Người bạn của anh vợ tôi - Đào Duy



NGƯỜI BẠN CỦA ANH VỢ TÔI



Đào Duy

Mơ hạnh phúc. Tranh sơn dầu Phạm Lực
Không về được trong dịp tết, anh vợ tôi về Sài Gòn sớm thăm và chúc thọ bố mẹ. Mấy ngày ngắn ngủi gặp nhau, ngoài thời gian dành cho bố mẹ, trong những câu chuyện lại qua giữa hai anh em, tôi được nghe anh kể về một người bạn của mình, câu chuyện buồn thời hậu chiến. Tôi chép lại chia sẻ với các bạn nhân dịp tết.

Năm 1964 gia đình vợ tôi sơ tán về Bình Giang một huyện của tỉnh Hải Dương. Huyện lỵ Bình Giang là thị trấn Kẻ Sặt sầm uất. Qua thị trấn vài cây số là phố Phủ, qua Phủ là làng Vạc thuộc Xã Thái Học nơi gia đình vợ tôi tá túc từ năm 1964 tới 1973. Chín năm ở làng Vạc, thời gian dài tới độ hai cô em vợ tôi, sau hơn bốn mươi năm mà giờ đây giọng nói vẫn đặc sệt tiếng làng Vạc.

Xã Thái Học có bốn làng: Làng Sồi, làng Vạc, làng Tó, làng Phú Khê. Xa hơn một chút là làng Bùi và làng Lòn nhưng thuộc địa phận xã khác. Nghe nói ngày xưa tên hai làng tục lắm, chả hiểu tại sao? Sau này các cụ thấy ngượng mồm nên đọc trại đi chứ nguyên thủy tên làng Bùi, làng Lòn là... (thôi chả nói, sợ mấy ngày tết anh em lại chửi). 

Vùng đất này là quê hương của nhạc sỹ tài hoa Đỗ Nhuận, vùng quê của nhiều nghề thủ công, nổi tiếng nhất là nghề làm lược Bí. Bây giờ nghề này không còn nữa, tôi giám chắc nếu hỏi bất kỳ một thiếu nữ hệ 8X trở về sau này về chiếc lược Bí thì chỉ nhọc công vô ích. Ngày ấy vợ tôi còn nhỏ thường sang nhà chị ruột nhạc sỹ Đỗ Nhuận chơi và làm quản bút gia công giúp bà

Dân làng Vạc nói riêng và cả vùng lân cận cho tới tận làng Bùi, làng Lòn ngày ấy người ta quý cánh sơ tán lắm. Đám sơ tán về làm xôn xao, vui vẻ cái làng quê bé nhỏ vốn yên ả, thanh bình. 

Gia đình vợ tôi được xã cấp cho miếng đất gần đường cái quan có con mương trong vắt chảy qua. Xã giúp rơm, rạ, tre rồi công sức làm nhà cho. Thời gian cả chục năm, ngôi nhà ấy, vùng đất ấy, những con người nơi ấy như quê hương thứ hai của gia đình vợ tôi. Người dân nơi đây tốt tới mức trong thôn, trong đội có gì cũng đều gọi chia phần cho. Từ rơm rạ, mía, khoai đến cá ở ao làng, có lần được chia cả vịt của hợp tác xã chăn nuôi được.

Gần nhà anh vợ tôi có nhà cụ phó Thụ, cụ thông thạo chữ nho, bà con trong làng rất quý trọng cụ. Anh tôi học với con trai cụ, hai người chơi với nhau rất thân, anh tên là Trung. Anh Trung học giỏi đặc biệt là chữ rất đẹp và mê vẽ. 

Một buổi sáng anh tôi đi câu cá về thấy bạn sang chơi. Trung nói: "Tớ sang chào hai bác, chào Huy mai tớ đi bộ đội".

Quá bất ngờ trước tin của bạn, mẹ tôi giữ bạn ở lại ăn cơm tiện có mấy con cá tôi vừa câu. Bữa cơm chỉ có vậy nhưng thật cảm động. Một sớm đầu mùa đông năm 1966 anh vợ tôi cùng lũ bạn học trong lớp kéo nhau lên tận phố phủ tiễn bạn tòng quân.

Vài năm sau anh vợ tôi đi học xa, thỉnh thoảng về, mỗi lần về đều ghé thăm gia đình cụ phó và dò hỏi tin tức anh Trung. Thông tin về người bạn cứ thưa vắng dần. Rồi tới năm 1973 gia đình chuyển hẳn về thị xã Hải Dương khoảng cách, thời gian, nỗi lo cơm áo làm anh tôi quên hẳn người bạn cũ. 

Quãng năm 2000, một buổi sáng anh tôi đi mua gỗ vụn phế thải của một cơ sở mộc mỹ nghệ gần ngoại ô thị xã về nhóm lò. Đang chổng mông chọn lựa thì có tiếng người phía sau.

- Xin lỗi bác! Em nhìn bác quen quen.

Anh tôi quay lại, trước mặt là người đàn ông khoảng 40 tuổi chững chạc trong bộ đồ sáng màu, chân giầy đen, khuôn mặt sáng, ánh mắt nheo nheo nhìn như dò hỏi.

- Bác có phải là bác Huy không?

- Sao cậu biết tên mình. 

- Bác không nhận ra em à?

- Mình chịu.

- Em là Hưng! em họ anh Trung làng Vạc ngày bác sơ tán ở Bình Giang đây!

- Thế à! Ngắm nhìn người đàn ông trước mặt một lúc lâu.

- Mày thay đổi thế này thì bố ai mà nhận ra. Anh vợ tôi mừng rỡ

Hưng kéo anh tôi vào văn phòng uống nước. Hưng kể: Anh Trung em không chết, chín năm bom vùi đạn dập, sau giải phóng mò về quê. Anh đi thăm chào hỏi khắp làng, khắp xóm rồi hỏi thăm tới bố mẹ anh và tin tức của anh. Nhưng em chịu. Tranh thủ những ngày phép anh Trung cưới vợ, vợ là cô Nhanh, chả biết anh còn nhớ không? nhà kề bên anh Trung. Ở nhà hai tháng anh Trung quay lại Sài Gòn rồi đi học bổ túc sau đó thi đại học. Đỗ đại học mỹ thuật ra trường được giữ ở lại làm giáo viên. Một hai năm sau thì về làng đón cô Nhanh vào Sài Gòn đoàn tụ.

Năm 2006 gia đình anh vợ tôi chuyển vào Cà Mau. Cuối năm ấy anh tôi về Hải Dương làm thủ tục cắt hộ khẩu. Anh có tìm tới cơ sở mộc của Hưng để thăm đồng thời hỏi tin anh Trung.

Hưng kể: "Sau cái đận gặp bác, năm ấy anh Trung về quê, em kể chuyện. Thế rồi lần nào ra bắc anh ấy cũng đi tìm bác, quần nát cả thị xã Hải Dương mà hai anh em không lần ra". Cảm động về tình cảm người bạn cũ, anh tôi xin địa chỉ của anh Trung trong Sài Gòn định bụng một ngày đẹp giời sẽ tới thăm bạn. Rồi cũng chả có điều kiện, gia đình anh vợ tôi ở mãi Cà Mau.

Cách đây một năm ngồi buồn thấy địa chỉ bạn trong sổ tay, anh tôi bốc máy gọi. Đầu máy bên kia tiếng một phụ nữ đã luống tuổi, vẫn còn ngọng và thô mộc của dân làng Vạc dù đã cố tập nói giọng nam bộ, nghe như đổ cơm nếp nát vào tai. Anh tôi đoán là tiếng cô Nhanh.

- Xin lỗi có phải nhà anh Trung không ạ?

- Vấng! anh là ai?

- Tôi là Huy bạn anh Trung.

- Nhà em đi làm chưa về.

- Nếu anh Hưng về nhờ chị nói hộ là có Huy bạn cũ điện hỏi thăm, rồi để lại số điện thoại.

Bỏ máy, anh tôi ngồi phịch xuống ghế, cố nhớ lại cái cô Nhanh năm nào. Có phải cô Nhanh là cái con bé đen thủi đen thui người quắt như mo nang chỉ được cái tính tình, mồm miệng lanh chanh giống y như cái tên gọi? Chả biết sau này nhớn lên nhan sắc có khá hơn không ?

Ngay tối hôm đó anh tôi nhận được điện thoại của anh Trung, chuyện trò tưởng cháy máy.

Về Sài Gòn thăm bố mẹ lần này, anh tôi theo địa chỉ tới thăm bạn. Ấn chuông trước công căn nhà mặt tiền to tướng ba bốn tầng lầu gần ngã tư Phú Nhuận. Cánh cỏng hé mở. Trước mặt là một phụ nữ thoạt nhìn biết ngay là gốc gác nông dân chính hiệu nhưng đã được canh tân, người cao ngẳng thuộc nhóm: khô chân gân mặt. Mười đầu ngón chân ngón tay cứ như hạt dưa trong bàn trà ngày tết đã bị nhằn hết nhân còn lại vỏ dán vào, đỏ chon chót. Cô Nhanh của năm nào đây ư! Giọng nói này thì đúng giọng làng Vạc chả trộn được đi đâu. Hình hài cô ta? Anh tôi cố hình dung mà không thể nhận ra. Hay là nhầm. Nhìn lại số nhà lần nữa, không thể nhầm được! Chưa kịp mở miệng thì người đàn bà đã tấn công trước.

- Anh hỏi ai? 

- Tôi là bạn cũ của anh Trung... chưa kịp nói hết câu thì người đàn bà trước mặt đã choang choác:

- Đây không còn là nhà của ông Trung nữa, muốn gặp xuống Củ Chi mà tìm

Ngỡ ngàng đến mấy giây, biết có chuyện chẳng lành, nhưng sao lại thế nhỉ? Anh vợ tôi lẩm bẩm. Cánh cổng vội khép lại. Giật mình, luống cuống anh tôi cố nói vọng vào trong: 

- Làm ơn cho tôi xin địa chỉ của anh ấy. Ít phút sau một mảnh giấy được nhét qua khe cổng. Anh tôi ngán ngẩm lắc đầu.

Về nhà theo số điện thoại anh tôi điện cho anh Trung. Đầu dây bên kia giọng một người đàn ông trầm buồn: "Huy hả! Ông vừa giới thiệu là tôi nhận ra tiếng của ông ngay, tôi chờ ông đã lâu, nhớ ông, đã bao nhiêu lần tìm ông mà không gặp, giờ lại tới lượt ông tìm tôi, hoàn cảnh tôi giờ chán lắm, chả muốn gặp ai. Tôi vừa về hưu. Ly dị vợ rồi ông ạ, chả có gì to tát chỉ là do chênh lệch quá về nhận thức và lối sống, về già càng trở lên căng thẳng. Nhà để lại cho bà ấy và hai đứa con tôi về trên này, nơi ngày xưa đóng quân. Có miếng đất, mua ít Tầm Vông làm mái nhà, sắm cái chõng tre chui ra chui vào. Ngồi vẽ, nuôi con chim con gà cho khuây. Đang tính ra bắc về lại cái làng Vạc ngày xưa nơi tôi và ông có nhiều kỷ niệm, nơi ông tiễn tôi đi bộ đội, nơi tôi sống sót trở về. Giờ thì tôi về hẳn đấy chẳng đi đâu nữa. Hai đứa mình lại lỗi hẹn nhau. Hẹn gặp ông tại quê vậy nếu có dịp ra Bắc. Mấy ngày nữa tôi lên đường, nhà đất đã giao cho chủ mới, đồ đạc chỉ có hai thùng cạc tông, và ít tranh, nhẹ nhàng lắm."

Vậy là đúng 42 năm hai người đàn ông, hai người bạn sau cuộc chiến cứ ngược xuôi Bắc Nam, Nam Bắc tìm nhau mà chả nhìn thấy mặt.


Đầu năm 2009

Đăng lại bài viết của Nguyễn Duy Đảo (đã đăng tại „Blog Bạn Trỗi K5”: Thứ ba, 13 tháng một, 2009)