THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 29




PHẦN III:     Nguồn cội

“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
.


CHƯƠNG VII: BẤT KHUẤT

“… Tinh thần Hà Nội, tính cách Hà Nội - đó là tổng hợp tất cả những gì tốt đẹp nhất trong tâm hồn Việt Nam cao quí… Hà Nội khởi dậy từ trong lòng mình sức trẻ mới của một xã hội đang đi lên kết hợp với truyền thống nghìn xưa quyện trong không khí mà mỗi tấc đất đều thấm máu anh hùng của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội”
(Trích xã luận báo Nhân Dân, số ra ngày 26-12-1972)



Năm 1802, Nguyễn Ánh đặt niên hiệu là Gia Long, sai Lê Quang Định làm chánh sứ sang nhà Thanh xin phong vương và đổi tên nước thành Nam Việt. Thế là năm Giáp Tý (1804), vua Thanh phái Án sát Tề Bồ Sâm sang phong vương cho Gia Long và định tên nước ta là Việt Nam (ngược lại với từ mà Ánh đã “xin”!)

Dưới triều Nguyễn Ánh, Phú Xuân (Huế) vẫn là kinh đô và Thăng Long vẫn là thủ phủ của Bắc Hà gồm 11 trấn. Năm 1803, Gia Long cho phá bỏ Hoàng Thành cũ, xây dựng lại một tòa thành mới theo kiểu Vô băng (Vauban), có qui mô nhỏ hơn. Trấn thành Thăng Long đời Nguyễn hình vuông, chu vi 1285 trượng (khoảng 5 km). Tường thành cao hơn một trượng (khoảng 4 m), dày 4 trượng (khoảng 16 m), phía dưới xây bằng đá xanh, đá ong, phía trên bằng gạch hộp. Thành mở 5 cửa: bắc, đông, tây, đông-nam và tây-nam. Chung quanh thành có hào nước rộng chừng 4 trượng (16 m). Bên trong thành, chính giữa có Kính Thiên vẫn ở vị trí cũ. Phía trước điện Kính Thiên là cửa Đoan Môn cũng thuộc Hoàng Thành cũ. Núi Nùng vẫn còn đó. Cụm kiến trúc Phủ Chúa bị phá hủy và vùng quanh hồ Hoàn Kiếm nhanh chóng thành khu dân cư đông vui. Nhìn chung các kiến trúc văn hóa xây dựng thêm trong thời kỳ này không có mấy. Khu văn miếu không còn Quốc Tử Giám, phạm vi bị thu hẹp lại, chỉ còn là nơi thờ Khổng Tử; có điểm thêm một “Khuê Văn Các” xây năm 1802. Năm 1808, nhà Nguyễn mở khoa thi đầu tiên ở Hà Nội; dựng Trường thi Hương dài 200 m, rộng 150 m (chỗ sau này là Thư viện Trung ương, trên phố Tràng Thi). Năm 1812, Cột Cờ (Kỳ Đài) được dựng nên, chu vi bệ 42 m, đài cao 60 m, phần mái lúc đầu chưa có, sau mới được Pháp xây thêm. Năm 1842, Tổng đốc Hà Nội là Nguyễn Đăng Giai quyên tiền các tỉnh xây dựng chùa Báo Ân trên nền lầu Ngũ Long cũ, bốn năm mới xong. Chùa Báo Ân gồm một cái nền lớn, hai tầng, trên nền dựng 36 nóc chùa, rộng tổng cộng 180 gian. Từ chùa ra hồ Gươm, qua mấy lần cửa. Vì quanh chùa có hồ sen nên còn gọi là chùa Liên Trì. Năm 1848, tại Hà Thành có một sự kiện “dễ giận”): vua Tự Đức sai tháo gỡ các bức chạm gỗ và đá của Thăng Long, đem vào Huế. Cũng dưới trào vua này, còn có sự kiện: Nguyễn Văn Siêu (cùng với Cao Bá Quát là hai văn nhân tiêu biểu của Hà Nội thời đó mà tài “hay chữ” được tôn vinh là: “Thần Siêu”, “Thánh Quát”) đứng ra tu sửa đền Ngọc Sơn (1865), bắc cầu Thê Húc, dựng Tháp Bút, xây Đài Nghiên, và sự kiện: tổng đốc Hà Nội là Tôn Thất Bật cho trùng tu lại chùa Báo Thiên. Tháp Báo Thiên đã bị dỡ bỏ từ năm 1794 do hư hại quá nặng. Nhưng hồn vía của nó vẫn thức tỏ trong lòng người đến muôn đời như một ngọn hải đăng huyền vĩ, qua bài thơ của Phạm Sư Hạnh:
                              Trấn áp đông tây củng đế kỳ
                              Khuy nhiên nhất tháp độc nguy nguy
                              Sơn hà bất động Kình Thiên trụ
                              Kim cổ nan ma lập địa chùy
                              Phong bãi chung linh thời ứng đáp
                              Tinh di đang chúc dạ quang huy
                              Ngã lai dục thử đề danh bút
                              Quản lĩnh xuân giang tác nghiễn trì.
                                                      (Đề Báo Thiên tháp)
Đào Thái Tôn dịch:
                              Trấn áp đông tây giữ đế đô
                              Hiên ngang ngọn tháp đứng trơ trơ
                              Non sông giữ vững tay trời chống
                              Kim cổ khôn mòn đỉnh tháp nhô
Thỉnh thoảng gió lay chuông ứng đáp
                              Đêm đêm sao xế đuốc khôn mờ
                              Tới đây những muốn dầm ngòn bút
                              Chiếm cả dòng sông mài mực thơ
Năm 1831, Minh Mạng cải tổ lại bộ máy hành chính, bỏ các trấn chia cả nước thành 29 tỉnh, trong đó có tỉnh Hà Nội gồm thành Thăng Long cũ, huyện Từ Liêm, phủ Ứng Hòa, phủ Lý Nhân, phủ Thường Tín.
Năm 1835, Minh Mạng ra lệnh hạ thấp thành Hà Nội, giảm bớt chiều cao 1 thước 8 tấc (0,73 m), nghĩa là tường thành chỉ còn cao hơn 3 m.
Như vậy Thăng Long - Hà Nội thời Nguyễn đã không những mất vai trò là kinh đô cả nước mà còn bị hạ thấp từ trấn thành xuống tỉnh thành và qui mô cũng bị thu hẹp lại. Hà Nội thời Nguyễn với hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận gồm tương ứng với nội thành Hà Nội ngày nay; Thọ Xương tương đương với quận Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng, Vĩnh Thuận tương đương với quận Ba Đình, và Đống Đa.
Một học giả ngoại quốc, J.Silvestre đã nhận xét về Hà Nội vào khoảng giữa thế kỷ XIX như sau: “Mặc dù không còn là nơi vua chúa ở nữa, tôi cho rằng đó vẫn là một thành phố đứng đầu vương quốc về nghệ thuật, công nghiệp, thương nghiệp, về sự giàu có, số dân đông đúc, về sự lịch duyệt và học vấn. Phải nói rằng trong khắp vương quốc, không có ngành công nghiệp nào khác ngoài Kẻ Chợ và tất cả Bắc Kỳ, Nam Kỳ, không nơi nào vượt qua được nơi này. Chính ở đó đã tụ tập từ các nơi về những văn nhân, thợ giỏi, nhà buôn lớn, chính ở đó đã sản xuất ra các mặt hàng thiết yếu và những đồ mỹ nghệ xa hoa. Tóm lại, đó chính là trái tim của một đất nước”.
Miền đất Hà Thành không còn cảnh đường bệ, uy nghi của đế đô nhưng vẫn còn nguyên cảnh nhộn nhịp làm ăn của Kẻ Chợ.
***
Bản chất của kẻ xâm lược là thèm khát đến vô bờ bến, là ngạo mạn đến hết cỡ vô liêm sỉ. Một cuộc xâm lược, nếu không có gì ngăn trở nó, nó sẽ chiếm đoạt và cướp bóc đến cùng kiệt thế giới. Những cuộc xâm lược thời tích lũy tư bản, thời thực dân - đế quốc, thể hiện càng rõ cái bản chất vô nhân đạo ấy. Điều đó giải thích vì sao dã tâm của thực dân Pháp không phải là chỉ chiếm đoạt 3 tỉnh, hay 6 tỉnh Nam Kỳ, cũng không phải chỉ một nước Việt Nam, mà là cả bán đảo Đông Dương và thậm chí còn muốn hơn thế nữa.
Sau khi chiếm được Nam Kỳ, Thực dân Pháp rục rịch chuẩn bị kế hoạch đánh chiếm Bắc Kỳ. Tháng 1-1872, lợi dụng việc triều đình Huế nhờ quân đội Pháp dẹp giặc biển ở Bắc Kỳ, Thống đốc Nam Kỳ là Dupré cử viên trung tá hải quân Senez đem chiến hạm Bourayne tiến ra vịnh Bắc Bộ. Mười tháng sau, cũng dựa vào cớ đó, chiến hạm Bourayne lại ra Bắc, tiến sâu vào nội địa, tìm đường lên Hà Nội thám sát. Tháng 5-1873, Dupré báo cáo về Pháp: “Việc đánh chiếm Bắc Kỳ là một vấn đề sinh tử cho tương lai thống trị của chúng ta ở Viễn Đông”
Để kiếm cớ gây hấn, thực dân Pháp bí mật dùng con bài Đuypuy (Jean Dupuis), một lái súng muốn độc chiếm sông Hồng để chở hàng lên phía Bắc, đến Vân Nam (Trung Quốc). Được sự ngấm ngầm hỗ trợ của Thực dân Pháp và của cả nhà Thanh, ngày 22-12-1872, với một lực lượng quân sự gồm: 2 tàu máy, 7000 súng tay, 30 đại bác, 15 tấn đạn, hơn 100 người vũ trang đầy đủ, Đuypuy hùng hổ đặt chân đến Hà Nội, rồi mặc dù không được triều đình cho phép, vẫn ngang nhiên cho thuyền chở hàng ngược sông Hồng lên biên giới phía bắc (3-1873) và lúc trở về còn được quân nhà Thanh hộ tống.
Từ sau chuyến buôn trót lọt trở về, với lực lượng quân sự được tăng cường thêm, Đuypuy càng tỏ ra ngạo mạn, hung hăng, hạch sách quá đáng: đòi được đóng quân trên bờ sông Hồng, đòi có nhượng địa ở Hà Nội, đòi được cung cấp muối và than đá để chở sang Vân Nam bán, cho lính tràn vào các khu phố khiêu khích, xé bố cáo của tổng đốc Nguyễn Tri Phương, bắt giữ thuyền dân, cướp thuyền gạo của triều đình, tấn công đồn canh ven sông Hồng, tuyên bố thương mại Hà Nội là thuộc Pháp, khước từ mọi việc tiếp xúc thương thuyết với chính quyền triều Nguyễn…
Tình hình đến độ như thế mà quan lại địa phương vẫn khoanh tay ngồi chờ lệnh triều đình - một triều đình đã quá bạc nhược bởi có một ông vua hén nhát. Một triều đình đã từng phân vân và cứ mãi phân vân giữa “hòa” và “đánh” để rồi sau mỗi bận phân vân ấy lại “thương” vua khi vua hỏi nếu đánh đến cùng “thì các khanh để trẫm ở đất nào?”, lại “trung” theo ý vua là “hòa”, để rồi trên thực tế là đánh không được, giữ không xong, hòa cũng chẳng được hòa, thực chất là đầu hàng từng bước, dâng dần Tổ Quốc cho Thực dân Pháp. Xét về mặt “pháp lý” thì cái triều đình ấy, ông vua ấy, những bề tôi ấy cũng “chính danh” không kém triều đình, vua tôi thời nhà Trần, mà sao “ẹ” thế, sao chỉ biết nghĩ đến “để trẫm ở đất nào” mà không nghĩ đến “để Tổ Quốc ở đất nào, để dân ở đất nào?”, mà sao không học theo nhà Trần mở “Hội nghị Diên Hồng”? Cho dù nhà vua đã từng khí dân nhưng dân không bao giờ bỏ nước. Khi vua biết quay lại sống vì sơn hà xã tắc thì lòng dân rồi sẽ lại theo về. Nếu triều đình nhà Nguyễn tạo dựng được một “Hội nghị Diên Hồng” thì rất có thể đã chuộc được tội lỗi của Gia Long. Bởi vì trước sự phân vân: “Thế nước yếu, nên hòa hay nên đánh” sẽ là lời đáp vang dậy núi sông: “Quyết chiến!”, và trước sự phân vân: “Quyết chiến lấy gì lo chiến chinh?” sẽ là lời thề đanh thép của muôn lòng: “Hy sinh!”
Triều đình Tự Đức là như thế nhưng không phải vì thế mà không có những bề tôi đáng kính phục. Nghe đâu có ông quan, tài đến tam nguyên tên là Nguyễn Bích San thấy vua như thế, uất quá, mượn câu sách cũ thốt lên: “Vua lo thì tôi nhục, vua nhục thì tôi chết”, rồi ngã vật xuống. Thật đáng thương cho lòng trung của ông! Nhưng sao ông không hành động như nhiều bề tôi khác, như Trương Định, Võ Duy Dương, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Đình Chiểu…), chọn con đường “xả thân vì nước”, “vì nước quên thân”?
Trước nạn xâm lăng, người Hà Nội ngay từ đầu đã không im lặng. Trong khoa thi hương năm Giáp Tý (1864), khi nghe tin triều đình Huế, ký hiệp ước dâng ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho giặc Pháp, toàn thể các thí sinh trường Hà Nội đã “đại náo trường thi” để phản đối. Ba ngàn người đã vứt bỏ lều chõng, tập hợp đội ngũ chỉnh tề, rầm rộ kéo ra Văn Miếu làm lễ, sau đó, kéo về Hồ Gươm, vừa đi vừa hô lớn xin được vào Nam giết giặc cứu nước. Cuộc tuần hành được nhân dân các phố, các làng lân cận nhiệt liệt hưởng ứng.
Trước những hành động càn rỡ của Đuypuy, nhân dân Hà Nội đã tự phát phản kháng quyết liệt. Có chuyện là khi bọn Pháp xúc phạm tới nhà nho, đốc học Lê Đình Nguyên, tức thì một lực lượng gồm 300 người, phần lớn là học sinh, được tổ chức, kéo ra phục kích bên sông Hồng, chặn đánh bọn Đuypuy tơi tả…
Tháng 7-1873, Dupré điện về Pháp: “Bắc Kỳ đã được khai phóng do thắng lợi của Đuypuy, tạo hiệu quả sâu rộng trong nền thương mại Anh, Đức, Mỹ. Chiếm Bắc Kỳ là tuyệt đối cần thiết để bảo đảm cho nước Pháp con đường thông thương duy nhất này. Tôi không cần viện binh gì hết, tôi giải quyết bằng cách của tôi. Bảo đảm thắng lợi”.
Thật khôi hài là quá trình hiện diện của thực dân Pháp từ trận đánh vào Đà Nẵng (1858) đến lúc đó đã bộc lộ ngày một rõ ràng mưu đồ ăn cướp của chúng đến ông đồ mù Chiểu còn thấy, ấy vậy mà Tự Đức cùng bộ phận quần thần đủ đầu, mắt, tai vẫn cứ ngơ ngác, như lũ đui, điếc, vẫn cứ “ngây thơ cụ”, “chân thành” tin tưởng vào “lòng tốt” của kẻ xâm lược. Ảo tưởng rằng có thế sống nhục mà vẫn cần được vinh nên một phái bộ của triều đinh Huế đã được cử vào Sài Gòn nhằm yêu cầu Thực dân Pháp giải quyết vụ Đuypuy. Chớp cơ hội “trời cho” này, ngày 11-10-1873, Duypré lệnh ngay cho thiếu tá Gácniê (Francis Garnier) đem hai tàu chiến trang bị 11 đại bác và 170 lính ra Bắc Kỳ, với chỉ thị ngầm: được toàn quyền hành động, tùy theo diễn biến tình hình mà có thể thiết lập chế độ bảo hộ hay chế độ thuộc địa. Vì vậy mà ngày 5-11-1873, vừa đặt chân tới Hà Nội, Gácniê cho bắn 23 phát đại bác để thị uy, rồi phối hợp với lực lượng của Đuypuy (có cả một đại đội quân chính qui Tàu), liên kết với bọn phản động, tuyển mộ ngụy quân, sắp đặt ngụy quyền. Bộ mặt thật của thằng xâm lược đã lòi ra bạch nhật: đã không giải giáp Đuypuy mà còn đưa ra những yêu sách ngang ngược như: đòi đóng quân trong thành, đòi “từ nay Hà Nội và sông Hồng được mở cho Pháp, Ý và Vân Nam hoạt động thương mại. Pháp làm chủ và thu thuế”…
Tổng đốc Nguyễn Tri Phương, vị chỉ huy cuộc chiến đấu ở đại đồn Chí Hòa năm 1861, kiên quyết đòi Đuypuy phải rời sông Hồng và ra thông cáo cho dân chúng biết Gacniê chỉ có nhiệm vụ ở Hà Nội là dàn xếp vấn đề Đuypuy. Nhân dân Hà Nội không ngồi yên. Họ thi hành lệnh bất hợp tác với Pháp, thường bỏ thuốc độc vào giếng nước uống, mấy lần đốt kho thuốc súng của chúng bên bờ sông…
Nhận được viện binh tăng cường từ Sài Gòn và Hương Cảng, ngày 15-11-1873, Gácniê trắng trợn đơn phương tuyên bố khai phóng sông Hồng, thiết lập chế độ thuế quan mới. Bốn ngày sau (tức ngày 19-11-1873), Gácniê gửi tối hậu thư đòi tổng đốc Hà Nội phải giải giáp quân đội, giao nộp thành và phải trả lời trước 6 giờ chiều cùng ngày. Nguyễn Tri Phương cự tuyệt, tổ chức phòng thủ.
Xét tương quan lực lượng đôi bên lúc đó, quân số triều đình Huế đông hơn nhiều so với quân viễn chinh Pháp, nhưng trang bị vũ khí hết sức lạc hậu, kém cỏi, thiếu thốn nhiều.
Ỷ vào ưu thế áp đảo tuyệt đối về hỏa lực, mờ sáng ngày 20-11-1873, Thực dân Pháp tấn công thành Hà Nội. Tất cả đại bác trên các tàu chiến đều khai hỏa, bắn cấp tập vào thành, yểm trợ cho hơn 200 binh lính Pháp và ngụy xông vào. Pháo ta bắn, nhưng không chặn được địch. Chúng đánh mạnh vào cửa Nam và cửa Đông. Dù có phần bị bất ngờ và yếu thế hơn, quân dân Hà Nội đã chiến đấu rất anh dũng . Tổng đốc Nguyễn Tri Phương trực tiếp lên mặt thành phía Nam đốc chiến, bị trúng thương nặng ở bụng. Con trai ông là phò mã Nguyễn Lâm cùng hiệp quản Trần Văn Cát và xuất đội Ngô Triều lần lượt hy sinh tại trận. Mấy cửa thành bị phá, giặc Pháp thừa thắng tràn vào. Sau khoảng một tiếng đồng hồ chống cự, quân triều đình tan vỡ, một phần lớn vượt thoát, lên gia nhập cánh quân triều đình đóng ở Sơn Tây do Hoàng Tá Viêm chỉ huy. Hà Thành thất thủ! Tuy nhiên, cánh quân gồm 100 người do một quan chưởng cơ chỉ huy giữ của Ô Phố Mới, trước đó đã chặn đánh quyết liệt và giết nhiều giặc ở hướng này, vẫn còn chiến đấu và hy sinh đến người cuối cùng (lịch sử quên ghi tên ông, nhưng nhân dân sau này cũng gọi cửa ô đó là cửa ô Quan Chưởng để thương nhớ). Bá hộ Trần Chí Thiện, kỳ mục Nguyễn Văn Hồ với hai con trai vẫn cứ đánh và chịu hy sinh.
Tú tài Phạm Lý, người tổ chức được một lực lượng tại huyện Thọ Xương tìm cách chặn đứng bước tiến của giặc, vẫn còn đánh.
Khi vào thành, quân Pháp dụ dỗ, chữa chạy cho Nguyễn Tri Phương. Ông mắng chúng và lũ phản động rồi xé băng buộc thuốc, nhịn ăn, chịu chết. Mấy bữa trước, khi triều đình trao cho ông trách nhiệm giữ Hà Nội, ông đã nói: “Phải giữ từ xa. Nay nó đến sát rồi, thần cũng không giữ được. Ta chỉ vì nước mà hết trách nhiệm, dù gan óc lầy đất!”. Có ông già theo Nguyễn Tri Phương lâu năm, kể rằng: “Một lần tôi được theo quan Đại về làng (huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên). Nhà ngài chỉ có ba gian lợp lá từ cụ tổ để lại thôi”. Nhà Nguyễn Tri Phương, cha, con, anh, em, có đến 5 người hy sinh vì nước. Tấm lòng trung quân ái quốc của ông thật đáng kính phục. Hà Thành thất thủ nhưng người Hà Nội vẫn chiến đấu. Ngay tối hôm thành bị chiếm, nhân dân đã tự động vũ trang, đốt phá trạm gác địch, đột kích vào thành. Ngày 1-12-1873, chiến sự giằng co ở Gia Lâm. Ngày 8-12, vị trí địch ở tây nam Hà Nội bị công phá. Còn lưu truyền đến nay chuyện chàng thanh niên Phùng Xuất Nghĩa quê ở Cổ Nhuế, sau khi làm lễ tế cờ ở gò Ngũ Nhạc trong làng, đã kéo quân đi tìm giết giặc Pháp. Khi bị giặc bắt, đặt lên mâm đồng nung đỏ, ông không hề run sợ và lẫm liệt hy sinh… Gácniê đã thú nhận: “Đánh thành thì dễ mà giữ thành thì thực là khó… Những đám cháy và các trận đột kích thật đáng sợ. Suốt đêm chúng tôi không hề chợp mắt”.
Biết tỏng tinh thần đã bại liệt của Tự Đức và cái cơ thể rệu rã lạc hồn của quân triều đình Huế, Gácniê đã triệt để tận dụng thời cơ, đánh chiếm các tỉnh thành Hưng Yên (24-11-1873), Hải Dương (4-12), Ninh Bình (5-12), Nam Định (10-12).
Tuy nhiên, tại Hải Dương, Nam Định, nghĩa quân do các văn thân yêu nước dẫn đầu đã nhanh chóng được tập hợp lại, tổ chức đóng giữ các nơi xung yếu, không cho giặc nống về nông thôn, và chuẩn bị chiếm lại tỉnh thành. Trong khi đó, nhân lực lượng quân Pháp ở Hà Nội còn mỏng manh, dân quân ta tăng cường đánh phá. Lực lượng triều đình gồm quân thứ Sơn Tây do Hoàng Tá Viêm chỉ huy và quân thứ Bắc Ninh do Trương Quang Đản chỉ huy cùng hợp với quân Cờ Đen của Lưu VĩncPhúc, kéo về tạo thế bao vây Hà Nội. Toàn quân Pháp cố thủ trong thành đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt.
Nghe tin đó, Gácniê vội kéo quân từ Nam Định về cứu nguy. Sáng ngày 21-12-1873, Lưu Vĩnh Phúc đem quân đến sát thành khiêu chiến. Gácniê và viên chỉ huy quân giữ thành là Đavricua (Balny d’Avricourt) đem quân ra đối phó. Quân Cờ Đen rút. Quân Pháp hung hăng đuổi theo, mắc mưu, bị phục kích ở Cầu Giấy. Đavricua bị giết chết ở đền Voi Phục, Gácniê bị giết chết ở cuối làng Giảng Võ, một số đông lính bỏ mạng, số còn lại chạy được về thành.
Chiến thắng Cầu Giấy làm nức lòng nhân dân Hà Nội cũng như nhân dân cả nước và cùng với cuộc chiến đấu ở các tỉnh đã đặt quân viễn chinh Pháp vào tình thế vô cùng khốn đốn. Đám giặc ở Hà Nội hốt hoảng đến mức chính Đuypuy, tên lái súng mới hôm nào còn ngang ngược đã phải la lên: “Cả thành khủng khiếp! Chỉ còn 40 người khỏe mạnh. Đã sửa soạn xuống tàu”. Việc giải phóng Hà Nội chỉ còn là nay, mai.
Thực dân Pháp chắc chắn là chẳng coi triều đình Huế ra cái thá gì, nhưng rất lo sợ trước nhân dân Bắc Kỳ, nhất là khi lực lượng ấy được phát động toàn diện và được thống nhất lãnh đạo dưới một ngọn cờ. Hơn nữa, tình hình bấy giờ cả trong và ngoài nước Pháp đã chưa cho phép Thực dân Pháp lấn sâu vào cuộc xâm lược Bắc Kỳ. Vì thế (chứ chẳng phải vì lý do nào khác) buộc chúng phải gấp rút tìm giải pháp tạm thời hòa hoãn có lợi nhất. Và Tự Đức đã làm thay công việc đó cho Thực dân Pháp một cách tận tình đến bất ngờ!
Quái đản hết chỗ nói khi giữa lúc tình thế chuyển biến hết sức thuận lợi cho đất nước thì triều đình Huế ra lệnh cho Hoàng Tá Viêm lui quân về Sơn Tây “án binh bất động” để tiện cho việc thương thuyết với Pháp. Ngày 6-12-1873, được vua Tự Đức đồng ý, Philat (Philastre) cùng Nguyễn Văn Tường đại diện cho hai bên thương thuyết đáp tàu ra Bắc Kỳ (tới Hà Nội vào đầu tháng 1-1874). Philat thấy rõ tình trạng hiểm nghèo mà quân viễn chinh Pháp đang lâm vào và để nhanh chóng gỡ thế hiểm đó, ông ta đã vội trao trả các thành cho quan lại triều Nguyễn, trục xuất Đuypuy ra khỏi Bắc Kỳ, chỉ để lại một trung đội lính bảo vệ lãnh sự Pháp tại Hà Nội…
Ngày 15-3-1874, “Hiệp ước hòa bình và liên minh” được ký kết giữa một bên là Lê Tuấn, Nguyễn Văn Tường (đại diện triều đình Huế) và một bên là Dupré (đại diện chính phủ Pháp). Với hiệp ước này, Nam Kỳ được chính thức thừa nhận là thuộc địa của Pháp, phần còn lại của đất nước thì người Pháp được quyền chi phối ngoại giao, nội trị, thương mại, có nhượng địa tại Hà Nội để đặt lãnh sự Pháp và một đội quân Pháp 100 người thường trú ở đó.
Hiệp ước ký xong, ở cả hai bên chỉ có một người cảm thấy buồn quá (hay tủi quá, nhục quá) tự tử chết là Lê Tuấn, còn lại đều hài lòng: Pháp thì nhẹ nhõm, mãn nguyện, còn Tự Đức thì hí hửng, phởn chí khen lấy khen để Philát là biết điều.
Chúng ta cho rằng sự ra đời của cái hiệp ước đó là kỳ dị nhất thế giới từ cổ chí kim bởi vì nó trái khoáy với mục đích chiến tranh. Sự ươn hèn của Tự Đức đã dâng thành quả đạt được trên chiến trường của quân dân Bắc Kỳ cho kẻ cùng đường, trên bàn thương thuyết ngoại giao. Vì kỳ dị như thế nên hòa ước này nhục nhã hơn hòa ước Tindit được ký giữa hoàng đế Pháp là Napôlêông đệ nhất, và hoàng đế Nga là Alếchxăng đệ nhị. Chỉ có cái nhục nhã của sự đầu hàng vô điều kiện khi chiến thắng đã ở trong tầm tay mới may ra có thể sánh bằng nó, thậm chí là cũng không sánh bằng được! Phải chăng hồn ma Nguyễn Ánh đã nhập vào Tự Đức và cái chướng nghiệp cõng rắn cắn gà nhà đã phát tác đến nông nỗi như vậy? - Lừa đảo bán nước mua nghiệp đế để rồi phải bán nước thật hòng giữ nghiệp đế, nghe cứ như chuyện cờ bạc bịp. Mà hai cách đó đều làm cho dân cho nước mắc vạ lây, có khác nhau bao nhiêu đâu?
Hiệp ước kinh dị đó đã làm nhân dân cả nước phản ứng mạnh mẽ. Nhiều cuộc chống đối, nổi dậy vũ trang xuất hiện. Với điều khoản “Pháp bảo vệ nhà vua chống mọi sự tấn công” của hiệp ước, Pháp nhiều lần phối hợp với quân triều đình tiến hành đàn áp, đánh dẹp. Lãnh sự Pháp ở Hà Nội thừa nhận: “Những toán quân của sĩ phu hầu như đã sẵn sàng chống lại điều ước… Hẳn là triều đình Huế sẽ chấp nhận điều ước không khó khăn gì. Nhưng khắp mọi nơi, chính quyền nhà vua bất lực, không còn được tôn trọng. Đa số sĩ phu không thừa nhận điều ước và sẽ nhất tề nổi lên…”
Chính quyền triều Nguyễn đã suy yếu đến độ cùng cực mà sự thèm khát chiếm hẳn tòan bộ nước ta của xâm lược Pháp thì chưa bao giờ nguôi. Mục tiêu trước mắt của Thực dân Pháp lúc đó nhằm thực hiện tham vọng chính là Bắc Kỳ. Năm 1880, thủ tướng Pháp đương thời là Gambetta nói: “Bắc Kỳ chính là tương lai thực sự của nước Pháp”
Đó là một câu nói không chính xác! Nếu tài nguyên của cải cướp được từ Việt Nam là “tương lai thực sự” thì chỉ có thể là dành cho tập đoàn tư bản thống trị nước Pháp. Đọc lịch sử nước Pháp ai cũng thấy rằng trong 2 thế kỷ XVIII - XIX, nhân dân Pháp cũng có những vấn nạn, những đau thương bi kịch, khao khát bình đẳng, yêu tự do, chuộng hòa bình và cũng vô cùng bất khuất, tương tự như nhân dân Việt Nam…
Dù sao thì vào lúc này, tình hình chính trị của nước Pháp ở châu Âu đã tạm ổn, nguy cơ xảy ra cuộc chiến lớn Pháp - Đức cũng tạm thời lắng dịu, thế và lực của nước Pháp đã được cải thiện trên bình diện quốc tế. Đã vậy, việc bình định Nam Kỳ của Thực dân Pháp coi như hoàn thành, Nam Kỳ đã có thể đảm đương vai trò bàn đạp để đánh chiếm Bắc Kỳ. Thời cơ đã đến đối với con hổ trước một con nai ngơ ngác.
Năm 1879, Thực dân Pháp điều động thêm 3000 lính và 12 tàu chiến sang Việt Nam. Mặt khác, lợi dụng những điều khoản rộng rãi của hiệp ước năm 1874, Thực dân Pháp tung người ra do thám khắp Bắc Kỳ và nhân việc triều đình Huế yêu cầu giúp thêm lực lượng trấn áp nổi dậy, chúng đưa quân và vũ khí ra đó ngày càng nhiều. Năm 1882, lấy cớ triều đình Huế vi phạm hiệp ước, chúng cũng tăng gấp đôi số quân đồi trú ở Hà Nội, Hải Phòng.
Ngày 26-3-1882, đại tá viễn chinh Pháp là Rivie (Henri Riviere) được lệnh đem 200 lính cùng 2 pháo thuyền từ Sài Gòn tiến ra Bắc Kỳ. Ngày 3-4, Rivie đổ bộ lên Hà Nội. Tổng đốc Hà Nội lúc bấy giờ là Hoàng Diệu biết nếu tổ chức đánh ngay từ đầu thì sẽ có nhiều lợi thế, nhưng vì chưa có lệnh triều đình nên đành chịu. Trước đó, thành Hà Nội đã được tu bổ, củng cố lại, quân số giữ thành được bổ sung, vũ khí được tăng cường. Rút kinh nghiệm Hà Thành thất thủ 9 năm trước, Hoàng Diệu bố trí thêm lực lượng quan quân ở ngoài thành để hỗ trợ tác chiến.
Quân Pháp tập trung về Hà Nội ngày một thêm đông. Giữa tháng 4-1882, 7 tàu chiến và 2 xuồng máy của chúng từ Hải Phòng lên cặp bờ Hà Nội. Tình hình ngày một nguy cấp. Hoàng Diệu cấp báo về Huế, yêu cầu các địa phương tâu lên triều đình xin thêm viện binh. Hoàng Tá Viêm, chỉ huy cánh quân lớn đóng ở Sơn Tây cũng xin được đem quân về tập trung ở trung châu để liệu bề phối hợp, kịp thời đối phó. Tự Đức thoái thác, sợ làm người Pháp “ngờ vực”, khuyên Hoàng Diệu và Hoáng Tá Viêm đừng làm cái việc “không phải lúc”, nên bình tĩnh, đừng”rối rít”. Rồi, nhà vua làm cái việc mà ông ta cho rằng “phải phép” là sai Nha Thương Bạc chất vấn Pháp tại sao lại kéo quân ra Bắc (!), và được trả lời: “Hà Nội muốn được yên thì phải giải binh và phá bỏ các công trình phòng ngự”
Ngay khi chân ướt chân ráo đến Hà Nội, Rivie cũng đã đòi Hoàng Diệu phải làm như thế và còn nói bóng gió là quân Pháp sẽ vào đóng trong thành. Thái độ láo xược của thằng này đã làm cho khâm sai Hà Thành là tổng lý Cát Văn Tụy - người được cử trực tiếp giao dịch với Pháp - phải phát điên lên, lăn đùng ra chết.
Tất cả những hiện tượng liên tiếp xảy ra hình như đã làm cho quan tổng đốc Hoàng Diệu có linh tính không lành. Ông họp các quan, tướng dưới trướng ở trên lầu Cửa Đông, cạnh mấy hòm thuốc súng, rót rượu, nói với họ rằng: “Tôi xin các ông cạn chén, thề tận trung báo quốc. Nếu vạn nhất mà thành mất, thì tất cả chúng ta đến đây, đốt cái hòm đạn này!”. Các quan tướng đều thề.
Mờ sáng ngày 25-4-1882, Rivie gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu đòi phải nộp thành và ra trình diện. Khoảng 8 giờ sáng, tàu chiến Pháp dàn trận trên sông Hồng đồng loạt bắn vào thành Hà Nội, mở đường cho bộ binh xông lên. Ngay từ đầu, chúng đã vấp phải tinh thần phản kháng của người dân Hà Nội. Họ tự đốt nhà mình. Nhiều dãy phố dọc bờ sông cháy rừng rực ngăn bước tiến của giặc, làm chúng phải lội qua các hào đầy nước. Nhiều toán dân mang giáo mác đến cổng thành xin đánh giặc. Các nhà dân và đình, chùa đều đánh trống gõ mõ, khua chiêng vang dội để áp đảo tinh thần địch, hỗ trợ tinh thần cho quan quân triều đình trong thành. Một cử nhân võ là Nguyễn Hồng, người làng Bích Câu (vườn hoa Cửa Nam ngày nay), chuẩn bị vào thành tham gia chiến đấu nhưng đã không kịp.
Trong thành, Hoàng Diệu ra sức đốc chiến, trực tiếp bố trí các ổ chiến đấu. Quân Pháp dùng 40 chiếc thang để tràn vào thành, bị ta bắn, đánh chặn quyết liệt, nhiều tên chết.
Trận đánh giằng co ác liệt đến 10 giờ và thế quân triều đình vẫn còn vững vàng thì kho thuốc súng trong thành bị đám nội phản đốt cháy, phát nổ. Ngọn cờ trên Kỳ Đài cũng đổ. Quan quân triều đình bị bất ngờ đâm hoang mang dao động. Đúng lúc đó quân Pháp dốc toàn lực lượng phá vỡ cửa Tây và cửa Bắc rồi ào ạt tràn vào thành. Quân triều đình hoàn toàn rối loạn, tan vỡ, lớp bỏ mạng, lớp bị bắt, lớp bỏ chạy. Hà Thành thất thủ lần thứ hai!
Nhiều người nói rằng cũng như 9 năm trước, nguyên nhân lớn của lần thất bại này là quan quân giữ thành đã xa rời, không biết dựa vào quần chúng - một lực lượng tiềm tàng, tuy có thể là đã chán ngán triều đình Huế nhưng luôn yêu nước và thù ghét kẻ xâm lăng. Đội quân triều đình vài ngàn người ấy đã phải chiến đấu cô đơn trước hỏa lực áp đảo của địch. Quân trông cậy vào quan, quan trông cậy vào kho thuốc súng. Kho thuốc súng nổ thì quan mất hết niềm tin vào thắng lợi, đâm rối trí làm cho quân lính hoang mang, mất phương hướng và tan rã.
Ai cũng tiếc là với lòng dân Hà Nội như vậy, nếu quân, dân đồng lòng, kết hợp đánh cả trong lẫn ngoài thành thì dù cho giặc đã lọt được vào thành, dù chỉ còn giáo mác thôi, dễ gì Hà Thành đã thất thủ. “Chính khí ca” còn ghi:
                              “ Không ngờ thất ý tại ta
                              Rõ ràng thắng trận, thế mà thua cơ
                              Nội công nó sắp bao giờ,
                              Thấy kho thuốc cháy, ngọn cờ đổ theo…”
Đề đốc Lê Trinh, quân còn mà đã sớm bỏ chạy. Các chánh phó lãnh binh, một số mất tinh thần, một số đến khi biết hết phương chống cự, cũng chạy. Một số bị bắt. Quan tuần Hoàng Hữu Xứng khi bị bắt đã tỏ rõ khí tiết, mắng giặc thậm tệ rồi tuyệt thực. Ngoài thành, tri huyện Thọ Xương bỏ trốn từ sáng sớm. Tri phủ Hoàng Đức thì đến trưa cũng chạy trốn nốt. Lính Pháp vào huyện chỉ còn thấy ông cai trì. Ông này tuốt gươm chém tên chỉ huy Pháp liền bị bắn chết ngay…
Giặc tràn vào thành, thấy quân tướng triều đình tan tác, biết rằng tình thế đã trở nên vô vọng, tổng đốc Hoàng Diệu quay về dinh ở điện Kính Thiên, viết tờ biểu nhận trách nhiệm của mình và vạch rõ lỗi của triều đình trong việc để mất thành rồi đến vườn Võ Miếu gần đó, buộc khăn lên cành đa treo cổ tự vẫn để tỏ lòng trung nghĩa với nước:
                              “Một cơn gió thảm mưa sầu
                              Đúc nung gan sắt dãi dầu lòng son
                              Chữ trung đã rắp vuông tròn
                              Quyết đem gởi cái tàn hồn cỏ cây
                              Trời cao, bể rộng, đất dày
                              Núi Nùng, sông Nhị, chốn này làm ghi”
(Chính Khí ca)
Không giữ được thành thì “thung dung tựu nghĩa”, đền nợ nước. Hoàng Diệu thật tiết liệt! Dưới triều Tự Đức, không thiếu những quan lại, sĩ phu có lòng nồng nàn yêu nước, có tinh thần vì nước quyên sinh như thế.
Sau khi Hoàng Diệu mất, văn thân, sĩ phu và nhân dân Hà Nội đưa thi hài ông về chôn ở nhà Học chính đường (nay ở phố Trần Quí Cáp, sau ga Hà Nội). Bà vợ ông ở quê nhà, đang cấy lúa thì có người gọi, báo hung tin. Người ta thấy bà cứ đứng yên ở dưới ruộng, không khóc lóc gì, lấy làm lạ, họ đến lay thì ra bà đã mất rồi. Ai nghe chuyện cũng ngậm ngùi, thương xót.
***

Hà Thành thất thủ đã kích thích tinh thần đấu tranh của nhân dân Hà Nội nói riêng và nhân dân Bắc Kỳ nói chung lên cao. Hàng loạt các đội hương dũng, dân nghĩa xuất hiện ở các địa phương Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh, Nam Định, Hải Dương. Hai cánh quân triều đình của Hoàng Tá Viêm và Trương Quang Đản từ hai phía Sơn Tây và Bắc Ninh cũng đã dần áp sát, tạo thế gọng kìm bao vây Hà Nội.
Vì chưa đủ lực lượng và nhận chỉ thị từ chính phủ Pháp, Rivie đánh tiếng cho Tự Đức rằng sẽ trả lại thành Hà Nội, quân Pháp và triều đình cộng tác giữ thành, tiến hành cuộc thương lượng mới. Tự Đức vội cử phái viên ra Hà Nội. Để lấy lòng giặc Pháp, tạo thuận lợi cho đàm phán, nhà vua lệnh cho hai cánh quân đang thực hành bao vây Hà Nội phải rút tản ra. Ngố hơn nữa, còn nhờ cậy triều đình Mãn Thanh đứng ra điều đình với Pháp.
Đối với Pháp, tỏ ý trả thành và thương lượng chỉ là kế hoãn binh. Rivie nói trả thành nhưng vẫn đóng quân trong Cấm Thành, lại đòi phải nhận nước Pháp là “bảo hộ”, phải nhượng Hà Nội cho Pháp… Phái viên là Trần Đình Túc thấy nó đòi nhiều quá, mà cũng thấy khí thế dân chúng lên mạnh, đâu cũng có hương dũng, có thể đánh thắng. Ông này bèn trình với triều đình là một mặt phái người đi trách hỏi Sài Gòn và chính phủ Pháp, một mặt thì cứ dốc sức ra mà đánh. Nhưng Tự Đức không chịu, vẫn kiểu “để trẫm ở đất nào”, vẫn “thích” thương lượng. Vua theo ý Pháp, lệnh cho Hoàng Tá Viêm đuổi Lưu Vĩnh Phúc, bắt các tỉnh phải dẹp bỏ lực lượng hương dũng. Đến nước đó, Hoàng Tá Viêm không chịu, còn chuẩn bị đánh giặc ráo riết hơn…
Đầu 1883, sau khi đã nhận đủ viện binh, lập tức Rivie tung quân ra đánh chiếm Hòn Gai (ngày 12-3), vài ngày sau chiếm Quảng Yên. Ngày 27-3 chúng tấn công thành Nam Định. Nam Định là một thành lớn, lúc này do Tổng đốc Võ Trọng Bình, án sát Hồ Bá Ôn, đề đốc Lê Văn Điếm trấn giữ. Tại Bến Nứa, nơi xung yếu bên ngoài thành có 300 hương dũng từ Thái Bình sang do Viên Bổn (Nguyễn Hữu Bản) chỉ huy, phòng thủ. Đầu tiên, thuyền chiến Pháp dàn trên sông Vị Hoàng bắn đại bác vào thành đồng thời đánh mạnh vào Bến Nứa. Quan tư Carô (Carreau) hô quân ào ạt xông vào. Quân Viên Bổn bắn chết tươi tên này. Nhưng Viên Bổn cũng trúng đạn hy sinh. Quân Pháp đông, có súng tốt. Quân hương dũng chẳng có bao nhiêu súng đạn, dù cố gắng chống cự, rốt cuộc cũng phải thua. Chiếm được Bến Nứa, quân Pháp quay sang dồn lực lượng công thành. Trận đánh xảy ra ác liệt từ sáng đến trưa thì giặc tràn được vào thành. Đề đốc Điếm tử trận, quan án Hồ bị thương, tổng đốc Bình chạy thoát. Quân triều đình ùn ra cửa Tây. Thành Nam Định thất thủ. Ông cả Hương, anh của Viên Bổn, dẫn đội hương dũng rút về phía Vụ Bản lập căn cứ, tiếp tục chống Pháp.
Trong khi Rivie đang đánh phá Bắc Kỳ thì chính phủ Pháp cũng họp bàn kế hoạch nhanh chóng khuất phục hẳn triều đình Huế nhằm triệt tiêu ý đồ “chia phần” Bắc Kỳ của nhà Thanh; trước mắt là khẩn trương tăng quân số và ngân sách cho những hoạt động quân sự ở Bắc Kỳ. Kế hoạch đó được nghị viện Pháp thông qua ngày 15-5-1883.
Chiếm xong Nam Định, Rivie vội trở về Hà Nội để đối phó với hai cánh quân triều đình đang tạo thành thế bao vây ngày một chặt. Từ Bắc Ninh, tổng đốc Trương Quang Đản cùng phó kinh lược Bùi An Niên đã đưa quân đóng ở Gia Lâm, đột kích nhà thờ Hàm Long - nơi Pháp biến thành căn cứ đóng quân; đêm đêm nã pháo vào Hà Thành (có đêm bắn đến 80 quả đại bác). Từ Sơn Tây, quân của Hoàng Tá Viêm cũng đã áp sát Hà Nội, lợi dụng đêm tối bí mật đột nhập Hà Nội, đốt phá các cơ sở địch, dán yết thị thách thức Rivie ra đánh.
Tình thế của giặc Pháp ở Hà Thành ngày một nghiêm trọng, buộc Rivie phải tìm cách nới lỏng vòng vây. Sau khi nhận thêm viện binh từ Hải Phòng, Hạ Long và cả từ Sài Gòn, tổng số quân Pháp trong thành Hà Nội lên đến 750 tên. Để lại 200 tên giữ thành và Đồn Thủy, mờ sáng ngày 19-9-1883, Rivie và Vile (De Villers) dẫn 550 quân tiến ra phía Cầu Giấy.
Được mật báo, quân ta chủ động bày thế trận ở bên kia Cầu Giấy. Tuyến đầu ở ngay gần cầu, một đầu do Dương Tử An, đầu kia do Ngô Phong Diễn chỉ huy, khoảng giữa là Lưu Vĩnh Phúc và Hoàng Trung Thư. Lãnh binh Đinh Công Tráng cũng có mặt trong trận này. Quân ta bố trí trận địa sau các lũy tre làng Cót và Dịch Vọng. Tổng cộng khoảng 1000 người. Hoàng Tá Viêm cùng đại quân ở phía sau.
Quân Pháp vừa qua cầu thì quân ta nổ súng mãnh liệt, anh dũng xung phong. Đạn quân ta bắn ra từ làng Cót, Dịch Vọng rát rạt làm quân Pháp bị cầm chân, không vào được. Cả hai bên đều thương vong, Vile tử thương, Dương Tử An và Ngô Phong Diễn cũng trúng đạn. Trong lúc giằng co khó khăn đó thì Lương Vĩnh Phúc và Hoàng Trung Thư đi vòng, đánh vào sườn địch. Quân Pháp núng thế, phải tháo lui. Toàn thể quân ta xông lên, tổng công kích dưới làn đại bác bắn yểm trợ cho cuộc tháo lui của địch. Lòng quả cảm và kiên quyết tấn công ấy đã làm cho lính Pháp hốt hoảng, rối loạn chen chúc nhau qua cầu, để lại hàng trăm xác chết, bỏ lại cả đại bác. Trận đánh diễn ra chỉ khoảng hai tiếng, từ 5 đến 7 giờ sáng nhưng không kém phần ác liệt và kết quả là thất bại thảm hại của quân Pháp. Trong số quân Pháp bỏ mạng tại trận địa có 5 sĩ quan, kể cả Rivie, có điều là đầu của Rivie đã bị ai cắt mất tự bao giờ, đành thành ma không đầu, kể cũng đáng tội láo xược!
Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ hai làm nức lòng quân dân Hà Nội và cả nước. Giặc Pháp ở Hà Nội lâm vào khủng hoảng, tinh thần suy sụp như chính chúng thú nhận: “Thực là một cuộc sống kinh khủng đối với một nhúm người từng đêm ngồi chờ đợi kết liễu cuộc đời”. Ở Hòn Gai và Nam Định, quân Pháp đã có lệnh chuẩn bị rút để tránh nguy cơ bị tiêu diệt. Nếu quân ta thừa thắng đánh dấn mạnh vào sào huyệt của chúng, rất có thể sẽ giải phóng được Hà Thành, làm thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho ta và nếu có đàm phán thì triều đình cũng có thế mạnh. Tuy nhiên, triều đình Huế canh cánh một nỗi bạc nhược cùng cực, đã không những cho ngừng cuộc tấn công phát huy chiến quả mà còn lệnh cánh quân Sơn Tây phải nới lỏng vòng vây. Tự Đức và đám quần thần chủ hòa có thể là cũng đọc rộng biết nhiều nhưng có lẽ quá khiếp vía trước đại bác, tàu sắt của thực dân Pháp mà đâm ra cái sự “ biết nhiều” ấy là “biết nhiều” theo “kiểu” phản động, đã không noi được khí phách của dân tộc Việt, đã không học được tài thao lược của tổ tiên người Việt để đến những nhà quân sự bất tài nhất cũng phải nhếch mép cười khinh.
Tin Rivie chết bay về Pháp chỉ làm cho chính phủ Pháp quyết tâm và khẩn trương hơn trong việc thôn tính Việt Nam, chứ không như 10 năm trước, khi Gácniê chết. Ngày 17-7-1883, Tự Đức chết, sự phân hóa phe phái trong nội bộ triều đình như ung nhọt được dịp vỡ ra: nạn bức hại, chém nhau giữa các quần thần xảy ra như cơm bữa, sự phế truất, lên ngôi cứ xoành xoạch. Sự kiện này càng làm cho Pháp nhanh chóng thực hiện kế hoạch đã vạch ra: mở rộng chiến tranh đánh chiếm Bắc Kỳ và đồng thời tiến thẳng vào Huế, buộc triều đình nhà Nguyễn đầu hàng.
Tăng quân ồ ạt sang Việt Nam, ngày 15-8-1883, Thực dân Pháp cùng lúc tổ chức hành quân đánh chiếm nhiều nơi ở Bắc Kỳ nhằm giành lại thế chủ động chiến trường, như: Sơn Tây, Hải Dương, Quảng Yên. Cuộc hành quân lên Sơn Tây của Thực dân Pháp gồm 2000 lính do Buê (Bouet) chỉ huy với nhiều tàu chiến và đại bác được huy động. Nhưng chúng đã bị quân dân ta đánh chặn quyết liệt, chịu nhiều thương vong, buộc phải rút lui…
Giữa tháng 8-1883, đô đốc Pháp là Cuốcbê (Courbet) kéo một hạm đội với 600 quân đến Cửa Thuận. Ngày 18-8, chúng nã đại bác tới tấp công phá các pháo đài ở Thuận An, mở đường lên kinh thành Huế. Đêm 20-8, vua triều Nguyễn lúc này là Hiệp Hòa phái người xuống Thuận An điều đình và gặp Cao ủy Pháp là Haman (Harmand) cầu hòa. Một bản hiệp ước ghi sẵn 27 điều khoản được trao cho triều đình Huế và trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ phải trả lời chấp nhận hay không chấp nhận mà thôi. Cùng đường, ngày 25-8-1883, đại diện triều đình Huế đành hạ bút ký cái gọi là hiệp ước Haman hay hòa ước Quí Mùi, chính thức thừa nhận quyền bảo hộ của nước Pháp, mọi vấn đề về chính trị, ngoại giao, kinh tế của Việt Nam từ nay đều do Pháp quyết định. Thực chất, đó là sự đầu hàng hoàn toàn của triều đình nhà Nguyễn.
Phong trào chống Pháp của nhân dân Bắc Kỳ không vì cái hiệp ước ấy mà giảm sút, trái lại, càng sôi sục hơn bao giờ hết. Khâm sai triều đình mấy lần ra Bắc Kỳ đòi quân dân triệt binh, giải giáp để tuân thủ hiệp ước nhưng Hoàng Tá Viêm, Trương Quang Đản và nhiều quan văn võ không thi hành, vẫn tiếp tục chiến đấu. Hà Nội vẫn bị quân dân ta bao vây. Hầu hết các đồn trại giặc ở Bắc Kỳ luôn bị công kích. Tại các địa phương đồng bằng như Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Hải Dương…, xuất hiện các đội nghĩa quân từ 200 đến 500 người, có khi lên đến hàng ngàn người liên tục tiến đánh các đồng binh, chặn đánh địch trên sông, phá hủy các kho tàng…
Ngày 11-12, đô đốc Cuốcbê chỉ huy 5500 quân theo hai đường thủy bộ tiến đánh Sơn Tây. Quân ta chống cự kịch liệt nhưng dần yếu thế, phải rút lên Hưng Hóa. Trận này, quân Pháp có 400 tên bị thương vong trong đó có 27 sĩ quan.
Cuối tháng 12-1883, chính phủ Pháp lại quyết định tăng quân, đại bác và tàu chiến. Lực lượng quân Pháp ở Bắc Kỳ đến lúc này là 16000 tên. Trong vòng từ đầu tháng 3 đến cuối tháng 5-1884, quân Pháp đánh chiếm Bắc Ninh (đến đây hai gọng kiềm lớn của quân ta bao vây Hà Nội đã gãy) rồi lần lượt đánh chiếm Hưng Hóa, Thái Nguyên, Tuyên Quang và những nơi khác. Quân triều đình tan rã. Một số quan tướng, trong đó có cả Hoàng Tá Viêm và Trương Quang Đản, “đem thân về với triều đình”. Nhưng cũng có nhiều người ở lại với phong trào kháng chiến của nhân dân, tiếp tục tổ chức đánh Pháp, như Đinh Công Tráng, Nguyễn Thiện Thuật, Phan Đình Phùng, Nguyễn Quang Bích, Tạ Hiện, đốc Kỳ, đốc Tít, cai Kinh…
Cuộc đấu tranh vũ trang chống xâm lược Pháp của nhân dân Bắc Kỳ chắc rằng có tác động tích cực, ít nhiều đến phe chủ chiến của triều đình Huế, đứng đầu là Tôn Thất Thuyết.
Cuối năm 1884, trước sự việc 300 quân Pháp kéo vào Huế lập căn cứ Mang Cá ở góc đông - bắc Hoàng Thành, Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua triều Nguyễn lúc này là Hàm Nghi, phản đối. Đáp lại, Pháp tăng thêm số quân đóng ở đó lên hàng ngàn tên. Tôn Thất Thuyết huy động quân ở các địa phương về Huế, bí mật chuẩn bị đánh. Ngày 27-6-1885, quân Pháp điều 4 đại đội và 2 tàu chiến từ Hải Phòng vào Huế nhằm loại trừ Thuyết cùng phe chủ chiến.
Đêm 4-7-1885,  Tôn Thất Thuyết cho xuất quân. Đúng 1 giờ sáng, quân ta đã nổ súng đánh đồn Mang Cá. Đồn bốc cháy, một số tên thương vong. Sứ quán Pháp ở bên kia sông Hương cũng bị tấn công, các trại lính bốc cháy dữ dội. Nhưng, lợi dụng sơ hở, quân Pháp điều quân đánh chiếm thành Huế, đột nhập được vào Hoàng Thành.
Trận đánh đó của quân ta thất bại. Tuy nhiên, Tôn Thất Thuyết đã bí mật rước vua Hàm Nghi vượt thoát ra ngoài thành đến Quảng Trị, lên sơn phòng Tân Sở đã chuẩn bị từ trước tiếp tục chống Pháp. Năm ngày sau (10-7-1885), Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi hạ chiếu “Cần Vương”, thổi một luồng gió mới khuấy động tích cực đến phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta và hàng ngũ quan lại, sĩ phu yêu nước.
Thời gian xuất bôn tuy ngắn ngủi nhưng đã có ảnh hưởng lớn lao đến tâm hồn vua Hàm Nghi. Vào cuối triều đại nhà Nguyễn có ba ông vua trẻ tuổi ở mức độ khác nhau ít nhiều biểu hiện được tinh thần tự tôn và lòng yêu nước, đó là Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân.
Khi Pháp bắt được vua Hàm Nghi, tìm cách dụ dỗ, thuyết phục ông làm vua bù nhìn, ông thẳng thắn khước từ: “Tôi, thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ chi đến cha mẹ, anh chị em nữa”. Còn Thành Thái thì mọi dự định cách tân đất nước nước của ông đều bị Pháp ngăn chặn. Có lần nhà vua đang đi, quân lính định chạy lên trước dẹp một người dân đang vác tre, vua bảo: “Cứ để cho người ta đi! Mình dân không phải là dân, vua không là vua, tại sao dẹp người ta?”. Cuối cùng là vua Duy Tân. Nhà vua tham gia tổ chức khởi nghĩa với hai nhà chí sĩ của Việt Nam Quang Phục Hội là Trần Cao Vân và Thái Phiên. Việc bị lộ, vua bị Pháp bắt. Toàn quyền Pháp đích thân gặp, dụ dỗ vua tiếp tục ở lại ngai vàng. Nhà vua khẳng khái trả lời: “Các ngài muốn buộc tôi phải làm vua nước Nam thì hãy coi tôi là một ông vua đã trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi thư tín và chính kiến với chính phủ Pháp”. (Vua cuối cùng của triều Nguyễn là Bảo Đại, có câu nói cực hay: “Thà làm dân của một nước tự do, còn hơn là làm vua của một nước nô lệ”, nhưng tiếc rằng đó chỉ là câu nói thốt ra từ chót lưỡi đầu môi!)
Trong suốt quá trình xâm lược Việt Nam của Thực dân Pháp, triều đình Huế tồn tại được ở nửa thời kỳ đầu không phải vì “giỏi” thương thuyết mà vì Pháp không đủ thực lực và tồn tại được ở nửa thời kỳ sau, khi Pháp đã có đủ thực lực dẹp bỏ lại là vì “ý muốn” thâm độc của chúng. Nỗi sợ hãi sâu thẳm của bất cứ kẻ xâm lược nào, của bất cứ kẻ tiếm quyền nào đều là sợ Đại Chúng nổi dậy, lòng người bất phục, phản kháng. Do đó, đối với một nhân dân bản xứ bất khuất thì hầu như kẻ xâm lược quỉ quyệt nào cũng cố gắn cho mình nhãn mác Đức Huyền Diệu, cũng tỏ vẻ nhân nghĩa, cũng vỗ ngực về lòng tốt đi khai hóa văn minh, và vì thế mà một trong những biện pháp thực hiện xâm lược, cai trị một cách có hiệu quả nhất là phỉnh phờ, mua chuộc, dụ dỗ một bộ phận người bản xứ để tạo dựng nên một ngụy quyền, ngụy quân bù nhìn, tay sai làm công cụ trấn áp, bóc lột chính nhân dân xứ họ cho chúng. Muốn thế, tất nhiên kẻ ngoại bang xâm lược phải nhường lại “chút đỉnh” quyền lợi cho “kẻ bản xứ xâm lược” ấy. Tuy nhiên, xét cho cùng thì làm như thế hóa ra lại có lợi hơn nhiều đối với “Mẫu quốc”. Đó là phương thức cai trị cũ rích, có từ ngàn xưa, và đến ngày nay được dùng phổ biến với nhiều biến tướng. Nhưng vì sao kẻ xâm lược lại thực hiện được phương thức ấy? Bởi vì sự sống nói chung, trước hết, trên hết và ưu tiên số một là duy trì sự sống; bởi vì cuộc sống muôn mặt có muôn vàn cách lý giải về thị phi của cuộc sống; bởi vì có lúc dù biết phải hy sinh vẫn hiên ngang xông trận nhưng khi đã vô vọng rồi thì vẫn cứ phải chạy, thậm chí là thục mạng để bảo toàn mạng sống (hầu còn cơ hội xông trận lần sau giành chiến thắng hoặc nhiều khi chỉ đơn giản là bản năng); bởi vì dù có yêu nước nồng nàn thì trước mắt cũng phải làm ăn để sống mà giữ lòng yêu nước; bởi vì trong những trường hợp bị kích thích đến cao độ, có thể một vài người tuẫn tiết hoặc nhiều người tuẫn tiết, nhưng không thể là cả nước tuẫn tiết. Đức Huyền Diệu dạy rằng: Sự sống vốn dĩ được duy trì là vì nó có tình yêu cuộc sống; ai không có tình yêu cuộc sống thì sẽ không sống được. Vì thế phải đặt tình yêu cuộc sống ở vị trí trang trọng, thiêng liêng. Trên đời này, nếu ai ai cũng biết tôn trọng cuộc sống của mình và cả của người khác thì đẹp đẽ biết bao nhiêu. Nhưng nếu như thế thì lại chẳng có… loài người! Hiểu như thế về xã hội, phải chăng mới là biện chứng? Vả lại mục đích cơ bản của xâm lược là danh lợi chứ không phải chết chóc. Tiêu diệt cuộc sống bản xứ, biến đất nước bị xâm lược thành hoang mạc chỉ là biện pháp bất đắc dĩ, cực đoan cuối cùng và hiếm có, bởi vì làm như thế là đi ngược lại với mục đích danh lợi của cuộc xâm lược, thậm chí là làm mất luôn cái mục đích ấy. Dù bạc ác đến mấy, bạo tàn đến mấy, vị kỷ đến mấy, thì kẻ xâm lược cũng không ngu muội đến mức hủy diệt hết cuộc sống xung quanh - đối tượng mà nó muốn bóc lột. Nhưng như đã nói, vì mục đích xâm lược là cướp bóc của cải, vơ vét tài nguyên thiên nhiên, nghĩa là chiếm đoạt, lấy đi cái nguồn sống, cái thành quả lao động phục vụ sự sống của nhân dân bản địa, cái quyền lợi “được hưởng” của tầng lớp thống trị bản xứ, cho nên bất cứ cuộc xâm lược nào cũng phải đối diện với sự chống trả, sự phản kháng, sự nổi dậy đấu tranh của tầng lớp thống trị và nhân dân xứ ấy. Lúc này, tùy vào thái độ chính trị của tầng lớp thống trị bản xứ mà ở chừng mực nhất định, quyền lợi của nó sẽ tạm thời hòa hoãn với quyền lợi Đại Chúng thành quyền lợi thống nhất của đất nước trước nạn ngoại xâm. Vậy thì, đối với mọi kẻ xâm lược, để thực hiện được mục đích cơ bản, sẽ xuất hiện mục đích đầu tiên là chinh phục và chinh phục mọi khả năng, mọi tiềm lực mà nó có và bằng bất kỳ giá nào, miễn đảm bảo thắng lợi, đạt đến mục đích danh lợi. Chính vì thế mà chiến tranh xảy ra, mà giết chóc tràn lan. Chính vì thế mà mọi cuộc xâm lược đều bạc ác, man rợ, tham tàn. Chính vì thế mà mọi cuộc đấu tranh vũ trang nhằm tự vệ, giải phóng, dù cũng giết chóc, tiêu diệt, vẫn cao thượng, đầy tính chính nghĩa và tiềm tàng nhân đạo. (Chấm dứt cuộc sống dù chỉ của một người, với bất cứ lý do gì đều đã là mắc lỗi. Dù mắc lỗi nhưng trong nhiều trường hợp, giết người để chấm dứt nỗi đau khổ tột cùng của đương sự lại vô tội. Tự tử là hành động tự xử, có lỗi chứ không có tội và đôi khi trở thành lẫm liệt, để lại gương sáng cho đời sau, do đó không những vô tội mà còn có công. Diệt trừ những kẻ giết người và đang tìm cách giết người là vô tội; giết người một cách vô cớ hoặc với những cớ phi nhân tính, là có tội, là ác; tiêu diệt những kẻ giết chóc người lương thiện, những kẻ đi gieo rắc tội ác lại là có công. Giết người là mắc lỗi, điều đó không thể biện minh được, nhưng khi luận công, tội mà hành động đó được thừa nhận là có công theo quan niệm của Đại Chúng (nghĩa là đã lựa chọn đúng về tình yêu thương, phù hợp với Đức Huyền Diệu) thì lỗi ấy sẽ lu mờ đi, thậm chí do “quá tay”, vô tình mà phạm tội thì cũng vẫn được tha thứ và hành động đó thuộc về chính nghĩa, hơn nữa, nếu công trạng là to lớn thì nó còn được nhân dân tôn vinh).
Quyền lợi của tập đoàn thống trị thời quân chủ chuyên chế thường xuyên mâu thuẫn ở mức độ khác nhau với quyền lợi của Đại Chúng. Vào giai đoạn phản động nhất của chế độ quân chủ thì mâu thuẫn ấy trở nên tột độ, đối kháng không thể dung hòa được, đòi hỏi phải có sự đột biến (chính biến, cách mạng…). Đó là quá trình tự phát (và xảy ra nhanh hay chậm lại chủ yếu là do tự giác) làm bình ổn đời sống xã hội, tương tự như quá trình chuyển hóa (từ từ hay đột khởi) để thích nghi trong thiên nhiên, và cả hai quá trình ấy, quan sát ở tầng sâu nhất là biểu hiện, là tuân theo nguyên lý vận động có xu thế hướng tới cân bằng nội tại của mọi sự vật - hiện tượng trong tự nhiên. Thác lũ xuất hiện ở trung du là để giải quyết lượng nước quá dư thừa ở thượng du do mưa bão thái quá ở đầu nguồn gây ra. Thác lũ tàn phá trung du và gây úng lụt đồng bằng là nhằm giải tỏa “nỗi bức xúc” của chúng. Cuối cùng là biển cả nhận lại cái phần nước mà nó thiếu hụt, mất đi do bốc hơi lên trời xanh và đổ xuống đầu nguồn. Quá trình đó có tính chu trình: sự lập lại cân bằng ở đây sẽ làm mất cân bằng ở kia, sự lập lại cân bằng ở kia sẽ phá vỡ cân bằng ở nơi khác nữa, và sự lập lại cân bằng ở nơi nào đó trong chuỗi mắt xích sẽ làm cho nơi ban đầu mất cân bằng, cứ thế lặp đi lặp lại có tính chu kỳ tuân theo cái chu kỳ xoay vần lớn lao của “trời đất”. Để chống lại lũ lụt (và cả hạn hán) nhằm bảo vệ giữ gìn quyền lợi sống còn của một miền đất, thì đê điều, kê đập phải “nổi dậy” để chế ngự nước (chặn nước, giữ nước), thì phải nắn sông, khơi dòng để tiêu thủy (và dẫn thủy nhập điền)… Công cuộc biến đổi thiên nhiên một cách nhân tạo ấy (xuất hiện một cảnh quan thiên nhiên mới!) sẽ thành công (chế ngự được lũ lụt rồi đến hạn hán) nếu nó hợp đạo lý (chọn được chất liệu phù hợp cho công trình bến vững, tuân thủ nguyên lý vận động hướng tới cân bằng của tự nhiên… , sẽ vinh quang nếu nó hợp Đức Huyền Diệu (phụng sự đắc lực cho đời sống nhân dân lao động, cho cộng đồng xã hội)…
Trong thời kỳ phản động nhất của tập đoàn thống trị quân chủ chuyên chế, để duy trì và bảo vệ quyền lợi vị kỷ của nó, nó cũng độc ác, tham tàn y hệt như lũ xâm lược, bộ máy đàn áp của nó cũng y hệt như bộ máy đàn áp của lũ xâm lược, thậm chí là còn tệ hại hơn. Lúc đó, nếu có ngoại xâm, nó cũng sẽ chiến đấu, nhưng chiến đấu cho quyền lợi ích kỷ của bản thân nó chứ không phải cho quyền lợi nhân dân, quyền lợi đất nước (vì đã quá phản động về tư tưởng rồi nên không thể chuyển biến để về với lòng dân, cùng Đại chúng làm nên cuộc khởi nghĩa toàn dân!). Trường hợp của Hoàng đế Napôlêông, dù có khác, nhưng cũng là thí dụ điển hình của sự “không thể trở về”. Trong chiến dịch nước Pháp có người hỏi sao không phát động cuộc chiến toàn dân chống quân Liên minh xâm lược, Napôlêông đã cho rằng đó chỉ là “ảo tưởng… vì tôi đã thủ tiêu Cách mạng”. Sau trận thua Oatéclô, nhân dân Pháp muốn ông ở lại cùng họ chiến đấu nhưng ông đã thờ ơ với cuộc kháng chiến toàn dân vì như có lần ông nói: “Chỉ nghĩ đến điều đó thôi đã là không chịu đựng nổi rồi”.
Tuy nhiên, khi cái tập đoàn quân chủ phản động nói trên phải đối đầu với kẻ xâm lược mạnh hơn nó, nó sẽ dễ dàng nhượng bộ, thỏa hiệp, và khi kẻ xâm lược hứa hẹn cho nó được sống với chút ít quyền lợi thì nó sẵn sàng bán nước, đầu hàng, trở thành lực lượng tay sai, đi đầu trong cuộc đàn áp dân chúng nổi dậy - cái công việc mà nó đã quen làm trước đây, lúc đất nước chưa bị xâm lược. Có lẽ đã thấu tỏ tình hình và run sợ trước viễn cảnh xảy ra cuộc kháng chiến toàn dân theo kiểu Tây Ban Nha dưới thời Napôlêông đệ nhất mà Ferry, thủ tướng Pháp thời đó, đã nói: “Khôn ngoan hơn là chỉ nên nghĩ đến một cuộc bảo hộ. Muốn giúp cho công cuộc kinh doanh của nước Pháp ở Đông Dương đạt hiệu quả tốt thì nước An Nam không thể là một cái hư không được”. Đó chính là cơ sở cho hiệp ước Patơnốt (Patenôtre) ra đời (6-6-1884).
Nước mất nhà tan thì nhân dân vẫn phải sống, vẫn phải làm để kiếm miếng ăn cái mặc dù bị bóc lột, như đã từng phải sống cực khổ trong sự đày đọa hà khắc dưới thời quân chủ phản động tăm tối.
Nói cho thật công bằng, nếu sự vơ vét, bóc lột sức lao động của Đại Chúng là như nhau thì giữa hai chế độ thực dân - tư bản và phong kiến - quân chủ, chế độ thực dân vẫn ưu việt hơn. Bởi vì dù sao đi nữa, tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của đương thời do Cách mạng tư sản châu Âu mang lại, tiếp thu những thành quả khoa học - kỹ thuật tiên tiến của châu Âu so với đương thời ở khu vực các nước thuộc địa, thì dưới chế độ thực dân vẫn “dễ thở” hơn, phóng khoáng hơn, dân trí được mở mang hơn. Và đó chính là công lao (nếu có) của chế độ thực dân (so với chế độ phong kiến) đối với các nước thuộc địa (châu Á), dù là do vô tình, dù là vì mục đích bóc lột, dù là phiến diện. Nước Nhật Bản phong kiến - quân chủ đã thoát được cơn “mưa móc” này vì đã kịp chuyển biến một cách thức thời và họ có quyền tự hào vì điều đó. Nói đến đây, chúng ta lại ngậm ngùi nhớ đến vua Quang Trung!...
Các nhà lý luận bênh vực cho chủ nghĩa thực dân đã vin vào cái công lao nhỏ nhoi đó để rùm beng, thổi phồng lên thành công lao to lớn với nhãn mác là “Khai hóa văn minh”. Xin nhớ cho: trong thời kỳ đầu hình thành và phát triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, ưu tiên hàng đầu, trở thành vấn đề bức thiết là nhanh chóng tích lũy tư bản và chiếm lĩnh, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa (hàng hóa làm ra mà không tiêu thụ được thì tích lũy tư bản cũng vô nghĩa!). Quá trình đó làm nảy sinh cạnh tranh ngày càng gay gắt và cùng với cạnh tranh, chúng hôn phối với nhau đẻ ra chủ nghĩa thực dân. Chủ nghĩa thực dân làm “nở rộ” các cuộc viễn chinh xâm lược nhằm vơ vét của cải và xây dựng thị trường tiêu thụ ở “xứ người”. Do đó, đi liền với thực dân là nhẫn tâm, là lòng tham vô độ lượng và là vô tình mà thêm được chút công lao không muốn có đó.
Ngày nay, “thế sự” đã biến chuyển, không cần đến sự “khai hóa” đó, tất cả các nước, nếu có ý thức, đều có thể hưởng thụ được những kiến thức tiên tiến của nhân loại.
Quay lại vấn đề trọng tâm, vì những lẽ đã trình bày phía trên, chúng ta cho rằng dưới thời thực dân Pháp cai trị, trong bộ máy chính quyền tay sai, chỉ có một bộ phận nhỏ, chủ yếu là những thành phần gọi là “chóp bu”, đã gắn chặt quyền lợi của chúng với quyền lợi của thực dân, đã vì thực dân mà ra tay đàn áp các cuộc nổi dậy chống Pháp của Đại Chúng, là có lỗi, có tội nặng với dân với nước. Đại đa số còn lại là vô tội hoặc nếu có tội thì cũng có thể tùy mức độ mà tha thứ được…
Những “xú danh” (từ dùng của Vương Hồng Sển) lứa đầu tiên cúc cung làm tay sai cho thực dân Pháp, được Pháp tưởng thưởng, cho giàu sang phú quí, nhưng mắc tội nặng nề với dân với nước, tiêu biểu là: Tôn Thọ Tường, Huỳng Công Tấn, Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương, Nguyễn Hữu Độ, Hoàng Cao Khải, Nguyễn Duy Hàn…
Trong thời gian quân xâm lược Pháp đánh chiếm nước ta, có một hiện tượng rất ngược đời là một bộ phận giáo dân (theo Đạo Chúa) người Việt đã ủng hộ, tiếp tế lương thực, vẽ đường mách lối, thậm chí là cùng quân viễn chinh Pháp đánh phá phong trào kháng chiến cứu nước của quân dân ta. Điều này làm dấy lên sự phẫn nộ của đại bộ phận lương dân (không thờ Chúa), gây ra nhiều cảnh nồi da xáo thịt tương tàn, làm cho mối hận thù lương - giáo đầy đau xót phát sinh, tồn tại dai dẳng và di căn đến mãi về sau.
Muốn hiểu được nguyên nhân sâu xa cũng như trực tiếp của hiện tượng nói trên, thiết nghĩ chỉ cần đọc tác phẩm “Thiên Chúa và Hoàng Đế” của linh mục Trần Tam Tỉnh cũng đủ. Dưới đây, chúng ta xin lược trích một vài đoạn trong tác phẩm của vị linh mục có tâm hồn trung thực, trong sáng này, người đã từng thốt lên: “Thật đau lòng cho một sử gia người Việt công giáo, khi phải nhắc lại những năm tháng ấy”, để phần nào thấy được vấn đề xót xa trên:
“Năm 1492, Krixtốp Côlông (Christophe Colomb) khám phá ra những vùng đất mới mà ông nghĩ là Ấn Độ (Châu Mỹ - NV). Một nửa thế kỷ trước đó, thương thuyền Bồ Đào Nha cũng đã chạy dọc theo bờ biển phía tây Châu Phi. Và ít năm sau, năm 1497, Vaxcô đơ Gama, người Bồ Đào Nha đã phát hiện đúng con đường sang Ấn Độ.
Ngày 4-5-1493, qua sắc chỉ “Inter cactera” (Giữa những điều khác), Giáo hoàng Alếchxăng VI giao quyền chinh phục các vùng đất kể trên, mà các dân tộc phương Tây chưa từng biết, cho các triều đình nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tây Ban Nha có quyền đi chiếm tất cả các đất đai gặp được ở 100 dặm kể từ quần đảo Axe (Acores), còn Bồ Đào Nha là tất cả các nước ở mạn Đông đường ranh đó (quần đảo Axe nằm ở mạn giữa, cắt đôi Đại Tây Dương).
Tuy nhiên, quyền lợi của Bồ Đào Nha đã được phân định rõ ràng trong sắc chỉ “Giáo hoàng Rôma” (Romanus Pontifex) do Đức Nicola V ra ngày 8-1-1454. Theo quyền lực Chúa ban và quyền của Tòa thánh, Đức Giáo Hoàng ban cho triều đình Lixbon (Bồ Đào Nha): “Toàn quyền tự do xâm lăng, chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Xarađanh (Sarrsins - tức người Ả rập); các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo hội, gặp ở bất cứ nơi nào; được toàn quyền chiếm cứ tất cả vương quốc, lãnh địa, vương hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn”.
Nước Tây Ban Nha, sau khi được Giáo Hoàng chúc lành, đã tung ra một đoàn chiến thuyền hùng hậu và đạo quân kỵ binh hung tợn, lên đường đánh chiếm châu Mỹ và chỉ sau một thời gian ngắn đã lập nên một đế quốc bao la. Về phía mình, người Bồ Đào Nha cũng thu được những kết quả lừng danh ngay bước đầu. Ngày 17-2-1511, Anbuykec (Alphonse d’ Albuguesque) chiếm thành Goa, một đô thị thuộc loại quan trọng nhất Ấn Độ… Năm sau, Anbuykee chiếm Malắcca, thị trấn của tất cả các hải đảo vùng Nam Cực… Nửa thế kỷ sau, cờ Bồ Đào Nha bay phấp phới trên Macao, ngay bên hông Trung Hoa, cho phép họ buôn bán với các hải khẩu Trung Quốc và Nhật Bản.
(…) Chính từ Goa và Macao, những nhà truyền giáo đầu tiên đã tìm đến Việt Nam…
(…)
(…) Cố đạo Alécxăng đờ Rốt đã trình về Roma năm 1650 một báo cáo về sự tiến triển của việc truyền giáo tại Việt Nam và đề xuất một phương án tách việc truyền giáo khỏi quyền hành Bồ Đào Nha…
Lực lượng Bồ Đào Nha bắt đầu suy yếu. Từ đầu thế kỷ XVII, người Hà Lan, theo đạo Tin Lành, chẳng quan tâm đến việc Giáo Hoàng phạt vạ tuyệt thông, đã lên đường mạo hiểm sang Ấn Độ Dương, vùng biển Trung Quốc và chẳng mấy chốc đã bắt đầu cướp của vương quốc Vạn An đó; họ lên đảo Java lập thành phố Batavia, vượt xa Goa về sự giàu có, thịnh vượng. Ngày 12-1-1641, họ chiếm Malắcca và thế là phá vỡ thế độc quyền buôn bán hương liệu mà Lixbon từng nắm giữ suốt một thế kỷ qua.
Rôma quay nhìn sang nước Pháp.
Năm 1650, hai giám mục Pháp được phái sang coi sóc địa phận truyền giáo tại Việt Nam. Đó là giám mục Panluy (Pallu) và giám mục Lâmbe dơ la Mốt (Lambert de la Motte). Những điều Rôma căn dặn họ thật là khôn ngoan và đúng với Tin Mừng, rằng các linh mục khi coi sóc tín hữu phải căn cứ vào bốn điều nền tảng sau: đào tạo linh mục và cả giám mục người bản xứ; vâng lệnh của Rôma; không nhúng vào lĩnh vực chính trị; tôn trọng các nền văn minh và phong tục địa phương. Rằng các ngài hãy cẩn thận giữ mình, đừng ra sức bảo các dân tộc ấy bỏ các nghi lễ, tập tục, phong cách của họ, miễn là các điều đó không ngang nhiên vượt với đạo thánh và phong hóa tốt, bởi vì có gì vô lý hơn là việc đưa nước Pháp, Tây Ban Nha hay nước Ý, hay một phần đất nào của châu Âu vào nhà người Trung Quốc? Đó không phải là cái các ngài phải đem vào. Hãy đem Đức Tin vào mà Đức Tin thì không phủ nhận, cũng không gây tổn thương đến các nghi lễ và phong tục địa phương, miễn là chúng không phải chuyện xấu xa, trái lại, Đức Tin muốn các nghi lễ và các phong tục đó được bảo tồn. Cùng lúc Rôma chỉ thị cho các giám mục truyền giáo chỉ lo việc các linh hồn thôi và hãy quên đi những lợi ích riêng tư của chính nước họ.
Tiếc thay, những lời khuyên nhủ đầy tinh thần Tin Mừng và trong sáng như thế đã bị bỏ lơ quá sớm. Giám mục Panluy đã nhanh chóng quan hệ với Công ty Ấn Độ mà nước Pháp mới thiết lập nhằm cạnh tranh với Công ty Đông Ấn của Hà Lan. Ông trở thành cố vấn và báo cáo viên của nó… Ông khuyến khích công ty của nhà Vua tiến hành thực hiện “phương án quang vinh đưa dân mọi rợ trở lại đạo thánh và qua đó mà thánh hóa việc thương mại của mình, để vừa mở mang Giáo hội, vừa làm giàu cho nước Pháp”.
(…)
Dù muốn dù không, Giáo hội Việt Nam, ngay từ những bước sơ khai đã dính líu vào các chuyện thế gian này rồi, mà chẳng bao lâu đã ảnh hưởng đến việc truyền giáo.
(…)
Người Việt Nam, vừa là Phật tử vừa theo đức Khổng, vẫn có thể chấp nhận Lão Giáo, một học thuyết triết lý đối nghịch với Khổng Giáo, nhưng lại cũng bổ sung cho nó…
Nhưng mặc dù có sự pha trộn tôn giáo, nghi lễ và tín ngưỡng khác nhau như thế, người Việt Nam lấy làm trọng nhất sự thờ cúng tổ tiên mà họ coi như là đặc tính riêng của đời sống tôn giáo. Việc thờ cúng này sát nhập một cách tài tình, nhuần nhuyễn vào cả ba tôn giáo đã du nhập từ ngoài vào. Nó lan truyền thành một thứ đạo lý không ghi thành sách nhưng rất phổ biến, khiến toàn dân chấp nhận nó một cách tự nhiên. Cơ sở uyên thâm của đạo lý này nằm trong hệ thống xã hội và kinh tế truyền thống, trong đó, gia đình không những là sợi dây tình cảm mà còn là hạt nhân của đời sống, là thành lũy tạo sức mạnh cho mỗi cá nhân, là sợi chỉ thiêng liêng nối kết mỗi người với thế giới bên kia không một ai am tường.
Người Việt Nam có thể đón nhận dễ dàng đạo Kitô như họ đã chấp nhận ba tôn giáo ngoại lai kia. Nhưng cái khó không thể vượt qua đối với nhiều người là sự lên án việc thờ cúng ông bà. Hồi đầu, các linh mục dòng Tên cho phép tín hữu phục lạy trước bàn thờ tổ tiên, nhưng các cố thừa sai Pari, các tu sĩ dòng Đa Minh lại chống đối và cấm đoán điều đó. Cuối cùng, năm 1715, đức Clêmen (Clément) XI đã kể việc thờ cúng đó là hoàn toàn dối trá và ngược với Kitô Giáo.
Từ đó, có thể hiểu tại sao người Việt Nam lại tỏ ra đối nghịch với cái đạo bất lương, dám từ chối lòng hiếu thảo đối với ông bà và từ đó, cũng muốn xóa bỏ tất cả những mối quan hệ của một dân tộc với quá khứ của mình. Người tín hữu Kitô bị coi là những kẻ phản bội gia tộc, đồng thời là phản bội quê hương. Bởi quê hương người Việt Nam cũng đặt nền tảng nơi đạo hiếu, vốn làm cho toàn thể công dân nên anh em như cùng một gia tộc…
(…)
Tình hình thực tế đó bị người lương Việt Nam coi là dấu hiệu vong thân của người Kitô giáo, một sự vong thân không thể dung thứ trong thời bình, mà lại nguy hiểm khi hạm đội nước ngoài đến đe dọa xứ sở.
Sự sống của giáo hội vì thế đã bị xáo trộn bởi các cuộc “bách hại”. Đó là những hiện tượng không ăn khớp với bản tính hết sức bao dung của người dân Việt Nam, xét cả về mặt tôn giáo…
(…)
Nhờ Giám mục Bá Đa Lộc, một hiệp ước đã được kí kết ngày 28-11-1787, theo đó vua Pháp hứa viện trợ quân sự cho Nguyễn Ánh và ông này đã đáp lễ lại bằng việc nhượng cho nước Pháp Côn Đảo và cửa Hội An.
(…)
Các khó khăn chính trị nội bộ đã không cho phép nước Pháp gửi lực lượng quân sự qua như đã hứa trong hiệp ước Véc xây. Nhưng Bá Đa Lộc không nản lòng. Với tài chính của Hội Truyền giáo Pari, với sự ủng hộ tiền bạc của bạn bè và với các phương tiện của bản thân, giám mục đã mua tàu, trang bị khí giới và thuê một số sĩ quan Pháp. Như vậy, ông vô tình giúp được Nguyễn Ánh đè bẹp Tây Sơn sau một ít năm chinh chiến.
Được tin giám mục trở lại có sĩ quan Pháp tháp tùng, anh em Tây Sơn rất tức giận. Người ta đọc được lời thổ lộ sau đây của một nhà viết sử truyền giáo: “Các quan Tây Sơn càng tỏ ra gay gắt với Kitô Giáo từ khi giám mục thành Adran trở lại. Sự trở lại này làm cho họ ngờ vực người Kitô Giáo và nhất là các vị thừa sai khi cả hai đều ra sức hỗ trợ cho Nguyễn Ánh (mà họ cho là vua hợp pháp, còn Tây Sơn thì bị họ gán cho tội phản loạn) được trở lại ngai vàng vua cha. Sự bách hại vốn chưa hề dứt từ 30 năm qua, đã tái phát một cách dữ dằn hơn vào năm 1798”.
Thực ra, đây chẳng phải chỉ có vấn đề ngờ vực, mà là một điều chắc chắn. Vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn đã có lần chặn bắt được một bức thư Nguyễn Ánh gửi cho giám mục Labalet (Labarlette), xin đức cha tổ chức một đạo quân gồm người tín đồ Kitô Giáo tại chỗ, hầu hỗ trợ cho lực lượng quân Pháp chỉ huy đánh từ ngoài vào.
(…)
Đằng khác, các vua nhà Nguyễn đã mang sẵn nỗi lo âu về chủ nghĩa đế quốc phương Tây, đang ngày càng đe dọa nghiêm trọng hơn… Tuy nhiên các nỗi lo âu ấy không phải là cớ chính đáng cho các cuộc bách hại thời Minh Mạng (1833 và 1838), mà theo các sắc chỉ nhà vua, “đạo của bọn Hà Lan” là một tà đạo, một đạo bất phân, cấm đoán việc thờ cúng tổ tiên, một thứ đạo gieo hỗn loạn vào phong tục và trật tự nước nhà…
Có thể tránh được các vụ đổ máu này, nếu đạo Kitô Giáo khi đến Việt Nam, biết tỏ ra bao dung hơn, cởi mở hơn, biết bám rễ sâu hơn vào văn hóa xứ sở và nếu các vua nhà Nguyễn biết tỏ ra thông minh và khôn khéo hơn. Trong các cơn bão táp này, các cố Tây đã không khôn ngoan, đi cầu cứu Pháp, vốn là một đế quốc đang chực sẵn cơ hội tốt hòng xâm chiếm Việt Nam, vin cớ là để bảo vệ tự do tôn giáo.
(…)
(…) Lợi dụng vụ tàn sát một vài vị thừa sai Pháp ở Việt Nam, cánh hữu tư sản công giáo Pháp đã làm áp lực để chính quyền Đệ nhị cộng hòa khai thác các điều vụng về của nhà vua Việt Nam, hầu đánh chiếm nước này. Ơgien Vơiô (Eugène Veullpt) đã viết: “Quyền lợi con người mà Châu Âu Kitô Giáo phải bắt buộc các dân mọi rợ tôn trọng và việc quan tâm bảo vệ danh dự của chúng ta, đòi chúng ta phải trả thù các vụ xâm phạm đến đồng bào chúng ta tại đất An Nam”.
Hai nhân vật quan trọng trong việc cổ vũ Pháp xâm lăng Việt Nam là giám mục Pelơ Ranh (Pelelrin) cai quản địa phận Huế và linh mục Húc, cựu thừa sai truyền giáo. Giám mục Pelơranh đã khẳng định trước mặt triều đình Napôlêông III rằng: “Nếu quân Pháp đánh chiếm nước này thì giáo dân bản xứ sẽ tiếp đón họ như những kẻ cứu tinh”. Linh mục Húc cũng viết thư cho vua rằng: “Chiếm lấy Nam Kỳ là việc dễ dàng nhất trần gian, nó sẽ đem lại những kết quả vô cùng to lớn. Nước Pháp hiện có tại biển Trung Quốc những lực lượng dư sức để tiến hành công việc đó. Dân bản xứ thì hiền lành, siêng năng, rất dễ đón nhận đức tin Kitô Giáo và đang rên xiết dưới ách tàn bạo ghê tởm, họ sẽ đón tiếp chúng ta như đón những người giải phóng, những vị ân nhân. Chỉ cần ít lâu thôi là đem họ theo đạo được hết và làm cho họ nhiệt tình yêu mến nước Pháp”.
(…)
Trên chiến hạm Nêmêdis (Némésin), phó đô đốc Giơnuy (Rigault de Genouilly) có giám mục Pelơranh bên cạnh, đảm bảo việc giao liên với các thừa sai và tín đồ Kitô, vốn được chỉ thị phải cung cấp cho phó đô đốc các tin tình báo và vị trí các quân đội Việt Nam và các vụ chuyển quân… Do thiếu kết hợp các tin tình báo và chiến thuật, quân Pháp đã bắn phá cảng Turan (Đà Nẵng)… nhưng rồi do dự không muốn tiến về kinh đô Huế…
Bỏ lại Turan một đơn vị đóng chốt, Giơnuy xuống đánh chiếm Sài gòn (Gia Định) và các tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Sài Gòn thất thủ nhưng cuộc kháng chiến được tổ chức tiếp tục xung quanh các vùng đất bị chiếm đóng, tạo vòng vây phong tỏa tiếp viện. Binh lính Pháp có thể chết đói tại đây nếu giám mục Lơphevơrơ (Lefèvre, đã từng bị triều đình Huế hai lần kết án tử hình, nhờ có chiến hạm Pháp gây áp lực nên thoát - NV) không kịp thời vận động giáo dân tiếp viện.
(…)
Trong việc tổ chức cai trị các vùng chiếm đóng, quân Pháp chiêu mộ người hợp tác, nhưng theo lời phó đô đốc Rơnê (Rieuneir), chúng chỉ gặp được “tín đồ Kitô hoặc những tên vô lại”. Bốn ngàn giáo dân đến quây quần xung quanh bọn xâm lược. Thật dễ đoán biết sự tức giận, phẫn nộ không những của triều đình Huế mà cả trong dân chúng người lương nổi lên cao độ chừng nào. Các sắc chỉ cấm đạo công bố giữa năm 1859 và 1861 là gay gắt và nghiêm khắc nhất từ trước tới nay.
Sắc chỉ 17-1-1860 truyền phân tán người Công giáo tới sống xen giữa các làng người lương, để mỗi tín đồ phải có 5 đồng bào lương kiểm soát. Tất cả các làng và nơi thờ tự của Công giáo phải triệt hạ. Tài sản của người Công giáo phải bị tịch thu và sau hết phải khắc chữ Tà Đạo lên má các tín đồ.
Sau hòa ước 1862, Tự Đức công bố ân xá cả nước… lệnh tha tất cả các tín hữu Kitô đang bị tù, cho những người bị phân tán trước đó được trờ về làng cũ, được nhận lại tài sản của họ, nhà cửa, ruộng đất, còn được miễn thuế và được sống yên thân.
Tại Nam Kỳ, trừ tín hữu Kitô và những tên xu thời, nhân dân các vùng bị chiếm đóng đều tổ chức kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo của những nhà chí sĩ yêu nước…
(…) Và bởi xác định rằng người Công giáo đồng lõa với bọn xâm lược, họ (những người kháng chiến - NV) cũng coi luôn tín đồ là kẻ thù của mình.
(…)
(…) Theo tài liệu của chính quyền Nam Kỳ, mỗi lần quân đội Việt Nam thất bại thì dân chúng người lương lại thêm căm thù dân Công giáo: “nhiều cuộc tàn sát, đốt làng đã theo sau vụ Nam Định bị quân Pháp chiếm đánh ngày 9-12-1873, tại các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Hà Nội, những cảnh đó trở nên rất tàn bạo…”
Chẳng cần nhấn mạnh liên hệ nhân quả ở đây, tài liệu nói trên kể thêm rằng: “Cơn bắt đạo xảy ra sau sự rút lui của chúng tôi khỏi Bắc Kỳ đã không hoành hành trong các địa phận thuộc dòng Đaminh Tây Ban Nha cai quản. Các thừa sai của họ vẫn được tự do tương đối và đã được đối xử khoan hồng. Giám mục Côlôme (Colomet) đã được vua Tự Đức cho cấp đất xây nhà thờ và nhiều huân chương, vàng bạc tưởng thưởng họ, vì đã đóng góp tốt cho việc giữ gìn trị an trong các tỉnh mạn đông sông Cái (tức sông Hồng)”
(…)
(…) Nhằm bình định cứ điểm này (chỉ căn cứ Ba Đình của cuộc khởi nghĩa do Đinh Công Tráng lãnh đạo - NV), quân Pháp đã gửi tới một lực lượng gồm 2250 tên tính, 25 đại bác, 4 pháo hạm, dưới quyền chỉ huy của trung tá Mátsanhgie (Matsinger). Cuộc tiến công ngày 18-12-1886 bị đẩy lùi. Quân Pháp phải tổ chức bao vây để tìm hiểu chiến thuật mới. May cho chúng, có một sĩ quan trẻ, đại úy Giôphơrơ (Joffoe), rồi đây sẽ là thống chế Pháp trong chiến tranh thế giới thứ nhất, nghĩ tới việc nhờ linh mục Trần Lục, quản xứ Phát Diệm là Phó vương, tiếp trợ cho cuộc bình định các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Ông linh mục này đã nhận phép lành của giám mục Duydinê, rồi tiếp viện cho quân Pháp với 5000 giáo dân, và Ba Đình thất thủ.
(…) “Sau cuộc hành quân mệt mỏi rã rời, quân lính của ta kiệt sức vì thiếu ăn, mà tiến vào một làng người lương thì thường chỉ được ăn đạn. Nhưng nếu gặp được một làng người giáo thì trẻ con chạy ra đón đường và kêu ầm lên: “Công giáo, Công giáo đây!” để quân chúng ta biết rằng chẳng có gì phải sợ ở đó, rồi dân làng đem chuối, trứng, gà choai ra chiêu đãi. Sự khác biệt thật rõ ràng và là điều đáng ghi nhớ chứ nhỉ?”. Những dòng đó chẳng phải do một bàn tay Cộng sản ghi lại, mà là do tu sĩ dòng Tên đã say sưa thích thú về thái độ của người có đạo Kitô lúc đó nghĩ rằng bổn phận của họ phải hợp tác (với Pháp) vì mình là người Công giáo.
Cụ Phan Bội Châu, một chí sĩ yêu nước, đã gửi cho họ những lời tâm huyết trong cuốn “Việt Nam vong quốc sử”, xuất bản năm 1905 như sau: “Có một hạng người mà tổ tiên là Việt Nam, nhưng đã cùng vợ con trở thành tín đồ Kitô. Này, hãy nghe tôi nói. Chúng ta đều sinh ra trong cùng một xứ sở, chúng ta cùng sống với nhau dưới một gầm trời, cùng ăn một thứ cơm gạo… bởi thế, chúng ta phải liên kết với nhau hầu bảo vệ giống nòi, hơn là quì gối trước mặt quân thù. Sau cái chết của các người, có thể các người lên Thiên đường, nhưng bây giờ đây các người phải cầu nguyện cho hòa bình.Cuộc sống của các người tại ngục tù trần gian này thật là khốn khổ, tại sao các người lại dửng dưng được? Quả thực, mặc dù là Kitô hữu, các người thảy là người dân Việt Nam. Các người đừng đi theo quân Pháp, đừng giúp chúng nó làm hại Tổ Quốc chúng ta. Như vậy, các người sẽ lập được công đức trung thành với Chúa, môn đồ của đấng Kitô cứu thế đồng thời thật là đồng bào Việt Nam”.
Qua câu chuyện của linh mục Trần Tam Tỉnh thì Đạo Chúa đã có những vết nhơ trong lịch sử tồn tại của nó và nguyên nhân giềng mối của nhiều nguyên nhân dẫn đến bất đồng lương - giáo trong quần chúng Việt Nam chính là tâm hồn vẩn đục của số đông cố đạo Pháp có mặt ở nước ta thời kỳ đầu, đã manh tâm làm nhiều điều sai ý Chúa, biến những con chiên ngoan đạo bản xứ thành những tội đồ nắm trong tay không phải thập giá mà là lưỡi gươm, tưởng phụng sự Đức Chúa mà hóa ra là Hoàng Đế của quân xâm lược. Tội lỗi tày trời của những cố đạo đó đối với dân tộc Việt Nam là không thể chối cãi.
Kể tiếp: tiêu biểu cho phong trào hưởng ứng Cần Vương là cuộc kháng chiến 10 năm (1886 - 1895) của Phan Đình Phùng (khởi nghĩa Hương Khê), cuộc kháng chiến 8 năm (1883 - 1891) của Nguyễn Thiện Thuật (khởi nghĩa Bãi Sậy), cuộc kháng chiến của Đinh Công Tráng (khởi nghĩa Ba Đình) và cuộc kháng chiến của Hoàng Hoa Thám (khởi nghĩa Yên Thế).
Nhưng tiêu biểu nhất cho phong trào đấu tranh vũ trang kháng Pháp của nhân dân Bắc Kỳ về tinh thần bất khuất cũng như thời gian duy trì và có liên quan đến một sự kiện tại Hà Nội làm rúng động dư luận đương thời, là khởi nghĩa Yên Thế. Chúng ta sẽ kể về nó, cho dù cũng chỉ sơ lược thôi.
Hoàng Hoa Thám, dân chúng thường gọi là Đề Thám, tên thật là Trương Văn Nghĩa, sinh năm 1858 tại làng Dị Chế, xã Minh Khai, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên.
Tháng 3-1884, khi thực dân Pháp chiếm thành Bắc Ninh, Hoàng Hoa Thám gia nhập nghĩa quân của lãnh binh Trần Quang Loan. Năm 1885, ông tham gia cuộc khởi nghĩa của Cai Kinh (Hoàng Đình Kinh) ở Lạng Giang, Bắc Giang. Sau khi Cai Kinh mất, ông trở thành thủ hạ thân tín và tài giỏi của Đề Nắm (Lương Văn Nắm). Đề Nắm bị một thuộc hạ phản bội, giết hại vào tháng 4-1892. Từ đó, Hoàng Hoa Thám trở thành thủ lĩnh tối cao, linh hồn của cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
Phạm vi hoạt động của nghĩa quân Đề Nắm khá rộng nhưng chủ yếu là ở Yên Thế Thượng thuộc huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Đó là một cùng đất pha đá, hình thế phức tạp, theo mô tả của Clôbukốpxki, toàn quyền Đông Dương năm 1909 thì: “Vùng Yên Thế được cấu tạo bởi một địa hình không cao lắm, được bao phủ bằng một lớp dày đặc cây cao, dây leo, cỏ dại, những bụi rậm chằng chịt… Giữa những ngọn đồi ấy, trừ một vài khe thưa đã được khai phá, là một vùng rừng rậm không nhìn thấy gì, một nền đất có nhiều hồ lầy với một vài con đường mòn chỉ người địa phương mới biết”.
Triệt để lợi dụng địa hình địa vật đó, Đề Thám đã khéo léo xây dựng cả hệ thống đồn lũy, công sự đa dạng, kết hợp thành những trận địa phòng ngự hiểm yếu, kiên cố và có hiệu quả. Về vấn đề này, viên sĩ quan Pháp từng tham gia các trận đánh ở Yên Thế tên là Báctuê đánh giá: “Sự hiểu biết địa hình áp dụng vào phòng ngự và tiến công, bản năng chiến đấu của Đề Thám thật là kỳ diệu”.
Xét về mặt thuần túy quân sự, câu nói đó của kẻ viễn chinh nhà nghề, đã nêu bật luận điểm: địa hình thiên nhiên cũng là một lực lượng tham chiến lợi hại, thậm chí là yếu tố quyết định đến thắng, bại. Giữa hai bên tham chiến, lực lượng đó sẽ nghiêng về bên nào “thuộc” nó hơn, biết vận dụng, cải tạo nó hơn nhằm “lôi kéo” nó về mình cùng đánh đối phương. Muốn thế người chỉ huy phải thực sự tài giỏi về quân sự, không những biết vận dụng, cải tạo địa hình, địa vật mà còn phải biết chọn cách đánh phù hợp với địa hình, địa vật đã được cải tạo ấy. Học hỏi, kế thừa những người đi trước, tiếp thu được nghệ thuật quân sự truyền thống của tổ tiên, có được những thủ hạ năng động, những người lính quả cảm đã qua tôi luyện chiến đấu và được trang bị đầy đủ, Đề Thám đã là người chỉ huy như thế. Chính điều này đã cắt nghĩa vì sao mà nghĩa quân Yên Thế, với lực lượng chưa bao giờ vượt quá 150 người, đã chống cự kiên cường hàng loạt cuộc hành binh đánh phá, càn quét qui mô của bộ máy đàn áp của Thực dân Pháp ở Bắc Kỳ trong ngót 30 năm, buộc thực dân Pháp phải hai lần giảng hòa.
Tướng thực dân Pháp là Galiêni, trong cuốn “Ba cuộc hành binh ở Bắc Kỳ” đã viết: “Ngược hẳn với các nguyên lý làm công sự của chúng ta (tức quân đội thực dân), quân Yên Thế không bao giờ phát quang phía trước công sự, không dọn sạch cây cối ở phía rìa công sự. Họ coi rừng cây như là những vật phòng hộ tốt nhất, ở bên trong cũng như bên ngoài công sự. Các hàng rào ẩn kín trong bụi rậm làm người ta chỉ phát hiện ra công sự khi bước hẳn vào công sự. Như vậy tầm bắn của họ tuy bị rút ngắn, song tầm bắn của kẻ địch cũng bị hạn chế, nhất là đối với pháo binh. Làm như thế, họ buộc kẻ tiến công phải phân tán, hàng ngũ rối loạn và xuất hiện lộn xộn trước lỗ châu mai của họ”; “Quân Đề Thám và các tướng lĩnh của ông…, can đảm và thiện chiến”; “Tóm lại, chiến thuật của quân Yên Thế là luôn luôn rút vào những khoảng rừng thật sâu, thật kín, đào đắp công sự, bố trí trận địa để buộc kẻ địch phải xuất hiện trong khoảng trống trước mắt họ, trong khoảng cách rất gần, để có thể bất ngờ đánh dịch bằng những làn đạn đan chéo nhau, đã được điều chỉnh sẵn khi địch vấp phải rất nhiều chướng ngại chồng chất xung quanh công sự chính”
Còn theo Báctuê, trong “Tấn bi kịch Pháp - Đông Dương”, thì: “Trong thực tế, họ, tức nghĩa quân Yên Thế, không khỏe lắm, nhưng rất nhanh nhẹn, đặc biệt can đảm và có khả năng chịu đựng thiếu thốn và sự thất thường của thời tiết. Và phải hàng tạ sắt thép may ra mới hạ nổi một con người như vậy”; “Nếu bây giờ tôi nói rằng, về phương diện quân sự, Đề Thám là một nhân vật có tầm cỡ lớn và ông ta là một nhà chỉ huy quân sự có tài…, chắc tôi đã nói lời xúc phạm đến nhiều người. Ấy vậy mà đã có biết bao nhiêu chiến dịch qui mô do các vị chỉ huy lớn tiến hành để chống lại ông ta: tướng Gôđanh, đại tá Gôđa, Trung tá Mayê, đại tá Phơrê, tướng Vê-rông, đại tá Bataơ và nhiều vị khác nữa, nhưng không bao giờ các vị ấy đã thành công triệt để. Đương nhiên, Đề Thám vẫn cứ thoát… Luôn luôn ở vào thế tương quan lực lượng yếu hơn, và chiến thuật của ông ta vẫn hầu như giữ nguyên như thế, nhưng ai mà ngăn cản nổi chiến thuật ấy cứ ngày càng hoàn thiện. Hoàn toàn bị bao vây, đảo lộn, chia cắt, ông ta vẫn vượt qua và chạy mất. Hơn nữa, địa bàn hoạt động chủ yếu của ông ta cũng không rộng lắm. Và điều đáng ngạc nhiên nhất vẫn còn đó, trong phạm vi dù chỉ 20 km tối đa từ đông sang tây, từ Bố Hạ qua Nhã Nam, và cũng 20 km tối đa từ bắc xuống nam, từ mỏ Na Lương hay từ Canh Nậu đến Nhã Nam… Nhưng ông ta vẫn chủ động, hơn nữa, vẫn cứ thành công. Ngoài ra còn phải kể đến biết bao nhiêu cuộc hành quân kéo dài nhiều năm của đơn vị lính khố xanh cùng với những vị chỉ huy có tầm cỡ và sự hỗ trợ của lính dũng để chống lại ông ta, nhưng cũng chịu những tổn thất đẫm máu”; “Ông ta đã gây cho chúng ta nhiều tồn thất, rất nhiều tổn thất. Ông ta đã đánh những trận thật là kỳ diệu ở Yên Thế. Và biết bao chiến binh cứng rắn, da trắng và da vàng đã vĩnh viễn gửi thân nơi đó”
Có thể tóm lược hoạt động, chiến đấu của Đề Thám và nghĩa quân Yên Thế bằng những sự kiện nổi bật sau:
Cuối thu 1890, Thực dân Pháp mở chiến dịch lớn càn quét vùng Yên Thế thượng. Nghĩa quân chạm súng với địch ở Cao Thượng, trên đồi Yên Ngựa suốt một ngày trời rồi rút về đồn Hố Chuối. Đây là hệ thống phòng ngự vững chắc, được xây dựng và bố trí kỹ từ trước của nghĩa quân. Sáng ngày 9-12-1890, một lực lượng gồm 77 lính Lê dương và 66 lính khố đỏ, do đại úy Pơlétxiê chỉ huy tiến công đồn Hố Chuối từ phìa bắc theo con đường từ làng Lèo, dưới sự yểm trợ của một đơn vị sơn pháo 80 ly. Lực lượng tiến công bị chặn đứng tại hàng rào cách cửa bắc 100m. Chúng cố gắng chuyển sang xâm nhập từ phía nam đồn nhưng cũng không được, đành tạm rút lui, dù lực lượng chưa bị thiệt hại (chỉ chết 1, bị thương 30). Ngày 11-12-1890, với lực lượng tăng cường gồm 100 lính thủy đánh bộ, 50 lính lê dương, 136 lính khố đỏ và một đơn vị pháo 80 ly, do trung tá Tanơ chỉ huy, theo đường cũ tấn công đồn. Địch vượt được qua hàng rào nhưng lại bị chặn bởi hỏa lực từ trong đồn chính bắn ra. Pháo của địch không phát huy được tác dụng. Một cánh quân khác của chúng tiến công hệ thống công sự vòng ngoài, phía bắc đồn cũng thất bại. Địch buộc phải rút lui với 3 lính chết, 4 tên bị thương. Ngày 22-12-1890, với 180 lính thủy đánh bộ, 126 lính lê dương, 280 lính khố đỏ và pháo yểm trợ, do đại tá Mayê chỉ huy trở lại tiến công theo hướng cũ. Bị hỏa lực của nghĩa quân từ đồn chính bắn ra dữ dội, quân địch chựng lại cách đồn 40 m, phải điều thêm một mũi tiến công hệ thống công sự vòng ngoài phía bắc nhưng cũng không giải quyết được tình thế khi viên trung úy chỉ huy cánh quân này bị bắn chết. Giữa lúc đó, một lực lượng nghĩa quân từ đồn chính bí mật vận động ra, đánh tập hậu đội hình địch, chúng phải hốt hoảng rút lui với thương vong là 8 tên chết, 24 tên bị thương.
Đợt đánh phá cuối cùng của quân Pháp vào đồn Hố Chuối lần này, mở đầu ngày 2-1-1891, và kéo dài suốt 10 ngày. Lực lượng của chúng gồm 1060 lính có pháo binh, công binh, hải quân hỗ trợ, do đại tá Phơrê chỉ huy. Sử dụng các hải thuyền theo đường sông, địch đánh chiếm các làng xung quanh, chiếm các cao điểm, dùng pháo bắn cầu vồng vào trong đồn, đồng thời cho tàu chiến tuần tiễu trên sông Thương, ngăn chặn các ngả tiếp tế và rút lui của nghĩa quân. Trận này chúng chọn hướng tiến công chủ yếu là từ phía nam đồn Hố Chuối. Để đối phó lại, nghĩa quân cũng điều nhiều nhóm nhỏ tỏa ra chiếm lĩnh nhiều ngọn đồi xung quanh, phục kích đánh tiêu hao lực lượng địch. Với lực lượng áp đảo, ngày 7-1, quân Pháp bắt đầu tiến công các công sự của nghĩa quân, cùng lúc càn quét làng Nứa và làng Vàng để phá hủy dự trữ hậu cần của nghĩa quân được cất giấu ở đây. Trong hai ngày 8 và 9-1, quân Pháp tổ chức nhiều cuộc công đồn nhưng đều thất bại. Ngày 10-1, một trận đánh ác liệt xảy ra, đặc biệt là từ hướng nam. Địch phải dùng những tấm thép chống đạn làm lá chắn để xông lên đánh chiếm các công sự của nghĩa quân. Trận đánh kéo dài đến đêm. Trước một tương quan lực lượng quá chênh lệch, để bảo toàn lực lượng, ngay trong đêm đó, toàn bộ nghĩa quân chủ động rút khỏi đồn Hố Chuối. Sáng hôm sau, khi quân Pháp tiến vào thì đồn Hố Chuối đã hoàn toàn vắng lặng. Đợt ra quân này, địch chết 26 tên, bị thương 73 tên.
Sau khi rút khỏi Hố Chuối, nghĩa quân Yên Thế về Đồng Hom, lập căn cứ và tổ chức hệ thống phòng ngự ở đó.
Ngày 25-3-1892, một lực lượng quân Pháp do trung tá Hăngri chỉ huy kéo tới đánh Đồng Hom. Trận đánh này cũng ác liệt, kéo dài suốt một ngày. Nhờ trận địa được chuẩn bị kỹ càng, chu đáo, Đề Thám cùng nghĩa quân đã đánh trả quyết liệt, có hiệu quả và chỉ đến tối mới rút đi, sau khi gây cho quân Pháp thiệt hại là 13 tên chết trong đó có 3 trung úy, 31 tên bị thương và 9 tên mất tích.
Rút khỏi Đồng Hom, nghĩa quân trở lại Hố Chuối. Tháng 5-1894, quân Pháp tấn công đồn Hố Chuối lần thứ hai. Nghĩa quân đánh một trận anh dũng, giết chết giám binh Tơruvê, bắn bị thương công sứ Bắc Giang là Mulơliê và làm thương vong nhiều tên khác rồi lánh sang Thái Nguyên, tạm thời tránh đụng độ với địch.
Sau khi đã củng cố lực lượng, Đề Thám lại kéo nghĩa quân về Yên Thế, phục kích một đoàn xe lửa từ Kép đi Bắc Giang, bắt sống hai tên Pháp, buộc chúng phải chuộc tiền, chấp nhận giảng hòa và công nhận Đề Thám làm chủ 4 tổng: Mục Sơn, Yên Lễ, Nhã Nam và Hữu Thượng. Thời gian này, Đề Thám lập bản doanh ở Phồn Xương và tranh thủ phục hồi lại binh lực.
Sáng ngày 30-11-1895, quân Pháp do tướng Galiêni bất ngờ đánh úp Phồn Xương. Sau khi chống trả quyết liệt, nghĩa quân rút vào rừng rậm, tiếp tục chiến đấu. Quần thảo mệt nhoài mà không sao tiêu diệt được nghĩa quân, Thực dân Pháp đành phải giảng hòa lần thứ 2 vào tháng 11-1897. Đề Thám dẫn quân của mình về lại Phồn Xương, làm chủ một phương, gây dựng lực lượng, tích trữ phòng cơ, Cuộc giảng hòa này kéo dài đến khoảng 12 năm.
Ngày 27-6-1908, tại Hà Nội, xảy ra sự kiện chấn động xã hội mà lịch sử còn lưu lại với cái tên “Hà Thành đầu độc” - đầu bếp người Việt đã dùng cà thược dược đầu độc gần 250 vừa sĩ quan vừa binh lính Pháp trong bữa ăn tối (tuy nhiên chúng chỉ bị say và được cứu chữa kịp thời vì chất độc không đủ mạnh). Trong quá trình điều tra, Thực dân Pháp đã tìm được nhiều chứng cớ khẳng định Đề Thám có vai trò chủ yếu trong vụ đó. Và đây cũng chính là một nguyên nhân khiến Thực dân Pháp quyết tâm tuyệt trừ nghĩa quân Yên Thế.
Tháng 1-1909, Thực dân Pháp huy động một lực lượng khổng lồ (có sách nói có tới 15000 quân!) được chỉ huy bởi đại tá Pháp là Báctuê và đại thần Lê Hoan, nhằm bao vây chặt khu vực Yên Thế để tìm diệt bằng được Đề Thám cùng nghĩa quân của ông. Trước tình hình hết sức cam go đó, Đề Thám đã chọn phương thức đối đầu tối ưu là phân tán lực lượng thành nhiều nhóm: nhóm trung tâm do Đề Thám cùng cả Trọng (con trai ông) và Đặng Thị Nhu (vợ ba của ông) chỉ huy, đóng ở Phồn Xương; nhóm 2 do Lý Thu chỉ huy; nhóm 3 và 4 do cả Dinh, cả Hùng chỉ huy, đóng ở hai vị trí phòng ngự phía tây khu vực Hố Chuối, nhóm 5 ở Thương Thượng; nhóm 6 ở trại Gốc Cọ.
Khởi đầu, quân Pháp đánh mạnh vào trại của cả Dinh, cả Huỳnh. Hai nhóm này đánh trả quyết liệt nhưng cũng phải rút lui. Hôm sau, Pháp tập trung lực lượng đánh Phồn Xương. Nghĩa quân rút cả về Đồng Hom. Tại đây, Đề Thám chỉ bố trí 30 nghĩa quân, dựa vào công sự đón đánh địch. Lực lượng còn lại được chia thành 5 nhóm do Cả Dinh, Cả Huỳnh, Ba Điều, Cai Thanh, Lý Thu chỉ huy, đóng trên các địa chỉ phân tán khác nhau. Nếu bị đánh núng thế, các nhóm trên sẽ được chia nhỏ hơn nữa thành từng toán từ 5 đến 7 người tiếp tục chiến đấu. Nhờ thế, trong phạm vi không rộng và đã bị vây chặt, nghĩa quân Yên Thế vẫn tiếp tục chiến đấu ngoan cường, cầm cự đến 4 năm nữa, cụ thể là ngày 10-2-1913, khi Đề Thám cùng 2 thuộc hạ thân tín bị sát hại, cuộc khởi nghĩa Yên Thế mới chấm dứt. Giặc Pháp và đám tay sai đã hèn mạt bêu đầu Đê Thám ở Nhã Nam - Bắc Giang hòng “nhát ma” dân chúng. Tuy nhiên, nhiều nhân vật tai mắt thời ấy đã không tin thủ cấp đó là của Đề Thám. Dù sao đi nữa, trong lưu truyền dân gian, ông vẫn được tôn vinh đời đời là “Hùm thiêng Yên Thế”.
Có chuyện kể rằng vào năm 1911, khi đã gần 60 tuổi, bản thân Đề Thám một mình ông đã chiến đấu với cả một trung đội lính khố xanh bao vây ông trên cao điểm 28 trong suốt một ngày, rồi thoát vòng vây sau khi đã diệt được 5 tên địch, làm bị thương 7 tên. Hoặc cũng có chuyện với bốn tay súng, nghĩa quân làng Sơn Quả, dựa vào công sự đã vô cùng quả cảm, đối đầu suốt cả ngày trời với lực lượng 300 tên của Pháp, do đại úy Padét chỉ huy.
Còn chuyện “Hà Thành đầu độc” là thế này:
Hà Nội chưa bao giờ ngừng đấu tranh chống Thực dân Pháp và sau này là cả triều đình nhà Nguyễn đã hóa bù nhìn, còn bộ máy chính quyền của nó đã hóa thành công cụ tay sai.
Bước vào thế kỷ XX, bộ mặt thật của Thực dân Pháp bắt đầu phơi bày bởi nạn sưu cao thuế nặng, phu phen tạp dịch ở miền Trung. Tình cảnh một cổ mà hai tròng đã làm cho nông dân xứ ấy nổi dậy phản kháng gay gắt, và tình hình đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến người Hà Nội. Các tổ chức hoạt động yêu nước như phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục đều lấy Hà Nội làm trung tâm hoạt động. Dù có tính chất cải lương nhưng chúng đã có tác động to lớn đến việc vạch trần bộ mặt mị dân của Thực dân Pháp, tính chất lỗi thời, phản động, và mọt ruỗng của bộ máy triều đình phong kiến Huế - bù nhìn đối với ngoài nước và là tay sai ở trong nước. Từ đó mà duy trì ngọn lửa yêu nước thương nòi cũng như làm bừng sáng tinh thần tự tôn dân tộc trong nhân dân cả nước nói chung và tầng lớp trí thức nói riêng, nhất là trong bộ phận thanh niên học sinh - một thế hệ người Việt Nam mới, đầy nhiệt huyết. Trong bối cảnh đó, các phái viên của Đề Thám như Chánh Tĩnh, Đội Hổ, Lý Nho đã xâm nhập Hà Nội, lập một tổ chức yêu nước lấy tên là Hội Nghĩa Hưng, bí mật móc nối, tuyên truyền đối tượng là binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Một kế hoạch làm binh biến, kết hợp với lực lượng vũ trang của nghĩa quân Yên Thế từ bên ngoài vào, đánh chiếm Hà Nội, hình thành. Nhiều sĩ phu như Phan bội Châu, Phan Chu Trinh, Phan Văn Ngôn, Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên… đã từng gặp Đề Thám bàn bạc phối hợp hành động. Tại cửa hàng cơm và chứa trọ của vợ chồng ông Nguyễn Tĩnh (tức Nhiêu Sáu) phố Cửa Nam và nhà thầy bói Nguyễn Văn Phúc (tức Lang Seo) phố Hàng Buồm, đã có nhiều cuộc tiếp xúc giữa các thủ hạ của Đề Thám với một số anh em binh lính khố đỏ như Nguyễn Chí Bình (Đội Bình), Đặng Đình Nhân (Đội Nhân), Dương Bệ (Đội Cốc)… Trong bước triển khai kế hoạch chuẩn bị cho cuộc binh biến, có cả một số sĩ phu Hà Nội như Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí, Võ Hoàng và một số tri thức khác như thầy giáo Trịnh Văn Học ở Hoàn Long (ngoại thành Hà Nội), học sinh trường Pháp Việt là Trần Đức Quang ở phố Hàng Đâu; có cả sư tham gia tích cực của một số thợ thuyền và viên chức lao động làm việc cho Pháp như công nhân nhà máy đèn là Nguyễn Trường Cần, gác đèn ở vườn Bách Thảo là Nguyễn Đình Chính, làm vườn ở Dinh Toàn Quyền là Nguyễn Đăng Duyên, chạy công văn giấy tờ ở phồ Hàng Than là Trương Phố…
Sau nhiều lần trì hoãn, thời điểm thực hiện kế hoạch được ấn định là tối 27-6-1908, khoảng 8 giờ tối, việc đầu độc xảy ra trót lọt, khoảng 250 quân Pháp đã bị trúng độc sau bữa ăn tối. Đáng lẽ sau đó, theo tiếng súng báo hiệu của lực lượng binh biến, nghĩa quân Đề Thám sẽ từ Lò Lợn, từ ven Hồ Tây, từ Ô Cầu Giấy, từ dưới thuyền lên… sẽ đánh vào các trại lính và Đồn Thủy. Tuy nhiên, kế hoạch lúc này đã bị bại lộ. Tô Trương, một lính Việt thuộc trung đội Công nhân pháo thủ Hà Nội (đơn vị làm binh biến) sau khi bỏ thuốc độc xong, đi xưng tội với cố đạo người Pháp là Dronet (tức cố Ân). Vị cố đạo này làm trái Đạo Chúa, báo ngay cho tướng Pháp là Belet biết. Quân Pháp lập tức báo động, tước hết vũ khí của binh lính người Việt, giới nghiêm thành phố, đem quân đi chặn các ngả. Nghĩa quân bên ngoài chờ súng hiệu không thấy, biết đã bị lộ nên phải rút lui. Vụ đánh úp Hà Nội bất thành. Hầu hết những người tham gia vụ “Hà Thành đầu độc” đều bị bắt, 4 người bị xử chung thân, 9 người bị khép tội tử hình (trong số này có bếp Hiên, bếp Xuân, bếp Nhiếp, Đội Bình, Đội Cốc, Đội Nhân…). Ngày 8-7-1908, Thực dân Pháp đem chém 9 người ở bãi Gáo, bêu đầu ở các cửa ô. Sau đó, chúng còn kết án tử hình vắng mặt, khổ sai chung thân và giam giữ một số đông khác nữa.
Trong quá trình tra tấn lấy lời khai, có chuyện bà Nguyễn Thị Ba, người làng Tương Mai, vợ ông Nhiêu Sáu, bị chúng cho vào thùng đóng đinh nhọn chỉa vào trong rồi lăn mạnh thùng trên mặt đất.
Có hai bức ảnh chụp về vụ “Hà Thành đầu độc” còn lưu giữ được đến ngày nay, đó là bức ảnh chụp 13 vị nghĩa phu tham gia vụ đầu độc, với chân bị cùm và bức ảnh chụp ba cái thủ cấp trong ba cái rọ tre đặt cạnh nhau, đầy máu me. Thủ cấp ở giữa mắt vẫn mở hờ, mặt thanh thản và khóe miệng còn vương nụ cười phảng phất. Một thế kỷ đã trôi qua, nhưng nhìn ngắm hai bức ảnh đó, chúng ta vẫn cảm nhận được qua vẻ mặt và ánh mắt họ cái hừng hực của một tinh thần bất khuất vô song, cái ngùn ngụt của ngọn lửa uất hờn vì thân đã xả mà chưa thỏa đền nợ nước…
Chỉ một chút xưng tội mà sự việc vở lỡ. Thật vô cùng đáng tiếc! Tôn Trương có đáng lên án không? Không! Theo chúng ta là không, đó chỉ là một kẻ ngoan đạo, dại khờ, mắc lỗi xưng tội quá sớm nhưng không có tội. Nếu có tội chăng là cố đạo Ân kìa! Và tội đó là tội dối Chúa lừa chiên!
Hành động của cố đạo Ân làm chúng ta nhớ tới một cái tên: Puydinê (Puginier). Câu chuyện liên quan đến cái tên này, chúng ta “nghe lóm” được chủ yếu từ Tiến sĩ Lý Khuông Việt trong “quán” “Kiến thức ngày nay” số 655. Đây là câu chuyện làm cho cả Đức Chúa lẫn Đức Phật đều buồn thúi ruột!
Khi Gacniê đem quân ra Hà Nội, ông ta đã tìm cách bắt liên lạc ngay với giám mục Puydinê. Puydinê “ra sức giúp quân lính (Pháp) tất cả những việc gì có thể thích hợp với vị trí một giám mục thừa sai tại Bắc Kỳ”, trong đó có việc tuyển mộ mấy ngàn con chiên của ông làm lính đánh thuê cho Thực dân Pháp. Linh mục Trần Tam Tỉnh viết: “Giám mục (Puydinê) đã đoan chắc với binh lính rằng ông có thể nhập ngũ dưới ngọn cờ của kẻ chiến thắng, bởi vì ngọn cờ này là cờ nước Pháp”. Tổng đốc Nguyễn Tri Phương, trong khi bị thương nặng, trước lúc mất, đã nói thẳng vào mặt Puydinê. “Chính nhờ ông và các lời khuyên của ông mà bọn đạo tặc người Pháp đã cướp Nam Kỳ và sẽ cướp cả Bắc Kỳ chúng tôi nữa”.
Theo linh mục Trần Tam Tỉnh thì sau đó, “nhờ người Công Giáo” mà Gácniê tiếp tục chiếm được Nam Định, Hải Dương và những vùng khác thuộc đồng bằng sông Hồng một cách nhanh chóng”. Trong một báo cáo, Haman (Hatmand) thừa nhận: “Chắc chắn là những người Thiên Chúa Giáo đã giúp cho chúng ta được nhiều việc lớn và đã làm cho nhiệm vụ của chúng ta được dễ dàng hơn”.
Thấy chưa thể nuốt trôi Bắc Kỳ. Pháp ký hòa ước năm 1874, làm cho “Puydinê chống lại chính sách ấy mà ông xem là một sự nhục nhã đối với nước Pháp, một sự bất công đối với dân chúng, nhất là đối với giáo dân”.
Chín năm sau, khi Rivie dẫn quân ra Hà Nội, Puydinê không chỉ tuyển mộ hàng ngàn giáo dân làm lính ngụy mà còn lập một đội do thám gồm những con chiên đáng tin cậy nhất để cung cấp tin tức về lực lượng của quân dân ta cho Rivie. Theo linh mục Trần Tam Tỉnh, ngày nay “người ta đang giữ được hàng chục điện văn và bản tin tình báo mang chữ ký của ông ta trong văn khố của Bộ thuộc địa (Pháp). Và một phần nhờ ở các bản tin đó mà quân Pháp đã có thể đập tan cuộc kháng chiến vũ trang của người Việt Nam”. Một báo cáo của Pháp cũng nhận xét tương tự: “Chính nhờ sự hiểu biết tường tận của ông ta về xứ Bắc Kỳ, nhờ nhiều tin tình báo mà giáo dân ở Bắc Kỳ cung cấp cho ông ta, Bộ tổng tham mưu (của Pháp) đã có thể nhận được nhiều thông tin có ích về giao thông ở Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa…”. Trong báo cáo ngày 4-4-1884 của Pháp gửi về Pari: “giám mục Puyniê được kể như là người đóng góp nhiều nhất cho cuộc xâm lăng của Pháp ở Bắc Kỳ”. Chính Puydinê cũng tuyên bố: “Không có các giáo sĩ và giáo dân, người Pháp sẽ giống như những con cua đã bị bẻ gãy hết càng”. Toàn quyền Lanxan (Lanissan) thừa nhận ảnh hưởng của Puydinê “lớn đến nỗi phần nhiều những hành động của nhà cầm quyền Pháp đều trực tiếp vay mượn các ý tưởng của ông”.
Để ghi nhận công lao của Puydinê đối với cuộc xâm lược vào xứ sở mà ông ta đang rao giảng những điều thánh thiện nhất về Đức Chúa Giêsu, Thực dân Pháp đã gắn bên cạnh thánh giá của ông ta cái huân chương Bắc đẩu bội tinh “Binh đoàn danh dự”. Chưa hết, khi Puydinê xin chùa Báo Thiên của nhân dân Hà Nội, kẻ cướp Pháp “rộng lòng” cho luôn. Còn nữa, khi con đường phố to nhất, đi từ cửa Nam đến phủ toàn quyền ở Hà Nội được làm xong, Pháp liền đặt tên cho nó là “Đại lộ Puydinê”. Danh lợi đến như thế, hồi đó có thỏa lòng ông chưa, hỡi hồn ma của Giám mục Puydinê?!
Thực dân Pháp đập tan chùa Báo Ân để xây Nhà bưu điện và Phủ thống sứ thì Giám mục Puydinê cũng nhanh tay “phế truất” chùa Báo Thiên để dựng nên một nhà thờ to tướng. Vào thời điểm chùa Báo Thiên bị khai tử, công sứ Hà Nội là Bonan (R.Bonnal) nhận xét: “Theo bề ngoài, phá chùa và chiếm đất, chẳng có gì là dễ dàng hơn thế trong giai đoạn xâm lăng mà chúng ta trải qua”. Theo nhà sử học Đơvinlê ( Phillipe Devillers), “nhà thờ này đã được làm lễ dâng Chúa (!) vào ngày 24-12-1886”, đúng vào dịp Chúa giáng sinh. Tòa Giám mục Hà Nội cũng được xây dựng cạnh nhà thờ này - gọi là nhà thờ Thánh Giuse (Saint Joseph, cha của Chúa Giêsu). Năm 1950, Tòa Khâm sứ (đại diện Tòa thánh vatican) dời từ Huế ra Hà Nội, cũng đặt ở ngôi nhà bên cạnh. Cả ba vị trí ấy nằm gọn trên nền của chùa Báo Thiên. Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, Việt Nam bị tạm thời chia cắt ở vĩ tuyến 17. Tòa thánh Vatican thiên vị, chỉ công nhận chính phủ Ngô Đình Diệm, không thiết lập quan hệ ngoại giao với chính phủ Hồ Chí Minh, nên năm 1959, tòa Khâm sứ ở Hà Nội đóng cửa, trở thành nơi phục vụ các lợi ích công cộng của thủ đô Hà Nội.
Sau hơn 8 thế kỷ nổi chìm cùng vận nước, buồn vui theo những đau thương và tự hào của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, chùa Báo Thiên đã phải “nhượng địa” lại cho nhà thờ Thánh Giuse, ra đi không một lưu ảnh. Từ đây nét nhu mì, “phượng múa rồng bay” tươi mát của Hà Nội giảm đi, nét uy nghi tráng lệ có phần se lạnh tăng lên.
“Vật đổi sao dời” là lẽ tự nhiên, nhưng sự ra đi trong cảnh “nước mất nhà tan” của chùa Báo Thiên thì thật ngậm ngùi. Chúng ta có thể mượn bài thơ mà giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng tác giả đích thực của nó là: thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài bên Trung Quốc đời Tống; để phần nào nói lên cái tâm trạng ấy:
                              “Nhạn quá trường không
                              Ảnh trầm hàn thủy
                              Nhạn vô di tích chi ý
                              Thủy vô lưu ảnh chi tâm”
                  (Tạm dịch nghĩa:
                              Chim nhạn bay ngang qua bầu trời
                              Hình bóng của nó soi ở dưới làn nước lạnh
                              Chim nhạn không có ý để lại di tích
                              Mà nước cũng chẳng có lòng lưu giữ bóng hình)
Khai hóa văn minh gì mà lại bêu đầu người ta ra như thế, rao giảng đức tin gì mà lại làm những điều tán tận lương tâm như thế? Chúng ta chẳng bao giờ trả lời được câu hỏi này!
***
Có thể cho rằng nếu chọn ngày Đề Thám bị sát hại làm mốc thì sau khoảng 55 năm đối với cả nước kể từ trận Thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên đánh Đà Nẵng và sau khoảng 40 năm đối với Bắc Kỳ kể từ phát súng đại bác đầu tiên công thành Hà Nội lần thứ nhất của chúng, tiếng súng đấu tranh vũ trang trực diện với quân xâm lược Pháp của nhân dân Việt Nam tạm thời ngừng nổ, kết thúc một thời kỳ có thể gọi là bi phẫn nhất trong lịch sử Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam đã từng trải nhiều thăng trầm, cũng không ít lần đất nước bị ngoại bang chà đạp gây cảnh đau thương, nhưng chưa bao giờ lại phải chịu cái tình trạng khốn khổ, đầy uất ức như thời đoạn đó. Triều đình bạc nhược đến mất hết tinh thần, cắt dần đất nước dâng cho Pháp để mua lòng khoan dung của kẻ xâm lược, không đếm xỉa gì đến con dân của mình… Nhân dân mong mỏi triều đình đứng ra lãnh đạo chiến đấu thì triều đình bãi binh, đòi rút quan tướng về triều. Nhân dân phải tự phát nổi dậy chiến đấu thì không những triều đình bỏ mặc họ mà còn đòi giải tán họ và sau này còn quay sang tiếp tay cho Thực dân Pháp đàn áp họ. Sự hợp tác của triều đình với quân xâm lược đã khuyến khích nhiều quan lại, quần thần cầu vinh, theo Pháp, nhiều kẻ quay lại đánh phá phong trào kháng chiến, trở thành khét tiếng. Đó cũng là một nguyên nhân làm cho phong trào kháng chiến của nhân dân mất tập trung, thiếu tính mục đích cụ thể nên cũng mờ mịt về phương hướng và rốt cuộc dẫn đến tản mạn, manh mún. Lời kêu gọi Cần Vương muộn màng, và sự tồn tại ngắn ngủi của ông vua kháng chiến Hàm Nghi đã không đủ sức chuộc lại cái tội bỏ dân, bán nước trước đó của triều đình nhà Nguyễn, chưa đủ thời gian tạo điều kiện cho lòng dân qui tụ về. Giữa lòng dân Bắc Kỳ sôi sục kháng chiến mà quân triều đình cứ chiến đấu như kẻ mất hồn, bỏ qua hết thời cơ này đến thời cơ khác có cơ may chiến thắng rõ ràng. Được nhân dân ủng hộ, được chiến đấu giữa lòng dân như thế là một thuận lợi to lớn, thế mà quân triều đình đã hành động cứ như kẻ đơn thương độc mã, hầu hết là thụ động chống đỡ, cầu hòa. Như vậy có phải là bi phẫn không?
Nếu không thì phải chăng là điều này: Quân dân muốn đánh giặc thì triều đình không cho đánh, khi đã đánh và chuẩn bị giáng thêm đòn quyết định chiếm thế thượng phong thì triều đình hốt hoảng sợ mất lòng Pháp, chuẩn bị giành được thắng lợi thì triều đình đã nhanh tay ký thỏa ước, nhượng bộ, đầu hàng?
Hay bi phẫn chính là hiện tượng này: hàng loạt quan lại triều đình mang nặng tư tưởng Nho giáo đầy nhiệt huyết và năng lực đã bị giằng xé tâm hồn ghê gớm và đau đớn trước sự lựa chọn khó khăn giữa trung quân và ái quốc? Trong số họ, có bao nhiêu con người phải chết trong uất hận vì đã không tìm được lối thoát? Cùng dân đánh giặc cứu nước thì mắc tội khi quân, còn muốn giữ tiếng trung quân thì phải bỏ dân, quên nước, không thể lựa chọn cả hai thì chọn cái nào đây?
Bao nhiêu sĩ phu yêu nước, cùng dân đánh giặc mà bị triều đình gọi là “giặc” thì có bi phẫn không?
Trường hợp sau đây kể về một ông quan đã hành động đúng, có cuộc đời tương đối “suôn sẻ”, nhưng cũng cho chúng ta thấy cuộc đấu tranh tư tưởng hết sức gay gắt thời bấy giờ giữa ơn vua - nợ nước.
Dựa theo “Thế giới mới” số 808 thì Đỗ Quang sinh năm 1807 trong một gia đình nhà Nho nghèo. Quê ông ở Gia Lộc, Hải Dương. Ông là người học giỏi, năm 18 tuổi đỗ tú tài, năm 21 tuổi đỗ cử nhân, năm 25 tuổi đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1832) đời Minh Mạng.
Với tài học rộng, kiến thức cao sâu, lại khẳng khái, trung thực nên Đỗ Quang được giữ nhiều trọng trách khác nhau trong triều chính và là đại thần ở cả 3 đời vua: Minh Mạng, Thiên Trị, Tự Đức.
Sự thanh liêm hết mực của quan Đỗ Quang được dân thì tin yêu, vua thì mến phục. Lần đầu, khi làm Tuần phủ Định Tường (địa bàn các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp ngày nay), ông bị cách chức. Vua Tự Đức tra xét kỹ rồi chỉ dụ rằng: “Được biết Đỗ Quang ở Định Tường khi bị cách chức, dân trong hạt khóc lóc như mưa. Nếu không phải ngày thường được dân yêu thì làm sao được như thế!”. Lần thứ hai, khi giữ chức Bố chính Nghệ An, ông mắc phải vạ. Tổng đốc Nghệ An lúc đó tâu về triều rằng ông là người “ngay thẳng, liêm khiết trước tiền tài, cảnh nhà thanh bần”, nên ông được miễn phạt. Vua Tự Đức chỉ dụ: “Đỗ Quang làm quan thanh liêm được mọi người khen ngợi, do phạm vào án, phải bồi thường cũng chỉ vì không khéo biện lý. Hãy miễn cho tất cả để khuyến khích người liêm khiết”.
Năm Canh Thân (1860), Đỗ Quang được cử làm tuần phủ Gia Định. Cũng trong năm đó, Nguyễn Tri Phương được phong làm Thống tướng quân vụ đại thần. Hai ông dốc sức chỉ huy đánh Pháp. Tháng giêng năm Tân Dậu (2-1861), quân Pháp tập trung lực lượng tấn công Gia Định, đại đồn Chí Hòa thất thủ. Nguyễn Tri Phương chủ trương rút về Biên Hòa nhưng Đỗ Quang không đồng ý. Nguyễn Tri Phương hỏi: “Đại đồn đã mất rồi, ở lại sao được?”. Đỗ Quang đáp: “Tuy đại đồn thất thủ nhưng còn đất, còn dân thì ta còn đánh được”. Câu nói này đã thể hiện cái tư tưởng quân sự rất sâu và rất đúng của Đỗ Quang. Nó phù hợp với cách đánh truyền thống của dân tộc Việt. Tiếc rằng Nguyễn Tri Phương đã không cảm thụ được cái chân lý hàm chứa trong câu nói giản dị đó. Dù sao thì Nguyễn Tri Phương đã không phải là Trần Quốc Tuấn. Với quan niệm “công - thủ” cứng nhắc tương tự Hồ Quí Ly, trước một đội quân xâm lược không đông nhưng tạm có ưu thế áp đảo về hỏa lực, ông quyết định lùi quân theo kiểu “chạy dài” về Thuận Kiều, và như ông nói là để củng cố lực lượng tìm cách lấy lại Gia Định.
Than ôi! Ngày 25-2-1861 Đại đồn thất thủ thì ngày 28-2, quân Pháp đánh Thuận Kiều. Quan quân rút về Biên Hòa thì ngày 3-3 giặc chiếm đóng Trảng Bàng, coi như làm chủ Gia Định. Thừa thắng, ngày 12-3, chúng càn quét vùng phụ cận Sài Gòn (Biên Hòa, vùng sông Vàm Cỏ Tây, rạch Vũng Gù và đường bộ Sài Gòn - Mỹ Tho). Gia Định, nơi dấy nghiệp đế của Nguyễn Ánh, vĩnh viễn “từ biệt” triều đình Huế.
Sau thất bại này, triều đình cử Nguyễn Bá Nghị vào chỉ huy cuộc kháng chiến. Dưới con mắt nhát cáy và phản dân của Nghị thì tình thế đã đến lúc “đánh, giữ đều không được”. Và ông ta tâu về triều: “Trừ một chước hòa, tôi chỉ còn chịu tội”. Trong khi đó thì sự thể khác hẳn: cuộc chiến đấu của những đoàn “dân dũng”, những đội quân “dân ấp, dân lân” đang làm cho quân Pháp lúng túng, thất điên bát đảo; một bộ phận chiến đấu sát cánh với quân triều đình, một bộ phận khác tự động tổ chức đánh giặc và đánh giặc khắp nơi. Chính Barê (Pallu de La Barrière), một tác giả người Pháp cũng ghi nhận: “Thực tế đâu đâu cũng là trung tâm kháng chiến. Cuộc kháng chiến có cơ sở và hệ thống khắp nơi. Có thể nói rằng hễ có bao nhiêu người An Nam thì có bấy nhiêu ổ kháng chiến. Đúng hơn là phải xem mỗi người nông dân đang bó lúa là một du kích quân”
Thật là bi phẫn! Và càng bi phẫn hơn nữa khi nhớ về thời Trần, về câu nói bất hủ khi can vua định hàng giặc của Trần Thủ Độ và của Trần Quốc Tuấn! Phải nói: Bá Nghị ẹ ơi là ẹ!
Khi Nguyễn Tri Phương rút lui, Đỗ Quang về Gò Công cùng Trương Định chống giặc. Thấy Trương Định là người mưu trí, có tài thao lược lại lập nhiều chiến công nên tuần phủ Đỗ Quang tấu trình về triều, vua Tự Đức liền phong cho Trương Định làm Phó lãnh binh.
Ngày 10-12-1861, đạo quân ứng nghĩa do Nguyễn Trung Trực chỉ huy, đốt cháy tàu chiến Pháp trên sông Nhật Tảo, tiêu diệt phần lớn quân địch trên tàu, khích lệ mạnh mẽ tinh thần cứu nước của nhân dân lục tỉnh. Cũng năm đó, nghĩa binh Cần Giuộc tấn công tiêu diệt một số quân Pháp nữa. Nhưng bên ta cũng tổn thất. Dịp này, chính Đỗ Quang đã nhờ cụ Đồ Chiểu (Nguyễn Đình Chiểu) viết bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” nổi tiếng và rất cảm động, để đọc tại lễ truy điệu những “dân ấp, dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ” đã anh dũng hy sinh.
Đến đầu năm 1862, tuy thực dân Pháp chiếm được 4 tỉnh thành (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long) nhưng chưa thể tổ chức được bộ máy cai trị vì luôn phải tích cực đối phó với cuộc kháng chiến quyết liệt của quân dân ta. Những trung tâm kháng chiến ở Cần Giuộc (do Quản Là chỉ huy), Thủ Dầu Một, Trảng Bàng và Tây Ninh ở phía bắc sông Vàm Cỏ, ở Tháp Mười (do Võ Duy Dương chỉ huy), đã chặn đứng được ý đồ đánh thọc sâu vào vùng nông thôn nhằm bao vây tiêu diệt lực lượng kháng chiến của giặc. Các nguồn tư liệu khác nhau cho thấy những tháng đầu năm 1862 là thời gian khủng hoảng nặng nề nhất của quân viễn chinh Pháp ở chiến trường Việt Nam. Một mặt là do phong trào kháng chiến đang dâng cao của nhân dân Nam Kỳ, một mặt là do những tác động tiêu cực từ thất bại của Pháp ở Xiri (Syrie), ở Mêhicô (Mexique) và làn sóng phản đối của nhân dân Pháp.
Giữa lúc đó, nếu triều đình Huế hạ chiếu Cần Vương, hô hào trung quân, ái quốc thì nhất định quân viễn chinh Pháp sẽ bị cuốn phăng ra biển cả hoặc ở lại dưới những nấm mồ. Nhưng không, triều đình Huế đã làm điều ngược lại là chủ động “nghị hòa”, đến Thực dân Pháp cũng phải ngỡ ngàng: “May mắn thay, đang lúc phải đón đợi một tình thế xấu thì Huế lại yêu cầu ký hòa ước”. Thế là hòa ước Nhâm Tuất ra đời ngày 5-6-1862. Đây là “thành quả” cơ bản mà triều đình Huế đã đạt được nhờ hòa ước ấy: “Trọn ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn nhượng đứt cho Pháp… Vua An Nam ra lệnh chấm dứt các cuộc nổi loạn đang diễn ra trong các tỉnh Gia Định, Định Tường và những người cầm đầu các cuộc nổi loạn phải đi khỏi để trong xứ có an ninh và qui thuận”.
Thế có bi phẫn không?!
Triều đình bãi binh. Đau khổ và đơn độc, nhưng nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu. Một số quan quân triều đình đã không nỡ bỏ dân, chấp nhận tiếng “khi quân”, ở lại cùng sĩ phu yêu nước và dân nghĩa dũng, hiến dâng đời mình cho Tổ quốc. Trong số đó có: Trương Định, Võ Duy Dương, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, Hồ Huấn Nghiệp, Hà Mậu Đức, Nguyễn Tấn Kiều, Bùi Quang Diệu… và tiêu biểu là Trương Định. Ông được nhân dân Nam Kỳ tôn vinh là “Bình Tây Đại nguyên soái”. Trong văn bia tại lăng mộ ông còn ghi:
“… Năm Kỷ Mùi (1859), (Pháp) chiếm thành Gia Định, ông theo giúp việc nơi quân thứ. Năm Canh Thân (1860), đại đồn thất thủ, ông về Gò Công mộ nghĩa binh… quyết chí thu phục giang sơn cũ. Tiếp đó ông được nhận chức Phó Lãnh binh Gia Định…
Năm Nhâm Tuất (1862), do việc hòa nghị, ông được điều bổ về An Giang. Lúc đầu ông không có ý cưỡng lệnh triều đình, nhưng lại cũng không muốn phụ lòng mọi người. Do lòng trung phẫn, họ ngăn ông lại giữa đường, không muốn cho ông đi nhậm chức, đồng lòng suy tôn ông làm đại tướng quân…
Năm Quý Hợi (1863), đồn Gò Công thất thủ, ông lại quay trở về đây và lại khởi binh. Ngày 19 tháng 7 năm Tự Đức thứ mười bảy, ông tử trận ở rừng Tân Phước, được đem về táng ở làng Thuận Ngãi…”.
Thực tế là ngày 25-9-1863, được bọn tay sai mật báo, quân Pháp đột kích căn cứ Lý Nhơn. Nghĩa quân phá vòng vây trở về vùng Gò Công, giấu lực lượng tại một nơi hiểm yếu bên hữu ngạn sông Soài Rạp. Địch phát hiện, đêm tối 19-8-1864, kéo đến đột kích. Sáng 20-8, Trương Định thoát được vòng vây nhưng bị địch bắn theo, gãy cột sống, hy sinh tại trận.
Khoảng cuối tháng 1-1866, Phan Thanh Giản có thi hành lệnh “giải giáp” của triều đình nhưng theo ghi nhận của một học giả thực dân Pháp thì: “Chúng ta ngỡ rằng vị quan này sẽ ra lệnh ngưng được mọi cuộc nổi loạn, nhưng tình hình vẫn như cũ. Lệnh của Phan Thanh Giản vẫn vô hiệu. Bọn phiến loạn Đồng Tháp ngày càng gia tăng hoạt động. Các đồn bốt vùng Mỹ Tho bị tấn công. Đầu tháng 2 (1866), bọn phiến loạn truyền hịch kêu gọi dân chúng nổi dậy, hứa hẹn sẽ thành công…”.
Tinh thần kháng chiến của nhân dân Nam Kỳ là như thế đó!
Trở lại chuyện Đỗ Quang. Trong gần 2 năm lăn lộn cùng quân dân Nam Kỳ kháng chiến, ông đã có nhiều đóng góp quan trọng trong những chiến công đánh Pháp, được mọi người nể phục. Sau hòa ước Nhâm Tuất, triều đình gọi Đỗ Quang về làm Tuần phủ Nam Định. Ông cho đó là hành động trốn giặc, đáng xấu hổ, bèn không nhận lệnh rồi dâng sớ từ quan với giọng văn đầy đau xót, phẫn uất.
“… Ngày thần ra về, kẻ sĩ và nhân dân đứng chật đường mà nói rằng: từ nay cha bỏ con, quan bỏ dân, quan về lại làm quan còn dân thì không được làm dân của triều đình nữa. Tiếng khóc nghẽn đường. Thần cũng phải gạt nước mắt mà ra đi. Trộm nghĩ thần tầm thường kém cỏi không có tài cán gì, nhưng lâu nay quanh quẩn với dân, vốn không nghĩ đến ngày được sống trở về. Nay thần được gọi về, còn nghĩa sĩ, nghĩa dân thì không được vì triều đình mà góp sức, góp của nữa, không biết đặt mình vào đâu. Như thế là thần trên đã phụ triều đình, dưới phụ trăm họ, tội đã rõ ràng không thể chối cãi. Nếu nay thần lại được nhận chức ở địa phương Nam Định thì đối với nhân dân Gia Định biết nói sao đây, đối với công luận thiên hạ biết nói thế nào? Thần còn chút làm người biết xấu hổ nên cúi đầu xin thu hồi lệnh đã ban, bãi chức cho thần được trở về với vườn ruộng để cho hả cái nỗi phẫn uất của nhân dân và còn để cho giữ được cái tiết liêm sỉ của thần hạ”.
Bài sớ của Đỗ Quang rất nổi tiếng, đương thời được nhân dân cả nước hoan nghênh, cảm phục.
Tuy chống lệnh nhưng triều đình không bắt tội ông, còn triệu về kinh bổ nhiệm chức Tham Tri. Ông cũng từ chối.
Năm Giáp Tý (1864), miền Hải Dương, Quảng Ninh bị nạn phỉ hoành hành, quan quân triều đình đối phó rất vất vả. Triều đình lại gọi Đỗ Quang ra giữ chức Tham tán quân vụ Hải An rồi Tuần phủ Bắc Ninh. Ông nhận, hăng hái làm tròn trọng trách. Sau khi dẹp yên bọn phỉ, ông lại cáo quan về ở ẩn. Năm Bính Dần (1866), Đỗ Quang mất tại quê nhà, ôm theo mối bất bình với tư tưởng chủ hòa đầy bạc nhược của triều đình, về “ngậm khóc” nơi chín suối.
Nhìn vào lịch sử, không thể chối cãi được rằng hệ tư tưởng Nho giáo đã có những tác động tích cực nhất định đến đời sống xã hội thời quân chủ. Nhưng cũng phải công nhận rằng cái quan niệm “trung quân” mù quáng, thái quá, cực đoan đến tàn nhẫn của nó đã gây ra không ít những cái chết oan uổng, uất ức hoặc cũng có thể là bi tráng nhưng vô ích của biết bao nhiêu con người tài năng, chính trực. Đỗ Quang chưa bị dồn vào bế tắc đến mức tuẫn tiết, nhưng câu chuyện về Đỗ Quang đã là điển hình bi kịch của sự giằng xé nội tâm về tư tưởng của bộ phận quan lại, sĩ phu yêu nước thời đó. Và qua đó, hành động trả ấn từ quan về với dân với nước tham gia kháng chiến chống Pháp của họ càng thêm cao quí, càng được kính phục.
Thế còn tư tưởng “trung quân” của Đại Chúng? Đơn giản hơn! Đại Chúng cũng “trung quân” với triều đình vì theo lẽ tự nhiên, Đại Chúng cũng cần có lãnh đạo để điều hành đất nước. Đại Chúng nghe theo “chỉ bảo” của triều đình và còn tôn vinh nếu triều đình đó “tốt” đối với Đại Chúng. Nhưng Đại Chúng sẽ nổi lên chống lại, thậm chí là đòi “đổi mới” trước một triều đình trở nên “xấu”, phản bội. Khi có giặc ngoại xâm, Đại Chúng mong triều đình đánh giặc và dốc lòng theo triều đình đánh giặc giữ nước vì tin vào “tài” thống nhất chỉ huy của triều đình, tin rằng triều đình dù sao cũng là “người nhà”, ở trong một “nhà” với Đại Chúng và của Đại Chúng. Một khi triều đình không những bỏ Đại Chúng mà còn bán cả “nhà” của Đại Chúng cho kẻ xâm lược để ích kỷ toàn mạng cầu vinh thì Đại Chúng cũng cứ phải đánh giặc thôi. Vì nếu không đánh giặc thì Đại Chúng ở đất nào? Triều đình bán “nhà” của Đại Chúng cho kẻ xâm lược nhưng đời nào Đại Chúng chịu, hơn nữa bán hết rồi thì ở đâu, không lẽ kéo bầu đoàn thê tử lưu vong đi xâm lược “nhà” của Đại Chúng khác. Mà dám không? Do đó, triều đình phải quay lại, đi theo kẻ xâm lược chà đạp Đại Chúng để xin kẻ xâm lược nhượng lại cho góc “nhà” nào đó mà ở. Đại chúng vốn “cả tin”, dựa hết vào sự bảo vệ của triều đình, chỉ lo làm lụng mà không tàng trữ binh lực, nên trong những trường hợp như vậy thì dễ bị thua. Thua thì mất “nhà”, đành phải sống trên đất rõ ràng là của mình mà như là đất giặc, trở thành nô lệ của “khách” trên đất mình. Bị vậy nên Đại Chúng thua rồi vẫn đánh, đánh truyền đời truyền kiếp cho đến thắng thì thôi, đến đòi được “nhà” mới thôi, và lần này thì dẹp luôn cả “trẫm”. Tuy nhiên, cũng có thể phải chịu hy sinh hết mà không đòi được “nhà”. Nếu có vậy thì Đại Chúng vẫn cứ đánh vì đàng nào cũng chết, mà chết trong đấu tranh vẫn thỏa chí hơn chết trong đọa đày, vì “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” trên đất mà tổ tiên đã dày công khai phá, làm chủ và con cháu có quyền được hưởng.
Rõ ràng, trước quân xâm lược thì trước sau gì Đại Chúng cũng phải đánh đuổi, có triều đình đi “tiên phong” thì tốt hơn nhưng không có triều đình cũng phải tự nổi dậy mà đánh, tự phát đánh. Từ đây, chúng ta hiểu vì sao ông cha ta đã đúc kết được một câu rất cô đọng nhưng thật sự bình dị, vừa là nguyên tắc, vừa là nghĩa vụ, vừa là truyền thống: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”.
Có lẽ nhiều lãnh tụ khởi nghĩa hồi đó của Tổ Quốc nói chung và Bắc Kỳ nói riêng cũng hiểu đơn giản thế: đối với lũ ngoại bang cầm súng xâm lược quê hương xứ sở thì hành động tiên quyết là đánh đuổi chúng đi, còn thương thuyết chỉ là sách lược, quyền mưu.
Thời tuổi trẻ, chúng ta rất thích một bài thơ, đến bây giờ còn thuộc. Nghe bạn bè nói, đó là bài thơ mô tả nội dung bức thư cuối cùng của Đề Thám gửi cho một kẻ đã từng là cha nuôi hay cha đỡ đầu gì đó của ông, tên là Phúc, làm quan tay sai Pháp, đã từng lên bản doanh của Đề Thám, đã từng gửi thư cho Đề Thám dụ hàng. Không biết do ai sáng tác, cũng quên khuấy mất người bạn nào đã đọc cho chúng ta chép bài thơ đó, và bản chép bài thơ đó cũng đã mất biến tự bao giờ. Nhưng cái hùng khí, cái ngang tàng bất khuất, cái sang sảng của nó đã ngấm vào tim óc của chúng ta từ độ ấy và bây giờ, kể chuyện đến đây, chúng ta bỗng thấy nó hiện lên, hực đỏ chói màu máu trên trang vàng tươi rói màu da dưới ánh sáng chan hòa phản chiếu xuống từ bầu trời xanh cao vời vợi, giữa một bao la thinh không vắng lặng, như thầm thì nhắn nhủ qua cảm giác tâm linh: thời gian làm cho tất cả những mưu đồ, những thể hiện thị phi về sang - hèn, sướng - khổ, vinh - nhục, khôn - ngu, thành - bại… của mọi thời đều phải đi qua, đều trở thành phi lý, vô nghĩa, nhưng những điều thiêng liêng thì vẫn ở lại trong lòng hậu thế, giúp hậu thế thấy được đời người là phù phiếm, vô tình đối với Tạo Hóa đồng thời là quan trọng, có nghĩa đối với mỗi con người. Do đó mà ai cũng vậy, đều phải loay hoay lựa chọn cho mình một lẽ sống, dù nhiều khi là không dễ dàng, thậm chí là cay nghiệt, dữ dội. Dù thế thì cũng vẫn phải lựa chọn, không thể không lựa chọn. Chúng ta sẽ ngâm lên bài thơ này:
Đọc mấy lời trong thư cha dụ dỗ.
Dòng lệ con lã chã lâm ly.
Nhớ ngày nào con dứt áo ra đi
Trong quá khứ cha ghi niềm kiêu hãnh.
Lưỡi gươm nọ máu kẻ thù còn dính
Mà anh hùng tim lạnh bả hư vinh
Trong phong ba vùng vẫy bóng ngạc kình
Tham mùi béo nạp mình cho ngư phủ.
Giữa rừng xanh tung hoành con mãnh hổ
Ham mồi ngon ủ rũ chốn chuồng con
Bả hư vinh mờ mịt cả tâm hồn
Nào có chuyển lòng son dạ sắt
Núi Hồng Lĩnh còn mịt mờ u uất
Sông Nhị Hà còn chứa chất khối hờn căm
Thì đời con là của cả giang sơn
Dù gió kép mưa đơn đâu xá kể.
Trong những lúc cha vui vầy vị kỷ
Là những khi con rầu rĩ khóc non sông
Đêm đông trường cha đệm gấm, chăn bông
Ngoài thẳm xanh con nằm gai nếm mật.
Cha hít thở trong hương trầm thơm ngát
Pha lẫn mùi máu thịt của lê dân.
Thì con đây ngạt thở bởi xâm lăng
Lại vẳng tiếng hờn oan bao thảm cảnh.
Trên ngực cha đầy mề đay, kim khánh
Bên mình con lấp lánh kiếm Tiêm Cưu.
Cha say mê bên thiếu nữ yêu kiều
Con tận tụy với tình yêu Tổ Quốc.

Buổi đoàn tụ, thôi cha đừng mong ước
Cuộc hội đàm chỉ đại bác với thần công
Bức thư đây là bức thư cuối cùng
Cha chỉ còn là cha trong dĩ vãng.
Xin hạ bút cho thân tình gián đoạn
Để người đời kết án kẻ gian phi!
Lưỡi gươm này, con tuốt sẵn chờ khi…
Đó là sự lựa chọn lẽ sống của Hùm Thiêng Yên Thế. Nhưng như chúng ta đã theo dõi, cùng thời nước sôi lửa bỏng bấy giờ, cách lựa chọn đó không phải là độc nhất vô nhị, mà cũng không phải là hiếm.
Đương nhiên, cũng có sự lựa chọn lẽ sống tương phản, đối kháng với sự lựa chọn nói trên. Nếu cách sống trước là “vì nước quên thân” thì cách sống sau là “vì thân quên nước”. Dù có biện luận, giải thích kiểu gì đi chăng nữa, dù có đánh lận con đen giữa công và tội khéo léo đến mấy đi nữa, dù có xét đi xét lại đến vạn lần thì rốt cuộc trước Đức Huyền Diệu, cốt lõi sự thực cũng chỉ là hai cách tương phản ấy và trước mắt Đại Chúng, cách sống sau “có mặt” càng thượng tôn, càng làm hào hùng cách sống trước, và dĩ nhiên, cách sống sau trở nên thấp hèn, đê tiện. Ở đời, thiếu gì người muốn làm anh hùng và tưởng rằng mình đã là anh hùng; ai cũng có thể luận anh hùng và nhiều kẻ đã được gắn nhãn mác anh hùng, nhưng xứng danh anh hùng của Đức Huyền Diệu chỉ có thể là những người “vì nước quên thân” theo quan niệm của Đại Chúng - linh hồn của đất nước, và được thừa nhận, tôn thờ bởi Đại Chúng đương thời cũng như những đời sau. Đó mới chính là những tấm gương sáng ngời đích thực về lòng trung nghĩa.
Xét như thế thì Napôlêông có phải anh hùng không? Có thể là anh hùng ở thời kỳ đầu với chiến dịch nước Ý, ở thời kỳ sau với chiến dịch nước Pháp, khi những chiến dịch ấy được cho là chống xâm lược; có thể là “gian hùng” khi ông ta tiến hành những chiến dịch nhằm mục đích xâm lược, làm bá chủ châu Âu, điển hình là chiến dịch nước Nga; có thể là anh hùng khi đại diện cho một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn đi đánh dẹp các chế độ quân chủ chuyên chế đã lạc hậu, thối ruỗng, nhưng cũng có thể chỉ là đồ tể, bạo chúa khi ra tay tàn bạo hòng khuất phục các dân tộc khác nhằm thỏa sự thèm khát được làm bá chủ châu Âu (điển hình là cuộc đàn áp đẫm máu cuộc kháng chiến bất khuất của nhân dân Tây Ban Nha - ngọn lửa đầu tiên báo hiệu sự thiêu tàn triều đại Napôlêông). Thế thì tại sao nhiều người vẫn gọi cuộc đời Napôlêông gắn liền với cuộc chiến tranh đẫm máu do ông phát động, là “thiên anh hùng ca”? Đó là một cách gọi và xét ở góc độ tác động lớn lao của cá nhân một con người đến toàn châu Âu, xét ở bình diện thuần túy quân sự và thiên tài “đánh nhau” của Napôlêông đã làm cho người đời phải bái phục, thì gọi như thế cũng có thể được, không sai. Nếu thế sao người ta lại không gọi cuộc đời Thành Cát Tư Hãn là một “thiên anh hùng ca”? Vẫn có thể gọi được như vậy nếu muốn. Thường thì người ta vẫn thích gọi những quá trình lớn lao, kéo dài với những thăng trầm có vẻ “dữ dội”, có tác động nhiều mặt đến đời sống xã hội là những “thiên anh hùng ca”. Sự nghiệp của Thành Cát Tư Hãn là thống nhất đất nước Mông Cổ và làm nên một cuộc chinh phục vĩ đại, nên nó có tính chất sử thi, anh hùng ca. Nhưng nếu nói tất cả những vĩ đại, lớn lao đó chả là cái thá gì cả, cũng… đúng. Bản tính của loài người, vì “xuất thân” từ loài khỉ ưa tò mò tọc mạch, “đâm bị thóc chọc bị gạo”, nên rất chi là đỏng đảnh và thích… cãi nhau suốt ngày!... Nhưng thôi, chuyện xứ người nên để cho xứ người đặt tên là khôn ngoan nhất!...
Còn ở xứ ta, vì Gácnê và Riviê chiến đấu và chết ở nước ta nên thử hỏi: họ có phải là những anh hùng không? Hỏi thế nghe nhạt và vô duyên quá! Đối với Đại Chúng Việt Nam thì “chắc như bắp”, họ là những kẻ tội đồ. Rất có thể họ cũng là những anh hùng nếu được gắn nhãn mác, nhưng chỉ có thể là anh hùng của riêng chủ nghĩa Thực dân Pháp, chứ không thể là anh hùng dân tộc của Đại Chúng Pháp…
Cuối cùng, những đầu bếp, binh lính người Việt bị xử chém trong vụ “Hà Thành đầu độc” có anh hùng không? Dù cho trước khi chết họ là những kẻ bình thường, nhưng khi bị giam ở Hỏa Lò, những gương mặt bất khuất của họ đã biểu hiện phẩm chất anh hùng và sau khi hiên ngang đi vào cõi chết, chúng ta cho rằng họ là những anh hùng của dân tộc Việt.
Ngày ra pháp trường Bãi Gáo, một người trong số họ đã gọi đồng bào, dặn: “Bao giờ nước nhà độc lập thì bà con nhớ đến chúng tôi nhé!”. Và chúng ta, lũ con cháu đang sống ở năm 2008 này nhớ về họ như thế nào khi đã xây được biết bao nhiêu nhà cao cửa rộng, đường xá thênh thang, cơ ngơi hoành tráng? Trong bài “Những vị đầu bếp bất tử trong vụ Hà Thành đầu độc” đăng trong báo “An ninh thế giới” số 736, ra ngày 5-3-2008 của tác giả Đỗ Doãn-Anh Phương, có những dòng này: “Những người ngã xuống không thể ngờ được rằng: gần một thế kỷ sau, con cháu máu mủ của các vị đã vất vả bao năm tìm kiếm phần mộ của họ. Không ngoại trừ cả việc mang đậm màu sắc hoang đường, như vợ chồng ông Khải (con cháu cụ bếp Hiên) gặp những giấc mơ lạ về những cụ ông không đầu về báo mộng. Khi tìm thấy nơi mai táng rồi, việc vinh danh các tử sĩ, chăm chút phần mộ và dựng mấy dòng chữ kỷ niệm các anh hùng vệ quốc ấy lại vô cùng lận đận… Muốn thắp nhang cho họ, chúng tôi phải vạch cây cối, đi qua nhà người ta rồi đến cái xó tường nhếch nhác ở vùng Nghĩa Đô (Hà Nội), nơi từng là trại nuôi dê, thấp hơn mặt đường những 50 cm, ở đó có duy nhất một ngôi mộ mới được ông Khải quy tập vội vã cùng vài dòng chữ nhỏ, có phần hơi tối nghĩa: “Nơi yên nghỉ của 9 nghĩa sĩ yêu nước trong vụ Hà Thành đầu độc Thực dân Pháp ngày 27 tháng 6 năm 1908 (13 tháng 9 Mậu Thân)”.
Nhiều sử gia đã thống thiết kêu cứu cho di tích “Hà Thành đầu độc”, nhưng sự việc vẫn đâu đóng đấy. Không lẽ, chúng ta đã tri ân những người anh hùng vệ quốc của mình một cách như thế ư?”.
Ai đó trên Dương trần, hay cả dưới Âm phủ, có thấy phẫn uất không?
***
Sau vụ “Hà Thành đầu độc”, thực dân Pháp đàn áp khốc liệt, làm cho phong trào đấu tranh của nhân dân Hà Nội lắng xuống.
Ngày 19-6-1912, chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu thành lập “Việt Nam quang phục hội” (trên đất Trung Quốc). Hội phái người về nước để ám sát toàn quyền Xarô (Albert Sarraut) và hai tên tay sai đầu sỏ là Hoàng Trọng Phu, Nguyễn Duy Hân. Tuy nhiên chỉ có Nguyễn Duy Hân bị Phạm Văn Trắng, một công nhân quê ở Gia Lâm, ném tạc đạn chết. Nhưng ngay trung tâm Hà Nội, trên đường phố Tràng Tiền, chiều ngày 26-4-1913 vang lên tiếng tạc đạn của Nguyễn Khắc Cần, công nhân nhà máy xe lửa Gia Lâm, giết chết tại chỗ hai sĩ quan Pháp và làm một số tên khác bị thương khi chúng đang ăn uống trong một khách sạn.
Sự kiện đó đã làm thực dân Pháp khủng bố điên cuồng hơn. Tổ chức Việt Nam quang phục hội của Phan Bội Châu cơ bản tan rã. Riêng Hà Nội, sự tổn thất của phong trào yêu nước rất nặng nề, những nghĩa sĩ người Hà Nội là Phan Văn Tráng, Phạm Hoàng Triết, Phạm Hoàng Khuê bị kết án tử hình. Nhà tù Hỏa Lò chật ních người của các tổ chức yêu nước Đông du, Đông kinh nghĩa thục, Việt Nam quang phục hội. Hoạt động yêu nước tại Hà Nội lại phải tạm lắng, nhưng vẫn âm ỉ…
Về đại thể, có thể nói phong trào đấu tranh vũ trang chống Pháp xâm lược của nhân dân ta đã chấm dứt vào năm 1895, với sự thất bại của khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo, nghĩa là cũng kết thúc phong trào Cần Vương.
Có một thực tế lịch sử là phong trào đấu tranh vũ trang ấy rộ lên rất mạnh ở thời kỳ quân viễn chinh Pháp chân ướt chân ráo đặt chân lên nước ta (trong giai đoạn đánh chiếm Nam kỳ hoặc trong giai đoạn đánh chiếm Bắc kỳ), sau đó lần lượt suy giảm khá nhanh khi thực dân Pháp bắt đầu tổ chức được bộ máy cai trị ở Nam kỳ cũng như ở Bắc Kỳ và sau hiệp ước Patơnốt (1884) là cả nước, rồi tiếp tục hầu như im ắng kéo dài đến Cách mạng Tháng tám (1945). Một điều dễ nhận thấy nữa là ở thời đoạn sôi sục nhất của phong trào, dù là có vẻ rộng khắp nhưng là sự rộng khắp mang tính tản mạn, tự phát, thiếu nhất quán và không kết thành được một cuộc khởi nghĩa toàn dân, tập trung dưới một sự lãnh đạo thống nhất. Hơn thế nữa, những cuộc khởi nghĩa trong phong trào đó đã không thể phát triển (không kịp phát triển?) thành một lực lượng ngày một lớn mạnh được. Tại sao?
Tại vì quân viễn chinh Pháp thiện chiến hơn, có vũ khí hiện đại hơn, hỏa lực đại bác hoàn toàn áp đảo. Điều này đúng một phần nhưng không cơ bản. Sự ủng hộ của một bộ phận giáo dân đối với quân viễn chinh, tuy cũng có tác dụng đáng kể, nhưng cũng không thể là trọng yếu. Có lẽ, muốn tìm thấy cái nguyên nhân cơ bản thì lại phải hướng nhìn về triều đình Huế, một triều đình mà ngay từ đầu đã không kiên quyết chiến đấu đến cùng trước quân xâm lược, do đó làm cho phong trào kháng chiến mất tập trung rồi dần mất phương hướng và phân rã, một triều đình mà hiện tại của nó là đê hèn, quá khứ của nó là cổ hủ, hà khắc và bóc lột dân chúng cũng quá ư thậm tệ làm cho lòng dân quá ngán không còn muốn hướng về. Hịch Cần Vương ra vừa muộn màng vừa chẳng kích thích được mấy về chính trị đã không còn tác động tích cực, mạnh mẽ đến Đại Chúng nữa. Chính sách cai trị thưở ban đầu của thực dân Pháp, với những quan niệm tiến bộ hơn về mặt quan hệ sản xuất - kinh tế, về nhân quyền, dù trong đó có phần mị dân, đã thổi một luồng gió mới vào đời sống xã hội Việt Nam. Rất có thể chính điều này đã làm cho phong trào đấu tranh giành độc lập, mất dần tính quyết liệt cũng như tính quần chúng thuở ban đầu của nó, để rồi phải lụi tàn trong một thời gian tương đối ngắn và sự bùng phát chỉ mang tính cục bộ, địa phương. Bởi vì, giàu lòng yêu nước với ước muốn nước được độc lập là hai vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau nhưng cũng có lúc tách rời nhau. Nếu giành độc lập để rồi từ chế độ đô hộ tạm thời tốt hơn trở lại chế độ tồi tệ hơn vừa mới thoát ra được thì độc lập làm gì? (Dám chắc rằng nếu một cuộc xâm lược đem đến tự do, bình đẳng, bác ái và phồn thịnh cho một đất nước thì sẽ không có một cuộc kháng chiến quần chúng giành độc lập nào xảy ra trên đất nước đó. Nhưng theo định nghĩa thì phải gọi cuộc xâm lược đó với một cái tên khác, chẳng hạn: “cuộc “khai hóa văn minh”. Nước nào làm được cái quên mình, yêu người đó, khi mà ngay cả Đạo Chúa, Đạo Phật hay bất cứ Đạo nào khác còn chưa làm được? May ra chỉ có Mặc Địch!)
Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp trên lãnh thổ Việt Nam, dù sao đi nữa, cũng tạo ra triển vọng công ăn việc làm cho nhiều người và dù có bị bóc lột chăng nữa thì vẫn có thể là “dễ thở” hơn so với dưới thời phong kiến quân chủ nhà Nguyễn. Điều này cũng là một nguyên nhân đáng kể tác động tiêu cực đến phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta thời kỳ đó.
Có thể lấy khởi nghĩa Yên thế làm thí dụ chứng minh. Tồn tại ngót 30 năm nhưng lực lượng nghĩa quân chưa bao giờ vượt quá 150 người, dù dân chúng địa phương hoặc các nơi vẫn ngầm quyên góp giúp đỡ. Vì sao Đề Thám không thể phát triển lực lượng ngày một đông hơn trong suốt thời gian đó? Đề Thám không có được tầm nhìn chiến lược hay đã không thể thuyết phục được dân chúng đứng lên theo mình kháng chiến? Có thể là do sự đàn áp khốc liệt của Pháp và tay sai mà cuộc khởi nghĩa Yên Thế phải liên tục giành thời gian đối phó, không còn thời gian triển khai, tuyên truyền, vận động (đối với khởi nghĩa Hương Khê cũng vậy, cũng tồn tại đến 10 năm, phất cao cờ Cần Vương mà phong trào cứ thoái hóa dần)? Một trong những nguyên nhân là thế nhưng không phải là nguyên nhân quyết định vì trong lịch sử, có những cuộc khởi nghĩa bắt đầu cũng ngặt nghèo tương tự, thậm chí là khó khăn hơn thế nhưng đã phát triển được và giành được thắng lợi cuối cùng như: Khởi nghĩa Lam Sơn, khởi nghĩa Tây Sơn, khởi nghĩa Tháng Tám, nhất là khởi nghĩa Tháng Tám, phải tiến hành kháng chiến với buổi đầu xét về tương quan lực lượng thì cũng ít ỏi, nghèo nàn về vũ khí trước một đội quân viễn chinh thiện chiến và trang bị vũ khí mạnh gấp bội phần, hỏa lực cũng hoàn toàn áp đảo. Thế thì nguyên nhân cốt lõi nằm ở đâu, dù không thể tìm ở đâu khác ngoài “vùng”: thiên, địa, nhân? Phải chăng thời thế đổi thay đã có lợi cho thực dân Pháp và quan trọng nhất là truyền thống yêu nước vẫn còn nguyên vẹn đó, nhưng những tiến bộ xã hội - kinh tế có được của chế độ cai trị thực dân thời kỳ đầu (dù có thể là ít ỏi, không tương xứng với thành quả bóc lột được của kẻ thực dân) làm cho Đại Chúng không còn muốn quay về với cái chế độ quân chủ ngột ngạt với một ông vua mồm thì nói yêu dân, nhưng lại chỉ nghĩa đến mình, trong sự lựa chọn của họ về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đấu tranh giành độc lập để rồi lại về với cảnh sống dưới một triều đình mà kinh nghiệm đã cho thấy là sẽ khổ hơn thì có nên không, trong khi đời sống xã hội đang có chiều hướng khá hơn? Trải qua hàng ngàn năm quân chủ, quan niệm đất nước không thể một ngày không có vua đã bám rất chặt vào tâm khảm con người và ngay tức thì khó mà hình dung nổi có một hình thái xã hội nào đó sau khi giành được độc lập (giả sử như thế) lại có thể mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn so với dưới chế độ thực dân thời kỳ đầu…
Có thể suy luận rằng phong trào nhân dân kháng chiến chống Pháp sôi nổi và quyết liệt thời kỳ đầu là nhờ tinh thần yêu nước thuần túy của Đại Chúng. Kinh nghiệm hàng ngàn năm chống phong kiến phương Bắc với cuộc sống bị chà đạp tàn bạo nhất, cho nên phải chống xâm lược. Hành động kiên quyết chống xâm lược đó đã trở thành truyền thống bất khuất của dân tộc và tương tự như bản năng ở mỗi con người Việt. Dù sao thì cái tinh thần quật khởi, một lòng kháng chiến chống Pháp đó đã bị triều đình Huế ngu ngốc bỏ lỡ, và hơn thế nữa là đang tâm phá hoại. Bên cạnh đó, thời thế cũng đã đổi thay: những luồng gió mới mát lành từ nền dân chủ tư sản châu Âu đã thổi vào châu Á đang bị giam hãm ngột ngạt bởi xiềng xích phong kiến quân chủ, mở ra những lựa chọn mới, hy vọng mới cho Đại Chúng các nước. Cuộc nổi dậy đấu tranh vũ trang của nhân dân ta chống Pháp xâm lược vào nửa cuối thế kỷ XIX có vẻ cơ bản là vì thế mà mau chóng thoái trào? Đấu tranh giành lại độc lập chỉ vì cái mục đích “ghét” Pháp, yêu nước chung chung thôi, đã làm giảm sút tính chính đáng của nó. Một cuộc giành độc lập sẽ không được Đại Chúng triệt để ủng hộ khi nó không đem lại một danh lợi sát sườn nào cho cuộc sống Đại Chúng, không mở ra được một tương lai xán lạn nào cho đời sống xã hội. Giành độc lập cho đất nước chỉ vì yêu nước một cách mông lung thôi mà thiếu mất mục đích danh lợi nhằm đáp ứng cuộc sống thì cũng khó lòng kích thích được cái động lực đấu tranh to lớn của Đại Chúng, và như thế, làm sao mà đi đến thắng lợi được? Chúng ta nhớ lại nguyên lý này: mọi cuộc vận động tạo dựng xã hội đều phải vì danh lợi, danh lợi là mục đích, là động lực của chúng và cũng chính là lý do tồn tại của chúng?
Cuộc chống Pháp xâm lược của nhân dân ta, tiếp sau thời kỳ trực diện đấu tranh vũ trang là thời kỳ đấu tranh chính trị. Nòng cốt lãnh đạo của cuộc đấu tranh chính trị này là các nhà chí sĩ yêu nước và lực lượng chủ yếu của nó là giới trí thức, học sinh. Mục đích của cuộc đấu tranh chính trị này là hun nóng, phát động tinh thần yêu nước thương nòi trong nhân dân, giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Quá trình đấu tranh đó, với những nguyên do nói trên, cũng đồng thời là cuộc đấu tranh tư tưởng trong hàng ngũ những nhà yêu nước về việc chọn đường lối, phương thức thực hiện… Chung qui lại là xác định cái danh lợi thiết thực mà Đại Chúng có thể gặt hái được một khi đã giành lại độc lập.
Tính ưu việt của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa so với hình thái kinh tế - xã hội phong kiến và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của chế độ thực dân thời kỳ đầu đô hộ đã hầu như che giấu được cái bản chất ăn cướp trắng trợn của nó. Đây có thể là nguyên nhân chính gây ra hiện tượng hoang mang, lúng túng, bế tắc trong cuộc đấu tranh tư tưởng, tìm kiếm một con đường khả dĩ giành độc lập cho đất nước. Cũng vì vậy mà việc tuyên truyền vận động quần chúng đấu tranh cho nền độc lập nước nhà đã vấp phải rất nhiều khó khăn chăng?
Tuy nhiên, bản chất ăn cướp trắng trợn và tàn bạo của chủ nghĩa thực dân sớm muộn gì cũng phải lộ tẩy ra, nhất là trong những giai đoạn biến động xã hội ở “chính quốc” và trên thế giới làm ảnh hưởng tiêu cực đến chế độ đã sản sinh ra nó, đòi hỏi nó phải ra sức bóc lột các nước thuộc địa, không từ một thủ đoạn nào. Tình hình đó đã làm xuất hiện trong lòng Đại Chúng sự đòi hỏi ngày càng lớn về sự phải vùng lên giải phóng xóa bỏ áp bức bất công, đồng thời cũng giải quyết luôn cuộc đấu tranh tư tưởng để đi đến một quan niệm nhất quán, phù hợp với đòi hỏi của Đại Chúng và mang tính cách mạng. Đến đây, tiền đề cho một cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc thắng lợi đã hé mở.
Cụ thể, đối với dân tộc Việt Nam, quá trình đấu tranh tư tưởng ở thời đoạn ấy tất yếu dẫn đến sự lựa chọn cuối cùng là quan niệm của Mác - Lê về đấu tranh giải phóng, giành độc lập dân tộc, vì nó cũng phù hợp với ý nguyện của Đại Chúng lúc bấy giờ.
Thế giới đã phải quay theo chiều tự nhiên của nó và định mệnh đã tưởng thưởng cho Việt Nam, một dân tộc bất khuất trên một đất nước hiền hòa, trở thành lực lượng kết liễu chủ nghĩa thực dân, và nêu một tấm gương sáng ngời về đấu tranh giải phóng, giành độc lập dân tộc, giành quyền được sống tự do - bình đẳng - bác ái trong cộng đồng các dân tộc trên thế giới…
Với tài nhớ như in của mình (dù đã mất trí nhớ từ lâu rồi!) chúng ta sẽ kể lại câu chuyện vắn tắt (thực ra là Copy!) về cuộc đấu tranh tư tưởng đã từng xảy ra trong thời kỳ Pháp xâm lược và đô hộ mà tiến sĩ Huỳnh Công Bá đã kể trong cuốn sách “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” (NXB Thuận Hóa, năm 2006), có thêm thắt chút ít của nhiều người khác trong những cuốn sách khác (cũng là Copy nốt, vì yêu cầu đòi hỏi của sự thực khách quan và sự không thể kể hay hơn họ được về những sự kiện lịch sử; Tuy nhiên “chính kiến” vẫn là của chúng ta).
Sau khi đàn áp xong phong trào Cần Vương, thực dân Pháp bắt tay tiến hành cuộc khai thác qui mộ tài nguyên thiên nhiên và sức lao động của Việt Nam (mà sau này thường gọi là cuộc khai thác lần thứ nhất). Phục vụ cho công cuộc khai thác đó, chúng mở cảng Sài Gòn để xuất khẩu gạo, đào than Hòn Gai, lập các công xưởng ở Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, xây dựng Bến Thủy thành thị trấn công thương nghiệp; xây dựng các cơ sở hạ tầng như làm đường bộ, đường sắt, bến tàu, lập sở bưu điện, ngân hàng, nhà máy, công ty thương nghiệp… Tình hình đó làm xuất hiện nhiều thành thị. Trước đây, ở nước ta, chỉ có Sài Gòn và Hà Nội là tương đối tấp nập. Giờ đây, các tỉnh lỵ đều trở thành những trung tâm thương mại. Ngoài ra, còn xuất hiện một số trung tâm công nghiệp như Hồng Gai, Cẩm Phả, Hải Phòng, Nam Định, Bến Thủy… Thực dân Pháp cũng phát triển báo chí làm cơ quan ngôn luận phục vụ cho công cuộc đô hộ và khai thác, công bố các chủ trương chính sách của Nhà nước thực dân; mở trường đào tạo người giúp việc… Điều đó, khách quan đã góp phần mở ra cho người Việt Nam một chân trời mới…
Vào đầu thế kỷ XX, trên thế giới có một số sự kiện tác động thức tỉnh đối với nhân dân Việt Nam, đó là sự cường thịnh của Nhật Bản… Đặc biệt, thắng lợi của Nhật trong cuộc chiến tranh với nước Nga Sa hoàng (1904 - 1905) càng làm cho người Việt Nam nghĩ rằng: một nước Châu Á nhỏ bé nếu biết tự cường vẫn có thể đánh bại một nước Châu Âu hùng mạnh. Nhiều chí sĩ yêu nước đã hướng đến Nhật Bản, coi đó là tấm gương đáng để học tập.
Năm 1894, Tôn Trung Sơn lập “Hưng Trung hội”; đến năm 1905 lại lập “Đồng Minh hội” với mục tiêu cụ thể là: “Đánh đổ nhà Mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa, thành lập dân quốc, bình quân địa quyền” trên cơ sở hệ tư tưởng dân chủ tư sản. Năm 1911, dưới sự lãnh đạo của Tôn Trung Sơn, Cách mạng Tân Hợi bùng nổ, nước Trung Hoa Dân Quốc được thành lập. Lúc bấy giờ ở Trung Quốc đã xuất hiện hàng loạt sách báo, những tác phẩm dịch, giới thiệu, truyền bá tư tưởng của các nhà tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây như Xpenxơ (Spencer), Vônte (Voltaire), Ruxô (J.J. Rousseau)… Những sách báo đó qua các cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn được đưa vào nước ta. Nhưng sự kiện này đã tác động mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh tư tưởng ở Việt Nam. Báo “Thần Chung” ở Sài Gòn, số ra ngày 8-1-1929 đã viết: “Những Thanh Nghị báo, Tân Dân tùng báo, Ẩm Băng thất, Tự Do Thư, Trong Quốc hồn, đã đánh thức đám sĩ phu nước ta gần như trực tiếp, vì trong đó nói chuyện nước Tàu mà có chỗ trùng bệnh người mình lắm”
Đầu thế kỷ XX, ở nước ta xuất hiện tác phẩm “Văn minh tân học sách”, khuyết danh tác giả. Sách này là chủ trương tích cực học hỏi những mặt được cho là tiến bộ của xã hội phương Tây để trên cơ sở đó thực hiện đổi mới xã hội về văn hóa và kinh tế mà suy cho cùng là muốn đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa với một nhà nước dân chủ tư sản.
Tiêu biểu cho cuộc đấu tranh tư tưởng trong hai, ba thập niên đầu thế kỷ XX ở Việt Nam là hai nhà thi sĩ yêu nước nổi tiếng Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh.
Là một nhà nho yêu nước, trong giai đoạn đầu, những hoạt động của Phan Bội Châu chỉ “cốt sao khôi phục được nước Việt Nam, lập ra một chính phủ độc lập, ngoài ra chưa có một chủ nghĩa gì khác”.
Năm 1904, tại Quảng Nam, Phan Bội Châu cùng những người đồng chí hướng như: Nguyễn Thành, Đặng Thái Thân, Phạm Văn Ngôn… thành lập tổ chức chính trị gọi là “Duy Tân hội”. Cháu 6 đời của vua Gia Long là Cường Để được cử làm hội chủ. Mục đích duy nhất của tổ chức này là đánh đuổi Pháp, giành độc lập. Sau đó hai năm, mục tiêu của hội được Phan Bội Châu nêu rõ hơn: “Làm thế nào khôi phục nước Việt Nam, lập thành nước quân chủ lập hiến”. Một trong ba kế hoạch hoạt động của hội là hướng đến Nhật Bản, xuất dương cầu viện. Theo kế hoạch này, Phan Bội Châu đã vận động thanh thiếu niên trong nước sang Nhật Bản học hỏi, làm dấy lên phong trào có tên gọi là “Đông Du”.
Tuy kế hoạch cầu viện thất bại, nhưng Phan Bội Châu đã chuyển biến tư tưởng. Trong “niên biểu”, ông biết rằng lúc bấy giờ, “tôi từ khi sang Nhật, được nghiên cứu nguyên nhân cách mạng nước ngoài và chính thể các nước, thì rất say sưa về lý luận của Lư Thoa (Ruxô); vả lại được giao thiệp với các đồng chí Trung Hoa nhiều, nên trong đầu óc đã xếp tư tưởng quân chủ vào một xó”, và “tôi được trao đổi nhiều với đảng viên cách mạng Trung Quốc nên càng ngày càng thấm nhuần được tư tưởng dân chủ. Tuy bị kế hoạch cũ ngăn trở, lời lẽ chưa phát triển được mạnh dạn, nhưng trong bụng đã chứa sẵn một động cơ thay đổi bắt đầu từ đó”.
Trong “Việt Nam quốc sử khảo” viết năm 1908, Phan bội Châu viết: “Dân quyền mà được đề cao thì dân được tôn trọng mà nước cũng mạnh. Dân quyền bị xem nhẹ thì dân bị coi khinh mà nước yếu. Dân quyền bị hoàn toàn mất thì dân mất mà nước cũng mất”. Tiếp đó, xem xét cơ cấu cũng như cách thức hoạt động chính quyền ở các nước tư bản thuộc hàng phát triển mạnh nhất bấy giờ là Nhật, Anh, Pháp, Đức, Mỹ, ông cho rằng nguyên nhân của sự cường thịnh là chế độ dân chủ. Ở các nước đó, Phan Bội Châu viết: “hình pháp, chính lệnh, thuế khóa tiêu dùng đều do nghị viện quyết định, mà nghị viện thì đều do nhân dân tổ chức nên. Chính phủ không được can thiệp vào. Hàng năm đến kỳ nghị viện họp, các nghị viên tụ tập đông đủ. Chính phủ phải trình bày dự án trước hội nghị. Nghị hội tức là nhân dân. Những điều nhân dân cho là phải, chính phủ không thể không làm; những điều nhân dân cho là trái, chính phủ không được làm”.
Nước Trung Hoa Dân Quốc được thành lập (1-1-1912) đã tác động mạnh mẽ đến Phan Bội Châu. Tháng 3-1912, tại từ đường nhà Lưu Vĩnh Phúc ở Quảng Đông, Phan bội Châu triệu tập hội nghị toàn thể hội viên Duy tân hội, quyết định đổi tên thành Việt Nam Quang Phục hội, Cường Để vẫn được bầu làm Hội trưởng, Phan Bội Châu làm Tổng lý, tôn chỉ của Hội được xác định là “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng Hòa Dân Quốc Việt Nam”.
Ngày 19-1-1914, Phan bội Châu bị nhà đương cục Quảng Đông bắt giam và đến tháng 4-1916 thì được trả tự do. Năm 1917, Phan bội Châu viết sách: “Pháp - Việt huề luận”, biểu hiện sự hoang mang, dao động trong lập trường tư tưởng của ông. Trong sách đó có đoạn viết: “Tôi muốn từ nay về sau, người Pháp chớ coi người Nam như tôi tớ, như trâu ngựa, mà coi người Nam như bạn bè, như thân thích. Người Pháp mà thực lòng coi người Nam như bạn bè thân thích mà mình lại không biết coi người ta như bạn bè thân thích hay sao? Trong lúc vô sự thì dạy nuôi gồm đủ, đến lúc có sự thì họa phúc cùng nhau. Đem tất cả bọn con em khỏe mạnh 25 triệu người Việt Nam mà cùng các tướng tài quân giỏi của nước Pháp cùng hợp sức chống giữ cửa ngỏ, mà người Nhật muốn có cắn nuốt e cũng không sao trôi cổ họng được”. Sự chuyển biến tư tường từ bạo động chống Pháp sang hòa thân với Pháp là một bước lùi trong nhận thức chính trị của Phan Bội Châu. Ông đã chưa thấy được bản chất của thực dân, xâm lược.
Phan Chu Trinh cũng là một nhà nho yêu nước cỡ lớn. Ông là người sớm có tư tưởng dân chủ ở nước ta. Chủ trương cứu nước của ông có khác với chủ trương cứu nước của Phan Bội Châu.
Sau khi từ quan (1905), Phan Chu Trinh vào Nam ra Bắc để tuyên truyền chí hướng mình. Năm 1906, ông sang Trung Quốc gặp Phan Bội Châu và sau đó cùng sang Nhật. Trong thời gian ở Nhật, hai người từng trao đổi, tranh luận về đường lối cứu nước. Phan Chu Trinh nói với Phan Bội Châu: “Nay được mấy học sinh vào nhà trường của Nhật Bản là sự nghiệp rất lớn của ông đấy. Bây giờ ông nên ở Đông Kinh tĩnh dưỡng, chuyên chủ về việc viết sách, không cần hô hào đánh Pháp, chỉ nên đề xướng dân quyền. Dân đã giác ngộ được quyền lợi của mình, bấy giờ mới có thể mưu tính việc khác” (Phan bội Châu niên biểu). Phan Bội Châu có thuật lại cuộc tranh luận về chính kiến giữa hai người như sau: “Ông (tức Phan Chu Trinh) thì muốn trước hết đánh đổ ngay quân chủ để  làm cơ sở xây dựng nhân quyền, tôi (tức Phan Bội Châu) thì muốn mưu tính đuổi ngay giặc Pháp, đợi khi nước nhà độc lập rồi sẽ mưu tính đến việc khác. Ý tôi là muốn lợi dụng quân chủ thì ông cực lực phản đối, ý ông là muốn đánh đổ quân chủ, đề cao quyền dân thì tôi không tán thành, vì ông với tôi tuy cùng một mục đích, nhưng thủ đoạn khác nhau rất xa. Ông thì từ chỗ dựa vào Pháp để đánh đổ vua, tôi thì đi từ chỗ đánh đổ Pháp mà phục lại Việt, do đó mà khác nhau. Nhưng dù chính kiến ông có khác tôi, mà về ý chí thì ông rất thích tôi”.
Để thực hiện đường lối đó, Phan Chu Trinh đã đi diễn thuyết tại nhiều nơi và vận động cho chủ trương cải cách giáo dục, duy tân đất nước theo hướng dân chủ. Hoạt động của Phan Chu Trinh và những người cùng chí hướng đã thực sự có tác động tích cực, sâu rộng đến đời sống tinh thần trong xã hội và đồng thời chống lại chính sách ngu dân, ru ngủ của thực dân Pháp. Với cuộc vận động đó, có thể nói Phan Chu Trinh là người đề xướng dân chủ dân quyền sớm nhất ở nước ta.
Năm 1914, chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Đó là kết quả tất yếu của cuộc tranh giành thị trường và thuộc địa giữa các nước tư bản đã phát triển lên giai đoạn gọi là Đế quốc chủ nghĩa. Sau 4 năm khốc liệt, năm 1918, cuộc chiến tranh đế quốc nhằm phân chia lại thế giới ấy kết thúc.
Nước Pháp tuy ở tư thế kẻ thắng trận nhưng cũng bị tàn phá nặng nề, đời sống xã hội tiêu điều, kinh tế kiệt quệ. Để sớm hàn gắn vết thương chiến tranh, nhanh chóng khôi phục kinh tế, tư bản Pháp tăng cường cướp bóc không thương tiếc các nước thuộc địa.
Ở Việt Nam, thực dân Pháp thi hành “chương trình khai thác lần thứ hai” mà tác giả của nó là Xarô, một trùm thực dân mang nhiều nợ máu với nhân dân ta, đã từng hai lần làm Toàn quyền Đông Dương. Trong lần cướp bóc có qui mô lớn này, số vốn của Pháp đầu tư vào Việt Nam tăng rất nhanh. Từ năm 1924 (nghĩa là 6 năm sau chiến tranh thế giới thứ nhất) đến năm 1929, tổng số vốn của tư bản Pháp đầu tư vào Việt Nam hơn gấp 6 lần vốn đầu tư vào Việt Nam trong 20 năm trước chiến tranh. Qua đó, tư bản Pháp đã xâm nhập mạnh mẽ vào mọi ngành kinh tế nước ta, đặc biệt là nông - lâm nghiệp và khai thác mỏ. Sự xâm nhập này không nhằm nâng cao đời sống nhân dân lao động mà trái lại là công cụ tăng cường vơ vét thành quả lao động của họ cũng như tài nguyên thiên nhiên đất nước. Đi đôi với việc đó, để đảm bảo lợi nhuận tối đa (siêu lợi nhuận) cho công cuộc khai thác có tính cướp bóc trắng trợn lần này, thực dân Pháp đã thi hành hàng loạt chính sách chính trị, quân sự, văn hóa giáo dục thâm độc, đầy tính áp bức bất công với không ít phủ dụ mị dân làm phân hóa quần chúng để dễ bề cai trị. Bên cạnh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ được áp dụng ở mức độ nhất định, cần thiết cho sự cướp bóc, thực dân Pháp vẫn để cho tồn tại quan hệ phong kiến, làm cho nước ta ở vào tình trạng thuộc địa - nửa phong kiến, nhân dân lao động ở tình thế “một cổ hai tròng”
Với qui mô to lớn, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp đã làm chuyển hóa mạnh mẽ thành phần cũng như đời sống của lực lượng lao động nước ta. Thành phần làm công ăn lương trong các đồn điền, công ty Pháp tăng lên rất nhanh và bộ phận trực tiếp sản xuất gọi là công nhân trở thành một lực lượng to lớn. Con người thuộc bộ phận này (còn gọi là công nhân) có đời sống rất cực khổ (cực khổ đến độ không có tài sản gì đáng kể nên còn gọi là “vô sản”). Mãi đến tháng 10-1927, toàn quyền Đông Dương mới ra nghị định, quy định công nhân bản xứ được làm việc mỗi ngày 10 tiếng, kể cả thời gian đi về, nhưng trên thực tế, họ vẫn phải làm đến 12 hay 14 tiếng, có khi lên đến 15-16 tiếng với đồng lương ít ỏi. Cực khổ quá thì bỏ việc từng nhóm, sau là bãi công từ nhỏ đến lớn, lúc đầu là yêu sách vế kinh tế, sau là bên cạnh yêu sách về kinh tế có cả yêu sách về chính trị; lúc đầu là tự phát, tản mạn, sau là tự giác có tổ chức. Hiện tượng đó không phải là ngẫu nhiên!
Trong lúc đó đời sống người nông dân nói chung cũng không kém phần cực khổ bởi sự bóc lột của nhà nước phong kiến và đám cường hào, ác bá. Một số nông dân còn bị bần cùng hóa bởi nạn cướp đoạt ruộng đất lập đồn điền xí nghiệp của tư bản Pháp.
Dù cố duy trì và không ngừng tô son trát phấn cho bộ mặt giả nhân, giả nghĩa, thì đến đây, chủ nghĩa thực dân Pháp với những gì đã gây ra trong thực tiễn xã hội Việt Nam (mà không thể không gây ra!), xâm phạm trắng trợn đến quyền lợi tối thiểu, có tính sống còn của Đại Chúng Việt Nam, đã không thể che dấu được trước Đại Chúng ấy - một Đại Chúng đã từng trải đau thương và đã có cái nhìn sâu sắc và bao quát hơn nhờ sự tuyên truyền, khai trí của các nhà chí sĩ yêu nước, cái bản chất tham tàn, bạo ngược, vô nhân tính của nó. Một Đại Chúng đã chất chứa phẫn uất và bắt đầu sục sôi trong một xã hội phân hóa ngày một sâu sắc giàu nghèo và đầy rẫy bất công đã làm hình thành nên một môi trường thuận lợi cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Tình hình ấy đã làm cho phong trào đấu tranh chính trị yêu nước chuyển biến mạnh về tư tưởng theo hướng ngày một gay gắt hơn, trực diện hơn đối với chế độ thực dân - nửa phong kiến Việt Nam. Nhất là sau khi cách mạng vô sản ở nước Nga, còn gọi là Cách mạng Tháng Mười Nga giành được thắng lợi (7-11-1917) và tư tưởng Xã hội chủ nghĩa của nó lan truyền về Việt Nam, thì sự chuyển biến tư tưởng ở nước ta từ tư tưởng dân chủ tư sản sang tư tưởng Xã hội chủ nghĩa (hợp với nguyện vọng của Đại Chúng lao khổ lúc bấy giờ) trở nên một xu hướng tất yếu; một sự lựa chọn duy nhất phù hợp với đặc tính thời cuộc.
Năm 1922, vua Khải Định sang Pháp. Phan Chu Trinh (đã bị đưa sang cư trú chính trị tại Pháp vào thập niên trước đó, sau khi bị bắt đày Côn Đảo vì thực dân Pháp cho ông đã kích động phong trào chống thuế, và được trả tự do nhờ sự can thiệp của Hội Nhân quyền Pháp) đã viết “Thư thất điều” gửi Khải Định. Trong đó có đoạn “Nếu bệ hạ còn một chút thiên lương mà biết hối ngộ ra, tin rằng quân quyền không có thể cậy được, dân quyền không có thể đoạt được, mau mau hãy quay đầu mà thoái vị đi, đem chính quyền trao trả cho quốc dân để quốc dân trực tiếp ngay với chính phủ Pháp mà làm công việc để mưu lợi ích sau này”; và: “Chớ vì bằng thói cũ không chừa, choán cái ngôi chí tôn, ra cái ngôi chuyên chế, chìm quốc dân xuống cái vực sâu hang thẳm đời đời thì Trinh này sẽ bố cáo với quốc dân và thương thuyết với chính phủ Pháp, lãnh mệnh 25 triệu đồng bào Việt Nam, cùng với bệ hạ tuyên chiến một trận kịch liệt, hễ cái ngày nào đầu Trinh này chưa rớt xuống đất tức là cái ngày quân quyền của bệ hạ chìm xuống đáy sâu, kẻo lại trách rằng Trinh không báo trước!”
Tháng 5-1925, chính phủ Pháp cho Phan Chu Trinh về nước theo yêu cầu của ông. Ngày 15-6-1925, Phan Chu Trinh gửi thư cho Toàn quyền Pháp là Biô (Paul Beau). Trong đó, ông có viết: “Hơn nữa, các quan phụ huyện chọn thằng dân béo nào thì ăn, từ việc trộm cướp, kiện cáo, án mạng cho đến các việc vặt khác, việc gì cũng bóp nặn lấy tiền. Phàm sầu khổ ở dân gian tức là mối lợi to của quan lại. Không cứ việc gì lớn nhỏ, việc hoãn việc cấp, hễ nắm được một mảnh giấy của quan bảo hộ thì họ quí như hòn ngọc coi như bùa hộ thân, vì nhờ đó mà thu được nặng túi”, vì thế, “ngày nay dân cùng của hết, nghèo giàu đều khốn, dân đói đầy đường, trộm cướp như rươi; oán trách rầm lên, tình thế thật nguy ngập”. Cũng trong bức thư đó, Phan Chu Trinh ngây thơ đề nghị: “Chính phủ bảo hộ quả thực có thay đổi hẳn chính sách kén chọn kẻ tài năng, trao cho quyền binh, lấy lễ mà đãi, tỏ rõ lòng thành, cùng với họ bàn mưu lập kế hưng lợi trừ hại, mở đường sinh dưỡng cho dân nghèo, trao quyền nghị luận cho thân sĩ, rộng đường báo chí để thấu dân tình, phân minh thưởng phạt để trừ lại tệ (cái tệ của quan lại), ngoài ra như sửa đổi pháp luật, bãi bỏ khoa cử, chấn hưng học hiệu, đặt dựng thư cục, đào tạo sư phạm cho đến học công thương, khoa kỹ nghệ, phép thuế dịch, không có cái gì không lần lượt cải lương, thì người dân đều yên làm ăn, kẻ sĩ đều vui phục vụ”.
Khi những kiến nghị đó của ông bị Pháp bỏ ngoài tai, Phan Chu Trinh bèn thực hiện chủ trương tự lực cải cách dân chủ. Ông đề xướng việc khai thông dân trí, mở mang dân quyền theo ba phương châm là khai dân trí, chấn dân trí và hậu dân sinh. Ông lên án chế độ quân chủ và bọn quan lại, ông cho rằng không đập tan được nền quân chủ thì dù có khôi phục được nước cũng không phải là hạnh phúc của dân. Đồng thời ông cũng chỉ trích cả chính sách cai trị của thực dân Pháp vì cho rằng nó đã dung dưỡng bọn quan lại, cố tình làm ngơ cho bọn chúng đục khoét, hà hiếp nhân dân, miễn sao đủ sưu thuế cho nhà nước là được.
Phan Chu Trinh đã thấy được thảm trạng xã hội thời ông, bắt đầu nhận ra dã tâm thực dân, nhưng đã không thấy được nguyên nhân sâu xa của nó không phải là cái triều đình đã mục rỗng, thối nát sống vạ vật ấy mà chính là chính sách cai trị thâm độc của thực dân Pháp, có nguồn gốc từ bản chất ăn cướp cố hữu của nó. Do đó mà ông đã ảo tưởng. Dù sao Phan Chu Trinh đã làm được nhiều điều có lợi cho dân, nước và trước sau, ông vẫn là một nhà tư tưởng lớn, có trái tim yêu nước nồng nàn.
Đến đầu thập niên 20 của thế kỷ XX, tư tưởng Phan Bội Châu, lúc ông đã bị Pháp đưa về an trí (thực ra là giam lỏng) ở Huế với tên gọi trìu mến của dân chúng là “ông già bến Ngự”, đã có sự thay đổi lớn lao. Trong tác phẩm “Xã hội chủ nghĩa”, ông đã hết lời ca ngợi chủ nghĩa xã hội.
Sự chuyển biến tư tưởng và chuyển hướng đường lối đấu tranh yêu nước, giành độc lập thể hiện rõ trên lĩnh vực sách, báo mà những cái tên tiêu biểu là Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Phạm Tuấn Tài, Huỳnh Thúc Kháng… Nhiều tờ báo, bài báo ở thời kỳ này đã ngày càng kiên định lập trường chống chế độ thực dân, nhiều nhà báo, trong tình hình kiểm duyệt khủng bố gắt gao của nhà đương cục Pháp, đã dũng cảm vạch trần, tố cáo trực tiếp vào chế độ thực dân. Báo “Le Jeune Annam” đã đăng lại các bài “Chủ nghĩa đế quốc Pháp ở Viễn Đông” và “Varenne ở Đông Dương” của Nguyễn Ái Quốc, vốn đã từng đăng trên báo “Le Paria” ở Pari (vì vậy báo này mới ra được số đầu tiên vào ngày 23-3-1926 thì bị cấm chỉ). Báo “Le Nhaqué” đăng bài trực tiếp đả kích chế độ thực dân phong kiến (vì vậy cũng chỉ ra được số đầu tiên vào ngày 11-12-1926 rồi phải đình bản). Báo “Pháp - Việt nhất gia”, trong số cuối cùng đã kịch liệt lên án chế độ thuộc địa, đòi tự do dân chủ, chống chủ nghĩa Pháp - Việt đề huề.
Đặc biệt, báo “La Cloche fêlée” của Nguyễn An Ninh xuất bản ở Sài Gòn từ ngày 10-12-1923 đến ngày 26-4-1926 đã kịch liệt phê phán chế độ cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương. Hơn nữa, trong những số cuối, báo này còn lần lượt đăng toàn văn “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” của Mác và Ăngghen, lên án sự nô dịch của thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam. Nguyễn An Ninh viết: “Người ta có viết và in một cuốn sách nhan đề: “Những điều kỳ diệu của người Pháp” ở châu Âu. Cái gì kỳ diệu? Thực ra cái kỳ diệu đó là chỉ cần trong một thời gian ngắn thôi, người ta đã có thể làm cho trình độ tri thức của người Nam đã thấp đi, lại càng rơi vào chỗ cực kỳ dốt nát. Cái kỳ diệu đó là người ta đã có thể trong một thời gian ngắn như thế, xô đẩy một dân tộc có tư tưởng dân chủ, ngã nhào vào tình trạng nô lệ hoàn toàn”. Trong bài “Nước Pháp ở Đông Dương” cũng của Nguyễn An Ninh, có đoạn: “Thứ nhất, nước Pháp chẳng những không áp dụng những nguyên lý vĩ đại mà nó tuyên bố, nó lại còn tiêu diệt tinh thần dân chủ của xã hội Việt Nam. Thứ nhì, Pháp là nước đã ban bố tự do và dân quyền cho những người mới hôm qua là nô lệ, thì chính nước Pháp đó ở Đông Dương lại đặt ách nô lệ lên cổ của một dân tộc tự do, từng có nền văn hóa, trong lúc người Pháp còn lạc hậu ở trong những làng xóm quanh ao hồ”…
Luật sư Phan Văn Trường là một trong những người Việt Nam đầu tiên tán thành chủ nghĩa Mác. Ông đã từng cộng tác đắc lực với Nguyễn An Ninh. Sau khi Nguyễn An Ninh bị bắt (ngày 26-4-1926), ông ra ngay tờ báo L’Annam (nước An Nam) nhằm phê phán chủ nghĩa Pháp - Việt đề huề, phản đối thực dân Pháp đưa binh lính Việt Nam đi tham gia trấn áp phong trào giải phóng dân tộc ở Marốc, Xiri, Libăng; đăng lại nhiều bài của báo L’Humanité (Nhân Đạo), cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp và đăng nhiều bài thể hiện cảm tình với Cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa xã hội.
Các tổ chức đảng phái chính trị hoạt động thời kỳ này, hầu hết vẫn trên lập trường tư tưởng dân chủ tư sản, nhưng đường lối đấu tranh đã ngả dần sang hướng chống Pháp quyết liệt hơn. Một số đã dứt khoát quan điểm phải đánh đuổi chính quyền thực dân - nửa phong kiến bằng bạo lực. Điều này đã giải thích cho việc hàng loạt những nhà hoạt động ưu tú của những tổ chức, đảng phái này, trước sau đã thay đổi lập trường, lần lượt đi theo tiếng gọi của chủ nghĩa xã hội khi tổ chức mang tư tưởng vô sản xuất hiện tại Việt Nam.
Nổi bật có các tổ chức đảng phái sau:
Đảng Lập hiến do Bùi Quang Chiêu đứng đầu. Lập trường chính trị của đảng này chỉ là yêu cầu chính quyền thực dân thi hành một số chính sách cải lương. Năm 1925, Bùi Quang Chiêu sang Pháp vận động chính phủ Pháp ban hành một số cải cách tự do dân chủ ở Đông Dương, nhưng không đạt được kết quả. Ngày 24-3-1926, nhân khi Bùi Quang Chiêu từ Pháp về đến Sài Gòn, Đảng Thanh Niên đã huy động 60.000 người xuống đường đón rước Bùi Quang Chiêu nhằm biểu dương lực lượng đòi chính quyền thực dân Pháp ban bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Trong cuộc mít tinh này, sợ gây xích mích với chính quyền Pháp, Bùi Quang Chiêu đã hô khẩu hiệu: “Pháp - Việt đề huề muôn năm”. Vì vậy, ngay tối hôm đó, quần chúng đã hô to: “Đả đảo chủ nghĩa Pháp - Việt đề huề”, “Đả đảo Bùi Quang Chiêu!”.
Đảng Thanh Niên là một tổ chức công khai do một số thanh niên yêu nước như Trần Huy Liệu, Nguyễn Trọng Hy… thành lập ở Sài Gòn vào tháng 3-1926. Đảng Thanh Niên không có cương lĩnh, điều lệ, hệ thống tổ chức. Chỉ là một tập hợp quần chúng hoạt động biểu dương lòng yêu nước như: đón tiếp Bùi Quang Chiêu như đã nói trên, tổ chức lễ tang Phan Chu Trinh (bệnh, mất vào ngày 24-3-1926), đòi trả tự do cho Nguyễn An Ninh.
Tâm Tâm Xã: (còn có tên là Tân Việt Thanh Niên Đoàn), do một số thanh niên yêu nước như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong… thành lập vào thập kỷ 20 của thế kỷ XX. Tôn chỉ của tổ chức này là: “phục quốc”, “hợp sức mọi người, lấy ý kiến tập thể, dũng cảm tiến lên, để đem lại cho mọi người cái nhân quyền đã bị cướp mất và mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân”. Ngày 19-6-1924, một thành viên của Tâm Tâm Xã là Phạm Hồng Thái đã ném bom vào khách sạn Victoria ở Sa Diện, đô giới của Pháp ở Quảng Châu để ám sát toàn quyền Merlin. Mục đích không đạt được, Phạm Hồng Thái hy sinh anh dũng. Tuy nhiên sự kiện đó đã nêu cao tinh thần bất khuất trong lòng những người Việt Nam yêu nước.
Việt Nam Nghĩa Đoàn là tổ chức yêu nước của một nhóm sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội, như Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai, Phạm Thiều…, thành lập năm 1925. Sau đó, kết hợp với một số sĩ phu yêu nước vừa mới ở tù ra như Lê Văn Huân, Trần Mộng Bạch, Nguyễn Đình Kiên…, đổi tên Nghĩa Đoàn thành Hội Phục Việt. Hội Phục Việt tuyên bố: “Nước Pháp dùng vũ lực để bắt nước ta thành nô lệ…, họ đã áp bức dân ta nhiều năm nay… Trong cảnh ô nhục và căm thù đó, chúng ta, người Việt Nam, không thể đội trời chung với người Pháp… Các dân tộc đang hưởng ứng lời kêu gọi của nước Nga Cách mạng… Lẽ nào người Việt Nam chúng ta lại vẫn chìm đắm trong giấc ngủ triền miên…? Hỡi dân tộc Việt Nam! Hãy mau mau thức tỉnh…”.
Việt Nam Quốc Dân Đảng là tổ chức chính trị tiêu biểu cho xu hướng cách mạng dân chủ tư sản, do Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài sáng lập vào đêm 25-12-1927 ở Hà Nội. Hạt nhân đầu tiên của đảng này là nhóm Nam Đồng thư xã của Phạm Tuấn Tài, thành lập đầu năm 1927. Khi mới thành lập, đảng này chưa có đường lối chính trị rõ ràng. Buổi đầu thành lập chỉ nêu mục tiêu chung chung là “Trước làm dân tộc cách mệnh, sau làm thế giới cách mệnh”, “xây dựng nền cộng hòa dân chủ trực tiếp”. Đến bản điều lệ soạn thảo năm 1928 thì có nêu chủ nghĩa của đảng là “xã hội dân chủ”, mục đích của đảng là: “Đoàn kết các lực lượng cả nam lẫn nữ để đẩy mạnh cách mạng dân tộc, xây dựng nền dân chủ trực tiếp và giúp đỡ các dân tộc bị áp bức. Đến bản chương trình hoạt động đầu năm 1929 thì Quốc Dân Đảng đã thay “chủ nghĩa xã hội dân chủ” bằng khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” với mục đích nêu ra cụ thể hơn, là tiến hành “cách mạng dân tộc, cách mạng chính trị, cách mạng xã hội, nhằm đánh đuổi giặc Pháp, đánh đổ ngôi vua, thiết lập dân quyền, thi hành tự do dân chủ”. Do tổ chức lỏng lẻo, hoạt động bừa bãi nên đã để cho mật thám Pháp lọt được vào hàng ngũ, đồng thời trong nội bộ đảng cũng xuất hiện mầm mống chia rẽ. Chiều tối 9-2-1929, ngay tại trung tâm Hà Nội, gần chợ Hôm, xảy ra vụ ám sát tên thực dân mộ phu đồn điền Badanh (Bazin). Nhân sự kiện này thực dân Pháp tổ chức khủng bố trắng không từ một tổ chức cách mạng nào, gây tổn thất lớn cho phong trào đấu tranh đang lên. Gần 200 đảng viên Quốc Dân Đảng bị bắt. Trước tình hình đấu tranh căng thẳng của Pháp và cũng do tâm lý dao động, nóng vội, một số lãnh đạo nòng cốt của đảng như Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính quyết định khởi nghĩa. Ngày 10-2-1930, cuộc nổi dậy bạo động xuất hiện ở Yên Bái, Phú Thọ, Lâm Thao, rồi đến ngày 15-2-1930 ở Hải Dương. Tất cả đều nhanh chóng thất bại. Nguyễn Thái Học cùng nhiều đồng chí của ông phải bước lên đoạn đầu đài, nêu cao tinh thần yêu nước, bất khuất. Đến đây Việt Nam Quốc Dân Đảng tan rã. Riêng Phạm Tuấn Tài, nằm trên giường bệnh, trước lúc mất mới xác định lại niềm tin cuối cùng của đời mình: “Đối với tổ chức đảng, tôi nhận thấy rằng: cách mệnh thành công mới là mục đích cứu cánh, còn tổ chức đảng chỉ là một công cụ để thực hành cách mệnh… Do những điều kinh nghiệm về cách mệnh, tôi nhận thấy rằng: muốn phá hoại một xã hội cũ và kiến thiết một xã hội mới, lực lượng cách mệnh chỉ có thể trông vào các giai cấp nào trong xã hội bị bóc lột hơn hết và bị áp bức hơn hết. Và muốn đánh đổ chế độ hiện thời, những phần tử cách mệnh ở các dân tộc bị áp bức phải liên kết với công nông và quần chúng lao khổ ở các nước tư bản mà thành lập một trận tuyến chung. Chủ nghĩa quốc gia hiện đã trái mùa, cả đến chủ nghĩa xã hội dân chủ hay chủ nghĩa Tam dân cũng chỉ là những cách mệnh cải lương không công hiệu. Nói rõ hơn, chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể đánh đổ được chủ nghĩa đế quốc mà giải phóng cho các dân tộc yếu hơn, chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể phá tan được xã hội giai cấp mà dẫn nhân loại tới thế giới đại đồng”.
(Sự phân biệt giàu nghèo là không thể tiêu diệt được, một khi còn sản xuất hàng hóa và danh lợi. Nếu hội tụ được 3 yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa thì bất cứ cuộc cách mạng, khởi nghĩa nào cũng thành công chứ không cứ gì phải là cách mạng vô sản. Lịch sử thế giới đã chỉ ra như vậy. Do đó lời tâm huyết trên có thể là đúng cho thời đoạn lịch sử của nó nhưng không thể mang tính chân lý phổ biến!).
Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái cũng như cuộc bạo động non dẫn đến thất bại đau đớn của Việt Nam Quốc Dân Đảng, ngọn cờ phản đế, phản phong, giải phóng dân tộc đã chuyển hẳn sang tay những người cộng sản, mà theo Lê Duẩn là: “Từ năm 1930, trên dải đất Việt Nam, phong trào chống đế quốc giành độc lập, giải phóng dân tộc, chỉ là những phong trào do giai cấp công nhân lãnh đạo” (Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam; NXB Sự Thật, Hà Nội, năm 1967).
***


Mời xem:

LỜI PHÂN TRẦN

PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

PHẦN II: NỀN TẢNG

PHẦN III: NGUỒN CỘI