt nghìn tay ấy rất đẹp, thấy bảo một bà buôn dâu con làng Bùm cung tiến thời còn vua. Giật đùng đùng, nẩy tưng tưng, cái đầu Phật ngần ngật sau hai con trâu đực. Chốc chốc một cánh tay đá vướng gốc duối long ra, con mắt trên bàn tay như chớp chớp. Ra giữa đồng, gần tha ma gốc gạo, Phật lăn tòm xuống mương, trâu đánh mấy không lôi lên được. Mệt rồi, thôi nhà người nằm đấy vậy.
Sáng sau Cù Đại phê bình Thọ không “triệt để phong kiến”, để cái tàn tích ấy nằm lại trên đất thôn là không được, phải ra vớt lên vứt ra xa. Nhưng “nhà người” đã không còn ở đấy.
Thọ đi bộ đội đánh nhau rất lâu, không xanh cỏ cũng chả đỏ ngực nhưng về được, mà lành lặn. Ngày hấp hối, bà cụ gọi anh đến bảo tao giấu Phật dưới búi tre ông Đà, biết thế để sau này thỉnh về thờ lại, không thế thì sao mày về được con ơi. Nghe thế, vâng dạ thế nhưng cứ để nguyên thế không động đậy gì đến. Cù Đại đã hóa rồ suốt ngày cởi truồng đi rong mấy lần cóc chết cho vào mồm. Mả điên phát từ đấy, con cái Đại cứ tàng tàng chả kinh gì hôi tanh. Ông Phụng bí thư không chỉ huy cụ thể chiến dịch nhưng là người ra chủ trương, vợ bị chó dại cắn chết thảm.
Rồi ra những người có liên quan nữa… Rồi ra xã ấy thôn nọ ở ngay bên cạnh với cả những chỗ rất xa xôi, thấy bảo không thiếu chuyện tương tự. Mình không duy tâm đến mê lú nhưng không tin không sợ tý nào là không được, là dễ ra ác độc, cứ con đấu cha trò vả mặt thầy như hồi bé mình đã xem, sau này mới biết là cải cách ruộng đất.
Bao năm không ngờ lại ra thế này. Ông Thọ tỉnh giấc mơ rất kinh, bảo Thông cho lên bàn thờ thắp hương. Rì rầm khấn, ông nhủ Thần Phật với các cụ rằng bàn thờ nhà Thông không có các cụ nên con chỉ vái vọng thôi, rằng con sợ lắm, hối hận lắm rồi vì đã làm những việc không nên làm, may là mẹ còn để phúc lại, nay con phải để phúc lại cho con con và cho con chúng nó. Lòng con đang rất không ổn. Những điều hôm qua còn sáng rõ nay tù mù đáng ngờ, những bất di bất dịch long lở lả tả. Lại những thứ đã đem chôn lù lù hiện về ám quẻ, xua thế nào cũng không đi.
Thật lắm thứ nữa không thể nói ra. Những nỗi niềm tràn ứ không thể hở ra với bác Mật bên cạnh đâu, bác ấy nhiều lý luận, phê bình cho mà tóe khói ra...
- Tưởng bác duy vật hẳn rồi… Thế bác tin hẳn vào “các cụ” à?
Câu hồn nhiên của Thông hóa ra lại rất ác, ác chả kém câu ông Nhiệm cật vấn ông Mật. Phải một tý ông Thọ mới ậm ờ, chả ra trả lời: “Chưa biết tin đâu thì bấu vào các cụ”, và lảng sang chuyện khác. Tôi thấy nhà chú sinh hoạt lạ, sáng vợ đi đằng vợ chồng đi đằng chồng, thằng con suốt ngày trong buồng, được cái đến bữa xuống nấu rồi mời hai bác ra ăn rồi cháu đi học ạ. Tối cũng thế, chồng thể thao vợ nhảy nhót về rất muộn, toàn ăn vào cái lúc người ta đã ngậm tăm. Chú để thằng khác ôm vợ mình quay quay ngoài sàn không sợ à… Thông cười hơ hơ làm ông thấy mình đang lo bò trắng răng.
*
* *
- Ai đấy?
- Em ạ. Em ở làng Bùm.
- Làng Bùm nào?
- Làng Bùm trong Thanh Hạ.
- Thanh Hạ nào?
- Tận miền Trung cơ ạ. Làng em đang xây lại đình chùa, xin các bác phát tâm công đức cho Thành hoàng làng em và chư Phật có chỗ ngồi. Cái chỗ ngày xưa bị phá đi mất rồi.
- Sao lại phá chỗ các Ngài?
- Dạ, là những ông ngày xưa phá, không phải chúng em. Giờ các Ngài vất vưởng đâu đâu không được, làng quyết tâm xây lại, mời về để thờ, nhưng thiếu mất một chút.
- Thế đây, tôi xin ủng hộ. Không cần phiếu công đức đâu.
- Em xin bác. Cảm ơn bác ạ.
*
* *
- Hôm nay có thi môn gì đâu mà mua hương.
- Đâu. Có hai bà nâu sồng đến bán hương xây đình chùa ở quê.
- Lại có cả giấy công đức. Xem nào… Làng này ở đâu chứ có phải làng mình mà góp!
- Nói giọng miền Trung, đi ra cũng xa xôi nên mua cho họ.
- Chín thẻ à?
- Ừ, họ bảo đàn bà thì chín.
- Thế đưa bao nhiêu?
- Ít thôi.
- Ít là bao nhiêu?
- Đã chả muốn nói lại cứ hỏi. Chín mươi nghìn.
- Ôi giời! Cậu có căn tu đấy.
- Mất tiền thì không tiếc, nhưng tức như là mình bị lừa.
- Đã công đức còn so đo, đúng cái đồ…
- Thôi không nói nữa!
- Lần sau ai vào họ xin cả người, cho luôn!
*
* *
- Ai bấm chuông đấy?
- Tôi ạ, xin các bác phát tâm…
- Thôi đi đi! Sáng ra đã nhiễu.
- Làng trong quê xa, tận miền Trung bão lụt, muốn làm lại ngôi đình, chúng tôi có giấy giới thiệu của ủy ban với sổ chứng nhận công đức mà.
- Tôi biết các vị rồi. Kiểm tra bể phốt với bình ga ông bà nào chả có giấy tờ. Nhiễu!
*
* *
- Ôi giời làng Bùm à? Tôi chả biết Bũm Bùm nào, nhưng quê tôi cũng thế, đuổi các vị đi rồi giờ rước về, phải tội lắm nhưng còn hơn không. Đây tôi cúng một ít…
*
* *
- A di đà Phật!
- A di đà Phật! Hôm nay khuyến thiện thế nào?
- Bạch thầy cũng được. Có bà mời vào nhà hỏi han, cho uống nước. Nhà có bàn thờ Chúa, biết con đi quyên tiền làm chùa, ở nhờ nhà chùa mà vẫn đưa tiền, con thấy lạ.
- A di đà Phật, thì cũng người Nam ta cả…
*
* *
Tấp tểnh, thất thểu, các vãi làng Bùm đi xin lộc khắp nơi. Lạ cho giống đàn bà. Đàn ông chỉ độc chủ trương, chứ sang xã bên, lên tỉnh huyện, ra tận thủ đô, vào miền Nam, chỉ có họ đi được...
Có người về ngay, thất vọng trước sự bàng quan của người đời. Những đứa phũ hắt cả chậu nước vào mặt không ác bằng kiểu từ chối lịch sự nhưng nhìn người ta như không nhìn, hàng tháng trời không quên được kiểu tử tế ấy. Có người hớn hở dốc bị tiền cho ban kiến thiết để Ngài có chỗ ngồi cho con dân được lạy tạ, bao nhiêu mệt nhọc nhịn nhục lạy lục quên hết. Dân phố lỵ, tỉnh thành cũng lạ, sống trên tiền, trong bụi bặm lâu năm, góp của đấy nhưng chả mấy người mời vào nhà cho được cốc nước. Tội nhất là bà Năm xóm Tám đi cả tháng nhịn đói khát không dám phạm vào lộc Ngài lúc về rộc như con mắm, chỉ đôi mắt sáng trưng.
Ông Thọ là trưởng ban kiến thiết, ngồi thu tiền luôn. Thỉnh thoảng bị tiếng nhiếc “báng bổ thần thánh, đem đập các Ngài đi giờ phải rước các Ngài về có nhục không”, ông chả lấy làm điều. Lo nhất là các Ngài có về, về rồi có phạt không. Dù sao công sức các vãi có kết quả, tiền bòn mót được cứ mỗi rằm mỗi một dầy thêm một ít, tuy đa phần bạc vụn. Ông bàn với các cụ thôi có ít làm ít, cái đình đơn sơ thôi, Thành hoàng ở giữa bên Đức Ông bên Chư Phật còn điện Mẫu lui sang hẳn bên, chỉ thấy ậm ờ. Bốn chục năm vô thánh vô thần chỉ họp hành kiểm điểm đấu tố giờ quay lại thờ cúng ngọng nghịu quá. Nhưng ngọng còn hơn không chứ, các Ngài xá tội cho. Làng mình nghèo có vậy làm vậy có khi lại may, chả biết những chỗ tiền đè chết người người ta tính tiêu pha ra sao nhỉ. Đã chả có anh tiêu không minh bạch phải đem nhau ra xử đấy à… Những nỗi lo, niềm vui nhỏ nhoi làm giấc ngủ của ông khấp khởi bồng bềnh, như được gần một cõi huyền bí ít ô trọc hơn.
Ông Mật thì không được vậy. Hồ sơ xin di tích lập lại ba lần các “cố vấn” ở thủ đô vẫn kêu “không cụ thể, bên văn hóa về kiểm tra thế nào nó cũng hạch”. Cụ thể thế nào được, vì nhân chứng thời chiến không còn, còn thì không ngọng cũng lẫn. Khó nhất là “vật chứng”, tức cái địa điểm phải bầu lên làm anh hùng, huyện nhất trí ở ngã ba thị trấn rồi, nhưng tại sao ở đấy, dịch lên dịch xuống sang ngang vài trăm mét có được không, thì trả lời rất khó. Người thủ đô họ giúp đấy nhưng phải trên cơ sở phù hợp với luật di sản với những quy định dưới luật gì đấy cơ, chứ có nói không rằng đây là trên cơ sở nguyện vọng của huyện ủy, ủy ban và toàn thể nhân dân trong huyện được thể hiện qua nghị quyết huyện ủy mà thuyết phục được à. Đến lúc tàm tạm rồi, hồ sơ họ nhận rồi thì lại phải chờ, chờ và xin địa chỉ đến thăm chị và các cháu tận nhà, người cành lộc hươu người miếng mật gấu kèm theo.
Lâu lâu lại thăm một người có liên quan ở cấp cao hơn. Hơn hai năm trời ném đá xuống ao bèo, xin có cái “chính trị” mà trời không thấu.
Tức nhất là cái thằng trên bờ không thủng cho thằng dưới nước. “Tôi tưởng chuyện ấy đơn giản”, bí thư huyện nói vẻ bâng quơ làm ông uất khí. Cái thằng trẻ ranh từ công tác đoàn mà lên chỉ toàn tay không bắt giặc, cứ thử cho đi như ông xem. May là còn có nhà Thông. Hết sức thông cảm, phòng riêng ở bao lâu cũng được, thân tình rồi thì có gì ăn nấy, nó giúp được gì thì giúp còn việc mình mình cứ đi. Tiện nhất là vợ nó bận bịu đi cả ngày, thằng con chào bác xong cun cút lên phòng bật máy tính, mình đỡ dơ cái mặt ra. Nhưng cũng có cái phiền, mình thích rượu nó chỉ uống bia, ban đêm thèm thuốc đến chết phải chịu, đang thu cả hai chân lên ghế thấy vợ nó về thời hạ xuống, ngậm cái tăm vứt vội đi. Chả phải là ai bảo, tự ông thấy thế thì ngượng.
Gần hai năm giời đi lại chỉ nhúc nhích được tý. Hồ sơ xin di tích xếp hàng bên cơ quan di sản cao bằng núi.
Rồi cô vợ đi suốt ngày của Thông, ngang qua bàn nước ông nào ông nấy đăm chiêu ngỗng ỉa, đánh rơi câu:
- Sao anh không đến cái Lan con chồng dì Bỉnh, anh con cô con cậu với em dâu nó là thư ký ông Tĩnh…
*
* *
Pha được cốc nước cam nóng, bà Hợp đem vào buồng ngủ, thấy chồng đã duỗi dài, mắt khép lại, bèn đặt nó xuống đầu giường. Ông Tĩnh vẫn khỏe nhưng hay bị tiệc tùng tiếp khách, có tý bia vào là thế, khiến cái bản năng thầy thuốc của bà phải cảnh giác. Năm ngoái bộ trưởng Đ. mới nhậm chức đã chả xuất huyết não sau phen quá vui là gì. Chồng bà sắp nghỉ, cũng là đoạn lắm tâm sự cần chú ý. Bà Hợp tắt đèn, sang phòng riêng của mình, nơi có một núi sách và những cây bút, giờ thay bằng máy tính.
Nhưng ông Tĩnh chưa ngủ, chỉ lơ mơ thôi. Chất men, một chút thôi, đem lại cảm giác thật dễ chịu, để mà khỏi phải nghĩ đến đại sự ở tầm quốc gia. Còn một năm nữa là hết nhiệm kỳ, biết mình sẽ không tại vị nữa vì quá tuổi và vì vài lý do nhạy cảm nữa, ông hay cho phép mình lơ mơ. Để mà sống lại với quá khứ có thật và nhớ những điều chưa từng xảy ra, thật kỳ lạ là nó cứ trộn lẫn, và cũng hình dung đôi chút về tương lai lui về. Nghỉ nhưng không phải hưu hắt, còn khối chân danh dự, những hội nghị thắp sáng quá khứ soi rọi tương lai cần ông có mặt, kể chuyện xưa hay đơn giản chỉ đứng lên đáp lễ. Hạ cánh từ từ, không sốc, thế là quá hợp lý với độ tuổi của ông rồi.
Chiến tranh, những ngày này, hay hiện lại không quá ùng oàng máu me, trung đoàn rút về hậu cứ còn được phần ba là may. Nó lại nhỏ nhẻ những chi tiết vụn vặt, như giấc ngủ ngon lành không bị trợ lý tác chiến đánh thức, củ khoai bếp trung đoàn để dành. “Đi cho đọa hè”, mạ Quảng Trị nói sao mà khó bắt chước. Rất hay gặp là một khoảng rừng quang đãng, không quá chói nắng, có con suối vắt qua, ông cùng ban tham mưu làm liều thuốc lào say ngã ngửa. Rừng sáng và mát mẻ, ráo mồ hôi lại tỉnh táo đi tiếp được. Cuộc chiến có thằng về thằng không, ông là kẻ may mắn, ngưng súng đạn lại lên một lèo đến cái ghế quyết định nhiều việc trọng của đất nước bây giờ.
(Phần 3)
Cuộc gặp sáng nay với đại biểu từ địa phương lên làm Tĩnh thấy xốn xang. Cậu trưởng ban tuyên huấn huyện, khá rụt rè, đặt vấn đề trước đây anh đã tham gia chiến đấu ở Thanh Hạ, đem lại cho quê hương niềm vinh hạnh lớn. Giờ đây Thanh Hạ muốn phát triển lên thành vùng kinh tế du lịch văn hóa trù phú, ngặt nỗi thế mạnh chỉ có lúa lợn lang luồng. Dân cư nghèo kiệt chất phác, chiến tranh xẻ nhà xẻ cửa ra cho các binh đoàn kéo qua, đến thời bình mới phát hiện ra mình chả biết cách làm ăn giầu tẹo nào. Tắc đường kinh tế thì phải lấy chính trị làm mũi nhọn. Huyện ủy, ủy ban, các ban ngành đoàn thể họp hành mãi, chỉ thấy quá khứ vẻ vang thời chiến là đáng đẩy lên làm mũi nhọn nhất. Ông Tĩnh đã chiến đấu ở Thanh Hạ hồi chống Mỹ, vậy nên huyện đề nghị giúp cho một cái di tích cách mạng.
“Chúng em chọn thôn Ba thị trấn huyện làm nơi đặt di tích. Vì thứ nhất, đấy là chỗ giao nhau giữa quốc lộ và hai tỉnh lộ, nhiều khách hơn chỗ khác. Thứ nhì, thủ trưởng hồi chiến tranh về huyện nhà mở đường thâm nhập vào phía Nam, sau này xe tăng, tên lửa, cơ giới ta tập kết về chuẩn bị cho chiến dịch K. thắng lớn, đẩy lui lớp phòng ngự tuyến đầu của địch tạo thế dằng co cho tới ngày tổng tấn công thắng lợi. Thứ ba, huyện giờ chả biết trông vào đâu để mở mày mở mặt, như tỉnh bên họ có ngã ba Đồng Lộc, nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang Đường 9 khách về nườm nượp như một điểm hành hương về nguồn. Đi lên bằng chính trị nó có nhiều ý nghĩa ạ. Như giáo dục lớp trẻ trông vào đấy mà tự hào về quê hương. Dựng một tượng đài lên, là các đôi cưới xin có thể ra chụp ảnh. Và trên hết, kéo được khách về thăm, đem lại nguồn thu cũng như các ý tưởng đầu tư cho huyện phát triển lên”.
Minh họa của Thúy Hằng
Trưởng ban tuyên huấn Thanh Hạ ngừng lời, đợi ý thủ trưởng. Ông Tĩnh im ắng dăm phút, sắp xếp các ý nghĩ rồi phát, các ý kiến dầu chỉ là “sơ khởi”, “của cá nhân tôi thôi”, nhưng làm người nghe hoảng:
- Tôi rất trân trọng chủ trương của huyện. Nhưng còn mấy băn khoăn thế này… Một, là đường vào phía trong lúc tôi vào mở lớn trên nền đường mòn mà các anh đi trước mở từ cuối những năm năm mươi. Mình chỉ là người đi sau, gắn liền với giai đoạn đánh lớn có hỏa lực mạnh, làm sao dám nói đấy là điểm mở đầu của đường vào chiến dịch K. Tôi cũng quên khá nhiều rồi. Hai, là sao lại chọn chính trị làm điểm đi lên. Đang là giai đoạn làm kinh tế, huyện chọn cách nào kéo được người ta đến làm ăn chứ, chỗ này thì tôi có thể ủng hộ được vài dự án.
Khách huyện im bặt, trời rét mà chân tóc ướt rịn. Tởn vì lời nói điềm đạm mà có gang có thép, nhưng nghĩ đến nhiệm vụ huyện giao, ông Mật ngập ngừng: “Dạ, nhưng chúng em trộm nghĩ là thủ trưởng đang ở vị trí có thể quyết định được đâu là điểm khởi đầu của con đường lịch sử mà báo chí thế giới phải nhắc đến”.
- Anh nói thế không đúng. Phải tôn trọng lịch sử, làm thế là xóa công người đi trước. Hồi ấy hai trăm người đã bỏ mạng để mang được ba tấn súng đạn vào trong kia, mình giẫm lên thế nào được.
Giờ thì im hẳn, nghe tiếng chuông đồng hồ điểm như tiếng súng. Khách muốn rút nhưng đã ra cấm khẩu đành ngồi im chịu trận, may anh thư ký nhẹ nhàng bảo: “Thôi các anh cứ về. Thủ trưởng mới phát những ý đầu, còn cân nhắc tiếp. Dù thế nào thủ trưởng cũng không quên sự khó nhọc của các anh đã ra đây”. Từng nấy lời là kết quả của chiếc mật bò tót được tặng.
Bèn líu ríu đứng dậy chúng em không dám quấy quả nhiều quá, có gì xin thủ trưởng bỏ qua, chỉ vì đây là nguyện vọng của đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong huyện. Chợt ông Tĩnh quay sang: “Thế huyện mình là huyện gì?”
- Dạ, chúng em Thanh Hạ.
Năm phút im phăng phắc, ông mới lẩm bẩm “Ừ nhỉ, ừ nhỉ…”, mặt chìm vào xa xăm, chỉ anh thư ký nhắc khách cứ về đừng tắt hy vọng. Ông Tĩnh dặn anh nhận hồ sơ di tích Thanh Hạ, tiễn họ về ân cần, tình nghĩa, nhưng tâm trạng còn không ngừng xao động.
Không xao động sao được. Đấy là một trong những bí ẩn lớn nhất của chiến tranh, của đời ông kia mà…
*
* *
Năm 1971, trung tá Tĩnh được lệnh đưa một tốp tinh nhuệ vô Trung dọn một cái ổ chuẩn bị đánh lớn vào sau lưng địch. Trợ lý trinh sát, bản đồ, trinh sát pháo binh, phòng không, y tá, thông tin, anh nuôi, toàn lính tráng thứ quý hơn vàng. Cấp trên phái đến một trung úy rắn đanh, nhỏ người nhưng mới nhìn đã biết rất thiện chiến. Tuấn đã trinh sát thực địa vài lần, làm việc với địa phương các phương án dự phòng, giữ bí mật, đảm bảo hậu cần... Địa điểm đóng quân ở Thanh Hạ, làng xã nào không biết, chỉ là những dấu đánh số trong bản đồ. Người già trẻ em sơ tán lên giáp biên giới Lào cả, còn độc dân quân ở lại. Trung đội ấy trang bị súng bộ binh chả khác gì quân chủ lực, cả thời gian đóng quân gần như không thấy anh đàn ông nào, kể cũng hơi hơi đáng lo.
Nhưng cái gợn ấy tan ngay khi người chỉ huy bộ đội thấy trung đội được tổ chức rất chặt, biết rõ việc. Đêm xuống, sau bốn tiếng hành quân, Tuấn liên lạc được với huyện đội, dẫn Tĩnh cùng hai trợ lý tham mưu xuống làng. Gọi thế, nhưng toàn hầm là hầm náu dưới những thân cây lực lưỡng. Chui vào một căn, dù ánh đèn dầu rất yếu, họ vẫn kịp thấy hai cô gái, một thút thít khóc, cô có tuổi hơn đang rất giận dữ.
- O Thim.
Anh huyện đội gọi ngập ngừng, chưa muốn giới thiệu ngay. Cô lớn tuổi bảo đồng đội: “O về kiểm điểm lại quan điểm. Đang bom đạn lại có hành vi thế à”, nhỏ thôi nhưng vẫn căng. Cô có lỗi đứng dậy chào lí nhí rồi trèo khỏi hầm.
- O Thim ni xã đội. Còn đây là thủ trưởng Tĩnh, các anh trợ lý. Anh Tuấn thì gặp rồi…
Nghe anh huyện đội vắn tắt, Thim đứng nghiêm “Báo cáo thủ trưởng chúng tôi đã sẵn sàng. Ta đi ngay ạ”. Nhưng Tĩnh muốn nghỉ. Đôi giày chật phản anh, phải rút chân ra một lúc cho máu thông lại đã. Câu chuyện giữa anh huyện đội và Thim loáng thoáng lọt vào tai anh câu “O Niềm luyến ái với lái xe, tôi gọi lên chấn chỉnh trước, kẻo mất kỷ luật toàn trung đội”. Ôi giời các bố lái xe, không có các bố ấy thì chết, mà có các bố ấy cũng chết. Anh huyện đội động viên o ngăn chặn trước là phải, đây không trực tiếp quân giặc nhưng vẫn là chiến trường, cái nhiệm vụ chúng ta sắp làm đây còn quan trọng hơn trong chỗ có địch, phải quán triệt thật kỹ.
Họ đi dưới tán rừng tối om độc một giống cây, hỏi thì “Chúng em gọi “nhọ nhẹ”, bên dưới rất ít bụi. Trèo lên một khoảnh đồi lúp xúp đất đầy rễ con, người phụ nữ mang cây tiểu liên, thắt lưng đầy kẹp đạn rất dẻo dai, chốc chốc dừng lại đợi thủ trưởng đau chân. Chỗ này dân đã di cả, các đường vào đặt chốt chặn, có suối, tán rừng rậm, có thể đặt sở chỉ huy. Chỗ kia cằn cỗi chỉ ẩn được một trung đội. Kể thì đơn vị lớn quá, rừng núi hẹp đóng sẽ rất chật, nhưng đành chịu, đào hang mà ở thôi. Xen giữa những tính toán và cái đau trong giày, Tĩnh ngửi thấy mùi mồ hôi chua nồng, nhưng không đến nỗi khét như của lính.
Họ đi hết đêm, sáng ra thì phân tán để ngủ, thường hai anh một “phòng” khoét dưới đất, mình thủ trưởng một nơi. Chả ai biết trời đất gì nữa, đến khi dậy thấy vách hầm xung quanh họa báo dán kín. Ăn cơm trưa, mọi người bảo ngửi ra mùi gì lạ lạ, lạ nữa là hơi khó ngủ.
- Chỗ đàn bà mà, Tuấn lẩm bẩm rồi hít mỗi nơi mỗi tý. Thủ trưởng không biết chứ trinh sát bọn em thính mũi hơn chó.
Trưa hôm sau Tĩnh bàn xem có thể đi ban ngày được không, vì đêm hôm nhìn rất loáng quáng và lệnh trên muốn tập trung đại quân sớm. “Có cả hỏa lực mạnh”, anh chỉ nói thế mà không nhắc đến pháo phòng không, pháo mặt đất và có thể cả tên lửa sẽ kéo vào. “Chia làm hai tốp đi cho nhanh, tức là ít nhất hai người dẫn đường”
- Thủ trưởng để em thu xếp. Hơi ít người đấy ạ.
Thim nói rồi con cón ra phía cuối rừng. Hẳn là dưới một gốc nhọ nhẹ, các cô có căn hầm của mình. Giờ thì Tĩnh mới ngắm được kỹ, Thim vào loại đàn bà to xương, cao lớn, gò má nhọn, thân hình không thể nói là mỡ màng. Ngoài kia, vượt xa khỏi những túi bom như đây, đàn bà cũng mỏng mình “tờ giấy viết thư còn gọi bằng cụ”, nhưng dù sao cũng nhiều nữ tính hơn. Kể thì thương thật, không có chiến tranh họ hương sắc khác chứ. Trong khi Tĩnh vân vi những ý nghĩ ấy thì Tuấn đánh một câu: “Mẹ kiếp, lưng dài như chó liếm cối, chồng đi vắng khó lắm…”.
- Cậu tăm nhanh nhỉ, trợ lý bản đồ cạy đất bám trên báng súng cười gằn.
- Tớ còn biết cả vấn đề của các em kìa. Trung đội có cô kêu trời nóng quá cởi quần áo ra suối cười, không nhốt riêng lây cả hầm.
- Bốc phét. Những chỗ ta qua cũng đầy nữ dân quân làm gì ra có.
- Tớ chả biết. Nhưng mà đây có.
Chuyện của cấp dưới cứ thủng thẳng, còn Tĩnh lo thắt ruột vì những bãi đáp cho hàng đống xe pháo to lồ lộ. Nhưng khi Thim trở lại với một cô gái vuông vức bánh chưng, anh không khỏi ngắm kỹ dáng người cô. Quả là cứng. Lưỡng quyền cao, dóng chân dài. Vai vuông đeo quân hàm chắc đẹp. Cả ngày anh đi theo cái lưng dài miên man đến con chó liếm cối, nó liếm cơm nóng giã muối vừng chắc. Thim có giác quan thật nhạy, có lúc hô cả đám thục mạng vào tán cây, mấy giây sau chiếc trinh sát mới vụt qua. Có lúc vượt qua bãi trống Tĩnh muốn chạy gằn thì cô thủng thẳng “không phải giờ của nó đâu thủ trưởng ạ”. Lúc nghỉ ở bãi đá ven suối, nhá miếng lương khô mằn mặn, Tĩnh thấy mình thật khó rời mắt khỏi đám tóc rối sau gáy Thim. “Tóc không rụng, chả biết kinh nguyệt có đều được?”, suýt nữa chàng trung tá để câu ấy trôi khỏi miệng.
Chuyến trinh sát có kết quả tốt. Ngày đi, đêm về làm việc trên bản đồ, đánh dấu những bãi đáp xe, chỗ náu từng trung đội, tiểu đội một. Khó nhất là địa điểm đặt pháo phòng không, kín đáo, bất ngờ nhưng phải đủ thoáng để ngắm bắn và có đường “biến” cho nhanh lúc nó tập trung không quân giã. Giữa những quãng ngưng là tuần chè rừng chiêu khoai lang khô dân quân cho. Tĩnh luôn phải thán phục cái bản năng sống của Tuấn, vùng trống mênh mông, không dân mà có hôm lôi ra chai rượu sắn.
“Em chỉ cần cái bật lửa và con dao là sống được”, Tuấn nói tránh khi anh hỏi kiếm đâu, rồi chuyển sang những câu tếu táo. Đôi khi hắn đẩy cử tọa vào tình thế rất khó xử. “Thứ nhất rượu say ngà ngà, thứ nhì công tác đường xa mới về”, tôi đố mọi người là gì nào?”, làm gáy Thim ửng như phải phát. Quả là cái kho vĩ đại chuyện đực cái. Những bọ mạ thắc mắc bộ đội ngửi mồm con gái. Hôm nghỉ ven suối hắn hát “Ta là con của bố ta mẹ ta, nhớ nhà là ta phắn ta chuồn…, đố là gì đấy?”. Rồi tự trả lời: “Là lính đào ngũ. Tôi cũng đã từng đào ngũ, rất sợ…”
Chả biết có phải vì nghe mãi, mà giữa giấc ngủ mê mệt, Tĩnh hay mơ gặp vợ. Hợp tình tứ mà đoan trang, kín đáo, khi cười chưa bao giờ khoe hết hàm răng trắng đều tăm tắp, hình như luôn muốn giấu nét tươi lồ lộ đi.
Những giấc mơ như giọt sương làm dịu ánh ngày khắc nghiệt. Làm quên đi những lần hút chết, nỗi lo lắng binh đoàn giấu quân, nó cũng khiến Tĩnh như không khi thừa biết trong cái hốc nào đó, Tuấn đang làm gì với cô dân quân mình trắm bánh chưng.
Chuyến đi nguy hiểm này dính chút hơi mái vào, không ngờ làm Tĩnh chơi vơi, đêm đêm hụt hẫng. Những mình trắm mật mẩy. Những tóc rụng xơ xuộm kinh nguyệt tắt. Những má sạm gót nứt mà múi to múi nhỏ ngần ngật…
*
* *
Nhiệm vụ hoàn thành. Trên cử một đoàn xe tải vào thử, tất nhiên ngày đi đêm nghỉ. Khỏi phải nói sự gieo neo của quân và dân Thanh Hạ khi chín cỗ đại xa bắt đầu lăn trên đất huyện. Những mệnh lệnh thay đổi liên tục. Quân kéo vào rồi lại kéo ra, đều để nghi binh. Nhà cửa, giường cưới, cánh cửa lớp mẫu giáo tháo xuống. Những chàng nàng chưa kịp buông lời đã phải lao đi xóa giấu vết. Sau này, sau bao nhiêu năm, đã ở ngôi bực tót vời, ông Tĩnh không hiểu sao tất cả những hy sinh anh hùng ấy đều chỉ hiện lại lờ mờ. Còn sót lại, rất rõ, là tiếng hô trong tối sẫm của Thim: “Xe đến rồi. Ra vác đạn các o ơi!”
- Đạn đâu mà vác. Chỉ có pháo thôi. Bọn anh mỗi thằng mỗi khẩu - Giọng đàn ông vạt vào đêm.
Quần quật, huỳnh huỵch, rồi tất cả chìm vào giấc mê mệt, thây kệ ngày mai ai mất ai còn, chúng nó có phát hiện được gì… Nhóm trinh sát chiến lược của Tĩnh sẽ di chuyển vào trong, nơi rừng rậm muỗi vắt kinh khủng hơn. Và có thể trong vài tháng tới không còn gặp dân, gặp thì phải giấu mình thật kỹ. K., cái căn cứ lớn trên định nhổ bất ngờ làm thay đổi một tương quan trên chiến trường đã sắp ở gần quá rồi. Trong đêm, những người lính dầy dạn không nghĩ đến những gì đang đón họ. Nghĩ mãi rồi, quên rồi.
Hai ngày sau máy bay trinh sát địch quần i ỉ, nhưng bom đạn thì không. Xe cộ giấu thế là ổn, đám lính lái sinh hoạt rất có kỷ luật, cứ thế này có thể kéo cả binh đoàn vào được. Nhưng không có dân, chỉ độc trung đội của Thim thì gãy lưng mất. Chỉ ướm trước được đến thế, vì trên đã lệnh tốp của Tĩnh vào sâu hơn, sát chân căn cứ bộ tổng định hót bất ngờ.
(Phần cuối)
Minh họa của Thuý Hằng
Đang riu riu trên sạp nứa thì có tiếng bước chân bên ngoài. Ngọn đèn bão chập chờn một cô Thim cứng cáp, tóc xơ và thưa, quần ống xắn ống không, nách áo sẫm cả mảng.
- Mai các thủ trưởng đi hè.
Thim dựa khẩu súng vào vách, ngồi xuống sạp, tỏa ra mùi chua chua ngầy ngậy làm Tĩnh choáng váng.
- Ừ. Đời lính nay đó mai đây… - Nhận thấy mình đang mềm yếu, Tĩnh cố tự chủ, chuyển sang những câu cần thiết phải nói trong tình huống này, tuy anh đã nói ban chiều - Trong những ngày qua đoàn đã được trung đội dân quân các o giúp đỡ rất nhiều. Không có thì không biết xoay xở ra sao nữa. Nói cảm ơn thì không đủ, chúng tôi rất nhớ, và sẽ báo cáo cấp trên để biểu dương khen thưởng trung đội o Thim.
- Nhiệm vụ mà thủ trưởng, chúng em chỉ biết hết sức mình. Có gì khuyết điểm mong đoàn thông cảm.
- Có gì mà phải thông cảm, Tĩnh ngạc nhiên. O nói làm tôi áy náy…
- Thì là cái việc hôm đầu o nớ giăng mắc với anh bộ đội, rồi bệnh lây cười, chị em có lúc không làm chủ được mình trong quan hệ. Thôi, thủ trưởng đi ngủ lấy sức mai hành quân.
Thim đã với cây súng, thì bất ngờ cái mùi kia lại quất vào óc Tĩnh, đòn mạnh chí tử. Anh chồm dậy kéo cô đổ xuống. Họ vật nhau trong căn hầm chật chội, dúi mũi vào nách áo đẫm mồ hôi, mồm chun lên ngột ngạt, tay gạt tay, chân lùi dúi dụi, nhưng tịnh không kêu. Rồi cuộc đề kháng tắt ngấm, mặc cho đôi tay đàn ông lục lọi. Không thể dìu dặt, Tĩnh phủ lên cô những cuống cuồng nóng giẫy. Tội nghiệp anh lính chiến, sức vóc bao nhiêu đã dốc cả cho những ngày qua. Giữa bóng tối đen kịt chợt bật lên tiếng khúc khích, người này lan sang người kia, làm đêm man dại loãng đi một chút.
- Thủ trưởng đi hè!
Trong những tia sáng đầu tiên của ngày rọi qua cửa hầm, Thim đứng vấn lại tóc, tay ve vẩy cái chun, những bộ điệu thật đàn bà. Cô trung đội trưởng khắc khổ gương mẫu vụt biến mất, chỉ còn tấm thân cao, thẳng như dóng tre bánh tẻ đang khoác lại khẩu súng. Từ đôi mắt sâu chảy tràn xuống dòng ánh sáng chan chứa phả phê. Cái hình ảnh ấy, của hạnh phúc, Tĩnh biết mình sẽ đem theo xuống dưới mồ.
Chuyến vô trong rất không may mắn. Dọc đường, y tá, nuôi quân, trợ lý tác chiến lần lượt nằm xuống. Không có dân, bộ đội địa phương yểm trợ, với sự lì lợm chưa từng thấy, những người còn lại vẫn nắm được bố phòng của căn cứ K.
Trở ra hậu phương chỉ còn Tĩnh và trợ lý bản đồ, cùng những tài liệu trả bằng xương máu.
Nhưng K. cũng không tồn tại. Còn thế nào được, khi bộ tổng tập trung một lực lượng lớn cả quân số lẫn hỏa lực quyết tâm nhổ. Địch bất ngờ, các căn cứ xung quanh muốn ứng cứu nhưng sợ mình cũng mất luôn. Con đường ta mở từ Thanh Hạ ngoằn ngoèo, thắt như ruột gà ngày cũng như đêm rung bần bật nhưng dai nhách, thông được vào một vùng rộng lớn có dân và những cơ sở cũ. Chiến dịch thắng lợi, trung tá Tĩnh về một cơ quan tham mưu cấp cao hơn, nơi anh lĩnh những nhiệm vụ gian nan chẳng kém, cùng những cơ hội được vua biết mặt chúa biết tên.
Chiến tranh lớn kết thúc rồi đến vài chiến tranh nhỏ, rồi công cuộc xây dựng. Là người lính thật sự, Tĩnh húc hết, từ kiểm tra tuyến phòng thủ đến làm đường chiến lược cho kinh tế vừa cho quốc phòng, luôn luôn ở các vùng biên giới. Từ đó đến vị trí bây giờ thì cứ tằng tằng mà tiến, không phải lanh lợi thăm thú kết giao nhiều quá. Đơn giản là Tĩnh có cái người ta cần, và công lao, thứ mà ông luôn biết có xương máu những người đã cùng đi với mình góp vào. Hòa bình về, vài lần công tác, ông ghé vào Thanh Hạ, tìm không thể ra khu rừng ngày ấy. Kể lại, thì người ta bảo các o dân quân lừa anh, làm gì có cây nào là nhọ nhẹ. Trí nhớ bội bạc, và mình cũng bội bạc như sự bội bạc của cậu trợ lý bản đồ - không còn giữ được tấm bản đồ đánh dấu những cao điểm xưa.
Giữa những săn đón chăm sóc thủ trưởng trung ương về thăm lại chiến trường xưa của cán bộ Thanh Hạ, ông có những ngơ ngẩn xuất thần, uống nhiều và mệt cũng rất nhanh. Quay lại với kỷ niệm là cái đoạn con người ta oải, muốn nghỉ rồi. Năm sau. Không, vài tháng nữa thôi, nhiệm kỳ của ông kết thúc. Tổ chức đã nhắm người khác, và ông cũng muốn buông. Buông là phải, những quan hệ dân sự làm anh đàn ông cả đời làm lính chóng mặt rất nhanh. Giai đoạn “hạ cánh” có chức năng chuyển giao là chính, nên ông có nhiều thì giờ. Tĩnh không thích viết hồi ký, thấy những người ấy hay “nhớ lại những điều chưa từng xảy ra”. Ông cũng đã quên nhiều quá. Giờ là lúc sống lại. Nhưng ký ức lại tàn nhẫn xóa đi nhiều quá, chẳng hạn ông không thể nhớ mình đã ra khỏi chiến tranh như thế nào, cảm giác đầu tiên về thành phố miền Nam đầu tiên mình tiến vào…
Lại có những câu hết sức vớ vỉn như cách bọn thanh niên con ông nói bây giờ, thì gột thế nào cũng không đi. Trong một thị xã bị tàn phá, bà cụ nhai trầu bỏm bẻm ngắm ông bảo “Chú này có chữ “Thọ” sau lưng. Rồi sẽ lên rất to”.
Và Tuấn, cậu trung úy nhỏ nhắn rắn đanh. Ngày rời khỏi căn hầm “với Thim”, Tĩnh đã hành quân theo cái cách không ngửi được, luôn tụt lại dù mang nhẹ nhất. Nheo nheo cặp mắt soi mói, Tuấn tưng tửng “Đầu gối thủ trưởng có vấn đề rồi…” Đúng là dân trinh sát. Kệ mẹ mày, tao đang ngất ngây con gà tây đây, Tĩnh cười trong veo, đủng đỉnh đi. Hết chiến tranh ông về nhà Tuấn, không kể chuyện con của mẹ đã lĩnh nguyên một quả mìn trong hàng rào ở K.
*
* *
Việc nặng tình với ký ức phả phê dưới hầm giục Tĩnh chiều nguyện vọng của Thanh Hạ. Bao năm nay, giữa những lý giải rõ rành được về chiến tranh, binh nghiệp, cuộc sống thời bình, ông phải dừng bước trước bao câu hỏi khác, dù nhỏ nhoi thôi nhưng bao nhiêu là bí mật.
Như về Tuấn, đã mất mà còn làm Tĩnh không thôi ngạc nhiên vì lòng yêu đời không bao giờ cạn. Những câu chuyện đực cái kể giữa hai trận bom, những phát hiện về em ấy em nọ hé mở cho ông một nguồn mạch khác, khiến khi nghĩ về nó, ông thấy mát lành, đỡ đi những áy náy trong công việc, quan hệ trên dưới. Như về các o dân quân cười không thể dừng. Bệnh điên tình dễ lây.
Và tất nhiên, về Thim, sao lúc đó bỗng đẹp rực rỡ. Cả ông nữa, mắt mũi tay chân, tất cả các bộ phận cơ thể của ông đều nói khi hòa vào cô, nhưng cả hai đều không ra một lời nào, là làm sao? Bao năm nay ông tự hỏi nếu mở mồm thì sẽ là câu gì, đều không ra. Có người vợ đẹp đẽ, trí thức và đàn bà đều đến nơi, ông chưa từng khao khát một ai khác, nhưng đã không thể quên những ấm nóng dúi dụi dưới căn hầm xưa. Không ít lần, giữa những lớn lao tót vời, ông tưởng mình bắt lại được cái mùi chua chua ngầy ngậy nọ, rồi buồn rầu thấy nó lẩn mất. Đúng ra thì là ông không bắt lại được nó.
Tác động lớn từ Tĩnh, cơ quan duyệt cấp bằng di tích chiến tranh cách mạng nhanh chóng làm việc với huyện Thanh Hạ. Dù chưa thuyết phục lắm, sau vài lần bổ sung gọi là, hồ sơ xếp hạng được thông qua với chữ ký của thứ trưởng phụ trách di sản. Rắc rối cũng có, như khi người trợ lý bản đồ cũ hỏi Tĩnh sao lại lấy thôn Ba thị trấn huyện làm điểm khởi đầu cho chiến dịch đánh K.? “Thì nó bắt đầu cho giai đoạn đánh lớn. Còn những nơi người đi trước bắt đầu cuộc gùi thồ vũ khí vào trong ta cũng không quên, nhưng địa phương lại chưa đề đạt”, Tĩnh giải thích. Vài ba tờ báo đăng thắc mắc về điểm khởi đầu chưa thuyết phục, sau vài nhắc nhở nội bộ liền tạnh. “Lịch sử phải luôn luôn được viết lại”, kinh điển nói thế cơ mà, ta cứ “viết đi” cái đã.
Một tượng đài hoành tráng dựng lên giữa thị trấn Thanh Hạ, nơi mấy con đường cắt nhau, đắp nổi nữ dân quân vác đạn, lính tráng các binh chủng, cả tên lửa, xe tăng, pháo phòng không. K. là chiến dịch hiệp đồng binh chủng, mở thông huyết mạch vào một vùng rộng lớn sau lưng địch kia mà. Bên cạnh là nhà lưu niệm, tất nhiên phải có xẻng cuốc đào hầm, mũ sắt, dù pháo sáng, nhưng con người thì không được cụ thể mấy. Lèo tèo vài tấm ảnh, loại tìm được ở bất cứ bảo tàng nào. “Huyện nghĩ đến việc xin công nhận di tích khi chiến tranh qua đã lâu, những nhân chứng vật chứng, rất tiếc là không còn tìm được”, bí thư Thanh Hạ áy náy nhận trong lễ khánh thành di tích.
Hôm ấy cả nhà Thông có mặt. Về quê trong ngày vui, để cho thằng Tùng biết thế nào là quá khứ vinh quang, dĩ nhiên. Và vì lời biểu dương của ông Thọ: “May là họ ta có cô dâu Thắm lắm quan hệ”. Ngày ông Thọ với ông Mật ra dầm dề ngoài Hà Nội, hết họp đồng hương quán triệt tới tong tả chạy cửa này công đường nọ mà không ăn thua, đã nản lắm. Đến lúc chán chả buồn nói thì Thắm “đánh rơi” mối liên hệ đến thư ký ông Tĩnh. Ở nhà thì tằng tằng nhì nhằng tròn vai, nhưng đến cơ quan, Thắm là một đấng siêu thủ trưởng, tết nhất thay mặt sếp đem quà đi biếu đủ các cửa. Đang tuyệt vọng mà lại vớ được cái cọc, trúng phóc. Đâm ra sang vì vợ, Thông nghĩ mình có nhẽ phải đi xem tử vi có thân cư thê không.
Buổi lễ diễn ra như thường thấy. Diễn văn tưởng niệm của bí thư nhấn mạnh Thanh Hạ có thế mạnh về chính trị, sẽ đi lên từ truyền thống của quá khứ vẻ vang, hy vọng các đoàn du lịch lấy cụm di tích làm điểm nhấn, mang lại công ăn việc làm và nguồn thu cho huyện. Các o áo dài bưng khay đựng kéo cho quan chức cắt băng khánh thành. Máy ảnh máy thu hình điều như chong chóng. Trong số đại biểu các ban ngành trung ương, tỉnh cùng về, tiếc rằng không có người có công kiến tạo tương lai tươi sáng ấy. Tĩnh gửi thư ký mang lẵng hoa về chúc mừng. Rất bận, hẳn thế. Và vì cả cái hội chứng chiến tranh chẳng giống ai của ông.
*
* *
Nhà Thông rồi tất tả về Bùm. Ngày tốt khai trương di tích cũng là ngày khánh thành đình thôn. Nhỏ nhắn, không hoành tráng nhưng tử tế, từ xa, nó đã đem lại cảm giác quen thuộc, với bộ mái xà xuống thấp, những bức tường xây gạch già để mộc. Cây đa còn non bắt đầu xõa xượi bộ râu, hứa hẹn một sức sống khỏe khoắn. Bên trong thờ Phật, Thánh Mẫu, riêng ban giữa, bài vị trên ngai còn chưa viết gì. “Còn phải cử lại Thành hoàng chú ạ. Đuổi đi rồi, nay vời lại không biết các vị còn về…”, ông Thọ trầm ngâm trước câu thắc mắc của Thông.
- Mà cũng không biết các vị tên tuổi công tích thế nào, vì bài vị xưa đốt tiệt. Thành thử ngay cả hô thần nhập tượng cũng không biết hô thế nào. Tượng Thành hoàng chưa có, ngôi Nghìn mắt nghìn tay cụ tôi giấu, tôi đào lại dưới búi tre ông Đà.
Ông Thọ nói thêm. Ông bận áo the khăn xếp mới, chân dận đôi dép lê tổ ong rung rúc, thằng Tùng bảo trông chả giống ai nhưng lại cứ thích đi theo.
Ngày trọng. Việc trọng. Các cụ khăn áo tề chỉnh, ăn nói can hệ, nhưng phải cố giấu vẻ rầu rĩ. “Cũng là vì trùng dịp khánh thành di tích trên huyện, các ban ngành đều tất tả trên ấy nên chả ai về”, lại là lời giải thích của ông Thọ. Nhưng Thông thấy chả sao. Đình là đình thôn, dân Bùm từ nay đã có chỗ đi về, chả phải họp hành bình bán nhau chỗ nhà văn hóa cộng đồng vừa lạnh vừa lạ thế nào. Rồi sẽ đào ao mắt rồng, trồng thêm gốc đại gốc đề, xây tường cho trẻ khỏi lùa trâu vào. Rồi sẽ vận động con cháu đi xa góp những cuốn thư, câu đối, bức hoành, cả tượng nữa… Bao giờ có lên có thể làm cả hai dãy tả hữu vu. Đấy là những việc phải lo, nhưng ngày rộng tháng dài, khắc tự thân khắc lo được. Làng nghèo, chịu vậy. Có điều nghèo quá thanh niên bỏ đi hết, người ở lại rất lo khi chết có được mấy mống đưa…
Bên gian thờ Phật, các vãi xếp bằng kể hạnh, bắt đầu ngượng ngập vì bao năm chả ề à, rồi dần có đà, lời lẽ sinh sôi ra. Thông ngạc nhiên thấy Thắm và cả thằng Tùng sà xuống chiếu các vãi, ngồi nghe không thôi nhưng thành kính, thỉnh thoảng xua ruồi bâu trên phẩm oản khoanh khoai. Anh đã và sẽ còn góp tiền về công đức cho ngôi đình ấm áp của mình, của dân Bùm mình. Và không bị Thắm kèo nhèo cho chỗ không đáng, hẳn thế.
Lễ hạ ngôi đình đơn sơ, thủ tục giản tiện bởi các cụ, tự làm lấy theo lối vô sư vô sách, đã quên tiệt những lề thói quan viên xưa, không có cả tượng để hô thần nhập vào. Nhưng ai nấy thành kính. Đều là ở chữ “Tâm” thôi.
- Sao không thấy bác Mật? Nãy trên huyện em cũng không thấy, tưởng đang ở làng…
Nghe Thông hỏi nhỏ lúc đợi cỗ, ông Thọ trầm ngâm rồi nhỏ nhẻ: “Là bệnh tư tưởng. Lúc nãy trên huyện chú có thấy rước tấm bằng di tích chỉ là bản phô tô thôi không? Ngày chạy được bằng, bác ấy khai quà cáp tốn kém, tổng chi ra bốn triệu, nhưng huyện chỉ thanh quyết toán có hai triệu rưỡi. Bác ấy tức mình chỉ đưa ra bản chụp thôi, còn bản chính còn giữ trong nhà. Mà tay bí thư cũng tệ, chạy xong xuôi rồi quyết bác ấy phải nghỉ hưu đúng tuổi”.
Ông Thọ hỏi: “Cũng không có trên huyện à?”, rồi lầm bầm: “Hội các cụ cũng vời ra việc làng đấy, nhà người không ra chả biết là vì sao. Tôi đoán bác ấy đang công tác, khăn xếp áo the không tiện, thôi thì lúc về hưu lại áo the khăn xếp vậy”.
Việc làng việc họ với lại việc huyện té ra là còn rất ngổn ngang. Nghèo kiệt, trống toang, ngơ ngác, và run rẩy khi bị hò đóng góp, nhưng dân gian lại có vẻ yêu ngôi đình, rộn rịp đi lại xúng xính thưa thốt. Thế còn với anh thị dân lúc nào cũng toan tính tất bật thì sao? Có lẽ nó sẽ níu giữ ta, cho chút tĩnh tâm giữa ồn ào tranh chưởi, sẽ làm vợ con ta muốn về, dù chỉ để chơi thôi. Những ý nghĩ làm Thông thấy chóng say hơn, và vì ngoài kia, ngoài trời, mưa lây phây làm lá với râu cây đa tơ thẫm lại.
0 comments:
Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)
- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>