THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 24/ b


PHẦN III:     Nguồn cội

“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
.


CHƯƠNG II: NƯỚC NON

“- Non cao đã biết hay chưa:
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi!
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề”
Tản Đà

***
(tiếp theo)
Sau Giải Phóng, nước ta lại đổi tên: từ Việt Nam dân chủ cộng hòa, bỏ “dân chủ” đi, thay “xã hội chủ nghĩa” vào, đảo lại thành “Cộng hòa XHCN Việt Nam”, nghe dài hơn nhưng… cũng thế!
Trước những bài phát biểu hồ hởi lạc quan, trước những tuyên bố hùng hồn về triển vọng, ai cũng tin tưởng sắp ấm no hạnh phúc, sung sướng tới nơi. Thế rồi… mộng vỡ! Đói khổ, khó khăn, muộn phiền ập đến và ngày càng có phần trầm trọng. Đời sống Miền Bắc khó khăn hơn thời chiến tranh; đời sống Miền Nam khó khăn hơn thời trước Giải Phóng. Chẳng hiểu ra làm sao cả!

Nhà nước Việt Nam sau Giải Phóng vẫn còn hầu hết những con người ưu tú trong “Kháng chiến cứu nước”; vẫn một lòng một dạ phục vụ đất nước. Nhà nước ấy vẫn khẳng định: “là nhà nước của dân, phải do dân và vì dân”; đã thực hiện trọn vẹn những giáo huấn của Mác - Lê sau khi giành chính quyền: quốc hữu hóa, tịch thu, trưng thu các cơ sở vật chất của giai cấp tư sản; từng bước tiến hành cải tạo các quan hệ sản xuất cá thể của nông dân và thợ thủ công; duy trì hình thức sở hữu bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân là sở hữu toàn dân (sở hữu nhà nước) và sở hữu tập thể (hợp tác xã), tiến tới xóa bỏ triệt để mọi hình thức chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất - cơ sở của sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng,… đã thi thố nhiều biện pháp, nhiều quốc sách. Nhưng đâu vẫn hoàn đấy: vẫn ỳ ạch, vẫn trì trệ, vẫn là nghèo khổ. Không những thế, việc thực thi đường lối chiến lược nêu trên còn đẻ ra biết bao nhiêu phiền toái, tệ nạn gây chán nản thậm chí là phẫn uất trong lòng dân: nạn ngăn sông cấm chợ, nạn “mãi lộ”, nạn cường hào ác bá, nạn cửa quyền, nạn “trên bảo dưới không nghe”, nạn kiêu binh hỗn láo, ức hiếp dân lành… Ôi thôi, nhiều vô kể!
Nhà nước vò đầu bức tai và gần như bất lực, đau khổ vì nhân dân đói khổ, đời sống cực kỳ khó khăn trên dải đất “rừng vàng biển bạc” mà chiến tranh đã qua lâu rồi, mà trên dưới đều cùng một ước nguyện làm sao cho dân giàu nước mạnh.
Như thế không phải là quá dị thường ư?!
Rất may là dù hơi trễ nhưng vài con người ưu tú đã nhận thấy được vấn đề từ cuộc sống, từ sự “bất tuân” pháp luật để làm điều có lợi cho dân cho nước, và đã mở đường cho cuộc đổi mới tư duy trong sự nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng đất nước.
Dưới đây là những câu chuyện bi hài về các giai đoạn ấy mà chúng ta rút ra từ cuốn “Đêm trước Đổi mới”, NXB Trẻ, năm 2006 và cả trực tiếp chứng kiến:
- Ở thành phố Hồ Chí Minh, ai sống thời đó vào năm 1979 đều biết: chàng trai nào đi ngoài phố mà “quần loe, tóc dài” thì coi chừng! Một người kể: có lần, vào buổi sáng, đang đạp xe vội đến cơ quan làm việc, chợt “Toét, toét”, tiếng còi vang lên, tôi vội tấp xe vào lề không phải vì tiếng còi mà vì họng súng AK 47 của một chàng trai đeo băng đỏ trên cánh tay áo, mặt “kên kên”. Tôi hỏi “chuyện gì vậy?”. Thằng đó hất hàm “vô kia!”. Tôi chả hiểu gì, hỏi lại “có chuyện gì vậy, anh?”. Nó quát “vô đó cắt tóc rồi mới được đi”. Bấy giờ tôi mới nhìn thấy một tấm bạt giăng, có hai tay hớt tóc đang làm việc thoăn thoắt. Đành phải cắt, được cái đầu không vừa ý tí nào mà còn phải trả tiền công nữa (bây giờ không còn nhớ là bao nhiêu), tức anh ách. Cái đám “hồng vệ binh” đó giờ chắc cũng thành “quan” cả rồi!
- Suốt thời bao cấp, gạo “tiêu chuẩn” bao giờ cũng đầy bông cỏ và sạn. Bông cỏ lẫn với gạo không nhặt được hết còn đỡ, sạn mà không lược được ra hết thì đến nay “hàm răng chả còn”. Đến khi “bù giá vào lương”, “phải” ra chợ tự mua gạo ăn thì gạo mới trắng, hết bông cỏ và hết luôn cả sạn. Chả hiểu sao như thế!
- Hồi ký “Cái đêm hôm ấy… đêm gì?” của Phùng Gia Lộc, Hội viên hội văn học nghệ thuật tỉnh Thanh Hóa, đăng trên báo Văn Nghệ cách nay (năm 2008) đã được 20 năm, đã gây xúc động mạnh mẽ trong nhân dân cả nước thời ấy và ngày nay mỗi khi đọc lại, trong lòng ta vẫn còn trào dâng nỗi tủi hờn, chua xót. Đó là câu chuyện “nửa đêm thuế thúc trống dồn…” truy thu thuế nông nghiệp ở một làng ven sông Chu, xã Phú Yên (Thọ Xuân, Thanh Hóa) trong một đêm mưa rét mùa đông năm 1983.
Đọc Phùng Gia Lộc, không thể không ngỡ ngàng vì tin rằng sự kiện xảy ra tại gia đình anh trong “đêm hôm đó” chỉ có thể xuất hiện vào những năm trước Cách mạng tháng Tám, được phản ánh rõ nét đây đó trong dòng văn học hiện thực phê phán, dưới ngòi bút của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan…, ấy vậy mà nó vẫn “ngang nhiên” xuất hiện được sau Giải Phóng đến 8 năm, khi đất nước đã hoàn toàn độc lập, tự do và dân chủ, trong một chế độ được cho là đúng đắn nhất, tiên tiến nhất và văn minh nhất thời đại.
Ở đoạn kết của “Cái đêm hôm ấy… đêm gì?”, Phùng Gia Lộc viết:
“Lê Trung Quang ơi! Anh có thể giấu cái bi kịch của gia đình anh, nhưng tôi không còn có thể che giấu nỗi đau của nhân dân bất hạnh. Dù sự tiết lộ này có làm mất cái chức huyện ủy viên của anh, thì tôi cũng thấy cứ phải nói ra.
Chuyện thật của nhà anh đây: lúc vay ăn còn nợ bảy tạ, con Lâm, thằng Sơn phải đi mò hến từng bữa, chị ấy nấu bánh đúc, đi các làng đổi lúa. Anh mà nói ra, người ta cho là anh bêu riếu. Việc thật ở nhà tôi đêm 26 tháng 11 năm 1983, người ngoài cuộc hẳn cho là mình bịa. Cho đến nay, mỗi khi nghĩ đến, tôi cứ thảng thốt hỏi mình: “Cái đêm hôm ấy… đêm gì?”.
Đúng là không thể biết được!
- Cuộc sống cứ thế trôi. Cây vẫn đơm hoa kết trái. Thầy cô cưới nhau trong cảnh mượn của người này chiếc áo trắng, của người kia chiếc cà vạt. Chén, đũa, ly, dĩa… tập hợp của nhau lại bày cho đủ mâm. Nói thế cho sang chứ khẩu phần mỗi người ăn cỗ cưới chỉ có một miếng chả giò, một miếng dưa hấu và một quả chôm chôm. Thầy Hàng ra sân trường nhặt một cành sứ vào trang trí, quét dọn sơ sơ để biến thành căn phòng… hạnh phúc. Nhưng chiếc giường quá ọp ẹp, chân gãy tự bao giờ. Một ông thầy bạn thân thầy Hàng vốn khéo tay được tín nhiệm giao chăm chút lại “tổ ấm” cho đôi uyên ương. Chiếc giường đến giờ chót đủ bốn chân. Chú rể cười: xem như xong cái căn bản nhất.
- Ông Thành kể: nối nghiệp gia đình theo nghề lái xe, đến năm 1973, ông Thành sắm được một chiếc xe ca trị giá 3,5 triệu đồng, tương đương hơn 100 lượng vàng thời đó. Đây là một tài sản lớn, nghề khác không dễ có được. Ông Thành được xem là nhà tư sản “nhỏ” và ông đã có thể mơ đến chuyện thành lập một hãng xe. Lúc ấy dân tài xế nói riêng, những nhà buôn, dịch vụ nói chung làm ăn khấm khá. Bến xe miền Tây khi đó có một số hãng xe lớn sở hữu hàng chục phương tiện đắt tiền như Hiệp Thành, Phi Long, Á Đông… không ngừng phát triển.
Nhưng sự phát triển đã dừng lại sau Giải Phóng với “sáng kiến” công tư hợp doanh. Tất cả mọi chiếc xe lớn nhỏ dù của ai cũng đều phải đem góp vào công ty. Giá xe do Nhà nước định mà trên thực tế chỉ tương đương với 1% giá thật. Đã vậy, công ty chỉ mua chịu trả dần, mỗi lần một ít. Có người đến khi không còn ở công ty, hoặc đã chết vẫn chưa được trả hết. Bán xe xong, ai biết lái xe thì được nhận làm công nhân của Công ty, lái theo chuyến, ăn lương theo qui định. Ai không biết lái xe thì coi như mất xe.
- Thiếu tiền, nhiều công ty, xí nghiệp trả lương bằng hiện vật. Đơn vị có cao su thì trả bằng cao su, đơn vị sản xuất mũ thì trả bằng mũ. Người lĩnh phải tốn công đem gạ bán cho người thân, quen; ra bán ở chợ “đen”; nhiều khi ế, chẳng ai mua, méo mặt.
- Năm 1979, một công ty khai thác than ở Thái Nguyên được giao chỉ tiêu khai thác 150.000 tấn than. Nhưng năm đó các công ty khách hàng không đủ nguyên liệu sản xuất, máy móc, dây chuyền hỏng hóc… nên hoạt động cầm chừng, không cần nhiều đến than. Sản phẩm của công ty than nọ cứ ngày một chất chồng trong bãi. Đến lúc kho bãi không thể chứa thì công việc khai thác cũng phải “phanh” dần. Đến khi chỉ còn hai tháng nữa là hết năm mà sản lượng chỉ tiêu chỉ mới đạt một nửa. Nếu không hoàn thành kế hoạch thì số phận chính trị của ban lãnh đạo công ty bị đe dọa; đồng lương cũng như danh hiệu thi đua của tất cả cán bộ và công nhân công ty bị ảnh hưởng. Không thể “bó tay”, ban lãnh đạo công ty bám công trường cùng anh em công nhân miệt mài khai thác bất kể ngày đêm, sương gió cho bằng được chỉ tiêu. Và chỉ tiêu rồi cũng được hoàn thành. Chỉ có điều bất thường là phải tốn hai lần công sức: vừa mất công khai thác vừa mất công đem đổ than đi. Đổ xuống vực, xuống suối, xuống hang… hay bất cứ đâu cũng được vì kho bãi không còn chỗ chứa!
Một số cán bộ lão thành quá bức xúc, lên tiếng: “Chúng tôi gắn bó với mỏ than từ thời Pháp. Bọn chúng là thực dân, chúng tôi là phu mỏ nhưng cũng chưa bao giờ chúng tôi làm một việc kinh khủng thế này!...”
- Ông Bùi Văn Long, nguyên tổng giám đốc Liên hiệp Dệt Việt Nam (tiền thân Tổng công ty Dệt may), vẫn ám ảnh những con số chỉ tiêu: Dệt Thành Công được giao chỉ tiêu sản xuất 3 triệu m2 vải / năm. Nhưng khi 1/3 dây chuyền đắp chiếu vì không phụ tùng thay thế, vốn lưu động Nhà Nước cấp không nổi ½ nhu cầu thì cái chỉ tiêu ấy vẫn giữ nguyên. Đến lúc công ty khắc phục được khó khăn, năng lực dư thừa, thị trường “cháy” hàng thì chỉ tiêu ấy cũng không thay đổi. Hai chữ “chỉ tiêu” trở thành “vòng kim cô” khủng khiếp trùm lên toàn bộ mọi hoạt động sản xuất.
 - Cuộc sống quá khốn khó, động lực sản xuất, tinh thần trách nhiệm ngày một tiêu hao, nhiều căn bệnh phát sinh ở hầu hết các nhà máy, xí nghiệp. Điển hình nhất là tệ ăn cắp. Ông Nguyễn Xuân Hà (nguyên giám đốc công ty dệt Thành Công) vẫn còn nhớ kỷ niệm buồn: năm 1982, khi ông chuyển sang làm giám đốc Công ty dệt Thắng Lợi, có 5000 công nhân, nhưng tệ nạn trộm cắp trong nhà máy quá mức khủng khiếp. Trong ba tháng thực hiện “bàn tay sạch”, nhà máy bắt được 15 kẻ gian trong đó có 5 đảng viên. Thậm chí cả bí thư chi bộ cũng lấy cắp mô tơ. Trộm cắp được lập thành băng nhóm trong cơ quan, liên kết bên ngoài và thực hiện bằng các thủ thuật rất tinh vi.
- Sau Giải Phóng vài năm thì xăng không đủ cấp cho xe chạy. Những xe chạy xăng thời đó nhiều loại hiện đại, máy móc tốt nhưng chẳng lẽ để đắp chiếu. Thế là một “cao trào” thời đó xuất hiện: biến đổi xe chạy xăng lùi lại… hàng trăm năm thành xe chạy than. Xe chạy than đến đâu là lửa, xỉ than rơi vãi ra đường đến đỏ và lửa từng làm cháy rừng khi đi qua rừng núi.
- Một chiếc xe tải lấm đầy bùn đất xịt khỏi đen chạy ầm ầm qua đường. Thùng xe bịt một tấm bạt lớn đập phần phật. Đi ngược với nó là đoàn xe công tác của cán bộ. Và lập tức ông cán bộ cho quay xe đuổi theo. Đến ngang chừng chiếc xe tải, ông rút súng ngắn chĩa lên trời bắn ba phát đạn đanh giòn rợn tóc gáy. Chiếc xe tải sợ hãi dừng lại. Người rượt đuổi là một ông phó chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, muốn kiểm tra hàng lậu.
Thật ra chiếc xe đó chẳng khác gì những chiếc xe tải khác. Nhưng thời đó mọi thứ hàng hóa không phải của ngành thương nghiệp nhà nước, mọi vật tư nguyên liệu không có chứng từ vận chuyển đều là hàng lậu và ngoài công an, thuế vụ, mọi cán bộ nhà nước “có uy” một chút đều có thể chặn hỏi, xét hàng lậu, tùy thích.
- Người dân Bến Tre thường đi xuồng xuống Cà Mau mua lúa. Mỗi chuyến đi cả trăm cây số nhưng cũng chỉ có thể mua một tạ trở xuống. Dọc tuyến đường độc đạo này có rất nhiêu trạm gác. Có lần một bà nông dân bị cán bộ phát hiện chở lúa. Cán bộ bê bao lúa lên thì bà ta ngất xỉu. “Họ uất ức quá, gia đình đói khổ, quần áo te tua, đi mấy ngày mới tới Cà Mau, cả tuần lễ mới mua được bì lúa. Cả nhà trông vào đó…”
- Đây là trường hợp điển hình của tệ nạn (thu) mua như cướp, bán như cho:
Năm 1978, giá thành 1 m2 vải caliot sản xuất tại xưởng của Công ty dệt Thành Công là 1,5 đồng nhưng phải bán cho Nhà nước với giá 1,2 đồng. Giá thành 1 m2 vải dệt theo kiểu Oxford hết 10 đồng nhưng chỉ được bán cho Nhà nước với giá 9 đồng. Giá của hai thứ vải trên nếu bán ở thị trường tự do thì cao gấp 10 - 12 lần. “Sau bao nhiêu ca lao động cật lực để vượt qua những khó khăn mà Nhà nước không thể hỗ trợ như máy hỏng, nguyên liệu, vốn… thiếu hụt, nhà máy mới cho ra được một lượng hàng ít ỏi. Thế nhưng, nhìn cảnh đóng hàng xuất cho nội thương với giá thấp hơn vốn bỏ ra, cán bộ công nhân rơi nước mắt…”.
- Còn đây là bán như ban ân sủng:
Ông Nguyễn Đình Kiên, xã Gia Trung, huyện Gia Viễn (Thái Bình) kể: Nhà có con rể mới từ chiến trường về, bố vợ muốn mua tặng con một đôi dép nhựa và sắm thêm đôi chiếu cói. Ông đi bộ 18 km để đến cửa hàng mua bán huyện. Tới nơi, cô mậu dịch viên vừa cắm cúi thêu khăn vừa nói vọng lên: “Hết hàng!...”. “Vậy đôi này thì sao?”. Hỏi đến ba bốn lần, ông mới được cô ta gắt lên: “Mắt ông để đâu vậy? Không nhìn thấy bảng “hàng mẫu không bán” à?”. Về nhà, có người mách ông phải gặp kẻ môi giới và trả thêm tiền mới mua được. Chạy vạy mấy ngày, trả thêm gấp đôi tiền cùng rất nhiều lời cảm ơn, cảm tạ cuối cùng ông cũng mua được đôi dép và cặp chiếu cói (chắc cũng còn rẻ chán!).
- Mẹ con bà Đường (Hà Đông) hôm ấy dậy rất sớm, người đi chợ mua thức ăn, người đánh rửa ấm chén, quét nhà, người thắp hương, cắm hoa lên bàn thờ… Chiều ấy, sau năm năm đi công nhân cầu đường, ông Bái Văn Can, chồng bà, về thật. Đặt ba lô xuống, ông chia kẹo cho đàn con, đưa vợ nửa cân đường, một lọ mỡ, cuối cùng là tem gạo (suất ăn) của ông trong mấy ngày phép và tờ giấy chứng nhận “chiến sĩ thi đua”. Thấy chỉ có thế, bà Đường hỏi: “Bố mày còn gì đưa tôi cất cho?”. Ông Can móc ra hai cái mũ vải, nói: “Quà của mẹ nó đây!”. Giá trị của hai cái mũ vải là khoảng 1 tô phở/một chiếc. Bà Đường thất sắc ngồi phịch xuống, thốt lên cay đắng: “Trời ơi ông đi làm năm năm đằng đẵng mà chỉ mang về được hai cái mũ thôi à?”…
 Ông Can tậm sự: “70% thu nhập của một cán bộ hay công nhân là tem phiếu, 30% còn lại là lương. Thử hỏi, mỗi tháng tem gạo: 17 kg, thịt: 1,2 kg, đường: 0,75 kg thì tôi có thể để giành được gì… Còn lương, chao ôi nó ít ỏi kinh khủng! Mỗi tháng tôi được 50 đồng, nếu quá chân ra chợ với mấy ông bạn chỉ một hai bữa nhậu là hết”.
Đó là câu chuyện 20 năm trước của ông Can
- Năm 1981, bản thân chúng ta có một chuyến đi bão táp. Ngày đó, chúng ta làm việc ở Công ty vật tư tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, được phân công áp tải hàng nhu yếu phẩm (bột ngọt, vải vóc…) ra Hà Nội trong một hợp đồng mua bán, trao đổi hàng vật tư nguyên liệu sắt thép “chậm luân chuyển” với miền Bắc (gọi là vật tư nguyên liệu chậm luân chuyển vì ngoài đó chẳng ai “xài” do chủng loại qui cách không phù hợp hoặc cũng do sản xuất trì trệ, thiếu sáng tạo, trong khi trong Nam lại là “hàng quí hiếm” đối với sản xuất tư nhân, nhất là khu vực Chợ Lớn dưới hình thức “giả vờ” tập thể gọi là “tổ hợp sản xuất”, không có cách nào lo được chỉ tiêu cung ứng). Từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội không đầy 2000 cây số mà sao quá “cơ khổ”. Cơ khổ vì bị nhừ xương bởi đường xá xấu tệ hại, vì khi xe vượt đèo (nhất là đèo Hải Vân) vào ban đêm phải leo lên mui xe canh chừng cướp, vì xe cứ hư đi hư lại ọc ạch phải nằm vạ vật dọc đường, vì những bữa cơm chủ xe bao một cách nhăn nhó đôi khi hằn học làm không dám ăn nhiều và cảm thấy tủi nhục. Nhưng cơ khổ nhất là mỗi lần xe qua trạm, bị hoạnh họe, hạch sách đủ điều về hóa đơn, chứng từ, rồi lục soát, khám xét, dọa nạt giam xe, rồi chờ đợi trong nỗi lo lắng. Có những lúc xe phải nằm trạm đến không dưới hai tiếng đồng hồ liền. Mà nào xe có phạm gì, hóa đơn chứng từ đầy đủ, minh bạch, ngoài ra còn tờ công lệnh có đóng dấu tròn to tướng của chính phủ nữa. May mà chở đồ khô, chứ chở đồ dễ hư, đợi đến khi được chúng nó cho đi thì… “thôi rồi!”. Sau này chúng ta mới biết, muốn đi nhanh thì cứ phải “chung chi”, nhưng đợt đó chủ xe chở “hàng nhà nước”, giá hơi “bèo” nên chủ xe chả tội tốn tiền (chỉ trừ khi gặp mấy “đồng chí” cảnh sát giao thông!). Mỗi trạm đều phải dừng đại loại như thế và có hằng hà sa số trạm như thế: trạm cố định, trạm đột xuất, trạm thuế vụ, trạm công an, trạm dân quân, trạm tỉnh, trạm xã… Chúng ta còn nhớ hồi ấy ở phía Nam, khét tiếng nhất là trạm Ngã Ba Dầu Dây và trạm Nam Mô - Lăng Cô. Cánh lái xe qua được hai trạm ấy là thở phào.
Đoàn xe chúng ta “thoát” được Ngã Ba Dầu Dây nhưng đã không thoát được Nam Mô - Lăng Cô. Ở đó họ vạch lá tìm sâu và cho rằng chứng từ, hóa đơn viết không hợp lệ, công lệnh chính phủ như tờ giấy lộn, chả ăn thua gì trước đám lỳ lợm như sắt đá. Họ còn đòi dỡ hàng xuống. Chúng ta không chịu. Họ hăm dọa thì chúng ta nói: “Đây là hàng Nhà nước, chẳng phải của ông của cha gì chúng tôi. Mấy ông muốn dỡ thì cứ việc dỡ rồi bốc xếp trở lại, thế thôi!”! Thế là hàng không bị dỡ nhưng xe thì bị ách đó. Chúng ta đành đi bộ tìm điện thoại cách đó rất xa (không nhớ là mấy cây số nữa) để báo về Công ty. “Ngồi chơi xơi nước” gần hai ngày trời, đoàn xe mới được phép qua trạm.
Đến nay chúng ta vẫn còn điếc con ráy, không hiểu chuyện gì xảy ra, nhưng… nhớ đời!
¯¯¯
Với vài ba câu chuyện kể trên có lẽ cũng đã tạm thấy được thực trạng của thời trước Đổi Mới. Sự tồn tại của nó là một trái khoáy vô cùng khó chịu.
Biểu hiện của sự xâm lược là ăn cướp, vơ vét của cải của lãnh thổ bị xâm lược. Do đó bất cứ sự xâm lược nào cũng tàn bạo, ra sức áp bức bóc lột nhân dân bản địa. Tất cả những chiêu bài như bảo hộ, khai hóa… chỉ là lừa bịp, mị dân. Muốn yên ổn làm ăn sung túc thì trước hết phải chống xâm lược, giữ nước. Bài học đó được dân tộc ta thuộc từ rất sớm và qua hàng ngàn năm đã trở thành truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm.
Nếu đánh được ngoại xâm rồi mà đời sống vẫn cứ bị áp bức, khổ ải như khi còn ngoại xâm, thậm chí là khổ hơn thì đánh đuổi chúng để làm gì? Yêu nước không thôi, chưa đủ động lực chống ngoại xâm, mà còn phải có một hy vọng vào ngày mai tươi sáng hơn.
Quần chúng tự giác đi theo một cuộc khởi nghĩa, tin theo một cuộc cách mạng không phải vì nhận thức của nó về tự nhiên đúng hay sai, hợp lý hay không hợp lý, mà vì quan niệm của nó được cho là phù hợp với Đức Huyền Diệu.
Nhân dân ta tin yêu chủ tịch Hồ Chí Minh và ngoan cường đi theo Đảng cộng sản qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ đến thắng lợi cuối cùng là vì lẽ đó. Sau Giải Phóng, ước nguyện của nhân dân là mau chóng được ấm no hạnh phúc và đó cũng không ngoài ý chí của Nhà nươc XHCN: làm cho dân giàu, nước mạnh.
Ấy vậy mà lại xảy ra điều ngược với ước nguyện của nhân dân, trái với ý chí của Nhà nước. Không những thế, tình trạng “ngược ngạo” ấy còn bị kéo dài quá lâu, làm xói mòn lòng tin của toàn dân đến mức nghiêm trọng, bất mãn và phẫn uất nhồi trong xã hội ngày một tăng, không khí ngột ngạt đã bắt đầu lan tỏa trong cái vỏ chật hẹp đã căng cứng của cơ thể quản lý hành chính quan liêu bao cấp, tập trung cực đoan phi kinh tế thị trường. Sự căng thẳng ấy, theo lẽ tự nhiên, yêu cầu phải được giải quyết cấp bách, bằng cách nào đó cho êm xuôi, nếu không, cũng theo lẽ tự nhiên, nó sẽ… phát nổ.
Dù không nói ra thì cũng là tự nhiên, sự căng thẳng đến mức gay cấn của tình hình đã làm phân hóa tư duy nhận thức trong hàng ngũ lãnh đạo, làm xuất hiện những con người ưu tú mới, biết nghe và làm theo nguyện vọng của nhân dân, lấy mục đích của chủ nghĩa xã hội chứ không phải là lý luận về đường hướng thực hiện khô cứng kiểu kinh viện của nó làm kim chỉ nam cho hàng động; đã khôn khéo, sáng tạo và dũng cảm vượt qua rào cản của cơ chế đã bộc lộ tính bảo thủ, cực đoan và siêu hình. Thuật ngữ “xé rào” ra đời và sự xé rào đã như những luồng gió mát làm giảm đi sự ngột ngạt, căng thẳng, báo hiệu một bước ngoặt lớn lao làm nức lòng nhân dân cả nước.
Thật ra sau Giải Phóng, theo ông Võ Văn Kiệt, đã từng có ý kiến ở cấp cao muốn duy trì một nền kinh tế nhiều thành phần, sử dụng thị trường. Nhưng sau đó không lâu, xu hướng “tả khuynh” duy ý chí đã thắng thế dẫn đến cải tạo công thương nghiệp ồ ạt, cải tạo nông nghiệp vội vã, đưa dân đi kinh tế mới cưỡng bức. Đó là một trong những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở thời điểm trước đổi mới. Khi nền kinh tế và đời sống nhân dân đi đến cùng cực thì những quan điểm giáo điều, “tả khuynh” mới bộc lộ rõ tính bất lực của nó.
Ngay từ đầu tháng 9/1975, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói trước đoàn đại biểu miền Nam ra Hà Nội, đại ý: “Các đồng chí ra đây là đi thăm chơi, nghe và thấy về làm có chọn lọc, đừng bắt chước miền Bắc làm rập khuôn hợp tác xã, dân kêu lắm”.
Thực chất của nền kinh tế tập trung, quản lý theo mệnh lệnh hành chính quan liêu bao cấp là phi kinh tế, “phớt lờ” tính hàng hóa của sản phẩm được sản xuất ra từ một nền sản xuất có tính hàng hóa, đã xuất hiện từ rất lâu một cách tự nhiên, đang tồn tại và bám rễ chặt trong xã hội đã (buộc phải) phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất, không dễ gì đảo ngược được.
Sản xuất tự cung tự cấp chỉ có thể tồn tại ở phạm vi nhỏ lẻ và cũng chỉ tương đối, hình thức, trong một xã hội mà trình độ sản xuất và cả cái gọi là trình độ tiêu dùng đã ở mức cao nhất định, khi mà số lượng dân cư đã đông đúc, phân bố tương đối đều khắp các vùng đất đai có thổ nhưỡng đặc thù. Do đó sản phẩm dùng làm hàng hóa để trao đổi, mua bán là một phát sinh tất yếu, có ý nghĩa sống còn. Và như thế, không thể “giải giáp” được nền sản xuất hàng hóa để trở lại lối sống công xã nguyên thủy (không tưởng) được, hoặc để đạt tới xã hội cộng sản chủ nghĩa (lý tưởng) được. Đã không thể thủ tiêu được sản xuất hàng hóa thì cũng không thể dẹp bỏ thị trường được dù có ngăn sông cấm chợ quyết liệt đến mấy, dù các trạm kiểm soát có dày đặc đến mấy, kể cả súng đạn. Cho nên hiện tượng “xé rào” tự phát đã xuất hiện ngay từ khi hình thành cơ chế bao cấp và cơ chế bao cấp ấy càng phong tỏa, siết chặt bao nhiêu thì càng xuất hiện nhiều “xé rào” bấy nhiêu, càng sinh ra lắm lũ ăn hối lộ, “cướp ngày” bấy nhiêu và như thế sẽ càng gây ra sự phẫn nộ, khinh khi trong dân chúng. Từ đó, không thể khác được, sẽ làm xuất hiện những cuộc “xé rào” được cho là ngoạn mục, vì lẽ tự nhiên phải thế, vì người lao động, trước hết là vì dân vì nước rồi sau đó mới đến chủ nghĩa xã hội. Sự phân hóa nhận thức ở tầng cao, trong lực lượng những con người ưu tú mà lý tưởng cao đẹp của họ đã thể hiện trong những năm tháng khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước là không thể bàn cãi, tất yếu phải nảy sinh để đi đến một lựa chọn thống nhất là thỏa hiệp: tự do làm ăn ở trong nước, mở rộng quan hệ giao thương trên trường quốc tế.
Làn sóng xé rào và đấu tranh tư tưởng để biến đổi tư duy “ở bên trên” ấy tỏ ra không kém phần gay cấn, quyết liệt, tuy nhiên lại cũng vô cùng tế nhị, vẫn trong tình “đồng chí”, nghĩa “đồng bào”, không tiếng “súng đạn”, không “đấm đá sứt tai gãy gọng”, không “đổ vỡ”, và đó chính là cái tuyệt vời nhất của thời “đêm trước Đổi Mới”. Đó là một biểu hiện cái “cả tình, vị nể” của con người Việt Nam, nhưng sâu hơn, khó thấy hơn, cũng chính là sự biểu hiện cái bản chất trong sáng, đẹp đẽ, thắm đượm nhân tình của Nhà nước xã hội chủ nghĩa (hay Cộng sản) nói chung và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng dù có lúc đã hành động sai lầm. Dưới đây chúng ta sẽ kể vài cuộc xé rào được cho là điển hình “nòng cốt” của thực tiễn sinh động dẫn đến sự phá bỏ hàng rào cơ chế.
Cuối năm 1978, An Giang quyết định thành lập hợp tác xã Hòa Bình Thạnh, huyện Châu Thành làm nhân tố điển hình để mở rộng phong trào hợp tác hóa. Ông Sáu Kiệt, nguyên chủ nhiệm HTX Hòa Bình Thạnh kể: vận động bà con vào HTX, công an còn phải đứng bên bờ yêu cầu nông dân phá hết rau để giao đất cho HTX. Ông Nguyễn Ngọc Trìu, nguyên bộ trưởng nông nghiệp, từng chứng kiến cảnh hai vợ chồng có một con trâu. Chồng nghe vận động vào HTX, vợ thì không. Khi ra đồng, chồng đòi dắt trâu cày cho HTX, vợ giằng lại thừng để cày ruộng nhà. Chồng không thể chống nhiệm vụ HTX giao, đành phải trói vợ giữa đồng để cày xong mới thả vợ, trả trâu!
Thời trước, bà con xã Hòa Bình Thạnh đã đầu tư nhiều máy móc phục vụ sản xuất. Toàn xã 900 hộ dân có 70 cỗ máy cày, bừa, bơm, xới…, đến khi vào HTX đều được “công hữu hóa”. Hầu hết các chủ máy đều rất miễn cưỡng thi hành. Đối với họ đó là thứ tài sản lớn, chắt chiu nhiều năm mới có được, nay đưa vào HTX, thu nhập tính bằng công lao động, máy giao người khác như vậy coi như mất không. Thế là trước khi giao nộp, họ cố tình tháo bớt phụ tùng, có người chặt gần đứt cả xích, cưa cả trục máy. Số máy có thể hoạt động thì những chủ cũ không chịu điều khiển hoặc không được điều khiển nên giao cho chủ mới (thực ra cũng là người làm hưởng công). Chủ mới thường thiếu kỹ thuật hoặc thiếu tâm huyết (cha chung không ai khóc!) nên chẳng mấy chốc máy cũng đắp chiếu. Thế là sau một vụ, 100% đầu máy nông nghiệp của HTX nằm kho, hàng trăm hécta đất không làm kịp vụ phải bỏ hoang.
Ông Nguyễn Văn Hơn, nguyên bí thư tỉnh ủy An Giang, nhớ rất rõ: lúc ấy, tỉnh gần như hoàn thành chỉ tiêu hợp tác hóa bằng các tập đoàn sản xuất và HTX. Nhưng đồng hành với việc này là 20.000 ha diện tích đất bỏ hoang (chiếm gần 10% tổng diện tích) vì lý do trên.
Ban đầu tỉnh xin Nhà nước kinh phí để mua máy mới và sửa chữa máy cũ vì an ninh lương thực bị đe dọa. Trung ương trả lời không có và chẳng biết lấy đâu ra ngân sách. HTX và tập đoàn thì việc đó còn hơn đánh đố vì cũng chẳng có tiền. Không còn cách nào khác, đành phải làm cái việc trái với ý chí công hữu hóa tư liệu sản xuất: bán lại cái “đống” máy hư hỏng đó cho dân. Tất nhiên là phải bán đúng giá mà trước đây phải thu mua (rất rẻ và chủ yếu là nợ trên giấy tờ) và phải bán cho đúng những chủ cũ và như thế, thực chất là trả lại cho họ. Nông dân mừng khỏi nói. Và không đầy nửa vụ, toàn bộ số máy đó được phục hồi, hoạt động trên khắp cánh đồng.
An Giang đã “xé rào” như vậy. Đây là phát súng đầu tiên mang tính quyết định trong chiến dịch giải thể HTX và tập đoàn nông nghiệp của tỉnh.
Những mũi đột phá như thế, đặc biệt là khoáng chui ở Vĩnh Phú, rồi ở Đoàn Xà, Đồ Sơn (Hải Phòng) đã đẩy đến điểm chín muồi cho sự ra đời chỉ thị 100 (tháng 1/1981). Văn bản chính thức này cho phép áp dụng “khoán 100” (khoán 3 khâu: cấy lúa, thăm bón, thu hoạch) trên cả nước, tiến tới khoán triệt để (khoán 10) giao đất cho dân, bỏ công điểm… sau năm 1986.
Một trong những yếu tố gây ức chế nhất cho nền kinh tế lúc đó là chính sách giá cả mà nổi cộm và có ảnh hưởng lớn nhất là giá thu mua lương thực.
Theo chuyên gia sử kinh tế Đặng Phong, một số cán bộ cốt cán của ủy ban vật giá khăng khăng bảo vệ cơ chế với lý lẽ: CNXH là phải ổn định giá chỉ đạo, cách duy nhất để đảm bảo kế hoạch hóa tập trung; những trục trặc hiện nay trên thị trường là do lãnh đạo địa phương chưa thông, chưa làm tốt, HTX còn nặng tư tưởng tư hữu… trong khi Bộ Nông nghiệp và Viện Kinh tế học có ý kiến ngược lại.
Có lần, tại diễn đàn Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, ông Trần Phương, viện trưởng Viện Kinh tế học, phát biểu: cơ chế thu mua này là mua như cướp, bán như cho; cách tính giá của Ủy ban vật giá là sai vì đã không tính đến điều kiện thị trường, sự bất cập trong cơ chế cung ứng vật tư của Nhà nước hay nhu cầu ngày càng tăng của nông dân…
Sự phản đối cơ chế thu mua này diễn ra ở cơ sở tuy âm thầm nhưng mạnh mẽ hơn nhiều. Làm việc với lãnh đạo các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, một cán bộ Ủy ban vật giá “đố”: “Những người cộng sản chúng ta lấy lập trường của CNXH hay lập trường thị trường tự do để làm giá?”. Ông Bảy Phong, chủ tịch tỉnh Đồng Tháp lúc đó, trả lời: “Nếu nói phẩm chất người cộng sản thì chúng tôi không thua bất cứ ai. Khi chúng tôi lăn lộn đánh Mỹ thì các anh đang ở đâu, làm gì? Đánh Mỹ xong, chúng tôi đi theo CNXH. Nhưng CNXH gì mà mua không được, bán không được? Người nông dân có thể cho chúng tôi hàng trăm ngàn dạ lúa để đánh Mỹ. Nhưng bây giờ nói mua phải đúng là mua, nói bán phải đúng là bán. Cơ chế mua không được, bán không được trong khi lúa đang còn thì đó có là CNXH không?”.
Thực tiễn trả lời tất cả. Năm 1980, Nhà nước chuyển cho An Giang một lượng hàng tiêu dùng là săm lốp xe đạp, đường, sữa, xà phòng… tương ứng với nghĩa vụ An Giang phải thu mua và nộp về Trung ương là 100.000 tấn lúa. Nhiệm vụ này rất khó vì giá thu mua thấp hơn giá chợ 10 lần. Nông dân không muốn bán cho Nhà nước. Ngược lại, với lượng hàng Trung ương phân bổ, tỉnh cũng phải bán cho dân theo qui định với giá rất thấp nhưng giá ấy hàm chứa đủ thứ tiêu cực, bất công như: móc ngoặc, tham ô, cửa quyền, thất thoát, không đáp ứng đúng nhu cầu cần thiết và như vậy nông dân cũng chẳng hưởng lợi bao nhiêu từ lượng hàng đó.
Bài toán được giải quyết đơn giản không ngờ: tỉnh bán hàng theo giá chợ và lấy tiền đó mua lúa cũng theo giá chợ. Mạnh dạn thực hiện, năm đó An Giang mua được 160.000 tấn lúa, vượt chỉ tiêu 60.000 tấn mà vẫn còn thừa 10 triệu đồng… Nông dân, Nhà nước đều có lợi!
Đồng hành trong việc phá cơ chế giá là Thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 1978, sau chiến dịch cải tạo tư bản tư nhân, lập tức thành phố Hồ Chí Minh thiếu gạo - điều chưa từng có trong lịch sử miền Nam. “Hòn ngọc Viễn Đông” phải ăn độn với bo bo, khoai, sắn là điều khó mà tưởng tượng nổi.
Phải chấp hành chủ trương của Trung ương là tiến hành cải tạo, xóa bỏ thị trường tự do, nắm trọn khâu bán buôn. Làm như thế lại không huy động được lương thực và do đó xảy ra thiếu gạo. Chuyện thu mua lương thực ở đồng bằng Nam Bộ là chuyện của Trung ương, không phải việc của Thành phố. Thành phố không được phép trực tiếp mua gạo ở các tỉnh. Mà nếu có được mua thì với giá qui định “mua như cướp” cũng không thể mua được.
Từng đổ xương máu cho cuộc kháng chiến và sau đó lãnh đạo Thành phố, bí thư thành ủy Võ Văn Kiệt có lẽ là người nhức nhối nhất vì là người chịu trách nhiệm cao nhất trước Đảng, trước dân Thành phố. Ông tuyên bố: “Không thể để một người dân nào của Thành phố chết đói!”. Và ông đặt vấn đề: “Hiện nay, dự trữ gạo của Thành phố chỉ còn có vài ngày. Mình không thể để cho dân thiếu gạo được. Nhưng việc này với cơ chế hiện nay, không phải dễ giải quyết. Bộ Lương thực có trách nhiệm cung cấp gạo cho Thành phố nhưng chưa bao giờ cung cấp đủ và kịp thời. Sở lương thực thì không được phép mua với giá thỏa thuận. Dân đồng bằng sông Cửu Long có gạo nhưng không chịu bán nghĩa vụ cho Nhà nước vì họ bị thiệt. Trong khi đó dân Thành phố có tiền và sẵn sàng mua với giá thỏa thuận thì lại không được xuống mua và đưa ra khỏi tỉnh. Tại sao chúng ta không ráp hai mối này lại?”. Ban lãnh đạo Thành phố bàn bạc tới lui, rốt cuộc chỉ còn một cách duy nhất: xé rào cơ chế. Bà Ba Thi nói: “Làm cách này thì chúng tôi làm được, nhưng nếu Trung ương biết là đi tù đó”. Ông Kiệt cười, với một câu để đời: “Nếu do việc này mà anh chị đi tù thì tôi sẽ mang cơm nuôi”.
Thế là từng đoàn xe của Thành phố xuống đồng bằng sông Cửu Long mua lúa với giá 2,5 đồng/kg (tương đương 5 đồng/kg gạo). Gạo chở về thành phố bán theo giá kinh doanh (giá mua thực tế + chi phí xay xát + chi phí vận chuyển + thặng số thương nghiệp). Trong khi giá lúa do Ủy ban vật giá qui định, Bộ Chính Trị duyệt và Thủ Tướng ký là 0,52 đồng/kg. Giá bị “phá” đến những 5 lần!
Cái mốc “phá giá” này đã đẩy giá lúa khắp đồng bằng Nam Bộ lên 2,5 đồng/kg. Giá chỉ đạo bị vô hiệu hóa. Không bao lâu sau, mức giá đó lan ra cả nước. Sự đột phá trên của Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ cứu cái bao tử của người dân thành phố mà còn cứu nông dân cả nước khỏi cơ chế giá nghĩa vụ quá ư cực đoan, siêu hình.
Và sau đây là một câu chuyện nữa:
Sài Gòn sau giải phóng, giữa lúc tình hình sản xuất ngổn ngang thì hai vợ chồng chủ Hãng dệt Tài Thành (tức công ty Dệt Thành Công sau này) là Huỳnh Ngọc Thái và Đoàn Thị Mỹ đã hiến cho Nhà Nước toàn bộ cơ ngơi một nhà máy lớn nhất nhì ngành dệt may Thành phố lúc bấy giờ.
Ông Nguyễn Xuân Hà, vị giám đốc đầu tiên (sau Giải Phóng) của Dệt Thành Công, còn nhớ: xí nghiệp có hơn 100 cỗ máy, gần 20.000 cọc sợi và 300 công nhân lành nghề luôn cho ra đời mỗi năm 2,4 triệu m2 vải dệt kiểu Oxford - mặt hàng cao cấp nhất lúc đó. Thời gian đầu máy móc hoạt động bình thường nhưng đến cuối năm 1979 thì tình hình xấu dần. Dây chuyền máy móc, sau một thời gian hoạt động đã bắt đầu đòi hỏi phụ tùng thay thế, phải nhập khẩu từ Mỹ và Nhật - những nước tư bản mà “ta không chơi”. Nhưng khốn khổ nhất là kho nguyên liệu dự trữ của Tài Thành đã hết. 80% dây chuyền tạm ngưng sản xuất, không thể xoay sở được vì thiếu vốn. Về nguyên tắc, Nhà Nước cấp vốn theo kế hoạch từng năm, nhưng thực tế thì chưa năm nào Dệt Thành Công được cấp quá 20% nhu cầu. Nguồn thu nhập nhỏ nhoi nhất là vải vụn, tơ rối có thể làm găng tay, thú nhồi, mũ, túi… cũng phải nộp lại Nhà Nước. Công nhân không việc làm, đời sống ngày một quẫn bách. Ban lãnh đạo công ty liên hệ với các tỉnh Sông Bé, Đồng Nai đưa công nhân đi trồng trọt, chăn nuôi cải thiện đời sống. Nhưng cách giải quyết cho công nhân về làm nghề của nông dân rồi cũng chẳng đi tới đâu, sau hàng chục tháng vẫn như không.
Thực ra mấu chốt để giái quyết khó khăn, ách tắc của Dệt Thành Công là ngoại tệ, có ngoại tệ sẽ có phụ tùng và nguyên liệu. Nhà Nước không có ngoại tệ cấp cho doanh nghiệp. Vậy thì đào đâu ra? Thì ra qua lớp lớp tường ngăn, rào chắn, vẫn có những khe chảy ngoại tệ vào Việt Nam. Ban lãnh đạo Dệt Thành Công quyết định tiếp cận các nguồn này, gõ cửa các công ty: Du lịch Sài Gòn, Thủy sản Ramico, Cảng Sài Gòn, và giám đốc Nguyễn Xuân Hà bắt đầu “thuyết khách”: Tôi bán vải sợi cho anh để anh bán lại cho dân và mua cá; xuất khẩu thu ngoại tệ thì xin anh trả vốn cho tôi bằng ngoại tệ; với du lịch và cảng biển thì các anh cứ bày bán ở cửa hàng cho khách nước ngoài, tiền gốc trả tôi nhưng làm ơn trả bằng ngoại tệ… Các đối tác đều gật đầu “ôkê”. Vấn đề tiếp theo là phải có hàng. Muốn có hàng phải có nguyên liệu, muốn có nguyên liệu thì phải nhập, nhập phải có đôla... Rốt cuộc thì đầu tiên vẫn là phải có ngoại tệ rồi từ đó mới quay vòng để ra ngoại tệ! Muốn thế chỉ còn cách duy nhất là đi vay ngân hàng.
Ông Hà tìm gặp được giám đốc Ngân hàng Ngoại thương (VCB) thành phố Hồ Chí Minh, lại trình bày và được ưng thuận. Tất nhiên vay 180.000 đôla thì phải làm phương án. Sau hai đêm, phương án ra đời: đúng 120.000 đôla mua 40 tấn sợi; còn lại mua hóa chất, phụ tùng, thuốc nhuộm; sau khi sản xuất sẽ cho ra 80.000 m2 vải; đem bán cho hải sản, cảng biển, du lịch thu ngoại tệ; số tiền này dư trả ngân hàng, nuôi ngân hàng, nuôi công nhân, bảo dưỡng dây chuyền sản xuất, tích lũy và nộp ngân sách.
Theo qui định, phương án phải được bộ chủ quản duyệt. Thế nhưng nội dung của phương án này (tự mua nguyên liệu giá ngoài, tự sản xuất theo kế hoạch riêng, tự bán ra ngoài…) toàn là điều cấm kỵ. Phải tính tiếp! Lãnh đạo Bộ Công nghiệp nhẹ có nhân vật đổi mới, thoáng nhất là thứ trưởng Vũ Đại. Muốn thuyết phục được ông này thì phải gặp riêng và nhất định không phải ở bộ. Thế là đúng lúc thứ trưởng Vũ Đại vào Nam công tác, ông Hà đem phương án “động trời” ra… đệ trình. Cuối cuộc trao đổi, ông Đại hỏi: “Ừ, hay đấy! Nhưng tờ ký duyện phương án có sao không?”. “Anh phải ký ngay thì cái hay mới thành sự thật. Chứ đem ra bàn thì hỏng!”. Roẹt! Thứ trưởng ký! Chưa có dấu, nhưng ra Hà Nội lấy dấu không còn là vấn đề lớn nữa.
Bộ đã đồng ý. Dệt Thành Công bàn nhau: trong kho còn một ít hàng cầm cự, không bán cho nội thương (theo giá qui định) mà lén bán cho các công ty du lịch, thủy sản lấy ngoại tệ. Tháng 8-1980, họ âm thầm xuất lô hàng đầu tiên cho khách hàng mới. Thật bất ngờ, người ta tranh nhau mua, có người còn đặt tiền trước… Thấy thế, ông Hà nảy ra ý mới. Nếu theo đà này, 40 tấn sợi của phương án vay chỉ đủ dùng trong 6 tháng. Đằng nào cũng xin thì xin cho đủ. Lập tức ông hoãn ngày xin dấu, viết lại phương án. Phương án mới xin vay số tiền 1,7 triệu đô la, gấp chín lần phương án cũ. Không chỉ thế, ông Hà còn biến phương án mới, thành bản thuyết trình xin cho Dệt Thành Công thoát khỏi cơ chế chỉ tiêu để tự cân đối vốn, nguyên liệu, lương công nhân, được mở tài khoản tại Ngân hàng Ngoại thương, được giao dịch và trực tiếp xuất nhập khẩu, được khoán quĩ lương. Phương án này có tầm cỡ lớn hơn nhiều so với phương án cũ, đụng mạnh đến chủ trương chính sách Nhà nước, một mình thứ trưởng Vũ Đại không thể quyết. Dệt Thành Công phải ra Hà Nội thuyết trình. Thứ trưởng đồng ý tổ chức hội nghị.
Trong khi chuẩn bị ra Bắc, ông Hà nhận được một tin: có lô hàng 200 tấn sợi rẻ bất ngờ (500.000 đô la), chủ hàng muốn bán vì đang cần tiền. Không mua ngay e muộn. Nhưng tiền chưa có. Lẽ nào bỏ qua cơ hội ngàn năm có một? Ông Hà lại đến Ngân hàng Ngoại thương thành phố Hồ Chí Minh “tỷ tê”. Chưa có thủ tục mà xuất hẳn 500.000 đô la thì bị kỷ luật như chơi. Nhưng vị giám đốc Ngân hàng đã bắt chặt tay ông Hà: “Thôi được, dù phải hy sinh, chúng ta cũng vì sự nghiệp!”. Thế là nửa triệu đô la được xuất ra theo kiểu “tiền trảm hậu tấu”. Số sợi đó được chuyển về kho công ty và ông Hà thêm vững tâm xách cặp ra sân bay đi “thuyết khách”.
Được tính trước, hội nghị tiến hành đúng thời điểm những nhân vật “nguyên tắc”… đi vắng. Ông Hà đọc phương án và bảo vệ. Thứ trưởng Vũ Đại chủ trì đồng thời đóng vai trò người hướng dẫn luận án. Sau bốn tiếng đồng hồ vã mồ hôi, ông Hà “vượt cạn” xong. Khi ông Đại đứng lên kết luận: “Đây là mô hình mới, rất tiến bộ nhưng chắc chắn có khó khăn. Các vụ có trách nhiệm giúp đỡ doanh nghiệp chứ quyết không được xỏ ngang, xỏ dọc!”. Liên hiệp Dệt được phép soạn hẳn một qui chế cho Dệt Thành Công.
200 tấn sợi trong kho ngày một lên giá. Sản phẩm bán ra theo giá mới. Riêng tiền chênh lệch đã đủ ăn cả năm. Có tiền công ty áp dụng phương thức khoán sản phẩm hợp lý. Không khí lao động hưng phấn cao độ. Tiền, hàng luân chuyển ra vào như nước. Cuối năm đó không những trả hết vốn vay, Dệt Thành Công còn lãi gần một triệu đô la, lương công nhân cao gấp 6 lần doanh nghiệp khác. Quan trọng hơn, Dệt Thành Công đã minh chứng cho một cơ chế kinh tế mới cực kỳ ngoạn mục.
Người luôn ủng hộ và theo dõi từng bước đột phá của Dệt Thành Công là bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh lúc đó - ông Võ Văn Kiệt.
Sự thể xé rào trong “đêm trước của Đổi Mới” ngày càng lan rộng đến mức “nghiêm trọng” và tín hiệu tốt lành đến đời sống kinh tế đất nước không thể không tác động tích cực đến tư duy “tầng cao”.
“Sau khi nhận thấy yêu cầu cấp bách của thực tiễn cũng như hình hài con đường đổi mới  của Việt Nam, đồng chí Trường Chinh cho rằng tình thế lúc này không thể kéo dài được nữa, nhưng để thay thế cái cũ, phải nắm vững lý luận, hiểu rõ thực tế và nhìn thẳng vào sự thật. Do vậy ông quyết định làm gấp hai việc: một là tập hợp một nhóm tư vấn gồm những người có tư duy đổi mới để nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn làm căn cứ và tìm ra phương pháp luận cho việc xác định con đường, bước đi sắp tới; hai là tổ chức những chuyến đi thực tế các địa phương, tìm rõ cái hay cái dở, thành công và thất bại để có những đánh giá chính xác…”.
(Trích từ “Trường Chinh với hành trình đổi mới tư duy”, Gs. Trần Nhâm, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2005)
Ông Nguyễn Minh Nhị, phó bí thư tỉnh ủy, chủ tịch tỉnh An Giang, nói: “Cuộc sống dồn chúng ta đến chân tường của cơ chế lỗi thời mà nếu không phá nó đi thì không còn đường sống. Toàn Đảng đồng lòng phá nó, Đảng bộ An Giang đi đầu trong cuộc đột phá đó, cho dù không ít người “ba phải” chờ thời hoặc tỏ ra “kiên định cách mạng” nhưng không thể ngăn được giông bão cách mạng. Và năm 1986, cái gì đến phải đến. Đại hội VI của Đảng là mốc son và những người góp công đóng cái mốc son đó trong lịch sử đất nước, được người đời nhắc nhở như các cụ Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt… là những “đại công thần” đổi mới!”.
(Trong “Đêm trước Đổi Mới”, sđd)
Về mặt thời gian thì có thể xác định thời “đêm trước” là khoảng từ Giải Phóng đến Đại hội VI. Sự tồn tại ly kỳ của nó dù thế nào đi nữa cũng không nằm ngoài nguyên lý nhân - quả và nguyên nhân của nó thì cũng đã được chúng ta nhắc đến rồi. Nhiều người cho rằng việc xuất hiện cái hàng rào cơ chế tập trung quan liêu bao cấp là do ấu trĩ trong tư duy hoặc chưa nhận thức đúng kinh tế - chính trị học Mác - Lê. Chúng ta không cho là như vậy. Những cái đầu được đào tạo bài bản thì không thể suy nghĩ ấu trĩ, những bộ não chuyên gia thì không thể không nhận thức sâu sắc Mác - Lê. Phải cho rằng nó có nguyên nhân sâu xa hơn rất nhiều, là nguyên nhân của những nguyên nhân làm ra thời đêm trước đổi mới.
Thực ra tiền thân của thời đêm trước chính là thời xây dựng CNXH ở miền Bắc - hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thời đó cũng đã bộc lộ đủ những đặc điểm của thời sau Giải Phóng. Tuy nhiên sự bức xúc chưa đạt đến mức độ gay gắt, căng thẳng gần như không chịu nổi của thời sau này (trừ cuộc Cải cách ruộng đất năm 1954 - đã sớm được nhận dạng sai lầm, một cách công khai). Có điều đó là vì phần lớn nhờ nhân dân hiểu rõ tình hình đất nước, chấp nhận thắt lưng buộc bụng, “mỗi người làm việc bằng hai” vì miền Nam ruột thịt đang đứng ở tuyến đầu chống Mỹ với biết bao hy sinh gian khổ; dồn sức vào mục tiêu trước mắt là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; phần nữa là nhờ sự giúp đỡ, viện trợ to lớn và quí báu, trong đó có viện trợ lương thực, của Liên Xô, Trung Quốc, cả phe XHCN cũng như của nhiều nước khác. Khi không còn chiến tranh và đồng thời cũng mất luôn nguồn viện trợ dồi dào thì sự yếu kém của cơ chế quản lý kinh tế ấy mới được phơi bày ra hoàn toàn.
Nhìn rộng hơn chúng ta thấy toàn bộ phe XHCN, sau một thời gian kiên trì với nền kinh tế tập trung XHCN đã hầu như đồng loạt tan rã về mặt chính trị, những nước còn “trụ” được thì cũng phải đổi mới toàn diện về cơ cấu kinh tế, và tất cả đều phải quay lại với kinh tế thị trường, chấp nhận hoàn toàn tư bản tư nhân và tư hữu về tư liệu sản xuất tồn tại bình đẳng bên cạnh sở hữu nhà nước. Nước Nga thời Putin không nhắc tới XHCN vẫn nhanh chóng phục hồi vị thế cường quốc của nó và bước vào sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, là một thí dụ điển hình dành cho sự suy ngẫm. Trung Quốc ngày nay có mức sống tươi vui hơn hẳn thời Đại Cách Mạng Văn Hóa là nhờ đâu nếu không có sự đổi mới hướng về kinh tế thị trường và tư hữu?
Nhìn sâu hơn vào lịch sử trước khi có chủ nghĩa Mác, ở thời nào, ở nơi nào mà nhân dân được bảo hộ cho làm ăn trong tự do, bình đẳng, bác ái thì ở thời đó, ở nơi đó nếu không thịnh vượng cũng ấm no (ở đây không nói đến thiên tai tàn phá), tình hình chính trị ổn định.
Có lẽ một đất nước muốn có một cuộc sống lành mạnh thì việc gắn hay không gắn nhãn mác XHCN là không quan trọng, nhưng trước tiên phải thực sự “dân chủ và cộng hòa”. Nước ta, sau Cách Mạng Tháng Tám đã từng giơ tay thân thiện về phía Mỹ, giang tay nhân nhượng trước mặt Pháp. Đó là những cử chỉ của bậc đức độ vĩ nhân, thể hiện cái nhãn quan sáng suốt ở mức độ thiên tài của nguyên chủ tịch Hồ Chí Minh. Tiếc rằng những cái đầu nóng và đầy thiên kiến đã cự tuyệt những cơ hội tạo hòa bình, đôi bên cùng có lợi!
Nói thế có nghĩa XHCN là sai chăng? Không hẳn như thế! Không biết nói thế nào cho phải phép nữa!
Trong “Đêm trước Đổi Mới”, Đặng Phong, chuyên gia sử kinh tế Việt Nam, có câu rất hay: “Tính Đảng hay CNXH xét cho cùng cũng chính là vì sự giàu mạnh của đất nước, vì những gì mà nhân dân đồng tình”.Thế nhưng đó mới chỉ là ý chí đẹp chứ chưa hẳn đã là chân lý khách quan.
Vậy thì có thể nói nôm na và ngây thơ thế này: mục đích của Cách mạng vô sản nhằm đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bạo quyền; xây dựng một xã hội công bằng không có người bóc lột người là hoàn toàn đúng đắn. Lý tưởng của CNXH là phù hợp với Đức Huyền Diệu. Tuy nhiên cơ sở lý luận của nó đã ẩn chứa những lệch lạc nào đó thậm chí là rất cơ bản, ở tận tầng nền tảng. Chẳng hạn hiểu như thế nào về khái niệm “bóc lột” khi trong thực tế xảy ra trường hợp lương người làm công ở cơ sở tư nhân cao hơn lương cũng của người ấy nếu làm ở cơ sở do nhà nước XHCN quản lý? Qui luật về giá trị thặng dư được cho là phát kiến thiên tài của Mác có thể là đúng ở thế kỷ XIX, có còn đúng ở nửa cuối thế kỷ XX và thế kỷ XXI không?
Chúng ta có cảm giác rằng triết học Mác và triết học Phật giáo là hai mặt của một hệ thống tương phản; là hai nhận thức về Tự Nhiên có nhiều đúng mà cũng có sai; là hai phương hướng được đề ra để thực hiện Đức Huyền Diệu và đều phiến diện, một đàng thì tích cực đấu tranh, cải tạo, một đàng thì tự động tu thân giác ngộ. Biết đâu chừng nếu hai triết thuyết này bổ khuyết hợp lý cho nhau, giũ bỏ những cái phi lý ở mỗi thuyết đi, sẽ ra được một thuyết mới, xác thực hơn nhiều và đức độ hơn nhiều?!
Trong thời đổi mới, người ta vẫn còn phải giải quyết một số di chứng đã hóa thành tệ nạn của thời trước để lại. Thế nhưng bức tranh tổng quát về đời sống kinh tế của thời đổi mới đã mang những sắc màu, những đường nét tự nhiên, hợp đạo và đời.
Đêm trước của sự nghiệp Đổi Mới đã thành bài học đắt giá trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là sự trả giá cho một niềm tin đến mức cuồng tín vào một triết thuyết, để rồi trở thành duy ý chí một cách cực đoan, mà trong thực tế đã hành động mù quáng, quên mất cái ưu tiên hàng đầu: “Nhà nước là của dân, phải do dân và vì dân”. “Do dân và vì dân” là quốc sách tối thượng trong phép trị nước; là yếu tố có tính cốt lõi, sống còn đến vận mệnh của cả một dân tộc. Chúng ta ai cũng có thể nói được như thế nhưng thực tế đã không làm được như thế trong thời đêm trước của Đổi Mới. Cũng vì một “đức tin” mà có thể chúng ta đã đọc, thậm chí là đọc nhiều lần nhưng chưa thuộc, chưa thấm thía được những bài học mà ông cha chúng ta đã để lại trong hoạt động thực tiễn của mình. Thật là đáng tiếc!
Trong “Đêm trước Đổi Mới” (sđd), giáo sư Tương Lai viết: “Dòng chảy của cuộc sống là liên tục, không gì có thể ngăn chặn, lực cản chỉ có thể làm chậm lại, nhưng rồi sự sống sẽ vẫn phải tự khơi thông dòng để mở đường cho chính nó, vận động đúng theo qui luật của cuộc sống. Vai trò tiền phong lãnh đạo chính là chủ động khơi dòng, dẹp bỏ những rào cản, nhận ra được qui luật phát triển, thúc đẩy sự phát triển thuận theo qui luật ấy.”
Trước khi quay về với câu chuyện trị thủy còn dở dang, chúng ta nghe thêm câu chuyện do giáo sư Nguyễn Phan Quang và tiến sĩ Võ Xuân Đoàn kể trong “Lịch sử Việt Nam - từ nguồn gốc đến năm 1884 (sđd), về công cuộc phục hồi và phát triển kinh tế của vua Quang Trung:
“Trải qua một thời kỳ khủng hoảng kéo dài của chế độ quân chủ chuyên chế, tình hình kinh tế nước ta vào cuối thế kỷ XVIII tiêu điều xơ xác. Nạn chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của giai cấp địa chủ ngày càng diễn ra khốc liệt. Chính sách thuế khóa, phu dịch nặng nề và bộ máy quan lại thối nát thời Trịnh - Nguyễn càng đẩy nhanh sự phá sản của đông đảo nông dân. Thêm nữa, trải qua hàng thế kỷ phân liệt, nội chiến, tiếp đến phong trào nông dân rầm rộ suốt thế kỷ XVIII và kháng chiến chống ngoại xâm, ruộng đất trong nước bị bỏ hoang rất nhiều. Nông dân bị bần cùng, nhiều xóm làng trở nên hoang vắng. Sử cũ chép: “Khoảng đời Cảnh Hưng (1710-1786), Chiêu Thống (1787-1789) luôn năm mất mùa đói kém, dân gian trôi dạt lưu ly, cha con không thể nuôi nhau, anh em không thể nương nhau”. Ở Thanh Hóa, Nghệ An, tình hình cũng diễn ra tương tự. Trong một bức thư của Nguyễn Thiếp gửi Quang Trung cuối năm 1789 có đoạn: “Nghệ An đất xấu dân nghèo…, gặp năm mất mùa dịch tễ, kẻ thì chết đói, người thì phiêu bạt, 10 phần chỉ còn lại 5, 6 mà thôi. Nay mùa khô hạn, đồng ruộng bỏ hoang, ruộng đất rất ít.”
Sau khi đại phá quân Thanh, Quang Trung nhìn thấy vấn đề cấp thiết trước mắt là phải nhanh chóng giải quyết tình trạng ruộng đất bỏ hoang, tận dụng sức lao động vào sản xuất nông nghiệp, trên cơ sở đó mà bước đầu phục hồi nền kinh tế tiểu nông đang bị phá hoại nghiêm trọng.
Năm 1789, Quang Trung ban bố “Chiếu khuyến nông” đề ra những biện pháp tích cực để giải quyết nạn lưu vong và tình trạng ruộng đất bỏ hoang: “Ít lâu nay trong nước bị binh lửa, đinh tán điền hoang, số đinh điền so với trước kia 10 phần kém đến 4, 5 phần. Nay trong nước đã bình định, cần phục hồi dân phiêu tán, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, làm cho dân du thủ du thực trở về với ruộng đất. Vậy trước kia, người nào ngụ cư ở địa phương khác, hoặc đến ở quê vợ, quê mẹ, hoặc làm nghề buôn bán để trốn tránh lao dịch, thì trừ những người đã ghi tên vào sổ xã khác được ba đời rồi; còn hết thảy phải trở về nguyên quán, xã khác không được chứa chấp. Những ruộng công ruộng tư trước bỏ hoang, nay phải trở về cày cấy không được bỏ hoang nữa. Lý dịch xã sở tại phải xét số đinh thực tại có bao nhiêu suất, phân tán mới về làng bao nhiêu suất, ruộng thực khẩn được bao nhiêu mẫu, ruộng hoang mới khai khẩn được bao nhiêu mẫu, hạn đến tháng 9 khai thành sổ để nộp. Xã nào ruộng hoang để quá hạn không khai khẩn, nếu là ruộng công phải chiếu theo nguyên ngạch thuế điền thu gấp đôi, nếu là ruộng tư sẽ phải tịch thu làm ruộng công, ngạch thuế cũng theo như ruộng công”.
Việc giải quyết tình trạng dân phiêu tán và thanh toán ruộng bỏ hoang là hai biện pháp chủ yếu về nông nghiệp liên quan khăng khít với nhau. Chiếu khuyến nông của Quang Trung đã giải quyết đúng hai yêu cầu trước mắt đó. Nhờ vậy, trong vòng ba, bốn năm, sản xuất nông nghiệp được phục hồi nhanh chóng. Sử cũ chép: năm 1791 “mùa màng trở lại phong đăng, năm phần mười trong nước khôi phục được cảnh thái bình”.
(…)
Thời Quang Trung, tình hình công thương nghiệp bị đình trệ hàng thế kỷ cũng được hồi phục dần. Trong lần hội kiến với Nguyễn Thiếp ở Nghệ An vào cuối năm 1788, Quang Trung nói lên hoài bão muốn xây dựng một nền kinh tế công thương nghiệp phát triển, có thể bảo đảm cung cấp mọi nhu cầu cần thiết cho nhân dân. Quang Trung không chủ trương cắt đứt quan hệ buôn bán với nước ngoài, nhưng cũng muốn kinh tế nước nhà không lệ thuộc vào ngoại quốc. Với tinh thần đó, Quang Trung chủ trương phát triển công thương nghiệp trong nước đi đôi với mở rộng quan hệ ngoại thương.
Bài phú “Tụng Tây Hồ” của Nguyễn Huy Lượng ghi lại hoạt động kinh tế ở Thăng Long với những phường thủ công sản xuất rộn rịp. với cảnh buôn bán tấp nập. Các trung tâm thủ công nghiệp khác cũng dần dần được phục hồi, như làng gốm Bát Tràng với cảnh tượng “chợ phố đông đúc, hàng bày đầy ắp, mái chèo đi lại tới tấp” (thơ của Cao Huy Diệu)…
Quang Trung chủ động đặt quan hệ ngoại thương, trước hết với nhà Thanh, đấu tranh yêu cầu nhà Thanh mở cửa buôn bán với nước ta. Sau thất bại của Tôn Sĩ Nghị (tướng cầm đầu 30 vạn quân Thanh xâm lược nước ta), nhà Thanh nghiêm cấm việc thông thương với nước ta: “Việc biên phòng phải rất cẩn mật. Những người vượt ải vụng trộm đi buôn bán lén lút đều phải nhất thiết ngăn cấm. Nhưng Quang Trung kiên quyết đòi nhà Thanh phải “mở cửa ải”, thông chợ búa, khiến hàng hóa không ngưng đọng, để làm lợi cho sự tiêu dùng của dân”. Cuối cùng nhà Thanh phải đồng ý cho nhân dân hai nước được qua lại buôn bán ở một số cửa ải dọc biên giới… (…)
Đối với thuyền buôn các nước tư bản phương Tây, Quang Trung tỏ ra rộng rãi, dành cho họ những điều kiện dễ dàng, muốn họ tăng cường buôn bán với nước ta. Một số thư từ, hồi ký của giáo sĩ, thương nhân đương thời phản ánh thái độ thiện cảm của họ đối với Tây Sơn và triều Quang Trung nói riêng. Năm 1976, một giáo sĩ Pháp viết: “Lúc bấy giờ chúng tôi đươc hưởng sự yên ổn ở Bắc Kỳ và ở Nam Kỳ. Những quan lại đều chăm lo công việc, họ suy tôn ba người lên cầm quyền…, những người yêu hòa bình, can đảm và được nhân dân yêu mến”. Một người Anh tên là Crao-phớt (Crawfurd) đến Việt Nam năm 1822 (triều Minh Mạng) nói: “Tôi đã gặp những thương nhân Hoa Kiều ở Huế và nói chuyện với họ. Họ đã sống dưới cả hai chế độ Tây Sơn và chế độ thời Nguyễn. Họ nói chắc chắn rằng anh em Tây Sơn cai trị công bằng và ôn hòa hơn nhà vua hiện nay (Minh Mạng) hay cha của ông ta (Gia Long).”
(…)
Về mặt tài chính, Quang Trung thi hành một chế độ thuế khóa đơn giản, bãi bỏ nhiều thứ thuế phức tạp trước đó. Ngạch thuế ruộng công và ruộng tư được thi hành thống nhất trong tất cả các vùng thuộc quyền cai trị của Quang Trung. Theo tinh thần “bớt thuế, thương dân” (“Ban bố Bắc thành các điều”), các loại thuế nhân đi, thuế thổ sản, thuế công thương đều được giảm nhẹ hoặc bãi bỏ. Riêng việc thông thương với Trung Quốc qua vùng biên giới thì được miễn thuế hoàn toàn.
(…)
(…)
(…)
Ngược dòng lịch sử, cho đến thế kỷ XV, cấu trúc chính trị của Việt Nam là một nhà nước quân chủ tập quyền kiểu phương Đông với nền tảng của nó là quyền sở hữu tối cao của nhà vua về ruộng đất trong cả nước. Cấu trúc đó phát triển đến đỉnh cao ở thời Lê Thánh Tông (nửa sau thế kỷ XV) với chế độ “quân điền” hoàn chỉnh, qua đó nhà nước quản lý chặt chẽ đông đảo nông dân, trói buộc họ vào mảnh ruộng khẩu phần để bảo đảm mọi nhu cầu tô thuế, binh dịch, lao dịch… cho nhà nước quân chủ.
Nhưng cũng từ thế kỷ XV, nhu cầu giao lưu, trao đổi trong xã hội ngày càng phát triển mạnh, và đây là một nhu cầu khách quan có tính qui luật, là sự vận động tự thân của xã hội, phản ánh xu thế phát triển tất yếu của lịch sử. Xu thế đó tác động vào người nông dân đang bị xiết chặt trong cơ chế “sở hữu ruộng đất lớn”. Họ bắt đầu có nhu cầu bứt ra để trở thành người sản xuất hàng hóa và tham gia vào luồng kinh tế hàng hóa đầy sinh lực đang hấp dẫn họ.
Trước xu thế đó, nhà nước quân chủ càng ra sức duy trì nền thống trị trên cơ chế cũ. Và chính sách “trọng nông” từ đây cũng mất dần tính chất tích cực, ngày càng nổi rõ dụng ý của nhà nước quân chủ muốn buột chặt người nông dân và ruộng đất làng xã, không muốn họ vượt ra khỏi tầm quản lý của mình. Chính sách “ức thương” lần đầu tiên xuất hiện như một quốc sách ở thời Lê Thánh Tông là xuất phát từ thực tế đó (và không phải là không hợp lý - NV).
Nhưng chính sách “ức thương” không thể đảo ngược xu thế phát triển của kinh tế hàng hóa, trái lại làm cho yêu cầu đẩy mạnh giao lưu và mở cửa đất nước càng bức xúc thêm. (Đến một giai đoạn nhất định, nó sẽ trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đất nước - NV).
Quang Trung Nguyễn Huệ đã ý thức được những yêu cầu bức xúc đó của lịch sử. Sau khi lãnh đạo cả dân tộc đại phá quân Thanh, ông bắt tay ngay vào công việc tái thiết đất nước theo những phương hướng mới. Quang Trung nhận rõ: phải nỗ lực tranh thủ thời gian sau chiến thắng để tập hợp lực lượng và trí tuệ toàn dân vào công cuộc kiến quốc. Những đoạn sau đây trong tờ “Chiếu cầu hiền” phản ánh sắc nét nỗi lo toan trăn trở của Quang Trung: “Nay một cuộc đại định mới ở bước đầu, mọi việc còn đương mới mẻ, rường mối nhà vua có nhiều thiếu sót, việc biên cương cũng ở chỗ dùng dằng chưa ổn định, đức hóa nhà vua chưa được thấm khắp. Trẫm chăm chăm chú chú ngày này qua ngày khác, hàng vạn công việc phải quan tâm. Trẫm nghĩ rằng một cây không chống nổi tòa nhà đó, mưu lược một kẻ sĩ không thể làm nên cuộc thái bình…”.
Đối với nông dân và ruộng đất, cho đến nay những người nghiên cứu đều nhận thấy một sự thực là: trong ngót 4 năm ở ngôi (1789-1792), khi hàng loạt chính sách cải cách khác đã lần lượt được ban hành, thì về vấn đề ruộng đất, hình như Quang Trung không chủ trương quay trở lại chế độ quân điền đã quá lỗi thời của các triều trước kia. Sau khi lên ngôi, Quang Trung chỉ mới xuống “chiếu khuyến nông” nhằm giải quyết nhanh chóng nạn lưu vong và tình trạng ruộng đất bỏ hoang sau hàng thế kỷ loạn lạc kéo dài. Và nội dung “Chiếu khuyến nông” - như chính tên gọi của tờ chiếu - chưa bao hàm một chính sách “phân định điền sản” với đúng nghĩa của nó.
(…)
Trong lúc đó, những chính sách của Quang Trung nhằm đẩy mạnh giao lưu, phát triển kinh tế hàng hóa, mở cửa đất nước lại được phản ánh đậm nét trong nhiều nguồn tư liệu, thể hiện rõ chủ trương xóa bỏ hẳn chính sách “ức thương” và “bế quan tỏa cảng”, như đã đề cập ở phần trên.
(…)
(…)
Cái chết đột ngột của Quang Trung (ngày 16-9-1792) khi chưa tròn 40 tuổi đúng vào thời điểm lịch sử ấy là một tổn thất lớn cho dân tộc. Giả thiết rằng Quang Trung còn sống thêm mươi mười lăm năm nữa, thì cánh cửa tạo lối thoát cho đất nước vừa được hé mở có nhiều khả năng không thể bị đóng sập trở lại…”.
Sự ra đi quá sớm của anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ, một thiên tài quân sự - hiện thân của Phù Đổng Thiên Vương cuối thế kỷ XVIII, một nhà ngoại giao kiệt xuất, một nhãn quan kinh tế trác việt, một tấm lòng yêu nước thương nòi sâu sắc, là một định mệnh buồn thương của dân tộc Việt!
***
Nhiều người nhận định rằng Võ Văn Kiệt - Sáu Dân là một trong những người có đóng góp xuất sắc cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Ông xuất hiện ở tất cả các lĩnh vực. Có thể nói ông xuất hiện ở đâu thì ở đó trào dâng không khí đổi mới. Võ Văn Kiệt thực sự là linh hồn và đồng thời cũng là vị tướng tài của công cuộc đổi mới trong cả nước.
Võ Văn Kiệt tên khai sinh là Phan Văn Hòa, bí danh là Sáu Dân, sinh ngày 23-11-1922 tại xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Ông bắt đầu tham gia Cách mạng vào năm 1938, liên tục trải qua hai cuộc kháng chiến cho đến ngày toàn thắng 30-4-1975 với nhiều chức vụ khác nhau. Sau Giải Phóng, ông tiếp tục hoạt động trên những cương vị lãnh đạo từ thấp đến cao trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Năm 1976, ông làm phó bí thư rồi bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1981, ông được điều ra làm Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch Nhà nước. Tháng 2-1987 được Quốc Hội phê chuẩn chức đó đồng thời chức phó chủ tịch thường trực rồi phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng bộ trưởng. Tháng 8-1991, ông được Quốc Hội bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng. Từ năm 1992-1997, ông làm Thủ tướng chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam kiêm Phó chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Từ tháng 12-1997 đến tháng 4-2001, ông trở thành Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.
Chiến công của vị tướng tài ba thời tiền đổi mới và đổi mới ấy là rất nhiều, lịch sử dân tộc sẽ ghi công ông về những chiến công đó và đặc biệt là đối với những công trình có tầm chiến lược của một thời đại, phục vụ đắc lực cho quốc kế dân sinh, cải tạo mà không làm “đổ vỡ” môi trường sinh thái, như: đường dây tải điện 500 kV Bắc - Nam, Thủy điện Trị An, Khu công nghiệp hóa dầu Dung Quất, đường Hồ Chí Minh, hệ thống thủy lợi đồng bằng sông Cửu Long… Dước đây chúng ta sẽ kể về hai trong số những chiến công đó.
Chỉ với công trình xây dựng đường dây tải điện 500 kV Bắc - Nam thôi, tính cách và năng lực của Võ Văn Kiệt đã được khắc họa rõ nét: lắng nghe và trọng thị ý kiến mọi người, chín chắn trong suy ngẫm, sáng suốt khi nhận định, quyết đoán và dám chịu trách nhiệm trước công việc, xử sự với con người một cách đầy nhân văn. Đó cũng chính là những phẩm chất quí báu cần có nhưng không dễ có đối với một nhà lãnh đạo.
Đối với hầu hết những công trình trọng điểm khác, Võ Văn Kiệt thường gặp những khó khăn, thách thức từ những ý kiến phản bác có khi rất gay gắt và thuộc về phía đa số. Trong hoàn cảnh như vậy mà ra quyết định trái ngược là không dễ chút nào.
Công trình này cũng vậy, ngay từ khi mới là dự án, đã có nhiều ý kiến phê phán nặng nề. Ông Vũ Ngọc Hải, nguyên bộ trưởng Bộ Năng Lượng, nhớ lại, kể:
“Có vị lãnh đạo nói làm đường dây là phiêu lưu, mạo hiểm, lấy tiền Nhà Nước để làm danh cho cá nhân. Có nhà khoa học còn chứng minh công trình sẽ thất bại, lỗ nặng.
Anh Sáu Dân rất lo khi một chuyên gia người Nhật cho là không thể làm đường dây 500 kV được do quá dài (tới 1500 km). Song anh Sáu kiên quyết lắm, bảo tôi: “Nếu thất bại, tôi sẽ từ chức, quyết không để bị cách chức”. Tôi trấn an: “Anh yên tâm, không thể thất bại. Tôi đã huy động chất xám trong và ngoài nước, hoàn toàn không lo thất bại về kỹ thuật”. Bởi chúng ta sẽ có cách làm khác. Tôi và các nhà khoa học đã tính rất kỹ, dù đường dây 1500 km nhưng sẽ có 4 trạm bù điện, nên điện vào đến cuối nguồn sẽ bằng chỉ số ở đầu nguồn…
Lúc đó rất khó khăn, Quốc hội đang bàn thì anh Sáu đã chọn ngày khởi công và bị phản ứng. Kể cả nhiều nhà khoa học cũng bảo rằng làm đường dây này là chuyện không tưởng, cầm chắc thất bại. Nhưng anh Sáu đã quyết định: trong 2 năm phải hoàn thành công trình.
Anh Sáu và các nhà khoa học đã tính toán kỹ. Đưa điện vào miền Nam có lợi hơn bán điện đi vì chúng ta đang thiếu điện. Thực tế đã chứng minh chúng ta hoàn toàn có thể đưa điện vào miền Nam mà không bị hao hụt. Đến nay, nhờ có đường dây 500 kV, chúng ta có thể đưa điện ngược trở ra khi miền Bắc thiếu điện và ngược lại. Bây giờ đã đủ cơ sở để chứng minh anh Sáu có tầm nhìn xa, đem lại lợi ích lớn cho đất nước…
Xuyên suốt ở anh Sáu là tính cách nhất quán, bản lĩnh mạnh mẽ, nghĩ đúng là làm và làm tới cùng. Trong nhiều quyết định, bên ủng hộ anh là thiểu số. Anh buồn bực, cô đơn nhưng ý chí của anh, tư tưởng của anh vẫn kiên định…”.
Ông Hải còn kể:
“Tôi hết sức bât ngờ. Thủ tướng vào thăm tôi tại trại giam. Ông mang đến 3 cái ly, loại ly uống sâm-banh (champage) và một chai sâm-banh thật ngon. Mở đầu, anh Sáu nói: “Cả tuần liền, tớ lo quá, không ngủ được”. Thấy tôi im lặng, anh nói tiếp: “Đêm qua tớ không ngủ được vì nhớ đến cậu. Vài giờ nữa đóng điện, cậu biết không?”. Tôi hỏi: “Nghe nói cấp trên không cho làm lễ khánh thành, phải không ạ?”. Anh Sáu bảo: “Thôi, phải chấp hành…”. Rồi anh rót rượu và nâng ly: “Chúng ta cùng chúc mừng cho hơn 20.000 anh hùng đã lao động tuyệt vời để có đường dây hôm nay”. Tôi xúc động, nước mắt cứ trào ra, chần chừ, cầm ly mãi. Anh Sáu giục: “Uống, tớ và cậu cùng mừng cho công trình của chúng ta thắng lợi”. Tôi đưa ly rượu lên miệng, ngước nhìn anh. Một con người, có cả trí - nhân - dũng - nghĩa đủ cả. Tôi không biết nói gì hơn trong giờ phút thiêng liêng ấy”.
Cho đến nay, vụ án Vũ Ngọc Hải, nguyên bộ trưởng Bộ Năng lượng, vẫn còn gây tranh cãi. Nhưng hồi đó, sự kiện Thủ tướng Võ Văn Kiệt vào tận trại giam gắn huy hiệu ghi công cho một người tù và chúc rượu mừng, diễn ra trước giờ đóng điện đường dây 500 Kv Bắc - Nam thì thật là đặc biệt, chưa từng có tiền lệ. Hãy nghe ông Kiệt nói: “Tội anh Hải pháp luật xử, tôi không có ý kiến gì. Nhưng về công, anh là người thực hiện chủ trương rất tận tụy. Thành công của đường dây này có công sức rất lớn của anh ấy”.
Câu chuyện thứ hai là chiến công của Võ Văn Kiệt trong công cuộc trị thủy, cải tạo đồng bằng sông Cửu Long.
Sau Giải Phóng, đồng bằng sông Cửu Long, dù đã có hệ thống kinh mương nhân tạo thời trước, vẫn là vùng châu thổ còn nhiễm mặn nặng nề, năng suất lúa rất thấp, có nơi chưa đạt 1 tấn/hécta, hơn nữa mỗi năm chỉ cấy được một vụ. Thời đó, Nam bộ mang tiếng là vựa lúa của đất nước vậy mà có rất nhiều hộ đói, dân tình khốn khổ. Để đảm bảo được đầy đủ lương thực cho dân số tại chỗ cũng như của cả nước ngày một đông và đồng thời để đáp ứng được những đòi hỏi của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, thì yêu cầu phải cải tạo đồng bằng sông Cửu Long, trước sau gì cũng tất yếu được đặt ra. Càng về sau yêu cầu đó càng trở nên cấp bách.
Võ Văn Kiệt hiểu thấu tình hình đó và nhận thức được ý nghĩa lớn lao của công cuộc trị thủy, cải tạo và xây dựng mới một hệ thống thủy lợi có qui mô lớn hơn, hoàn chỉnh hơn. Vì thế, sau khi khảo sát, xâm nhập thực tế, lắng nghe, học hỏi, chắt lọc những ý kiến đa chiều của nông dân, của các nhà khoa học, các chuyên gia, cố vấn… ông quyết định “đổi mới” diện mạo đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1988, Võ Văn Kiệt khởi sự chương trình “Mười năm đầu tư khai thác vùng Đồng Tháp Mười, vùng Tứ giác Long Xuyên và ngọt hóa bán đảo Cà Mau”, và năm 1995 chính thức nói đến chương trình “Sống chung với lũ”.
Ban đầu, quyết sách này cũng đâu có thuận chèo, xuôi mái. Nhiều vị lãnh đạo và ngay cả một số nhà khoa học cho rằng nếu làm như thế, ông sẽ đụng vào, chọc phá tổ ong vò vẽ. Ý họ muốn nói không những ông làm chuyện không đâu vào đâu mà còn có phần nguy hiểm nữa. Các nhà khoa học Hà Lan cũng cho rằng không nên đụng chạm tới thiên nhiên. Nhiều bộ, ngành còn hoài nghi và e ngại khi cải tạo, mở rộng kênh Vĩnh Tế để xây dựng công trình kiểm soát lũ tràn thì mực nước kênh Vĩnh Tế sẽ tuột đi, làm mất thế ổn định đang có.
Là người được sinh ra, lớn lên trên vùng đất này; có thời gian dài hoạt động trong lòng dân xứ này; cùng dân lặn lội chiến đấu hy sinh vì mảnh đất quê hương, nên ông Võ Văn Kiệt - Sáu Dân hiểu rõ hơn bất cứ nhà lãnh đạo nào khác về con người cũng như về điều kiện tự nhiên của vùng đất châu thổ này. Một con người được gọi là xuất chúng khi biết cân nhắc những đúng - sai của tư duy đương thời, từ đó phát hiện ra hướng đi chân lý, trên cơ sở đó quyết tâm thực hiện hoài bão mà lúc đầu có thể là “không giống ai” của mình. Ông Sáu Dân là người như vậy! Nhạy bén trong nhận định, ông đã thấy được tiềm năng to lớn của đồng bằng sông Cửu Long và đặc biệt hơn là có thể biến tiềm năng đó thành hiện thực cũng như ý nghĩa vô cùng lớn lao của công cuộc tạo dựng ấy.
Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Sinh Huy nhớ lại: “Có lẽ, ông Sáu là cán bộ cao cấp cá biệt, đã đến làm việc với hầu hết các huyện trong vùng Đồng Tháp Mười. Nhiều chuyến khảo sát, ngủ qua đêm ở Tháp Rùng Rình hoặc ở huyện mới thành lập như Tháp Mười, Tam Nông, Tân Hồng, Vĩnh Hưng, Tân Hưng… Sống chung với lũ, kiểm soát lũ được ông Võ Văn Kiệt nói chính thức, đầu tiên tại hội nghị qui hoạch thủy lợi, phòng chống lũ ở Đồng Tháp Mười tổ chức ở Đồng Tháp năm 1995. Những điều ông Sáu phát biểu tại hội nghị này cho thấy những hiểu biết rất tinh tế của ông, người đứng đầu chính phủ, về một vấn đề chuyên sâu, ít người có được”.
Theo Lê Thành Chơn (trong kháng chiến chống Mỹ là sĩ quan không lưu thuộc binh chủng Phòng không - Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam; là tác giả cuốn “Anh hùng trên chín tầng mây” và khá nhiều tác phẩm khác) thì: “Kinh Vĩnh Tế là con kinh được đào sớm nhất trong lịch sử khai phá đồng bằng sông Cửu Long, bắt đầu từ mùa khô năm 1819 đến năm 1824 mới hoàn thành. Ngày 25-7-1996, Thủ tướng Võ Văn Kiệt chỉ thị “Lập kế hoạch cải tạo và mở rộng kinh Vĩnh Tế, xây dựng hệ thống công trình kiểm soát lũ tràn và sử dụng nước lũ vào việc cải tạo vùng đất Bắc Hà Tiên, nghiên cứu thoát lũ ra phía Tây”. Trong không đầy 30 tháng, 170 km kênh mương được đào và nạo vét với hơn 19 triệu mét khối đất, 17 cầu cống được xây lắp, một hệ thống các công trình thủy lợi phức tạp có qui mô lớn ra đời… Có thể nói kinh Vĩnh Tế và hệ thống công trình kiểm soát lũ lấy kinh Vĩnh Tế làm trung tâm là một công trình lịch sử nối hai thế hệ Thoại Ngọc Hầu và Võ Văn Kiệt, nhằm đem lại no ấm cho nông dân”.
Đến nay (năm 2008), hệ thống trục chính về thủy lợi và giao thông trong chương trình “Sống chung với lũ” đã giúp cho trên 10 triệu người dân đồng bằng có cuộc sống ổn định mỗi mùa nước nổi. Riêng với chương trình khai phá Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên đã nâng số lượng lúa hàng hóa lên rất nhiều, góp phần đảm bảo an ninh lương thực. Vùng đất phèn vốn chỉ có tràm mọc lơ thơ nay là đồng lúa phì nhiêu. Chỉ tính riêng 3 tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang đã làm ra trên 9 triệu tấn lương thực trong số 17,6 triệu tấn lúa hàng năm của đồng bằng Nam bộ. Công cuộc trị thủy lần này, còn góp phần đưa nước ta lên thành nước đứng thứ nhì thế giới (sau Thái Lan) về xuất khẩu lúa gạo và mặc nhiên đồng bằng sông Cửu Long cũng trở thành vựa lúa của thế giới.
Câu chuyện trị thủy mang tên Võ Văn Kiệt - Sáu Dân, xét trên phương diện lịch sử, là sự kế thừa và tiếp nối đầy sáng tạo, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới về tự nhiên - xã hội của cuộc hành trình trị thủy vĩ đại của dân tộc ta mà sự khởi đầu đã nảy sinh một cách tự nhiên vào thuở khai mở tạo hình đất nước từ quá trình tương tác giữa ý chí sinh tồn của con người với điều kiện khí hậu nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít bất lợi ở vùng sông nước ngập lụt đan xen với khô hạn. Câu chuyện ấy sẽ còn lưu truyền mãi trong sử xanh dân tộc Việt, dù nó chưa phải là đoạn kết của cuộc hành trình vĩ đại ấy.
Công lao to lớn của Võ Văn Kiệt đối với sự nghiệp đổi mới ở đất nước ta là không còn gì phải nghi ngờ nữa. Nhưng, như chúng ta từng nói, bất cứ một sự vật - hiện tượng nào cũng đều phải nằm trong nguyên lý nhân quả, phải được tạo dựng mới có. Vậy thì nguyên nhân nào làm xuất hiện một Võ Văn Kiệt xuất chúng như thế sau Giải Phóng? Người đời đã, đang và sẽ còn suy ngẫm, phân tích, lý giải về hiện tượng Võ Văn Kiệt.
Đúng như đại chúng hôm nay nhận định: Võ Văn Kiệt là một nhân vật yêu nước, thương dân, tài giỏi, có tầm nhìn xa trông rộng, và thức thời, dám nghĩ dám làm. Nhưng từ đâu ông Kiệt lại có được những phẩm chất cao quí đó? Bằng cách nào mà từ một cậu bé ít học, theo Cách mạng từ năm 16 tuổi, tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền rồi chiến đấu liên tục trong hai cuộc đấu tranh vũ trang chống ngoại xâm long trời lở đất, dài đằng đẵng, bỗng vụt trở thành nhà lãnh đạo xuất sắc nổi bật trong xây dựng kinh tế thời đổi mới và được nhân dân yêu mến như vậy? Một thần đồng có thể trở thành kiệt xuất nhưng không phải bất cứ thần đồng nào cũng trở thành lãnh tụ kiệt xuất. Trong lịch sử nhân loại, hầu như những con người kiệt xuất nhất lại không xuất phát từ thần đồng, hơn nữa, chưa hề thấy một thần đồng triết học nào. Tuy nhiên có thể có những ông vua, bà chúa, những kẻ nắm giữ quyền lực, dù được dạy dỗ “đến nơi đến chốn”, dù được đào tạo chính qui, bài bản, vẫn bị cho là vô học, đần độn, nhưng một vị chỉ huy tài năng thì không thể là ngu dốt được, và hơn nữa khi đã được đại chúng gắn cho hai từ “kiệt xuất” thì phải có nhãn quan mang tính thần đồng. Thần đồng có thể là thiên phú, là tự nhiên mà có và do vậy cũng không phải là hiện tượng phi tự nhiên. Nó vẫn nằm trong nguyên lý nhân quả, là bộc phát của một quá trình chuyển hóa, tích tụ những yếu tố cần có đến độ chín muồi; là kết quả của quá trình dạy và học có thể quan sát được hoặc chưa quan sát được (vì xảy ra ở tầng nền tảng nào đó mà khoa học chưa “vươn tới” nổi)
Vậy thì, qua tư liệu lịch sử có được, có thể nói rằng phẩm chất của Võ Văn Kiệt thời đổi mới là kết quả của một tư chất thông minh sớm biết học hỏi và đã tích lũy kinh nghiệm trong quá trình thực tiễn hoạt động cách mạng, từng trải qua nhiều biến cố thăng trầm của cuộc đấu tranh giành độc lập tự do cho đất nước, cho dân tộc. Thế nhưng lại một câu hỏi đặt ra là: “Cũng có nhiều con người có hoàn cảnh tham gia Cách mạng như Võ Văn Kiệt, cũng được tôi luyện trong chiến tranh, hơn thế nữa còn được học hành một cách chính qui, nắm rất vững lý luận của triết học Mác, hiểu sâu sắc Chủ nghĩa Cộng sản khoa học, thậm chí là những bậc lão thành đã dày dạn đấu tranh, đã không thấy ngay được cái mà Võ Văn Kiệt thấy, đã không được thời cuộc chọn là người hùng của công cuộc đổi mới? Như vậy, phải còn có những yếu tố khác nữa để làm nên hiện tượng Võ Văn Kiệt.
Hiện tượng Võ Văn Kiệt có thể là đặc sắc của một thời nhưng là thường thấy nếu nhìn xuyên suốt lịch sử cải tạo thiên nhiên, chế ngự thiên tai và chống ngoại xâm của dân tộc Việt. Bao giờ cũng thế, khi đất nước lâm vào tình thế khủng hoảng nghiêm trọng, sẽ có những con người bất chấp hiểm nguy, đứng ra nhận lãnh trách nhiệm xả thân vì đại nghĩa. Đó thực chất là những anh hùng. Võ Văn Kiệt nằm trong số đó. Nói thêm: khi mọi phương cách cứu nước đều đi đến bế tắc thì tại điểm nút ấy sẽ hình thành một dấu hỏi lớn. Đó là thời khắc xuất hiện một đại anh hùng dân tộc, người biết kế thừa những quan niệm đương thời nhưng không theo đương thời mà sáng tạo vượt đương thời để không những trả lời được câu hỏi lớn đó mà còn đưa đất nước vượt qua hiểm nguy đến bên bờ tươi sáng. Tiêu biểu cho những vị đó là Lạc Long Quân, Phù Đổng Thiên Vương, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ và Hồ Chí Minh. Nói theo tâm linh: khí thiêng sông núi đã hun đúc nên họ và họ được sinh ra là vì núi sông. Có thể vì thế mà ở họ đều toát nên một nét rất chung, tạc nên biểu tượng duy nhất, mô tả cái ý niệm: “Của dân, do dân và vì dân”.
Địa linh ắt phải có nhân kiệt, ông cha ta bảo thế. Và kinh nghiệm mách bảo rằng đó là sự thực thiêng liêng và là thiêng liêng theo lẽ tự nhiên. Nếu không có cơm gạo ùn ùn của dân chúng thì sẽ không có Phù Đổng; nếu không có những khởi nghĩa nối nhau thời Bắc thuộc sẽ không có Ngô Quyền; nếu Trịnh Nguyễn không phân tranh làm thế nước, lòng dân xuống đến cùng cực thì không có Nguyễn Huệ, nếu không có phong trào kháng Pháp bền bỉ trước đó và cuộc đấu tranh của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… thì cũng không thể có Hồ Chí Minh được.
Khi cuộc kháng Pháp bằng mọi cách đều đã đến bế tắc, loay hoay chưa tìm được lối ra thì đó chính là thời khắc xuất hiện chàng thanh niên Nguyễn Ái Quốc (sau này là Hồ Chí Minh) quyết ra đi để tìm đường cứu nước. Và Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra được con đường ấy từ Cách mạng tháng Mười (năm 1917) ở nước Nga. Cuộc cách mạng ấy thành công được là nhờ dựa trên nền tảng triết học Mác - Lênin, một học thuyết được cho là khoa học nhất, tiến bộ nhất thời bấy giờ (và đúng như thế thật,cho dù ngày nay đã bộc lộ những lạc hậu cần suy xét lại toàn bộ!).
Là con người cụ thể của một thời đại cụ thể, Hồ Chí Minh đã tin tuyệt đối vào học thuyết có mục đích sáng ngời, hoàn toàn phù hợp với ước nguyện cứu nước cứu dân của bản thân mình ấy và từ đó, ông đã vạch ra “Đường Cách mệnh” duy nhất đúng: đánh đổ ách đô hộ của Thực dân Pháp, xóa bỏ chế độ phong kiến, mưu cầu ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Đó là hướng đi được đại chúng đồng tình, ủng hộ và nhiệt liệt hưởng ứng.
Tuy tự nhận là học trò của Mác - Lê, nhưng trong ngôn từ của Hồ Chí Minh khi nói với quần chúng lao động, hiếm khi thấy xuất hiện những khái niệm, những câu lý luận có tính “kinh điển”, đặc trưng thường thấy của triết học Mác, chẳng hạn như: “biện chứng duy vật”, “thượng tầng kiến trúc”, “chuyên chính vô sản”, “chủ nghĩa cộng sản”…; chẳng hạn khi Lênin viết: “Giai cấp vô sản phải làm cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng cách kéo đông đảo những phần tử nửa vô sản trong nhân dân theo mình, để bằng sức mạnh mà đập tan sự phản kháng của giai cấp tư sản và làm tê liệt tính không kiên định của nông dân và của giai cấp tiểu tư sản”, thì Hồ Chí Minh nói: “Nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến, kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thật sự, ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân”; chẳng hạn khi Lê Nin viết: “Chỉ khi nào ngành vận tải và nền đại công nghiệp đã hoàn toàn được khôi phục, khiến giai cấp vô sản có thể cung cấp cho nông dân nhằm đổi lấy các loại nông sản, tất cả những vật phẩm công nghiệp mà công dân cần dùng cho bản thân họ và để cải tiến kinh tế của họ, thì khi đó, đứng về quan điểm xã hội chủ nghĩa mà nói, sự liên minh giữa những người tiểu nông và giai cấp vô sản mới trở nên hoàn toàn đúng đắn và vững chắc”, thì Hồ Chí Minh nói: “Chỉ có khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để đánh đổ các thế lực phản cách mạng, giành lấy và củng cố chính quyền của nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Chẳng hạn khi nói về gia đình, Lê Duẩn (nguyên tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam) viết: “Người cách mạng không coi nhẹ gia đình. Trái lại, một người yêu nước, một người thiết tha với những lý tưởng cao cả của chủ nghĩa xã hội, một chiến sĩ nhiệt tình đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân không thể không quan tâm đến vấn đề gia đình”, thì Hồ Chí Minh nói: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt”. Có thể thấy Hồ Chí Minh luôn có cách nói chân phác dễ hiểu, rất gần với cách nói quần chúng nhưng cũng rất khúc chiết, sâu sắc. Trong ngôn văn của ông, người ta thấy rất nhiều những cách ngôn, những triết lý của Đạo gia, Nho gia, Mặc gia… được ứng dụng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Chắc rằng Hồ Chí Minh đã thấy được “giáo lý” của chủ nghĩa cộng sản về cuộc cách mạng đấu tranh giải phóng và xây dựng một xã hội tươi đẹp, nếu không chú ý đến những yếu tố nảy sinh trong thời đại mới, thì hầu như tương hợp với quan niệm của tổ tiên, ông cha ta thời cổ, trung đại; với những tinh hoa triết lý của Trung Hoa cổ đại, mà cốt lõi đều là: “Dĩ dân vi bản” (lấy dân làm gốc). Cách đây hơn 2500 năm, trong Kinh Thư đã có câu: “Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi tiên” (Nghĩa là: nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu), và theo chúng ta thì đây chính là chân lý muôn đời của xã hội loài người, mà bất cứ thứ chủ nghĩa nào nếu không có tiêu chí thỏa mãn nó thì đều không được Đại chúng tin theo, đều đi ngược lại Đức Huyền Diệu, chưa cần phải nói đến trong thực tiễn có thực hiện được điều đó hay không.
Hồ Chí Minh có nói: “Địch muốn giành cách đánh mau, thắng mau. Nếu chiến tranh kéo dài, hao binh tổn tướng, chúng sẽ thất bại. Vậy ta dùng chiến lược trường kỳ kháng chiến để phát triển lực lượng… thế địch như lửa, thế ta như nước. Nước nhất định thắng lửa”. Có thể đặt câu nói đó ở bối cảnh đời Trần, Lê cũng hoàn toàn “hợp lệ”. Hay câu nói: “Muốn thành công phải có ba điều kiện, đó là: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa” là của Hồ Chí Minh, nhưng đem nó đặt vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc cũng không sai.
Vì những lẽ đó mà ở con người ông, cái phần “Ái Quốc”, “Chí Minh” đã nổi trội hơn hẳn phần “Cộng Sản”. Mọi người, trong đó có nhiều người bất đồng chính kiến, hoặc thậm chí là kẻ thù dân tộc, đều khâm phục ông, biểu tượng trước hết và trên hết về chủ nghĩa yêu nước, thương nòi và cốt cách ung dung, mã thượng.
Chúng ta có cảm nhận rằng: mục đích cả đời của Hồ Chí Minh là cứu nước cứu dân và trong cuộc bôn ba tìm đường cứu nước đã gặp được Cách mạng tháng Mười Nga (7-11-1917). Ông đã thấy ở đó một con đường đến đích, một phương tiện để có thể đạt được hoài bão không những của ông mà của cả một thế hệ nhân sĩ yêu nước trước ông như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng…
Hồ Chí Minh là tựu trung của kế thừa, học hỏi và sáng tạo. Ông đích thực là một hiền triết phương Đông đồng thời là một đại anh hùng của dân tộc Việt Nam thế kỷ XX. Hồ Chí Minh đã đặt trọn niềm tin vào Chủ nghĩa Cộng Sản và suốt đời đi theo chủ nghĩa ấy. Tuy nhiên ông là một trong số ít người cộng sản có tư tưởng linh động và uyển chuyển nhất. Hồ Chí Minh từng viết: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm ở sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng bác ái. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện của chúng tôi. Khổng Tử, Giêsu, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu họ còn sống trên đời này và họp lại một chỗ, tôi tin rằng nhất định họ chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.”. Ông tuyệt vời là vì thế!
Đảng Cộng sản Nhật Bản từng đánh giá: “Hồ Chí Minh đã để lại công trạng bất hủ trong lịch sử đấu tranh giải phóng cho nhân dân Việt Nam cũng như của các dân tộc bị áp bức và nhân dân bị áp bức ở Châu Á và thế giới”. Còn báo “Bình Minh” ở Pakistan đã từng viết rằng Hồ Chí Minh “một nhân vật thần thoại, đã trở thành một trong những người cầm cờ vĩ đại nhất của cuộc đấu tranh giành giải phóng và tái sinh của nhân dân Châu Á trong thời đại ngày nay”…
Một lãnh tụ, khi đã thấm vào máu thịt cái nghĩa “lấy dân làm gốc”; đã thấu suốt được cái tình “của dân, do dân và vì dân” thì như Quỷ Cốc Tử chỉ dạy, có cơ may sẽ đạt được cái thần minh là thiên lý nhãn, thuận phong nhĩ và vạn linh tâm, còn không thì cũng có tầm nhìn xa trông rộng hơn người, và vị lãnh tụ đó sẽ được lưu danh đến sâu xa hậu thế, đến ngàn thu. Hồ Chí Minh là một lãnh tụ như thế. Tháng 1-1946, khi trả lời câu hỏi của một nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh đã nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước tôi được hoàn toàn độc lập, dân tôi được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành…”
Võ Văn Kiệt đã noi được tấm gương sáng ngời ấy. Điều đó thể hiện rõ ở quãng đời hoạt động của ông thời khoảng Giải Phóng - Đổi Mới. Ở ông, xét ra, cũng toát lên một chữ “Dân”.
Võ Văn Kiệt là một thiếu niên nông dân đến với cách mạng, kế thừa được tính cách khoáng đạt, bộc trực và khẳng khái của người dân Nam Bộ. Do đó về sau này, dù ở đâu, ở cương vị nào, tâm hồn ông trước hết là tâm hồn của một người dân Nam Bộ, am tường và đồng cảm được với đời sống cũng như tình cảm của dân đồng bằng sông Cửu Long, nơi ông đã từng sống và hoạt động cách mạng lâu dài. Và cũng qua quãng đời hoạt động dân vận sôi nổi lúc công khai lúc bí mật, qua những năm tháng bám trụ chiến đấu với kẻ thù xâm lược và ngụy quyền tay sai, được sự dẫn dắt trui rèn của cách mạng, ông càng thấy được tấm lòng tin yêu của quần chúng, sự giúp đỡ hy sinh vô bờ bến mà vô tư của họ đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của cách mạng; càng hun đúc trong ông tình yêu sâu sắc đối với đất nước, nhân dân. Đặc biệt, thực tiễn của cuộc đấu tranh mà ông là người trong cuộc, đã dạy ông điều này:
“Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong”
(Lời Hồ Chí Minh)
Sự ngột ngạt của đời sống kinh tế sau Giải Phóng gây ra nỗi bức xúc ngày một tăng trong dân chúng và đây đó, một cách tự phát, nhỏ lẻ, người dân đã âm thầm đục thủng hàng rào cơ chế. Từ “gợi ý” đó mà một số người đã từng xông pha lửa đạn thời chiến tranh và hiện giữ những trọng trách khác nhau ở tầng cơ sở đã mạnh dạn làm ra những cuộc xé rào với qui mô “nghiêm trọng” hơn nhưng thật ngoạn mục. Đó chính là lúc câu hỏi lớn được đặt ra tại vòng xoáy của thời cuộc: không thể chọn đồng thời cả hai thì ưu tiên chọn cái nào, thỏa mãn ước nguyện thiết tha của dân hay tuân theo pháp lệnh, giải quyết đời sống cực khổ của người lao động trước hay bảo toàn cơ chế trước? Những nhà lý luận “kinh viện”, những người làm luật giáo điều sẽ rất khó xử trước câu hỏi đó. Họ sẽ phải lúng túng giữa đạo lý và đức độ, sẽ phải vòng vo khi trả lời và thường là trả lời sai.
Trả lời câu hỏi đó là quá dễ nếu đem nó ra để “đố” Lão Tử hay Quỷ Cốc Tiên Sinh, những người (hay một người?) đã thấu suốt cái lý của Đạo Tự Nhiên và cái tình của Đức Huyền Diệu.
Thời cuộc đã chọn Võ Văn Kiệt, làm vị tướng đi tiên phong thay đổi vận mệnh cho nó theo đúng hướng mà nó đã âm thầm chỉ ra. Mặt khác Võ Văn Kiệt đã chủ động, nhạy bén, phát hiện ra và đủ dũng cảm đi theo hướng mở đúng đắn đó. Bởi vì ngay từ đầu không phải ai cũng nhận dạng được hướng đi có vẻ ngược chiều chân lý, nhất là đối với những cái đầu đã bị xiết bởi vòng kim cô giáo điều, những tư tưởng đã bị “tín ngưỡng hóa” đến cứng đờ, đến vô tình khư khư giữ lấy tín điều mà quên mất chữ “vì dân”. Chỉ có những tấm lòng thấm đẫm tình dân mới làm được công việc thay đổi diện mạo thời cuộc đó. Võ Văn Kiệt là người tiêu biểu trong số họ, hội đủ điều kiện, xuất hiện tại đúng vùng xoáy ẩn chứa câu hỏi lớn, đúng thời khắc và lịch sử đã giao trọng trách cho ông. Và cũng chính vì thế mà ông trở thành tài ba, lập nên những thành quả nhiều người mơ ước.
Tóm lại, Võ Văn Kiệt có được những phẩm chất quí báu như đã nói là vì con người ông thấm đẫm chữ “dân”, qua từng trải đấu tranh cách mạng mà bản thân ông đã thấu tỏ một cách chân thành cái ý nghĩa lớn lao của quan niệm “lấy dân làm gốc” (Dĩ dân vi bản)) đã có từ ngàn đời của ông cha ta nói riêng và của triết học cổ đại phương Đông nói chung.
Ông đã được đại chúng đương thời trìu mến. Nhiều người đã kể những câu chuyện có tính giai thoại, “bên lề”, rất thú vị về ông.
Có lần, ông Nguyễn Minh Nhị kể: “Nghe chú Sáu đề ra quyết sách này (cải tạo đồng bằng sông Cửu Long), tụi tôi mê lắm. Nhưng lúc đó không phải địa phương nào cũng chịu chương trình này. Có địa phương cứ e ngại việc thoát lũ như vậy, phù sa dẫn về đâu không thấy, chỉ thấy đất đai nhiễm phèn (…). Có lần, nghe tôi than, chú Sáu nói một câu đầy chất ngang tàng Nam Bộ khiến tôi nhớ hoài: “Tao làm tới chức Thủ Tướng mà tao còn không sợ mất chức. Cái chức của mày ăn nhằm gì!”. Câu nói của chú Sáu khiến tôi mạnh dạn làm nhiều chuyện… vượt rào khác”.
Đây là câu chuyện của ông Hà Văn Tiến (Bảy Tiến), người cận vệ thời “chống Mỹ cứu nước” của ông Võ Văn Kiệt: “Anh Sáu rất chân tình, giản dị, gần gũi, thường xuyên hỏi thăm, quan tâm đến những người lính”. Sau Giải Phóng, ông Bảy nghỉ mất sức về quê. “Mãi đến năm 1996, một người lạ mặt đến nhà tôi, nói: “Lệnh của chú Sáu bảo anh bằng mọi giá phải lên Sài Gòn để chú gặp”. Thế là tại căn nhà trên đường Tú Xương, quận 3, Tp.HCM, ngày đầu năm mới đã diễn ra cuộc gặp gỡ giữa ông Sáu và ông Bảy. Ông Bảy kể: “Nghe tôi kể về hoàn cảnh gia đình có 7 con nhỏ và đang nuôi thêm hai đứa cháu, con của đứa em đã chết, và người mẹ già, trong khi nhà lại nghèo, kiếm ăn từng bữa, anh Sáu rầy: “Mày bê bối quá!”. Rồi anh lấy 1 triệu đồng cho tôi, dặn dò: “Nhớ chú tâm làm ăn!”. Thấy tôi lưỡng lự không dám cầm số tiền trên, anh Sáu la: “Tao cho chút vốn để mày làm ăn lo cho bà cụ và các con. Ráng lên nghe chưa!”. Ông siết chặt tay tôi. Nước mắt tôi cứ chảy dài…”.
Bà Bùi Thị Lạng, tốt nghiệp Đại học California (Mỹ), năm 1965, trở thành nữ tiến sĩ hải dương học đầu tiên của Đông Nam Á; kể: “Giữa những năm tháng khó khăn đó, anh Sáu Dân như một nguồn động viên lớn cho anh chị em trong Hội trí thức yêu nước. Anh không bao giờ khuyên chúng tôi những lời sáo rỗng, chẳng hứa hẹn đủ điều cũng chẳng hề dọa nạt. Tới giờ, sau hơn 30 năm, tôi vẫn còn nhớ như in lời đề nghị chân tình của anh: “Tôi rất trân trọng những đóng góp của anh chị em trí thức mình. Chúng tôi rất hoan nghênh nếu mọi người ở lại. Nhưng, một khi muốn ra đi (rời bỏ đất nước), mọi người nên nói trước một lời chứ đừng tự ý bỏ đi như vậy, không an toàn chút nào!”… Lớp trí thức miền Nam chúng tôi ngày ấy quyết định ở lại vì Sài Gòn còn có những người như anh Sáu”. Thời còn làm việc tại Sở Khoa học - Công nghệ và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh,  bà Bùi Thị Lạng rất thẳng tính, thấy sai là phản đối, là đề nghị giải pháp khác. Do đó không được lòng một số người. Trong một cuộc họp, ông Kiệt nói rằng “trí thức phải nói được như vậy”, khiến bà Lạng ngạc nhiên, thầm cảm phục. Bà nói: “Tôi bất ngờ lắm khi biết người đàn ông này tuy không nhiều bằng cấp nhưng có được tầm nhìn xa trông rộng. Ông nắm vững nhiều qui luật của cuộc sống, ông biết rõ muốn chuyển biến xã hội phải chuyển biến quần chúng; ông biết vận dụng sức mạnh của tập thể; ông luôn tìm mọi cách để mọi người được tự do phát triển năng lực bản thân…”.
Câu chuyện nữa: khi Võ Văn Kiệt đã đề xướng, dự tính lấy Dung Quất làm nơi đặt khu công nghiệp hóa dầu đầu tiên của Việt Nam, khi dự án nhà máy lọc hóa dầu và khu kinh tế Dung Quất - Quảng Ngãi đã tượng hình, thì rất nhiều người dân Quảng Ngãi còn chưa biết đến địa danh Dung Quất. Ngay trong thời gian Quảng Ngãi phát động “di dân Dung Quất lấy đất nền cho nhà máy lọc dầu, Võ Văn Kiệt đã không ít lần về tận Dung Quất, gặp người dân ở đó, lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của họ để tìm ra quyết sách hợp lòng dân nhất. Và “ông Sáu vì dân” đã chỉ đạo, thay vì di dân theo kiểu “bứng sạch gốc” thì đổi thành dãn dân theo kiểu “gài răng lược”, làm sao để các khu công nghiệp vẫn bảo đảm hoạt động bình thường mà người dân Dung Quất - chủ yếu là nông dân - vẫn có thể sống bên cạnh hay ngay trong lòng khu công nghiệp để tham gia làm công nhân, dịch vụ, và được hưởng lợi trực tiếp từ những hoạt động công nghiệp. Ông Kiệt nói: “Chúng ta làm công nghiệp hóa là để nông dân có cơ hội vươn lên một đời sống dễ chịu hơn, được hưởng lợi trực tiếp từ công nghiệp hóa, chứ không phải để bị bần cùng hóa, bị xua đuổi khỏi mảnh đất bao đời họ đã sống và canh tác, bị gạt ra bên lề của tiến trình công nghiệp hóa”.
***
Còn một điều thú vị nữa về Võ Văn Kiệt. Đó là hình như nỗi niềm sông núi cũng có tình riêng, ưu ái gửi gắm vào một con người, như một điềm báo trước. Nhiều hành động của chúng ta, tưởng rằng là do thuần túy lý trí, nhưng đến một lúc nào đó, nghĩ lại và ngạc nhiên thấy rằng hình như còn có sự chỉ bảo của huyền bí tâm linh. Mới sinh ra, ông tên là Hòa. Chữ “Hòa” ấy, luận theo triết học phương Đông, mang một ý nghĩa rất rộng và nặng đến ngàn cân, chí ít nó cũng là cơ sở cho “Võ”, “Văn” trở nên “Kiệt” hiệt và khi xuất hiện thiên thời, địa lợi thì có ngay một nhân “Hòa”. Ông sinh ở đất rồng (Vĩnh Long), tên thứ của ông là Chín - tức cửu, hợp lại thành Cửu - Long: vùng đất trời mà ông sinh ra, “sống chết” với nó và lại trở về. Ông lấy bí danh là “Sáu Dân” vì chữ “Dân” đã vận vào con người ông hay do ai mách bảo? Sáu là “lục”, phải chăng Sáu Dân còn hàm nghĩa là “dân lục tỉnh”, tức dân Nam Bộ - tính cách “rặc” của ông? Hình như Phan Thanh Giản đã trở về thời đổi mới để chuộc lại cái lỗi lầm ngày xưa, khi ông trót đặt “trung quân” lên trên “ái quốc”!
Trong đời chúng ta, cho đến nay, trên đất nước Việt Nam này, đã chứng kiến ba đám tang lớn của ba nhân vật khác nhau về nhiều mặt nhưng giống nhau ở một điểm duy nhất: nặng lòng với nước, vớI dân, với thân phận con người, đó là Hồ Chí Minh, Trịnh Công Sơn và Võ Văn Kiệt. Vì thế mà hóa ra, họ sống mãi trong lòng dân tộc Việt?!
“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi…”. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã hát lên như thế. Tất nhiên, nhìn ra xa vời, tất cả mọi sự kiện, mọi biến cố, mọi bàn luận, mọi đánh giá… của mọi thời rồi cũng có ngày hóa thành vô nghĩa lý, thành hư vô, tan biến vào Tự Nhiên Tồn Tại. Đó là một tất yếu. Tuy nhiên, trong đời sống, tình cảm con người không bao giờ muốn thế, dù có biết không thể vượt qua được lẽ Tự Nhiên, dù vẫn biết kiếp đời là hữu hạn thì cũng không nghĩ thế, vẫn không bạc nhược, lý trí vẫn mách bảo đời là có nghĩa, vẫn sống và hành động một cách tích cực với biết bao nhiêu toan tính thường nhật và ý đồ tạo dựng tương lai dù biết rõ bản thân có thể không được hưởng cái tương lai ấy.
Phù hợp với Đạo Tự Nhiên, con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình muốn, thậm chí là tự sát. Nhưng phù hợp với Đức Huyền Diệu, con người không thể làm điều bất nhân bất nghĩa. Chính vì vậy mà “sống trong đời sống cần có một tấm lòng” dù biết rằng  rồi cũng “để gió cuốn đi” mà thôi. Tầm sâu triết lý của câu hát đó, theo chúng ta hiểu, là như vậy. Dù Trịnh Công Sơn đã bị “gió cuốn đi” từ lâu nhưng tấm lòng ông vẫn ở lại, an ủi kiếp người và góp phần dạy dỗ hậu thế.
Khi một con người đã có “tấm lòng” thì không thể không yêu mình, yêu người; không thể thiếu tình thương con người và ở tầm rộng hơn, không thể không “cám cảnh” mà yêu thương cả dân chúng. Tình yêu thương con người sẽ hướng suy nghĩ và hành động về phía mục đích “vì con người”, và yêu dân cũng sẽ hướng đến “vì dân”.
Như thế, chúng ta thấy hành động vì dân là kết quả tất yếu của sự suy nghĩ và nhận thức phù hợp với Đức Huyền Diệu (cũng có nghĩa là phù hợp với ước nguyện của Đại Chúng!). Tuy nhiên đó không phải là nguyên nhân duy nhất. Nguyên nhân thứ hai dẫn đến hành động vì dân là: hiểu được ý nghĩa lớn lao, có tầm quyết định thành bại của thành ngữ: “Dân giàu nước mạnh” đến sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Trong thực tiễn, có những hành động tưởng là vì dân nhưng thực ra là hại dân; có thể chỉ vì một bộ phận thiểu số mà không phải vì Đại Chúng; có thể lúc này đúng là vì dân nhưng lúc khác (khi điều kiện, hoàn cảnh xã hội đã thay đổi, trình độ xã hội đã phát triển lên mức độ nhất định…) lại không phải là vì dân nữa. Thế thì làm thế nào mà xét đoán, mà ước lượng, mà quyết đoán được mức độ, hiệu quả vì dân cũng như tính khả thi của một (hay những) hành động đang ở giai đoạn nằm trong ý đồ, như là một (những) kế hoạch, một quyết sách hay một dự án? Trả lời: dựa vào kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, dựa vào kiến thức tích lũy được từ lịch sử, sự nhạy bén…, nhưng trước hết và trên hết, phải nhận thức được quan niệm “lấy dân làm gốc”, lấy đó làm tư tưởng chủ đạo để nhận thức những vấn đề kinh tế - xã hội trong quá trình để ra quyết sách, dự án…, cả ở trong việc nhận định, dự đoán, đánh giá hậu quả và ở cả trong quá trình thực thi.
Có thể nói “lấy dân làm gốc” là nguyên tắc cốt lõi, nền tảng trong việc “trị vì” đất nước lâu dài, vững chắc của một triền đại, một chế độ và đồng thời cũng là sự thể hiện đạo đức của “tôi sáng vua hiền”, của một nhà nước tự gắn nhãn mác: XHCN, do dân, vì dân. Bởi lẽ “lấy dân làm gốc” là thuận theo lẽ tự nhiên (ý trời), hợp với Đức Huyền Diệu (lòng dân); là bộ phận của chân lý hết sức giản dị nhưng cơ bản trong xã hội loài người: “Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu!”.
Nhưng tại sao lại như thế được? Một trong những đặc tính cơ bản nhất của Tự Nhiên Tồn Tại thể hiện ra trước một quan sát có tư duy nhận thức là sự phân định. Một trong những phân định cơ bản nhất là phân định giữa tồn tại và hiện hữu, giữa cái nền tảng và các sự vật - hiện tượng. Có thể nói: trước nhận thức, Nguyên Lý Tự Nhiên tối thượng đã tạo ra phân định và sự phân định là một trong những động lực vận động, làm cho Nguyên Lý Tự Nhiên được bảo toàn. Rừng cây là một hiện hữu và nền tảng của nó là tập hợp của những cái cây. Tập hợp ấy có thể là không quan sát được nhưng biết rằng nó tồn tại, có thể hiểu tập hợp của những cái cây là toàn bộ số cây có trên trái đất và rừng là một tập hợp đặc thù (có mật độ dày hơn), trở nên nổi trội và nhờ thế mà hiện hữu. (Có một điều tế nhị muốn nói thêm ở đây là trong cùng một thời điểm quan sát, không thể thấy cả rừng và cây, khi thấy cây sẽ không thấy được rừng và khi thấy rừng thì sẽ không thấy cây. Câu nói: “Vừa thấy cây, vừa thấy rừng” là câu nói… hoang tưởng và chỉ nên hiểu rằng khi nhìn thấy cây một cách trực giác thì ngay lúc đó nếu có nhìn thấy rừng thì chỉ có thể là bằng… hồi ức, và ngược lại!).
Tập hợp những con bò làm nên thế giới loài bò cũng như những đàn bò. Sự phân định tương đối làm cho thế giới loài bò trở thành nền tảng (có tính lặn) và những đàn bò cũng như những con bò đơn lẻ, cùng với sự hoạt động của chúng trở thành những sự vật - hiện tượng (có tính trội). Nếu không có những đơn vị là những con bò thì không thể tập hợp được để thành thế giới loài bò, cái nền tảng. Nhưng nếu không có nền tảng ấy thì cũng chẳng có đàn bò hay con bò đơn lẻ, cái hiện hữu. Có thể nói những sự vật - hiện tượng “bò” có được là nhờ có cái nền tảng “bò” và chúng cũng chính là những bộ phận của cái nền tảng.
Một cách tương tự có thể cho rằng xã hội loài người là nền tảng cho sự hiện hữu của các vùng dân cư tập trung, của các đoàn người du cư, của từng con người cá thể (và rằng, tập hợp toàn bộ con người cá thể, những đơn vị “người” nhỏ nhất, làm nên xã hội loài người!). Và cũng tương tự như vậy, xét riêng phương diện con người, thì dân chúng của một nước chính là nền tảng của sự hiện hữu các bộ phận dân cư (các cụm dân cư tập trung như làng xóm, thị xã, thành phố…), của các gia đình cũng như của từng cá nhân. Không có nền tảng đó thì không có những hiện hữu đó và đất nước đó (cũng xét trên phương diện con người) là không tồn tại.
Chúng ta biết rằng chỉ riêng Nền Tảng Tuyệt Đối của Tự Nhiên Tồn Tại là vốn dĩ thế tồn tại, không từ sự tạo dựng nào nên bản thân nó cũng trở nên hằng cửu trước nhận thức. Còn bất cứ thứ nền tảng tương đối nào đều là do tạo dựng. Sự tồn tại tương đối của một nền tảng có được duy trì không, lâu hay mau là phụ thuộc vào sự tương tác của nó hay những bộ phận của nó với môi trường (sự tương tác lẫn nhau giữa các bộ phận của nền tảng, xét cho cùng, cũng là sự tương tác giữa thực thể và môi trường). Thế giới loài bò sẽ chấm dứt tồn tại, nếu không có sự tương tác với môi trường, nếu những đàn bò, những con bò không tích cực đi tìm thức ăn hoặc không được cho ăn, không có cái để ăn (chưa kể đến “húc lộn” nhau hay thiên tai, “người” họa). Không có miếng ăn thực sự là đáng sợ hơn “trời giáng”.
Với lập luận như trên thì rõ ràng đất nước tương tự như cái cây mà dân chúng chính là gốc. Không có cái gốc ấy là không có đất nước. Để cái gốc đó chết đi thì đất nước tiêu tan. Không chú ý vun xới nuôi dưỡng cái gốc ấy thì đất nước điêu tàn, khó lòng đứng vững được trước một cơn gió nhẹ chứ chưa nói đến bão giông. Do đó mới có thể nói, “lấy dân làm gốc” là nguyên tắc cơ bản, phải tuân thủ của bất cứ chế độ nào trong việc dựng xây lên vững mạnh và phòng thủ hữu hiệu đất nước. Nhưng quần chúng nhân dân không phải là cái gốc cây thông thường, hoàn toàn thụ động. Đó là một gốc cổ thụ có tư duy, nhận thức được, biết quan niệm và có bản năng sinh tồn mãnh liệt. Nếu cho rằng thế giới loài bò, trước đói khát triền miên đe dọa sự tồn tại của nó, thì nó sẽ cố gắng tự chuyển biến mình một cách bản năng (sự tiến hóa thích nghi), nhưng không kém phần mạnh mẽ, thành thế giới của một loài mới, kế thừa loài bò. Đối với nền tảng là dân chúng thì có khác. Nền tảng này không còn nhận cách thức chậm chạp thích nghi là để cho môi trường cải tạo mình, mà trái lại, tích cực chủ động thích nghi bằng con đường ưu tiên là cải tạo môi trường. Khi bị đói khát cùng cực, bị đe dọa đến cùng cực sự tồn vong của nó, cái nền tảng quần chúng ấy, cái gốc của một nước ấy sẽ rùng rùng trở thành một lực lượng gan góc và vô địch (có thể nhai nuốt cả trời đất nếu đó là món ăn được!), đánh tan mọi áp bức, bất công, tạo nên một diện mạo mới cho đất nước. Một cái cây mới sinh động và đầy nhựa sống hơn, vươn chồi nảy lộc, đơm bông kết trái trên cái gốc cũ đến kỳ hồi sinh…
Gút lại: “Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi tiên” là một chân lý của Tự Nhiên Tồn Tại, thể hiện ra một cách đặc thù trong xã hội loài người. Ai hiểu được chân lý đó, hành động phù hợp chân lý đó là người tài năng, biết nhìn xa trông rộng, có lòng nhân hậu và nếu có cơ may làm lãnh tụ thì sẽ là một lãnh tụ được toàn dân yêu mến, dù không cầu danh thì danh vẫn tự đến, để rồi lưu truyền đến mai hậu…
Ý nghĩa lớn lao của “lấy dân làm gốc” được ông cha ta nhận thức từ lâu và truyền dạy từ đời này sang đời khác để trở thành một quan niệm có tính truyền thống của dân tộc. Tình tiết thời vua Hùng có sứ giả đi khắp các làng quê kêu gọi người tài giỏi trong dân chúng ra đánh giặc Ân cứu nước, chiếu cầu hiền của vua Quang Trung, hay “lời kêu gọi kháng chiến” của Hồ Chí Minh là những thể hiện của cái tinh thần đó. Ngày xưa, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn từng nói: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách để giữ nước”. Nguyễn Trãi đã nói: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết”. Câu nói này là của Cao Bá Quát: “Nhân nghĩa là cái đạo rộng lớn vô biên. Làm người có nghĩa, có nhân trước hết là giữ lòng thủy chung với thiên hạ”. Hồ Chí Minh cũng có câu nói, đại ý: “Không sợ đói nghèo, chỉ sợ không công bằng; không sợ khó khăn, chỉ sợ lòng dân không thuận”.
“Lấy dân làm gốc”, hiểu theo nghĩa mở rộng, bao trùm hơn là : “Gốc của xã hội loài người là loài người”. Nền tảng của mọi bộ phận dân cư là xã hội loài người và xã hội loài người lại đồng thời là tập hợp toàn bộ cá thể con người với những mối quan hệ nội tại giữa các bộ phận với nhau và giữa tập hợp ấy với môi trường (chứa nó và bản thân nó cũng là bộ phận của môi trường ấy). Có thể nói gọn lại: xã hội lấy loài người làm gốc. Do đó mà khái niệm “vì dân”, ở trường hợp này cũng được phát triển thành khái niệm khái quát hơn - khái niệm “vì nhân loại”.
Hoạt động vì nhân loại cũng chính là hoạt động hợp lý (Đạo Tự Nhiên), thuận tình (Đức Huyền Diệu). Ý nghĩa của hoạt động vì nhân loại cũng tương tự như ý nghĩa của hành động vì dân nhưng cao rộng hơn nhiều, và vì vậy mà gặp phải những khó khăn lớn hơn bội phần. Nó vừa phải đảm bảo quyền lợi riêng của mỗi quốc gia nhưng cũng vượt lên trên quyền lợi quốc gia để đảm bảo được cái ưu tiên, đó là quyền lợi chung của xã hội loài người, của cả loài người.
Mục đích cuối cùng của mọi hoạt động sống của con người cũng như của cả loài người chính là vì cuộc sống, là vì sự sống còn, mà nói “toẹt” ra là vì miếng ăn cái mặc. Không có mặc thì có thể là khổ nhưng vẫn sống để hy vọng; còn không có ăn thì sẽ đói và chết. Đói khát đã là sự “quỉ ám” khủng khiếp suốt cuộc hành trình sống, đi kiếm ăn của loài người. Do đó, một cách tự nhiên, kiếm ăn và cố gắng kiếm nhiều thức ăn cho đủ dùng và cho cả tích lũy là ưu tiên hàng đầu trong hoạt động sống của loài người, rồi sau đó mới hướng đến cái mặc (được tượng trưng cho việc nâng cao thích nghi, phục vụ gián tiếp cho sự kiếm ăn, làm tăng giá trị cuộc sống… tạm gọi chung là cái tiêu dùng phục vụ đời sống ngoài miếng ăn; sau này, trong nền sản xuất hàng hóa; hoạt động làm ra cái tiêu dùng ấy cũng chính là vì miếng ăn!). “Có thực mới vực được đạo”, ông bà chúng ta căn dặn thế!
Nói cách khác: con người được sinh ra là để sống (chứ không lẽ để chết, dù biết rằng không thể thoát khỏi cái chết chờ chực ở cuối chặng đường đời?), muốn sống thì phải ăn, muốn ăn thì phải có cái mà ăn, không có cái ăn thì phải tìm cho ra cái ăn. Cho nên việc làm đầu tiên vừa có tính bản năng của loài vật, vừa mang tính ý chí của loài người là kiếm ăn rồi sau đó mới kiếm mặc và các việc làm khác trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ đời sống con người. Nhưng hoạt động sống ấy của con người nói riêng và của loài người nói chung, một khi không có tình yêu thương, ở ngoài phạm vi Đức Huyền Diệu, sẽ lập tức trở nên hỗn loạn, “không chịu đựng nổi” bởi mức độ tàn phá, tận diệt ngày càng tăng, bởi mức độ bạo ngược, man rợ ngày một khủng khiếp của nó đối với môi trường thiên nhiên, đối với cỏ cây, muông thú và ghê rợn hơn cả là đối với ngay đồng loại, máu mủ, ruột rà. Loài người lúc đó tệ hơn nhiều so với loài vật. Con người lúc đó dã man hơn nhiều so với con vật, nó không bằng con vật vì nó là con quỉ: có tư duy sáng tạo và hoàn toàn độc ác, nó thản nhiên xé xác người thân kẻ thuộc của nó chỉ để hả dạ sự thù ghét không đâu, chỉ vì chút nóng giận thoáng qua và thậm chí chỉ để tiêu khiển, mua vui!
Rất may, điều giả định trên chỉ là hoang tưởng! Lịch sử loài người đã chứng thực: hoạt động sống của loài người cũng như những cá thể của nó, dù đã phạm nhiều lầm lạc trong việc đối xử với môi trường thiên nhiên, dù đã gây ra không ít những đau thương, thống khổ trong nội bộ loài của nó thì cũng chưa bao giờ đạt đến trình độ toàn diện và triệt để ấy, nếu có chăng, chỉ là hiện tượng cá biệt, trong phạm vi nhỏ hẹp không đáng kể.
Người ta nói thế giới vô sinh là vô tình, vô cảm. Có khi là thế thật. Chúng ta không bàn luận về điều đó. Nhưng chắc rằng cội nguồn nguyên thủy và tự nhiên của thế giới hữu sinh cùng với tính hữu tình hữu cảm của nó là thuộc về thế giới ấy. Trong cái hữu tình hữu cảm ấy đã tiềm tàng ẩn chứa, biểu hiện một cách chưa định hình ở thế giới thực vật, một cách sơ khai mang tính mầm mống ở thế giới động vật (không phải người) của Tình yêu thương - Đức Huyền Diệu. Tình yêu thương - Đức Huyền Diệu, đồng thời cả những đặc tính tương phản với nó chính thức đâm chồi nảy lộc cùng với sự ra đời của loài người và trở thành sở hữu tự nhiên của riêng loài người. Có thể nói Tình yêu thương - Đức Huyền Diệu và sự nhẫn tâm - thất đức là hai mặt tương phản sẵn có một cách tự phát trong thuộc tính con người mà thuở ban đầu, con người chưa nhận thức được. Từ tự phát suy nghĩ đến tự giác ưu tư, nhận thức của con người về tự nhiên cũng như về thân phận ngày một sâu sắc, xác định được một cách có lý trí tính đúng - sai của hai thuộc tính tương phản ấy và đồng thời cũng làm phát sinh cuộc đấu tranh trường kỳ về mặt tư tưởng để xác định chân lý trong cái đa dạng, đa chiều, đa nhân cách của hoạt động thực tiễn (biểu hiện chuyển hóa giữa hai mặt tương phản của hệ lưỡng nghi?!).
Thực ra, Tình yêu thương - Đức Huyền Diệu chỉ là một nhãn mác sau này, gán cho một thuộc tính (mà cũng sau này) gọi là đức nhân. Nhưng có lẽ, cuộc đấu tranh tư tưởng về bản chất của “đức nhân” đã nảy sinh từ rất sâu trong tiền sử, và đến ngày nay vẫn còn chưa ngã ngũ. Phải chăng cuộc đấu tranh này cũng là sự biểu hiện của quá trình đang tiến hóa thích nghi về mặt trí não, về tinh thần của loài người? Nên chăng là lấy mức độ nhận thức sâu rộng về Tình yêu thương - Đức Huyền Diệu của một con người, của một thời đại, cùng với sự thể hiện đến đâu trong hoạt động thực tiễn, để đánh giá tính nhân văn của con người đó, trình độ văn minh của thời đại đó? Rất đáng ngờ về tính khả thi của dự định này, vì thế, phải cho rằng nền văn minh nhân loại ở thế kỷ XXI (vẫn âm vang tiếng bom đạn chết chóc ở khắp nơi, vẫn ngang nhiên phơi bày sự đói khổ tột cùng của nhân dân Châu Phi, trong khi nhiều nơi lương thực vẫn ú ụ nằm vô tâm trong các kho tàng, trong khi một cầu thủ danh tiếng ở Châu Âu chẳng hạn, có mức lương tuần ngất ngưỡng, đủ để cho một “bộ xương” đói khát ở Châu Phi “phè phỡn” đến 2 năm trời!) chẳng hơn gì nền văn minh nhân loại thời cổ đại, cách nay mấy ngàn năm, thậm chí còn “ẹ” hơn.
Đến bao giờ thì Tình yêu thương - Đức Huyền Diệu mới ca khúc Khải hoàn? Có lẽđến khi con người sinh ra đã sẵn đủ ăn, đủ mặc, hay... không bao giờ!? Khi mối quan hệ tương phản còn đó thì mặt nhẫn tâm - bất đức không thể mất đi được mà may ra chỉ có thể yếu đi, thu rút nhỏ lại. Giả sử rằng trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của thời đại nào đó trong tương lai, mối tương phản nói trên không còn lý do nào để tồn tại nữa thì lúc đó cả nhẫn tâm - bất đức và Tình yêu thương - Đức Huyền Diệu đều phải mất đi, và như thế, sẽ chẳng còn “vị” nào ở lại để mà “ca hát” nữa. Tuy nhiên, đó cũng lại là một suy nghĩ viễn vông. Đến một thời đoạn nào đó trong tương lai xa xăm, sự tiến hóa về trí não của nhân loại theo chiều tự nhiên là thích nghi để bảo tồn sự sống giống loài, đã đạt đến độ tâm lý ghê tởm sự nhẫn tâm - bất đức, ghê tởm chiến tranh, sự chém giết đày đọa nhau giữa nội bộ loài đến cùng tột, sẽ làm cho mặt tương phản đó chuyển hóa hoàn toàn sang mặt Tình Yêu Thương - Đức Huyền Diệu để tự mất đi. Thế nhưng một vế của hệ tương phản lưỡng nghi mất đi thì bản thân mối quan hệ tương phản cũng mất đi, và vế kia không thể tồn tại như một tương phản nữa, nó sẽ phải “lặn” đi và trở thành bản năng của trí não (và có thể là một mặt trong mối tương phản mới với một nhãn mác khác chứ không phải là Tình Yêu Thương - Đức Huyền Diệu nữa!). Đến lúc đó, còn đâu nữa khái niệm Tình Yêu Thương - Đức Huyền Diệu mà ca khúc Khải hoàn? Nhưng đời sống tinh thần của loài người sẽ đứng ra làm việc đó! Chắc như thế không? Không chắc!!!...
Trước áp lực của đà tăng dân số, của sự kích thích tiêu dùng thái quá, của sự công nghiệp hóa vô độ, đô thị - bê tông hóa tràn lan, đất đai trồng trọt cây lương thực bị thu hẹp đáng kể…, loài người đang chơi trò bấp bênh với tương lai của mình, đang khốn khổ vì sự giằng xé lương tâm đã lộ tính bi kịch trong vấn đề nhân đạo.
Khái niệm “vì nhân loại” là một khái niệm hết sức rộng lớn về không gian và thời gian, mang một ý nghĩa rất lớn lao đối với sự tồn vong của bản thân loài người. Vì thế mà hoạt động vì nhân loại cũng vô cùng khó khăn gian khổ. Nhận thức được đầy đủ về nó không thể là một sớm một chiều và sự chuyển hóa nhận thức đó thành hoạt động thực tiễn càng không phải là ngày một ngày hai. Đó là sự nghiệp lớn lao không phải của một người, một quốc gia mà phải là của các quốc gia, mang tính xã hội và khoa học toàn cầu!
Sự nghiệp “vì nhân loại” đòi hỏi phải có một cái nhìn vừa chi tiết vừa tổng thể, phải có một tầm nhìn chiến lược, sâu rộng, nghĩa là cũng đòi hỏi phải có “thiên lý nhãn, thuận phong nhĩ và vạn linh tâm”. Bởi vì “vì nhân loại” là vì quyền lợi chung của loài người trong khi vẫn đảm bảo quyền lợi riêng của các quốc gia, là vì cuộc sống của loài người hôm nay nhưng đồng thời cũng vì cuộc sống của nhân loại mai sau; là vì một môi trường sinh thái lành mạnh, cung cấp dồi dào đầy đủ thức ăn, cái mặc nhưng không kiệt quệ, thiên nhiên vẫn được bảo tồn; là vì sự duy trì mức tiêu dùng tiết kiệm tối đa nhưng vẫn thỏa mãn ở mức hợp lý; là vì quyền được sống, được làm, được ăn, được mặc, được học hành, được hưởng thụ những thú vui một cách chính đáng, công bằng (không phải là bình đẳng kiểu “cào bằng”!) của tất cả các bộ phận dân cư, của tất cả các dân tộc, các quốc gia; của từng con người cụ thể đã “trót” được sinh ra và sẽ được sinh ra trên cõi đời này…Một khi con người sinh ra vẫn phải "có làm mới có ăn" thì còn có điều để nói về nó!


Mời xem:

LỜI PHÂN TRẦN

PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

PHẦN II: NỀN TẢNG

PHẦN III: NGUỒN CỘI