Thứ Năm, 25 tháng 9, 2025

Trờ về miền thơ ấu và tình yêu của tôi... - Mùa đông, Có ngày buồn như thế… (Nguyễn Việt Hoàng)




Kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Trường VHQĐ - TSQ Nguyễn Văn Trỗi 1965-2025



Sáng tinh mơ thức giấc, không khí lành lạnh California đang là thu, bầu trời trong vắt không gợn mây, xanh thăm thẳm, gió se lạnh từng cơn buốt giá ùa tới len lỏi từng nơi trên tấm thân bó chặt vài lớp áo dày đem lại cảm giác tê tái….” Trời lập đông chưa anh, cho lũ dơi đi tìm giấc ngủ vùi…”
Và tôi lại lang thang, ngổn ngang với bao suy tư chưa thành hình.
Ử nhỉ, đã hơn 70 Xuân rồi đấy, đâu còn có thời gian, “mau lên chứ vội vàng lên với chứ”
Mùa thu… Tôi có thật nhiều kỷ niệm với mùa thu mà đặc biệt là mùa thu Hà Nội, bởi ở đó tôi để lại tuổi thơ, kỷ niệm và cả tình yêu nữa, cái tình yêu thật trong trắng, ngây ngô “cái thủa ban đầu lưu luyến ấy, ngàn năm chưa dễ mấy ai quên.”

Hà Nội ơi, tôi lại sắp trở về. Trờ về miền thơ ấu và tình yêu của tôi…

60 năm đã đi qua, gần hết một đời người. Ngày ấy, chúng tôi còn bé lắm, những cậu bé 11, 12 tuổi nhỏ nhắn và thật nghịch ngợm “nhất quỷ. nhì ma…” mà lại. Tập hợp lại chúng tôi thành đội ngũ, trưởng thành trong khói lừa chiến tranh. Cứ như thế chúng tôi lớn lên cùng dân tộc, cùng trải qua những gian khổ và vinh quang của đất nước. Khi mái tóc đã nhuốm bạc gần hết, khi những thăng trầm và quá khứ hào hùng của lịch sử đã ở lại phía sau, chúng tôi thường gặp nhau, vui cùng nhau và hạnh phúc. Đã thành “ cựu “ thì tướng tá, cấp nọ, tước kia đều là vô nghĩa bởi tất cả đều là TSQ Nguyễn Văn Trỗi.

Vâng, đó là TSQ Nguyễn Văn Trỗi.

Ngày 15 tháng 10 đã thành lịch sử của chúng tôi, những người “sinh ra trong khói lửa“ chiến tranh.

Nhân kỷ niệm 60 năm thành lập trường Thiếu Sinh Quân Nguyễn Văn Trỗi 15 tháng 10 năm 1965 - 15 tháng 10 năm 2025, xin trân trọng đăng lại bài viết “Lính Trỗi“ và bài viết Tưởng nhớ thầy Lê Đức Soạn.






Lính Trỗi



Những năm 60 của thế kỷ trước, đất nước chìm đắm trong cuộc chiến tàn khốc…
Ngày ấy, chúng tôi “… Sinh ra trong khói lửa…” chiến tranh.
Chúng tôi được giáo dục và lớn lên trong khúc quân hành: “Vì nhân dân quên mình…” và niềm kiêu hãnh: ”…Vinh Quang thay trường Nguyễn Văn Trỗi, ngời chói tương lai muôn vì sao sáng…”.

Hè 1965.
Những cậu bé chừng 11, 12 tuổi đến 16, 17 về Trại Hoè, Hà Bắc tựu trường. Đó là những lớp học sinh đầu tiên của trường thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi sau này.
Nhiều năm đã trôi qua kể từ ngày đó, cái cậu bé Hà Nội mặt còn búng ra sữa (là tôi) ấy vẫn nhớ như in những gương mặt đầu tiên kết bạn: Nhân chột (bị hư 1 mắt, con bác Đinh Đức Thiện) tháo con mắt giả doạ tôi, Hồng lồi (vì mắt không được phẳng, con bác Huỳnh Văn Trí) trợn mắt nhìn tôi… Đặc biệt hơn là Lê Quốc Bình (con bác Lê Quốc Sảng) dáng ngang tàng, mày tao chí tớ, giọng Nam, đ. má “liên tục. Rồi Tứ Quý hiền lành (con chú Lê Bân), Tạ Quang Chính (con bác Tạ Quang Bửu) dáng thư sinh, Đoàn Quốc Khánh nhanh nhẹn (con bác Đoàn Trọng Truyến) và lần lượt thêm rất nhiều bạn mới.
Lần ấy khi cùng chơi đá bóng, Quốc Bình đuổi theo tôi không kịp, cu cậu ngồi bệt xuống đất, ca 1 câu cải lương thật lạ: “Anh Năm ho lao hắc lào ra máu”. Chẳng ngờ, câu cải lương ấy trở thành tên cúng cơm của tôi đến bây giờ. (Mặc dù chả ăn nhằm gì với đặc điểm của tôi).
Sau này tôi mới biết rằng gần như mỗi cậu lính Trỗi đều có tên đệm riêng, “đặc sản” Nguyễn Văn Trỗi mà. Nào là Hà mèo, Tâm heo, Quảng tỳ, Thiệp bệu, Mình đùn, Thắng híp, Chính phổng, Chỉnh thọt v.v và v.v, các tên đệm còn tiếp tục kéo dài.

Đợt báo động đầu tiên chúng tôi chuyển quân về Đại Từ, Thái Nguyên. Doanh trại là những ngôi nhà trên đồi chè xanh mướt, bên dưới là suối Chì róc rách suốt đêm ngày. Thì thoảng khi hòa cùng với gió, tiếng suối reo cho ta những âm hưởng tuyệt vời. Thơ mộng là thế nhưng suối Chì này cũng là nguồn cơn gây nên bao “đau khổ” cho lũ nhóc chúng tôi. Cứ tối tối, chú Chích, y tá đại đội bôi thuốc xanh, đỏ khắp người cho lũ trẻ ghẻ ngứa, gãi như gẩy đàn t’rưng vậy. Mấy cậu bé hay nghịch ngợm như Biên Hoà, Khánh Thái, Gia Lượng, Điện Biên, Thắng hip… nhảy tưng tưng, miệng là hét om xòm vi xót quá.
Những ngày đầu với tôi thật bỡ ngỡ. Từ bộ quân phục áo màu olive, quần xanh đậm, mũ cối trên đầu, ba-lô sau lưng…, đến kỷ luật quân đội, trật tự nội vụ hàng ngày, xếp hàng đi đều… chúng tôi được rèn kỹ càng như người lính. Dù vậy, chúng tôi vẫn là những đứa trẻ như vừa mới thôi nôi mà thôi. Nói vậy để không lấy làm lạ khi mỗi ngày có thêm đứa thì “đùn”, đứa thì đái dầm liên miên, đứa tham ăn… đều là… chuyện thường ngày ở huyện. Phần tôi vì được làm lớp trưởng (trung đội trưởng) nên “gương mẫu” không có “chuyện ấy”, vậy mà lại mếu máo viết thư về nhà: “Mẹ ơi, mua cho con cái bát ăn cơm thật to, chúng nó ăn hết của con rồi”.
Năm đầu sống trong quân ngũ thật vất vả. Học là chính, chúng tôi lên lớp buổi sáng và tự học buổi chiều, sinh hoạt theo hiệu lệnh. Sau giờ học chiều, lũ trẻ ùa ra sân chơi thể thao, mê nhất vẫn là đá bóng. Văn Minh, Lê Minh Chính, Tô Tâm… là những tay ghi bàn xuất sẳc, giỏi đến mức làm chúng tôi tự hỏi, tại sao họ không đá cho Thể công nhỉ?
Đất nước đang có chiến tranh, tiếng kẻng báo động vang lên mọi lúc, mọi nỏi, mọi ngày. Chúng tôi xuống hầm trú ầm ngay lớp học hoặc theo giao thông hào đi khắp đơn vị. Công binh quân đội đã đào cho chúng tôi một hệ thống hoàn hảo, hiệu quà.
Các thẩy giáo của chúng tôi thật tài năng, đức độ. Thầy Trường, trung úy, chính trị viên đại đội, thầy Giám, thượng úy, đại đội trường, thầy Hoà dạy văn, thầy Mãn dạy toản, thầy Khoát dạy hóa, thầy Sinh dạy võ, thầy Lực dạy vẽ, thầy Cừ dạy Sử, thầy Tiến dạy Địa Lý, thầy dạy chính trị, thầy dạy âm nhạc…, cùng sự dạy dỗ của các thầy, chúng tôi lớn lên từng ngày.

Trại Đồi, lớp 5, học toán.
Chuẩn úy Mãn của chúng tôi thật đặc biệt, dáng dấp thư sinh, trắng trẻo, dạy môn toán khô khan, khó nuốt. Vậy mà “chàng” lại làm chúng tôi say mê bởi sự hài hước, kiến thức “bác học” và… tình yêu với lũ trẻ chúng tôi.
Hôm ấy thầy ra đề toán khó quá,cả lớp vò đầu, bứt tai, tìm không ra đáp số. Vậy mà Tuấn Quảng lại “ồ“ lên một tiếng, cả lớp ngỡ ngàng tưởng cậu đã tìm ra. Nào ngờ sau đó, cậu tiếp tục “ồ” lên vài tiếng rồi… tắt đài luôn.
Lần ấy Tuấn Quảng được điềm 5 (điểm cao nhất), còn tôi, khi trả bài, thầy Mãn nhìn tôi tủm tỉm cười rồi chậm rẫi nỏi to: Hoàng: Năm!
Năm đầu tiên tôi đạt toàn điểm 5, được tặng bằng khen với chữ kỳ của thượng tá chính ủy nhà trường Bùi Khắc Quỳnh. Tôi mừng lắm, tường như đã lớn và trưởng thành. Đúng là công thầy, các thầy dạy tôi biết chỉ huy trung đội, biết nói trước hàng quân mà không run, biết báo cáo chì huy, biết hô hàng quân đi đều...
Năm ấy, cũng trại Đồi, đêm mưa giông, sấm sét đùng đùng, chúng tôi “trốn” trong chăn, chùm kín đầu vì… sợ. Nữa đêm, trong ánh lửa sưởi ấm bập bùng giữa nhà, tôi chợt tỉnh vì nghe tiếng thì thào như của gió: các em ơi, cứu thầy với… Tôi bừng tỉnh, hốt hoảng gọi các bạn cùng dậy thì thấy thầy Toàn, thiếu úy phụ trách lớp đang nằm xoài dưới đất, thầy bị sét đánh khi đi kiểm tra đơn vị. Cả lũ trẻ tỉnh ngủ hò nhau kéo thầy lên giường (giống như hò kéo pháo vậy vì thầy nặng quá), rồi Lê Minh Chính, tiểu đội trưởng chụp cây đèn bão chạy lên đại đội gọi chú Chích, y tá.
Nhiều năm sau tôi vẫn còn thắc mắc sao Lê Minh Chính lại can đảm đến thế, dám chạy giữa đêm, mưa gió đùng đùng (*).
Thực ra lúc đó thầy Toàn mới về đơn vị vài ngày. Trước đó, khi đi kiểm tra giữa trưa, chẳng đứa nào ngủ cả, lấy gối nện nhau tưng bừng, thầy hô tập hợp cả lớp vác ba-lô rồi lệnh chạy lên đồi, xuống suối 3 lần, sau đó bở hơi tai, cu cậu nào lăn ra ngủ như chết.
… Thời gian… Rất nhiều năm đã trôi qua…, nó bào mòn nhiều thứ, nhưng cái kỷ niệm nhự thể vẫn lưu lại như mãi mãi, như mổi tình đầu của tôi vậy…

Thảng 4 năm 2023.
Tại Đà Nẵng bên bãi biển Mỹ Khê trải dài, sóng bạc trắng xô bờ, khóa 6 chúng tôi lại gặp nhau. Biết bao chờ mong, biết bao khao khát, biết bao nghĩa tình… Và Niềm Vui vỡ òa trong hân hoan vô tận… Tay bắt mặt mừng, những vòng tay ôm chặt, những giọt nước mắt “tự động” rơi trên những gương mặt vừa đủ 70… đã tạo nên khung cảnh đầy xúc động. Thầy Lê Đức Soạn, trung úy chính trị viên đại đội ngày nào của chúng tôi hôm nay thật hạnh phúc. Một ngày là trò, cả đời là trò của thầy, chúng tôi vây quanh người thầy đáng kính, chúc thọ thầy 90 tuổi. Trên ngực thầy không có tẩm huấn chương nhà giáo nào cả, nhưng tình cảm học sinh dành cho thầy chính là tấm Huân chương cao quý nhất. Trong bộ suit trang trọng và rất nhiều hoa học trò tặng, thầy cười thật hiền lành, hạnh phúc.
Chúng tôi trò chuyện cùng nhau thật… bình yên (mà không hề “chí choé” như ngày xưa). Trong các bạn tôi ngồi đây, rất nhiều bạn là cán bộ cao cấp quân đội, có người là tướng, là thứ bộ trưởng, là nhà khoa học tài ba có học hàm học vị cao, là những doanh nghiệp thành đạt…, còn nhiều bạn khó khăn, trăn trở mưu sinh, số phận chẳng mỉm cười. Và còn nhiều bạn đã ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ vì Tổ Quốc trường tồn…
“…lớp cha trước, lớp con sau…, đã thành đồng chí chung câu quân hảnh…” cùng dân tộc, chúng tôi góp phần làm nên trang sử mới. Những Hà Ngọc Tuấn, Nam Điện, Kim Phú, Thông, Vũ Điện Biên, Vũ Đồng, Hồ Chí Dũng, Sử Bình, Phan Tiên Tiến, Thiệp, Dũng, Vũ Thắng Lộ, Lê Tứ Quý, Lê Minh Chính, Tạ Quang Chỉnh, Trần Tuấn Quảng, Hà Chí Thành, Ngô Mình Sơn… đã làm tôi thật sự xúc động. Tôi như sống lại tuổi thơ…
Nhiều bạn nữa, không có mặt nhưng tôi vẫn nhớ: Tạ Việt Thắng, Lê Anh Tuấn, Tuần Hùng, Huỳnh Hội, Phạm Gia Lượng, Phạm Hoà Bình, Quang Việt, Biên Hoà, Đoàn Quốc Khánh, Đỗ Hoà Bình, Tô Tâm, Quang Bình, Lưu Mình Sơn, Mình Nghĩa, Nguyễn Hữu Thọ, Việt Hồng, Việt Sơn…

Sau 53 năm, tôi và vợ cùng em gái Laika gặp lại Nguyễn Kim Hồ và Trần Huy Hùng. Khỏi phải nói, tôi mừng vui vô hạn… Những người bạn này là tuổi niên thiếu và là phần máu thịt đời tôi. Mừng mừng tủi tủi, chúng tôi ôm nhau trong nước mắt. Có lẽ khi chứng kiến, vợ tôi lặng lẽ quay mặt đi… Năm 1970, Hưng Hoá, năm học cuổi tại trường. Huy Hùng lúc đó là bi thư Liên Chi đoàn, Kim Hố là uỳ viên tổ chửc, còn tôi là Phó Bí thư Liên chi. Gặp lại, chúng tôi chụp chung bức ảnh, tôi cười cười: đây là ban chấp hành mới… không ai bẳu.
“Sinh ra trong khói lửa
Trường ta đã lớn lên
Trường đẹp chói ngời tên anh Nguyễn Văn Trỗi
Tìm ta đang thắm đỏ,
Máu anh và đời anh
Chỉ sẳt thép làm nên trang sử mới…”
Các lớp lớp thiếu sinh quân đã trường thành, đóng góp xứng đáng cho Tổ Quốc.
Cùng thế hệ cha anh, cùng dân tộc, họ đã viết nên trang sử mới, xây dựng đất nước hùng cường. Bác dạy
“Chí khí lẫm liệt của anh hùng Trỗi là tấm gương sáng ngời cho mọi người yêu nước, nhất là cho các cháu thanh niên học tập”.
Chí khí của người anh hùng đã làm nên nhân cách của học sinh Nguyễn Văn Trỗi. Đó là: tận trung với nước, tận hiếu với dân, khó khãn vượt qua, kể thù đánh thắng.
Mang tên thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi là niềm vinh quang và tự hào của mỗi chúng tôi. Tôi thật yêu và tự hào về các bạn.
Bạn hỏi tôi ư ?
Vâng, Tôi Là Lính Trỗi.
Trời Quảng Nam, quê anh Trỗi hôm nay thật đẹp. Xanh ngắt một bầu trời hy vọng, những bãi biển trải dài, sóng biển xô bờ như hôn làn cát trắng vẽ nên bức tranh ngoạn mục của đất trời…
Chúng tôi, thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi, khi tuồi đã 70 và thầy giáo 90 tuổi, sau 53 năm, gặp lại nhau và cùng hát khúc quân hành:
“… Vinh Quang thay trường Nguyễn văn Trỗi
Ngời chói tương lai muôn vì sao sáng…”
…Xa lắm… Vẫn là điệp khúc:
…Vinh Quang thay trường Nguyễn Văn Trỗi.


------------
(*) Lê Mình Chính: Tôi đã đọc bài viết của Hoàng trên Fb rất hay. Tôi xin chính sửa lại chi tiết tôi đi lên chú Chích là tôi và Định cà cầm đèn pin (chứ không phải đèn bão) và mỗi khi nghe tiếng sét đánh thì lại vứt đèn pin xuống đất (sau này nghĩ lại thì nghe tiếng sét mới vứt đèn pin xuống thì muộn rồi).


Đà Nẵng 8-9/4/2023






Kinh viếng hương hồn thầy Lê Đức Soạn.

Mùa đông, Có ngày buồn như thế…



Tiết trời chuyển đông, gió se lạnh đem theo hơi nước táp vào mặt như báo hiệu sự chuyển đổi của đất trời…
Mỗi sáng thức dậy từ tinh mơ, Phượng và tôi tự trang bị đủ quần áo ấm, khăn nón đủ cả (như đi Alaska vậy) trước lúc ra đường.
Chúng tôi thể dục buổi sáng, đi vài km trong khu dân cư êm đềm tĩnh mịch với những căn nhà đồ sộ, uy nghi, sừng sững dưởi ánh nắng trời vừa hửng đông. Bước chân chậm rãi, lá vàng nghe xào xạc dưới chân người mà sao chưa thấy “con nai vàng ngơ ngác” của nàng thơ? Tôi đi, bên tai vẫn là lời của em hay lời thì thào của gió?
Lòng trìu nặng, hồn tôi đang ở chốn xa xăm…

Xưa lắm và cho đến ngày nay, truyền thống của người Việt vẫn là “tôn sư, trọng đạo”. Hiếu học, sống có đạo lý nên người Việt luôn “tôn sư”. Nó đã trở thành văn hóa của chúng ta.

Ngày ấy, chúng tôi còn bé và ngây ngô lắm, cái tuổi “bé gẫy sừng trâu” có sức mà cái trí thì chưa thành hình. Ở thiếu sinh quân, chúng tôi được “rèn” kỹ về mọi mặt, đặc biệt về tinh thần và thể chất. Người thầy của chúng tôi lúc đó là trung úy, chính trị viên đại đội Lê Đức Soạn. Thầy Soạn của chúng tôi dáng cao cao, mảnh khảnh, gương mặt hiền hậu, giọng Quảng Nam. Với đa số học sinh là miền Bắc như chúng tôi, lúc đầu hơi khó nghe. Cùng trung úy đại đội trưởng là thầy Phong, dần dần chúng tôi cũng quen dần. Mỗi thầy một phong cách, nhưng cả hai đểu toát lên sự tận tâm, đức độ và tài năng xử lý mọi tình huống.
Cái tuổi ngây ngô của chúng tôi lúc đó là sự nghịch ngợm không lường.
Có lần đang học tối, cúp điện, phải nghỉ học. Sau các thầy tìm ra đống dây điện bị cắt của lũ trẻ muốn trốn học…
Hay cái tội đánh nhau, lười biếng, chửi thề, nói bậy…
Tôi thì nhớ mãi cái lần mất tất cả quần áo, chỉ còn 1 bộ trên người, phải xin phép thầy Soạn về Hà Nội để lấy đồ. Đúng là “nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò“ mà. Trong quân ngũ, quân phục đểu giống nhau nên cái sự “cầm nhẳm“ là chuyện “không có gì phải ầm ĩ”, khác chăng là bạn không thể cầm nhầm lại cái thứ bạn đã mất.

Mỗi thế hệ hay mỗi thời đều định nghĩa cái hư khác nhau. Các bạn đi “rèn luyện” ở Thạch Thất lúc đó đều biết cái chưa phải. Chả thế mà sau này gặp lại, Sử Bình còn nói vui với tôi: cũng chả biết tại sao đi…
Bên lũ học sinh chúng tôi, thầy Soạn, thầy Phong tất bật hàng ngày, có người còn nói làm thầy Soạn chậm lấy vợ đấy.
Hay cái chuyện Hà Ngọc Tuấn mãi không được kết nạp Đoàn vì cái “tội”: hút thuốc lá… Rồi Lê Anh Tuấn được đề cử làm bí thư chi đoàn… tất tật những chuyện như thế đều được thầy Soạn trên cương vị bí thư chi bộ bàn bạc với chúng tôi trong ban chấp hành Đoàn liên chi (gồm Huy Hùng, Kim Hồ và tôi). Gần thầy Soạn chúng tôi học hỏi nhiều điều, thầy là tấm gương để mọi trò noi theo.

Thời gian… Đã hơn 50 năm trôi qua…

Gặp lại thầy, tôi thật mừng vui và xúc động. Vẫn là người thầy đầy khả kính, nhân hậu, ấm áp tình người và trên tất cả là tình yêu thương bất tận dành cho các học trò. (Ngày ấy khi chia tay, thầy trao tôi giấy chứng nhận đối tượng Đảng).
Các học sinh thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi cũng thật tận tâm với thầy. Kim Hồ đã kể tôi nghe những ngày vất vả đi tìm thầy, gặp được thầy mà nước mắt tuôn rơi.

Người lính già ấy đã sống cuộc đời thật bình dị bên những người thân và sự kính trọng, yêu thương hết mực của lớp lớp học sinh Nguyễn Văn Trỗi.
Bên thầy những ngày cuối luôn có mặt vợ chồng Kim Hồ, vợ chồng Sử Bình và Phan Tiên Tiến(?Triều Tiên)… , tôi đã không thể cầm lòng, mặc cho nước mắt tuôn rơi…
Khi người đàn ông đã quá 70 xuân, họ không có nhiều nước mắt để dành…

Mùa đông, Có ngày buồn như thế...

Đà Nẵng 8-9/4/2023

Đà Nẵng 8-9/4/2023


0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Thứ Ba, 23 tháng 9, 2025

Ký ức về trường TSQ Nguyễn Văn Trỗi



Kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Trường VHQĐ - TSQ Nguyễn Văn Trỗi 1965-2025

Ký ức về trường TSQ Nguyễn Văn Trỗi

Báo Ký Giả

Cố giáo sư, bác sĩ Nguyễn Trinh Cơ đã kể lại trong một bài đăng trên báo Vệ Quốc Đoàn những năm đầu kháng chiến chống Pháp rằng khi ở trạm quân y tiền phương ông đã không cầm được nước mắt khi chứng kiến em Ngọc (tức Nguyễn Văn Trình), một thiếu sinh liên lạc 12 tuổi bị thương từ mặt trận chuyển đến.

Với tấm lòng của người Ông, người Cha sau khi nghe chuyện kể lại – Bác Hồ đã nói với Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đại ý rằng cần rèn luyện, đào tạo lớp lớp thanh thiếu niên này sẽ trở thành lực lượng bổ sung quan trọng cho quân đội và các ngành kinh tế, văn hóa trong cả nước.
“Các cháu còn nhỏ, không nên để các cháu đi chiến đấu, chết uổng lắm, tuổi các cháu là phải được học hành”.
Từ ý tưởng đó, các trường Thiếu sinh quân (TSQ) đã mọc lên từ miền Đông, miền Tây Nam bộ, đến Liên khu 5, Liên khu 4, Liên khu 3, Khu 10, Việt Bắc, tập trung mỗi trường ít thì 5, 7 chục, một vài trăm, nhiều thì hàng nghìn chú bé liên lạc, trinh sát từ khắp các chiến trường về học tập.

Ngày 10.11.1948, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ký nghị định số 425/TCH thành lập trường TSQ Việt Nam do Thiếu tướng Lê Thiết Hùng, Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị trực tiếp làm Hiệu trưởng. Vì hoàn cảnh chiến tranh, các trường TSQ từ Liên khu 4 trở vào Nam không có điều kiện về sáp nhập, còn lại các trường TSQ Liên khu 3, Khu 10, Việt Bắc, TSQ các Đại đoàn 308, 304, Tổng cục Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu đều hành quân về Thái Nguyên hình thành trường TSQ Việt Nam với quy mô lớn: 3 tổng đội, 12 đại đội, quân số hơn 1.000 học viên.

Từ cuối năm 1951 thành phần học viên các trường TSQ được bổ sung thêm con em các cán bộ cao cấp của Đảng, Chính phủ, Quốc hội, quân đội và các ngành ở Trung ương và địa phương. Con gái nhà cách mạng Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai; con gái Tổng bí thư Trường Chinh; con các đồng chí lãnh đạo khác như Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Hoàng Văn Thái, Đại tướng Văn Tiến Dũng và nhiều tướng lĩnh, Bộ trưởng, Thứ trưởng đã vào học tại các trường TSQ.

Tại Sài Gòn, ngày 15.10.1964, Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi, con người “như chân lý sinh ra”, đã giành những phút cuối cùng của đời mình để làm nên lịch sử. Anh đã hiên ngang lẫm liệt trước họng súng của Mỹ – Ngụy, đã chiến đấu và hy sinh như một người cộng sản. Sự hy sinh của Anh đã dấy lên một cao trào thi đua “Tất cả cho tiền tuyến”, đồng thời bùng lên khắp bốn biển năm châu một cao trào ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta.



Ngày 27.07.1965, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi “Thi đua sản xuất và chiến đấu chống Mỹ cứu nước”. Trong lời kêu gọi ấy, có đoạn Bác nói:
“Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”.
Lời kêu gọi như tiếng kèn xung trận thúc giục, cổ vũ nhân dân ta từ Nam đến Bắc bước vào thời kì kháng chiến oanh liệt nhất của dân tộc.

Trong bối cảnh lịch sử sôi động ấy, 3 tháng sau lời kêu gọi của Bác Hồ, ngày 15.10.1965, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định số 171/QĐQP về việc tổ chức Trường TSQ mang tên Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi. Sự ra đời của Trường là một biểu hiện cụ thể của công cuộc “trồng người” của Đảng, Bác và Quân đội, là một nội dung của đường lối kháng chiến, kiến quốc, chuẩn bị đội ngũ kế cận cho kháng chiến lâu dài, cho xây dựng Quân đội và cho kiến thiết đất nước sau này.
Tuy nhiên ngay từ tháng 4.1965, công tác chuẩn bị đã được Trung tướng Song Hào – Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị giao nhiệm vụ trực tiếp cho Chính ủy Bùi Khắc Quỳnh với hai yêu cầu:
Một là trường Văn hoá quân đội ở Trại Hòe, Hà Bắc sẽ được chuyển thành trường TSQ dạy văn hoá cho con em cán bộ đang chiến đấu trên các chiến trường và các gia đình có công, theo chương trình phổ thông từ lớp 5 đến lớp 10, kết hợp rèn luyện thêm về quân sự để sau này đào tạo thành cán bộ kế cận lâu dài cho quân đội, cho đất nước.
Hai là, phải tìm được địa điểm mới, đảm bảo an toàn. Trường sở có thể làm bằng tranh, tre, nứa, lá, cố gắng sao cho kịp nhận học sinh và khai giảng năm học mới ngay trong năm 1965.



Trải qua gần 50 năm qua, thầy và trò Trường TSQ Nguyễn Văn Trỗi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Bộ Quốc phòng đã giao. Thày và trò của trường đã vượt mọi khó khăn gian khổ trong những ngày đầu ở Trại Cờ, Trại Hòe (Hà Bắc), ở An Mỹ – Đại Từ (Bắc Thái) để xây dựng trường sở. Thầy trò cùng tham gia đắp nền nhà, vào rừng đốn cây, chặt nứa làm lán trại. Học sinh bắt ngay vào nhịp sống lao động, có học sinh tham gia cất nhà như người thợ thực thụ, dân địa phương phải ngợi khen. Nhiều giờ học đã phải dừng lại để xuống hầm trú ẩn. Thầy và trò dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy nhà trường do Chính ủy Bùi Khắc Quỳnh chủ trì, đã đoàn kết phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ các năm học trong điều kiện còn thiếu thốn về trang thiết bị cần thiết phục vụ giảng dạy và học tập.

Tiếp đó là những ngày Trường TSQ Nguyễn Văn Trỗi sang Quế Lâm (Trung Quốc) tiếp tục học tập để tránh chiến tranh phá hoại.
Dù được sống đầy đủ ở Y Trung hay ở Phong Khẩu, thầy và trò luôn hướng về Tổ quốc, hướng về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
“Thi đua dạy tốt, học tốt – vì miền Nam ruột thịt” là một phong trào thường xuyên sôi nổi của trường.
Trên 70% học sinh tốt nghiệp ra trường của 8 khóa đã lần lượt tình nguyện nhập ngũ phục vụ Quân đội lâu dài.
Hoài bão được đứng ở tuyến đầu của cuộc chiến đấu gian khổ, ác liệt của nhiều thầy giáo và của các em học sinh được toại nguyện.



Hiệu trưởng Dương Hưng Tuấn (đứng giữa hàng sau cùng) cùng các thầy và lớp Quyết thắng khóa 7, năm học 1967 – 1968 tại Quế Lâm.


TSQ khóa 6, 7, 8 tại hội trường lớn ở Y Trung mừng Quốc khánh Việt Nam


Tính cả cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc và phía Tây – Nam Tổ quốc, trường TSQ Nguyễn Văn Trỗi có 2 thầy giáo và 28 học sinh đã anh dũng hy sinh.

Sau ngày toàn thắng 30.04.1975, đất nước bước vào thời kỳ xây dựng, nhiều học sinh TSQ Nguyễn Văn Trỗi tiếp tục thực hiện nhiệm vụ mới trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Thế hệ 8 khoá đã tiếp bước Cha Anh, giữ vững và phát huy truyền thống Quân đội, tinh thần Nguyễn Văn Trỗi trong công cuộc xây dựng đất nước.
Nhiều học sinh trường TSQ Nguyễn Văn Trỗi đã trở thành cán bộ trung, cao cấp trong Quân đội, cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền; nhiều em đã có những công trình nghiên cứu về kinh tế, KHKT xuất sắc trong và ngoài nước.

Trong buổi họp mặt truyền thống 30 năm thành lập trường vào ngày 15.10.1995, tại Hà Nội Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu:
“… Trường Nguyễn Văn Trỗi tuy đã kết thúc đào tạo 25 năm nay, nhưng thực sự là một mô hình giáo dục tốt. Trường đã đào tạo rất bài bản những con người có lý tưởng cách mạng, yêu nước, thương dân, có trình độ văn hóa, khoa học, có sức khỏe. Tôi đã gặp nhiều cháu là học sinh nhà trường có đạo đức, có năng lực, làm việc rất tốt trong nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật và quản lý…

Trong tương lai, ta phải lập ra nhiều trường như trường Nguyễn Văn Trỗi. Và trong giáo dục, không chỉ chú trọng tới tầng lớp thanh niên, mà phải quan tâm đến cả thiếu niên, nhi đồng. Chính thế hệ trẻ được đào tạo tốt sẽ là chủ nhân tương lai, sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn…”.


Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong ngày Hội trường 15.10.1995 tại Hà Nội.


Thế hệ các cựu TSQ trường Nguyễn Văn Trỗi đã được “Sinh ra trong khói lửa”, thấm nhuần lý tuởng, rèn luyện theo kỷ luật quân đội, được tiếp thu những tinh hoa kiến thức của một tập thể các thầy, cô giáo đầy tài năng, nhiệt huyết để khi ra trường đã phấn đấu trưởng thành, xứng đáng với niềm tin của Đảng, của Bác, với công lao dạy dỗ của các thầy cô.
Trường TSQ cho đến ngày nay tuy chỉ có một thời gian ngắn 5 năm với 8 khoá nhưng đã có ý nghĩa thiết thực, thực hiện một chính sách lớn với hai nội dung:

  1. Các học sinh là con em của cán bộ trung – cao cấp của Đảng, Nhà nước, quân đội. Để các đồng chí cán bộ có điều kiện yên tâm công tác, tận lực cho kháng chiến; Đảng, Nhà nước, quân đội đã tổ chức trường nuôi dưỡng và dạy dỗ các em.
    Đây là tình sâu nghĩa nặng và trách nhiệm to lớn.

  2. Sau ngày chiến tháng, nhiệm vụ xây dựng Đảng, bảo vệ Nhà nước, củng cố quân đội là trách nhiệm của toàn dân, nhưng phải có lực lượng trung kiên.
    Đó chính là con em các đồng chí đã đổ xương máu để xây dựng và bảo vệ đất nước.


Trường TSQ Nguyễn Văn Trỗi đã là nơi hội tụ và vun trồng những hạt giống đỏ, để bổ sung lực lượng cho quân đội, cho sự nghiệp cách mạng dài lâu của đất nước.
Trọng trách của các thầy cô trường TSQ Nguyễn Văn Trỗi thật cao cả, vinh quang!
Sứ mạng của các học sinh trường TSQ Nguyễn Văn Trỗi thật vẻ vang nhưng cũng thật nặng nề!
Họ là các học sinh cơm lính, học tập theo kiểu lính và rèn luyện đúng như lính, một “tuổi thơ dữ dội”.





TRƯỜNG THIẾU SINH QUÂN NGUYỄN VĂN TRỖI
50 năm xây dựng và trưởng thành (1965 – 2015)



* Ban giám hiệu nhà trường qua các thời kì:
  1. Chính ủy Bùi Khắc Quỳnh (thượng tá, 1965 – 1970),
  2. Hiệu trưởng Nguyễn Hữu Điền (trung tá, tháng 12/1964 – tháng 8/1965).
  3. Phạm Ngọc Điển (…): đặc phái viên của TCCT.
  4. Hiệu trưởng Dương Hưng Tuấn (trung tá, 1965 – 1968).

Anh hùng, liệt sĩ:
Có 2 thầy giáo và 28 học sinh anh dũng hy sinh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc:
  1. Giáo viên: Nguyễn Đăng Đạo, Nguyễn Văn Phố.
  2. Huỳnh Kim Trung (1952-1972), Anh hùng LLVTND (truy tặng ngày 31/12/1973).
  3. Khóa 1: Bùi Hữu Thích.
  4. Khóa 3: Ngô Ngời, Lê Minh Tân, Cao Quốc Bảo.
  5. Khóa 4: Nguyễn Văn Ngọc, Lâm Duy, Nguyễn Văn Ơn, Vũ Chí Dũng.
  6. Khóa 5: Võ Dũng, Phạm Văn Hạo, Trịnh Thúc Doanh, Nguyễn Lâm, Vũ Kiên Cường.
  7. Khóa 6: Nguyễn Mạnh Dũng, Chu Tấn Quang, Võ Nguyên Trọng, Đặng Bá Linh, Nguyễn Mạnh Minh, Nguyễn Tiến Quân, Đỗ Khắc Tiến.
  8. Khóa 7: Y Hòa, Lại Xuân Lợi, Đặng Đình Kỳ, Ngô Tất Thắng, Nguyễn Khắc Bình, Trần Hữu Dân, Nguyễn Đức Thảo.
  9. Khóa 8: Bùi Thọ Tuyến.

Các cán bộ cao cấp và tướng lĩnh trong LLVTND:

Cán bộ cao cấp:
  1. Nguyễn Thiện Nhân, UVBCT, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
  2. Trần Chiến Thắng, Thứ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin-Du lịch.
  3. Dương Thành Bắc, Phó chánh Văn phòng BCHTW Đảng.
  4. Nguyễn Đoan Hùng, Phó Chủ tịch UB Chứng khoán quốc gia.
  5. Đặng Thanh Bình, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
  6. Nguyễn Toàn Thắng, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

Các tướng lĩnh trong QĐ và Công an:
  1. Nguyễn Chiến, trung tướng, nguyên Trưởng ban Cơ yếu Chính phủ.
  2. Phạm Ngọc Nguyên, thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh quân chủng PK-KQ.
  3. Vũ Nhật Minh, thiếu tướng, Phó Giám đốc Học viện KTQS.
  4. Võ Đăng Thanh, thiếu tướng, Phó Trưởng ban Cơ yếu Chính phủ.
  5. Bùi Quang Vinh, thiếu tướng, Tư lệnh Binh đoàn 11.
  6. Từ Linh, thiếu tướng, Giám đốc Trung tâm thông tin KH-CN-MT.
  7. Nguyễn Minh Đức, thiếu tướng, Phó Chủ nhiệm TCKT.
  8. Phạm Sơn Dương, thiếu tướng, Phó Giám đốc Viện KH-CN quân sự.
  9. Phạm Ngọc Quảng, trung tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo.
  10. Lê Văn Đạo, Chuẩn đô đốc, Phó Tư lệnh quân chủng Hải quân Nhân dân.
  11. Nguyễn Phục Quốc, thiếu tướng, Giám đốc Bệnh viện TWQĐ 175, TP Hồ Chí Minh…
  12. Nguyễn Quang Bắc, thiếu tướng, Phó chủ nhiệm TCKT.
  13. Trần Duy Anh, thiếu tướng, Giám đốc Bệnh viện TWQĐ 108, Hà Nội.
  14. Phạm Hòa Bình, thiếu tướng, Phó giám đốc Bệnh viện TWQĐ 108, Hà Nội.
  15. Tạ Quang Chính, thiếu tướng, Chủ nhiệm Chính trị TCCN quốc phòng.
  16. Phùng Thế Quảng, thiếu tướng, Phó tư lệnh QK7.

Các văn nghệ sĩ là thầy trò trường Nguyễn Văn Trỗi
  1. Đại tá, nhà báo, NSƯT Nguyễn Chi Phan.
  2. Đại tá, nhà báo Phan Đình Trọng.
  3. Nhạc sĩ Nguyễn Hồng Tuyến.
  4. Họa sĩ Phạm Lực.
  5. Đại tá, NSƯT Dương Minh Đức.
  6. Nhà báo Lê Tường Long.
  7. Đại tá, nhà báo Trần Hồ Bắc.
  8. Nhà báo, Nhà văn Trần Trường Chiến.
  9. Đại tá, bác sĩ, họa sĩ Nguyễn Trung Liêm.

(Nguồn tư liệu “Sinh ra trong khói lửa” tập 1 + 2 của nhóm cựu học sinh trường TSQ Nguyễn Văn Trỗi khoá 5 miền Bắc)




Nguồn: Báo Ký Giả - Thứ Sáu, 20 Tháng Ba 2015

0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2025

Tin buồn: bạn Nguyễn Khánh Thái mất



Bạn Nguyễn Khánh Thái - K6

Nguyễn Khánh Thái - K6

0
1954
0
Mb: 01674. 299 995 - Nr: - Cq: - FB: https://www.facebook.com/thai.khanh.77312- Email: https://www.facebook.com/thai.nguyenkhanh.10 - Blog: http://anh-bantroik6.blogspot.com/2012/10/nguyen-khanh-thai.html - HN - VN
- Tự do - -
3AE - Nguyễn Khánh Tiệp K1, Nguyễn Khánh Tần K5-6, Nguyễn Khánh Thái K6

1972

0


đã mất tại HN,
ngày 19/9/2025 (Ngày 28 tháng 7 năm Ất Tỵ), thọ 71 tuổi.
Tang lễ được tổ chức vào hồi 16g30 ngày 20 tháng 9/2025
tại nhà tang lễ Bệnh viện Hữu Nghị số 1b Trần Khánh Dư.
Hỏa thiêu tại Đài hóa thân hoàn vũ cùng ngày.

(Theo tin từ Nguyễn Khánh Bảo)

Bạn Trỗi K6 xin chia buồn với gia đình bạn Nguyễn Khánh Thái!




0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Chủ Nhật, 7 tháng 9, 2025

Gặp mặt K6 trường VHQĐ TSQ Nguyễn Văn Trỗi 15-17/5/2024


Năm nay các cụ 70 và hơn 70 vẫn vui vẻ gặp gỡ nhau tại TP Tuy Hoà, Trung tâm An điều dưỡng TN, mặc dù số người tham dự chỉ còn bằng 1/2 năm ngoái tại ĐN.
Gặp nhau tay bắt mặt mừng, những câu chuyện kỷ niệm ngày xưa không bao giờ hết, những lời hỏi thăm nhau đầy tình nghĩa, những lời vui đùa trêu trọc nhau vẫn thế. Thật là không khí đầm ấm của một gia đình gắn kết yêu thương.
Chúng tôi đã đến thắp hương tưởng nhớ các chiến sĩ hải quân trên những con tầu không số đường HCM trên biển đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Buổi tối liên hoan gặp mặt có sự tham gia của các chiến sĩ TNHQ, hai thế hệ cùng quân hành, thật vui vẻ đầy ý nghĩa.
Ngày hôm sau chúng tôi đi thăm ghềnh đá đĩa, nhà thờ Mằng Lăng, Tháp nhạn, Tháp Chăm…
Các phu nhân của các bạn K6 đã góp vui bằng các tiết mục văn nghệ hay và sinh động.
Chia tay nhau đầy lưu luyến, tình thân. Hẹn gặp nhau năm 2025 vào dịp kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất cả nước, 60 năm truyền thống trường VHQĐ TSQ Nguyễn Văn Trỗi tại TP HCM.
Xin chân thành cám ơn BLL K6 đã tổ chức cuộc gặp mặt ở Tuy Hoà thành công.
Cám ơn các bạn K6 và các phu nhân của một số bạn K6 đã đến tham dự cuộc gặp mặt này.
Chúc chúng ta mạnh khoẻ và gặp lại nhau tại TP HCM năm 2025!
Vu Dien Bien - 18/05/2024

0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2025

Tin buồn: bạn Hứa Bá Vũ mất



BạnHứa Bá Vũ - K6-7

Hứa Bá Vũ - K6-7


1949-2025
Mb: 0913. 667 626 - Nr: 08.8436398 - Cq: - FB: - Email: - Blog: http://anh-bantroik6.blogspot.com/2012/10/hua-ba-vu.html - TP HCM - VN
- - Cty in Liksin -

1967

2018



Sinh ngày: 15/06/1049
Từ trần: 22g55 ngày 13/05/2025 (16 tháng 04 năm Ất Tỵ), tại Tp Thủ Đức, huởng thọ 77 tuổi.
Bạn Trỗi K6 xin chia buồn với gia đình bạn Hứa Bá Vũ!




0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Thứ Tư, 30 tháng 4, 2025

Tin buồn: bạn Đặng Quân Chính mất


0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2025

Tin buồn: bạn Phạm Vinh Quang mất


0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>