THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 34/a




PHẦN IV:     BÁU VẬT

“Lạc vào cõi mộng Tự Nhiên
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên hòn ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thầy Cãi

PHẦN IV: BÁU VẬT

CHƯƠNG I: TRỐNG ĐỒNG

“Khi đã biết sự thực của vật thể, ta sẽ thấy rằng thật vô lý khi tôn thờ các sản phẩm cô lập của dòng chảy không ngừng nghỉ của sự biến hóa, làm như chúng là vĩnh cửu và đích thực. Đời sống không phải là vật thể hay dạng của vật thể mà là một sự vận động liên tục hay chuyển hóa”
S. Radhakrishnan



Có thể nói thế này: Tự Nhiên Tồn Tại vừa là thể xác, vừa là linh hồn của Vũ Trụ, nghĩa là vừa là tổng thể tất cả các sự vật - hiện tượng, vừa là cái nguyên lý duy nhất, chung nhất, phổ quát nhất; là nguyên lý cội nguồn của mọi nguyên lý - qui luật và có tính tiên đề mà vạn vật - hiện tượng và sự vận động - chuyển hóa của chúng phải tuân thủ.
Vũ Trụ là Tự Nhiên Tồn Tại nên nó cũng tự thân vận động - chuyển hóa không ngừng, đến tận “chân tơ kẽ tóc” để tất cả không Hư Vô trước chính Nó và như thế, cũng luôn thể hiện tính Tồn Tại của nó trước mọi quan sát.

Nói cách khác, Nguyên lý Tiên Đề đòi hỏi phải là Tự Nhiên Tồn Tại, phải vận động - chuyển hóa để đâu đâu cũng Tồn Tại chứ không được xuất hiện Hư Vô trong bất cứ trường hợp nào (và nếu có xuất hiện Hư Vô thì Hư Vô cũng phải vận động - chuyển hóa “so với” Tồn Tại nên nó vẫn cứ là Tồn Tại!). Do đó, lực lượng Không Gian, trước quan sát được “thấy” như “chất”, như “khối mạng” làm nên Vũ Trụ; phải tuyệt đối được bảo toàn, để rồi cũng phải hữu hạn(?).
Vì những lẽ trên mà dù các sự vật - hiện tượng khác nhau được quan sát trong Vũ Trụ, vận động - chuyển hóa có vẻ khác nhau, theo những nguyên lý - qui luật riêng có tính đặc thù của chúng, nhưng những nguyên lý - qui luật này, truy cho đến cùng, đều chỉ được coi là những hệ quả rút ra được từ một nguyên lý chung nhất là Nguyên lý Tiên Đề. Do đó mà có thể thấy phương thức vận động - chuyển hóa chung nhất, cơ bản nhất, có tính nền tảng của vạn vật - hiện tượng là vận động - chuyển hóa lưỡng nghi để vươn tới cân bằng tĩnh tại tuyệt đối nhưng không bao giờ đạt được trạng thái ấy: ở đây, bộ phận này, mặt này… vừa tiến gần tới trạng thái cân bằng tĩnh tại thì đồng thời ở chỗ khác, bộ phận khác, mặt khác… lại rời xa trạng thái đó, làm cho tổng thể luôn bị mất cân bằng. Mặt khác, do Tồn Tại có tính bảo toàn và hữu hạn nên lực lượng của mỗi sự vật - hiện tượng cũng mang tính bảo toàn và hữu hạn tương đối, và từ đó mà nếu quan sát ở một góc độ nào đó thì cũng thấy sự vật - hiện tượng đó có thể ở trạng thái cân bằng tĩnh tại tương đối, và vì cân bằng tĩnh tại là trường hợp riêng của cân bằng động nên nói cho đúng hơn là luôn ở trạng thái cân bằng động. Nếu xét trên bình diện toàn thể thì có thể cho rằng Vũ Trụ là một thực thể phi thường, luôn ở trạng thái cân bằng động nội tại một cách tuyệt đối và nếu có thể quan sát Vũ Trụ từ “bên ngoài” nó thì Vũ Trụ đồng thời cũng là một thực thể cân bằng tĩnh tại tuyệt đối!...
Xuất phát từ Nguyên lý Tiên Đề của Tồn Tại cũng như bản chất của vận động - chuyển hóa mà quan sát còn có thể thấy được một nguyên lý phổ biến nữa của Tự Nhiên, đó là nguyên lý Tương Tự. Nguyên lý này là hết sức quí báu đối với nhận thức.
Nguyên lý Tương Tự phát biểu rằng: trong một phạm vi qui mô nào đó, tùy thuộc vào năng lực quan sát, có thể thấy được giữa các sự vật - hiện tượng khác nhau cũng như giữa sự vận động - chuyển hóa của chúng, dù ít hay nhiều, ở những mặt này hay những mặt khác, thì cũng luôn có sự biểu hiện ra những nét giống nhau, tương đồng nhau, tương đương nhau… hay nói tổng quát hơn là tương tự nhau. Nhờ có nguyên lý Tương Tự mà phép qui nạp (toán học), quá trình biện giải đi đến những công thức tổng quát trong vật lý học… mới có thể thực hiện được. Nguyên lý Tương Tự cũng đã giải thích vì sao mà chỉ cần nghiên cứu thấu đáo nội tại của một hạt cát thôi, cũng có thể rút ra được những nguyên lý cơ bản và phổ quát nhất của Vũ Trụ, hay nói như nhà vật lý Trịnh Xuân Thuận: “Cái vô hạn trong lòng bàn tay”.
Nói như thế thì tại sao chúng ta còn hành trình vật vã đi đâu nữa, cứ ngồi ở nhà, vừa nhai cục thịt vừa nghiệm từ nó ra để mà hiểu Vũ Trụ có khỏe hơn không? Không! Trước hết, chúng ta là những kẻ theo triết học duy tồn chứ không theo chủ nghĩa duy Xực (hiểu theo nghĩa là chỉ ăn thôi!). Đến đây, dù chúng ta tự coi như đã nhặt nhạnh đủ chứng cứ trên bước đường đã qua để tin vào những điều mà NTT đã rót đầy tai chúng ta về Vũ Trụ. Nhưng thật là lạc lõng nếu chỉ có một mình chúng ta tin vào triết học duy tồn và cũng thật là chưa đủ “quyền lực” để “bắt” những người theo chủ nghĩa duy thực đi theo NTT, giúp ông này đủ sức giương cao ngọn cờ đại nghĩa về tư tưởng. Vậy, chúng ta phải tiếp tục cuộc hành trình đi tìm kiếm những “thực chứng” đích đáng (dù là vẫn ở trong thế giới hoang đường!).
Nhưng từ vị trí “Trường Sơn đông nắng tây mưa; ai chưa đến đó như chưa hiểu mình” này, chúng ta nên đi theo hướng nào và đến đâu để tìm được những “thực chứng” chắc mẩm là sự thực? Kinh nghiệm từ những cuộc hành trình vừa qua đã mách bảo rằng trên cái trần gian còn đầy những mê lầm này, giá trị của những “thực chứng” mà chúng ta có được là không đủ độ tin cậy, vàng thau lẫn lộn khó mà phân biệt được. Chúng ta cho rằng sự thật đích đáng chỉ có thể tìm thấy trong thế giới của Hoàng Tử Bé: thế giới Hoang Đường. Chúng ta sẽ hành trình trong thế giới ấy, hẳn rồi, nhưng bây giờ thì theo hướng nào?
Nhìn ra mênh mông Thái Bình Dương, chúng ta lại thấy ngọn núi Tu Di ở tít xa mờ. Đó là Kim Tự Tháp vĩ đại của Thiên Nhiên mà giờ đây đỉnh của nó đã vút cao lên tự bao giờ, mất hút trong bầu trời xanh cao. Thật diệu kỳ!
A! Chúng ta nhớ ra rồi! Truyền thuyết có nói rằng vị trí của ngọn núi Tu Di nằm ở trung tâm Vũ Trụ. Vậy thì rất có thể đỉnh Kim Tự Tháp vĩ đại đó chính là nơi trú ngụ của Tạo Hóa. Chúng ta sẽ đi đến Tu Di, leo lên đỉnh để diện kiến Ngài, hỏi cho ra lẽ. Khi đó, chắc chắn chúng ta sẽ có được những thực chứng không ai có thể phản bác được về sự đúng đắn của triết học duy tồn.
Một dải mây trắng hiện ra, giăng từ chỗ chúng ta đến tít tắp núi Tu Di. Phải chăng là Tạo Hóa đã cảm thông tình chúng ta và có ý mời gọi? Thế nào cũng được! Chúng ta bước liều lên đó và bắt đầu hành quân xa. Xin một lần nữa vẫy chào Tổ Quốc!
Leo được lên đỉnh Kim Tự Tháp vĩ đại của Thiên Nhiên chắc chắn không phải là chuyện đùa. Gian nan và mệt nhọc là điều có thể thấy trước. Bởi vì Tu Di là đệ nhất hùng sơn thiên hạ cho nên đỉnh của nó nằm ở độ cao mà như chúng ta đã thấy, mất hút trên nền trời xanh. Như vậy, đỉnh núi Êvơrest ở Tây Tạng, nếu đem so với nó, sẽ trở nên tầm thường, nhỏ nhoi và “thấp tè” một cách thảm hại.
Nhìn lại quá khứ chúng ta thấy cuộc hành trình đã qua, tuy cũng lắm quanh co, khúc khuỷu, tuy cũng có lúc phải trèo đèo, lội suối, nhưng nhìn chung, đó là cuộc đi có phần ngẫu hứng, phần nhiều là cưỡi ngựa thong dong, đi qua những miền đồng bằng trù phú lá hoa với trời xanh, sông biếc, hay phi ngựa vui tươi trên thảo nguyên mênh mông với những kỳ hoa dị thảo, giữa một không gian khoáng đãng, gió lồng mát rượi. Nhìn lên phía trước, chúng ta chỉ thấy trùng trùng, điệp điệp núi non. Đến chân núi Tu Di, nếu chúng ta đang đi ngựa, sẽ buộc phải xuống ngựa vì không thể dùng ngựa để thực hiện cuộc leo núi trường chinh vạn dặm đầy gian khổ…
Hay là quay về? Chúng ta có thể quay về mà không ai thấy sự nhát cáy của chúng ta, vì ở đây thật ra đến ma còn không hiện diện nữa huống chi là một kẻ nào khác! Nhưng nếu chúng ta quay về thì sẽ chẳng còn cơ hội nào để thỏa mãn niềm đam mê cháy bỏng thuở ban đầu và bây giờ vẫn còn nóng hầm hập trong chúng ta nữa. Chúng ta đoán chắc rằng chỉ khi lên được đến đỉnh của núi Tu Di huyền thoại thì mới có thể nhìn ngắm được toàn bộ Tự Nhiên Tồn Tại, mới thấy được tận mắt sự thống nhất vĩ đại của Vũ Trụ và mới gặp được đấng Tạo Hóa thiêng liêng để hỏi cho ra lẽ nhiều điều còn ấp ủ. Đỉnh Tu Di chính là trung tâm Vũ Trụ và đồng thời cũng là đỉnh cao nhất của mọi mơ ước.
Thôi, không nghĩ ngợi, nghi ngại gì cho nhiều nữa, hãy xốc lại niềm tin để không lùi bước mà vươn lên đến hết sức bình sinh! Cuộc chơi nào mà không công phu? Biết đâu chừng rồi đây chúng ta sẽ phải thừa nhận rằng núi non, tuy không có cái vẻ đẹp êm đềm của sông nước, làng quê đồng bằng, hay vẻ đẹp tự do, khoáng đạt của thảo nguyên nhưng cũng tuyệt đẹp, cái vẻ đẹp của sắc sảo và kiêu hùng, uy nghi và huyền bí…
Để quên đi đường xa và bớt mệt nhọc, chúng ta sẽ áp dụng kế sách “vừa đi đường, vừa kể chuyện”. Và nhớ rằng đừng bao giờ để mất một công cụ vô giá mà chúng ta đã mang theo bên mình từ buổi đầu tiên, bước những bước đầu tiên đi tìm “một cái gì đó”, đó là Sự Hoang Tưởng. Nó luôn là thứ đắc lực nhất giúp chúng ta trong những trường hợp nguy nan nhất (và cả những lúc ngu muội nhất).
***
Cần có một lãnh tụ, đó là đòi hỏi tự nhiên của một cộng đồng xã hội. Lãnh tụ là người đứng ra (được bầu lên) để làm điểm gắn kết, thống nhất, tạo tiếng nói chung cho cộng đồng xã hội trong quá trình đấu tranh sinh tồn (lao động sản xuất, khắc chế thiên tai, tự vệ chống xâm lược…) nhằm đảm bảo cho cộng đồng xã hội sống còn. Khi cộng đồng xã hội phát triển về số lượng, đa dạng về chủng loại, sắc tộc, định cư lâu dài trên một cương vực lãnh thổ sở hữu tương đối rộng thì để đảm bảo điều hành được đất nước, lãnh tụ cũng phải tăng cường nhân lực thừa hành làm xuất hiện một bộ máy lãnh đạo. Đó chính là hình thức đầu tiên (manh nha, sơ khai…) của hình thái nhà nước. Từ đấy ta thấy, chức năng đầu tiên, tự nhiên, cơ bản và hoàn toàn chính đáng của nhà nước là phụng sự cho đời sống của cộng đồng xã hội được an khang, thịnh vượng, đảm bảo mọi người trong cộng đồng có quyền được sống bình đẳng và tự do, mưu cầu hạnh phúc một cách chính đáng (thực ra nhiệm vụ cao nhất, có tính lý tưởng của nhà nước là đảm bảo cho mọi người trong xã hội khi sinh ra đều có cuộc đời được hưởng thụ hạnh phúc như nhau!). Chính vì thế mà chức năng đó cũng bao hàm cả việc huy động, tổ chức toàn dân đấu tranh chống thiên tai, chống ngoại xâm, vì sự sống còn và hạnh phúc của bản thân cộng đồng xã hội (chứ không phải của nhà nước!).
Như vậy, chúng ta quan niệm rằng (cũng như trước đây đã từng trình bày): Không phải xã hội bị phân chia giai cấp giàu - nghèo là nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước mà ngược lại, chính sự xuất hiện nhà nước đi đôi với thèm khát bản năng cùng với lý trí mù quáng (sự thèm khát danh lợi) làm phân tầng xã hội thành hai giai cấp thống trị và bị trị, mà trong đó giai cấp bị trị bị nghèo đi một cách bất công, còn giai cấp thống trị thì giàu lên một cách bất chính, dẫn đến đấu tranh giai cấp là điều không tránh khỏi. (Nói thêm, một nhà nước sáng suốt, biết thế nào là do dân và vì dân (từ đó mà cũng vì mình) thì sẽ không làm xuất hiện sự phân tầng giai cấp (đối kháng) trong xã hội; còn một nhà nước hoạt động không phải hoàn toàn vì dân hoặc tưởng là vì dân nhưng té ra không phải thì dù có mang nhãn mác đẹp đẽ đến cỡ nào, dù có “ba hoa chích chòe” đến mấy, nếu xã hội chưa đến mức bộc lộ sự phân tầng giai cấp (đối kháng) thì chí ít cũng nung nấu sự xung đột ngấm ngầm ở mức độ nào đó giữa đại chúng với nhà nước).
Trên quan điểm đó mà xét thì không những thời Hùng Vương, ngay từ buổi đầu tiên đã có nhà nước mà nhà nước đã có thể xuất hiện cả suốt thời Lạc Long Quân - Âu Cơ, hơn nữa, dù có thể vào giai đoạn đầu “chân ướt chân ráo” của thời Kinh Dương Vương chưa hình thành sự lãnh đạo xã hội mang hình thái nhà nước thì kế sau giai đoạn đó đã có sự lãnh đạo kiểu nhà nước (cá nhân chỉ huy, tập thể lãnh đạo, có bộ máy thừa hành, có quyền lực nhằm đảm bảo cho luật lệ xã hội (hay nói như Rútxô là Khế ước xã hội) được thực thi).
Mở đầu cho quá trình hình thành dân tộc Việt, mở cõi để sau này xuất hiện nước Văn Lang, theo truyền thuyết là bắt đầu từ thời Kinh Dương Vương mà thời điểm khởi thủy là năm Nhâm Tuất - 2879 TCN (phải chăng vì thế mà nước ta sau này có một thời thờ chó?). Nhưng bằng cách nào mà người ta lại xác định được niên đại rành rọt như thế của thời tiền sử xa mù, xuyên suốt một khoảng thời gian chưa có chữ viết, chưa có chữ số, chưa có lịch pháp, sự lưu nhớ, chỉ dựa vào truyền khẩu? Chúng ta đều biết niên đại này là do nhà sử học thời trung đại của Việt Nam là Ngô Sĩ Liên nêu ra. Vậy ông dựa vào đâu? Chính Ngô Sĩ Liên, tác giả sách “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Kinh Dương Vương là vua bắt đầu được phong của nước Đại Việt ta, cùng với Đế Nghi một thời, cho nên chép năm đầu ngang năm đầu của Đế Nghi (làm vua phương Bắc - NV)”. Rõ ràng, Ngô Sĩ Liên đã dựa theo sử chép của Trung Hoa. Nhưng cổ sử Trung Hoa, dù đã có sớm hơn thời Lê sơ của Ngô Sĩ Liên bao nhiêu chăng nữa thì cũng chỉ ghi lại từ truyền thuyết. Vậy cái niên đại 2879 TCN chỉ là một sự ước đoán hoàn toàn tùy tiện. Bản thân Đế Nghi nếu có sống lại, chắc gì đã biết mình làm vua vào năm nào? Tuy nhiên, về mặt sự kiện thì có thể tin được.
Vào khoảng nửa cuối thời đại Đồ đá mới, tại vùng Nam - Trung Hoa xuất hiện một cuộc lan tỏa dân cư của cư dân Bách Việt. Một bộ phận do Đế Nghi cầm đầu tiến lên phía bắc, hòa hợp với người bản địa ở đó làm hình thành nên dân tộc Hoa. Một bộ phận do Kinh Dương Vương cầm đầu tiến xuống phía nam, hòa hợp với người bản địa ở đây làm hình thành nên dân tộc Việt.
Cuộc lan tỏa dân cư xuống phía nam do Kinh Dương Vương khởi xướng chắc rằng có qui mô không nhỏ, kéo dài trong thời gian, và dĩ nhiên nó mang theo cả (một phần) nền văn hóa Bách Việt lúc đó (phải chăng là văn hóa Ngưỡng Triều, 4.500 - 2.500 năm TCN?) đến vùng đất mới. Các nhà nghiên cứu ngày nay đều thừa nhận văn hóa Phòng Nguyên có niên đại khởi phát từ khoảng trên dưới 4.000 năm cách nay. Vậy việc xác định thời điểm Kinh Dương Vương đến vùng cao - trung du Bắc Bộ vào khoảng cuối thiên niên kỷ IV - đầu thiên niên kỷ III TCN là chấp nhận được. Bởi vì văn hóa Phùng Nguyên được xác định là không bắt nguồn trực tiếp từ văn hóa Bắc Sơn (một nền văn hóa tại chỗ, có tính phổ biến, có cội rễ là văn hóa Hòa Bình và sâu hơn nữa là văn hóa Sơn Vi), nó cũng không thể từ trên trời rơi xuống. Cần phải có khoảng thời gian đủ dài lâu (ở đây là trên dưới 1.000 năm) để văn hóa Ngưỡng Triều từ phương bắc tới, thấm dần màu sắc văn hóa bản thổ, giao hòa với văn hóa Bắc Sơn mà làm hình thành nền văn hóa Phùng Nguyên - một nền văn hóa thuộc cuối kỳ Đá mới, đương kỳ Đồ gốm và sơ kỳ Đồng Thau!
Kế thừa thời đại Kinh Dương Vương là thời đại Lạc Long Quân - Âu Cơ. Thời đại này được đánh dấu bằng cuộc lan cư mạnh mẽ từ khắp các miền Trung du Bắc Bộ xuống vùng trũng là đồng bằng theo sau sự rút lui của biển Đông. Lẽ đương nhiên là nền văn hóa Phùng Nguyên cũng lan tỏa xuống đó, rồi tiếp thu thêm những nét văn hóa cá biệt, địa phương ở những khu vực quanh đó và cả từ vùng ven biển Hà Tĩnh. Quá trình này làm xuất hiện một nền văn hóa mới tương đối xác định, là nền văn hóa Gò Mun.
Trong xã hội thời đại Kinh Dương Vương chưa xuất hiện hình thức gia đình (vợ chồng), vẫn còn lối sống quần hôn và chế độ xã hội vẫn theo phương thức công xã (chúng ta tạm thời khái niệm công xã ở đây là mọi người cùng làm cùng được hưởng miếng ăn từ sự phân chia công bằng, có chú ý tới người nuôi con, người già cả, bệnh tật… Người đứng ra phân chia là nhà nước. Nhà nước lúc này chỉ đơn giản là một vị trưởng lão hay thủ lĩnh được bầu lên từ hội đồng các bô lão. Tùy vào công sức bỏ ra mà sự chia chác thành phẩm lao động cũng cho có người nhận nhiều, người nhận ít. Tuy nhiên sự chênh lệch “giàu - nghèo” không đáng bao nhiêu và nhìn chung thì thành quả lao động xã hội chưa dư dật gì, chỉ “vừa đủ xài” nghĩa là vừa đủ bù đắp cho sức lao động xã hội…). Hiểu theo ý riêng, chúng ta cho rằng chế độ Công xã (nguyên thủy) là chế độ có tính tập trung, bao cấp đầu tiên, còn sơ khai của nhân loại (nhưng rất hồn nhiên, rất đẹp).
Hình thức chia chác thành phẩm lao động rất gần với bình quân đầu người và cũng mang tính nhân đạo ấy (nhất là việc người phụ nữ khi sinh nở, nuôi con cũng được phần từ sự phân chia, thậm chí là vì phải nuôi con mà còn được ưu tiên hơn, được luật lệ công xã bảo hộ), đã làm bật ra trong não chúng ta một ý nghĩ ngộ nghĩnh và chưa hẳn đã đúng, là khi thành quả lao động trở nên dồi dào hơn do điều kiện thiên nhiên thuận lợi, do cải tiến được công cụ lao động, do có được cách canh tác tốt hơn… thì người đàn ông thấy rằng sống gắn bó với một người phụ nữ nào đấy có lẽ lợi hơn: khi có con thì người phụ nữ được cộng đồng chia phần, người phụ nữ còn làm ra thêm được của cải, con cái lớn lên nhanh chóng theo mẹ phụ đỡ nhiều công việc, lúc “thất bát” người đàn ông có thể “dựa hơi” vào, người phụ nữ khi quanh quẩn “ở nhà” thì đồng thời cũng vun vén, quán xuyến của cải tích lũy được từ những lần làm ăn dư dôi… Từ đó mà gia đình xuất hiện. Người phụ nữ thời đó là một mối lợi, là cơ sở duy trì sự tồn vong cũng như sự phát triển nhân lực của cộng đồng xã hội, được công xã ưu ái bảo vệ, ngoài ra, trong khi họ được chọn lựa người đàn ông theo hàng ngang thì đàn ông chỉ được chọn lựa người phụ nữ theo hàng dọc, do đó mà cũng trở nên có quyền lực. Người đàn ông muốn “lấy” thì phải cầu cạnh, xin xỏ và “dụ khị” (ngày nay hầu hết đàn ông muốn lấy nàng nào làm vợ đều răm rắp tuân theo cách thức ngàn xưa đã trở thành tập quán ấy!). Điều đó đã giải thích vì sao mà gia đình, trong giai đoạn xuất hiện đầu tiên thời nguyên thủy lại mang tính chất mẫu quyền, mẫu hệ (người phụ nữ có quyền uy nhất trong gia đình, con sinh ra chỉ vâng theo mẹ, được mẹ đặt tên; linh hồn gia đình là phụ nữ và gia đình đó bao giờ cũng chỉ có một bà nhưng thường là vài ông), dù “thằng” hay vài thằng đàn ông “vai u thịt bắp” thường khỏe ghê” trong gia đình của “bà xã” chung!!!
Thời đại Lạc Long Quân - Âu Cơ là thời đại lối sống gia đình đã trở nên phổ biến. Công cuộc đi khai phá, chinh phục thiên nhiên ở đồng bằng Bắc Bộ là đầy gian nan vất vả vào giai đoạn đầu nhưng nhờ thế mà thiên nhiên quay sang ưu đãi, nên cuộc sống nhanh chóng trở nên rất sung túc vào giai đoạn sau và sự sung túc này được duy trì dài lâu khi đất còn rộng, người còn thưa.
Mức sống của mỗi con người, mỗi gia đình trong Công xã ngày một được nâng cao, có nhiều dư thừa để tích lũy, kéo theo những biểu hiện mới của xã hội như: làm tăng tiêu dùng phi lương thực thực phẩm (mặc, làm đẹp, đồ dùng gia đình, lễ hội…), chuyên môn hóa định hình, mở rộng những ngành nghề phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng đó (sản phẩm làm ra được đem đi trao đổi lấy lương thực thực phẩm), nghĩa là làm xuất hiện những mầm mống của nền sản xuất hàng hóa, nhân khẩu cộng đồng tăng lên (do sinh đẻ tăng lên, tuổi thọ tăng lên theo sự tăng của chất lượng cuộc sống, thu hút nhân khẩu từ các cụm dân cư khác đến), lực lượng vũ trang thường trực xuất hiện và ngày càng được tăng cường nhằm đề phòng, chống lại sự lấn chiếm lãnh thổ của các bộ lạc lân cận… Tuy nhiên những biểu hiện này chỉ bắt đầu chớm nở vào thời gian nửa sau của thời đại Âu Cơ - Lạc Long Quân (ở đây, chúng ta đưa Âu Cơ lên trước Lạc Long Quân để biểu diễn đó là thời đại mẫu hệ!) và trở nên rõ rệt trong khoảng thời gian cuối thời đại này. Tuy nhiên, vào nửa đầu thời đại Âu - Lạc. (Viết tắt chứ không phải nước Âu Lạc thời An Dương Vương và viết như thế gợi ra một suy nghĩa rằng sự hòa quyện Âu - Lạc đã xảy ra trước cả thời Hùng Vương. Thục Phán có thể đơn giản chỉ là một Lạc tướng người Âu Việt nổi dậy khởi nghĩa, lật đổ vua Hùng đời thứ 18, chấm dứt thời đại Hùng Vương vào năm 257 TCN, lập lại trật tự xã hội, khôi phục sức mạnh đất nước để rồi đến năm 208 TCN, đánh tan quân xâm lược nhà Tần trên địa bàn đất Văn Lang. Việc Thục Phán lấy vương hiệu là An Dương Vương và đặt quốc hiệu là Âu Lạc, phải chăng là sự hoài niệm về cội nguồn Kinh Dương Vương và một thời tươi đẹp đến lý tưởng Âu Cơ - Lạc Long Quân mà đương thời đó còn in đậm trong lòng Đại Chúng?), khi mà thành quả của sự mở rộng lãnh thổ bằng công cuộc khai phá đồng bằng sông Hồng đã tạo ra nguồn thức ăn dồi dào đến mức dư dật, đồng thời cái tinh thần lao động tập thể hăng say, vui thú một cách tự giác từ thời Kinh Dương Vương vẫn tiếp tục được duy trì, thì chế độ công xã “tập trung bao cấp” tự phát đã chuyển hóa, nâng lên đến mức cao, thành chế độ cộng sản nguyên thủy, đạt đến gần hơn bao giờ hết cái lý tưởng “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Ngày nay, nhiều người trong chúng ta nhìn về cái xã hội Cộng sản nguyên thủy tự phát ấy, cho rằng nếu so với mức sống hiện nay thì mức sống người dân thời đó thua kém xa đến hàng chục, hàng trăm lần, thậm chí là hơn nữa. Thực ra, đó là sự ngộ nhận. Một cách cơ học chỉ có thể nói xã hội chúng ta ngày nay hiện đại hơn, có mức độ tiêu dùng “khủng khiếp” hơn cả về bề rộng lẫn bề sâu và… chỉ có thế thôi. Chất lượng cuộc sống là một khái niệm (hay nói to tát hơn là một phạm trù) trong đó ngoài việc nói lên mức độ thỏa mãn về vật chất, còn phải bao hàm cả yếu tố nói lên mức độ thỏa mãn về mặt tinh thần. Cuộc sống sung túc là cuộc sống mà của cải thu nhập đáp ứng một cách hào phóng và đầy đủ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu (được xác định bởi quan niệm xã hội tương xứng với trình độ xã hội đương thời) mà vẫn còn dư dôi để tích lũy dự phòng. Khi cái tối quan trọng, cái cơ bản nhất của cuộc sống được giải quyết thì cũng dẫn đến trạng thái thỏa mãn của tinh thần. Con người sống trong suy tư ngập tràn cho nên chính cái trạng thái thỏa mãn tinh thần ấy (nghĩa là cảm giác vui tươi, yêu đời, hạnh phúc, không phải âu lo…) mới là tiêu chí quyết định, tiêu chí cốt lõi khi nói về chất lượng cuộc sống. Chất lượng cuộc sống của một nhà tỷ phú lúc nào cũng lo lắng, bất mãn, ăn sơn hào hải vị không thấy ngon, ngủ trong lụa là gấm vóc không thấy yên, thừa nhưng lúc nào cũng thấy thiếu, chắc gì đã hơn chất lượng cuộc sống của anh chàng đạp xích lô “vui đâu chầu đấy”, “an phận thủ thường”, chỉ mong đóng đủ “hụi chết” cho vợ con xong, còn tí đỉnh nhậu tàn tàn với bằng hữu, coi giàu sang phú quí là chuyện đẩu đâu, có mơ cũng không được, sống nay chết mai nhẹ như cọng bấc, hay chất lượng cuộc sống của anh nông dân “ước sao đến thấp mà mơ đến nghèo” (mượn thơ Nguyễn Bính) như:
“… cày xong thửa ruộng
Lòng khỏe nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành
Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh
Vui nhẹ đến trên môi cười hy vọng”
               (mượn thơ Tố Hữu)
Không phải bất cứ một xã hội công xã nguyên thủy nào cũng đạt được trạng thái cộng sản nguyên thủy vì đó là một tiến trình tự phát có tính nhảy vọt, ngẫu nhiên, chủ yếu là được thiên nhiên ưu đãi. Khảo cổ học cho thấy sự sáng chế, cải tiến công cụ lao động không đủ khả năng tạo được quá trình đột biến có tính xã hội ấy mà chỉ có thể là sự khám phá ra vùng đất tuy lầy lội nhưng khi được cải tạo thì sẽ trở thành khu vực màu mỡ, phì nhiêu, phù sa bù đắp hàng năm, phù hợp cao độ với các loại cây làm nguồn thức ăn thực vật đủ loại rau, trái, củ hạt, nhất là cây lúa nước. Chính thiên thời (biển thoái), địa lợi (đồng bằng sông Hồng), nhân hòa (chế độ công xã nguyên thủy và số lượng dân cư đủ đáp ứng) đã làm nên xã hội cộng sản nguyên thủy khoảng nửa cuối thời đại Âu Lạc và xã hội “tư sản nguyên thủy” rất thịnh vượng khoảng hơn nửa đầu thời đại Hùng Vương.
Do tác động của những yếu tố (như đã nói ở trên) làm nên mặt trái của thời đại cộng sản nguyên thủy mà đời sống xã hội Âu - Lạc dần suy giảm đi, cùng với tư hữu của cải làm phát sinh giàu - nghèo, làm nảy ra đòi hỏi tư hữu về phương tiện sản xuất trong lòng cộng đồng dân cư mà đơn vị tư hữu nhỏ nhất, nói chung là gia đình, tế bào làm nên xã hội. Ngành nghề phát triển cũng làm cho các bộ lạc đã thần phục, hòa hợp thành cộng đồng Âu - Lạc, không còn lệ thuộc trực tiếp vào sản xuất trồng lúa, cũng đòi hỏi đến mức độ nhất định quyền tự quyết, tự làm, tự ăn của mình. Những đòi hỏi ấy ngày càng trở nên bức xúc gây rối loạn và xung đột trong xã hội vào giai đoạn hậu kỳ của thời đại Âu - Lạc (chưa kể nạn xâm lấn, cướp bóc từ bên ngoài lãnh thổ).
Người đại diện cho những đòi hỏi tư hữu bức thiết của Đại Chúng và đồng thời cũng là người thực hiện cải cách làm xuất hiện một hình thái kinh tế - xã hội mới, phù hợp hơn, không ai khác, chính là vị vua Hùng đầu tiên của thời đại Hùng Vương. Sách “Việt sử lược” ghi: “Hùng Vương là người lạ ở bộ (bộ lạc) Gia Ninh, dùng ảo thuật áp phục được các bộ (bộ lạc) khác”. “Ảo thuật” ấy là gì nếu không phải là ngọn cờ đi đòi quyền lợi một cách chính nghĩa của Đại Chúng trước một chế độ bao cấp đã trở nên quan liêu, triệt tiêu động lực trong sản xuất và ngăn cản, làm trì trệ tiến trình vận động theo xu thế tự nhiên của xã hội? Chúng ta cho rằng vị thủ lĩnh đầu tiên của thời đại Hùng Vương đã lãnh đạo một cuộc cách mạng “long trời lở đất”; chuyển biến xã hội từ hình thái Cộng sản nguyên thủy sang hình thái Tư bản nguyên thủy, từ hình thái cộng đồng các bộ lạc sang hình thái liên minh các bộ lạc, dẹp yên các bạo động, thu giang sơn về một mối, lập nên nước Văn Lang, nhanh chóng vươn lên cực thịnh như một mặt trời chói lọi khắp vùng đất trời Châu Á - Thái Bình Dương.
Trong cái xã hội mà chúng ta gọi là “Tư sản nguyên thủy” ấy, cương vực lãnh thổ đất mở rộng, vượt quá khả năng điều hành trực tiếp của chính quyền trung ương, buộc phải chia khu vực và phân cấp quản lý, nhà nước phải mở rộng chức năng và ngày một kiện toàn bộ máy thừa hành chế độ tư hữu về công cụ, phương tiện sản xuất cũng như tô, thuế được thiết lập (dù có thể rằng đất đai vẫn thuộc quyền sở hữu chung và do nhà nước định đoạt). Vào thuở ban đầu của chế độ xã hội ấy, nhà nước có cấu trúc vẫn còn đơn giản, gói gọn trong chức năng đảm bảo an sinh xã hội bằng việc xử lý, phán xét các vụ việc nảy sinh trong đời sống dân cư, không có đặc quyền đặc lợi nào, tô thuế chỉ như một sự đóng góp nuôi sống cho hoạt động bán thường trực của nhà nước. Có thể đoán rằng dưới chế độ Tư sản nguyên thủy, hình thức tư hữu về của cải và công cụ sản xuất cũng như phương tiện sống đã trở nên phổ biến đến tận gia đình, tạo ra hiện tượng làm nhiều làm giỏi hưởng nhiều, làm ít làm dở hưởng ít, từ đó mà làm cho xã hội nảy sinh ra mối tương phản giàu - nghèo. Và cũng từ đó (cũng có thể từ cả sự biến đổi tỷ lệ nam - nữ, có nguyên nhân từ cuộc sống an lạc thời trước đó, theo hướng nam ít nữ nhiều) mà mối quan hệ trong gia đình chuyển biến dần từ mẫu hệ, mẫu quyền sang phụ hệ, phụ quyền: đàn ông trở thành trụ cột và đồng thời có quyền lực cao nhất trong gia đình. Ngày nay, nếu nói về thời Âu - Lạc:
                           Thế gian một vợ một chồng
                           Chẳng như vua bếp hai ông một bà,
thì cũng có thể nói về thời Hùng Vương:
                           Thế gian một vợ một chồng
                           Chẳng như vua bếp một ông hai bà.
Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ thì “Lang” có nghĩa là “chàng”, là người đàn ông, là thanh niên và còn có nghĩa là người chồng (Ngưu Lang - Chức Nữ, Dạ cổ hoài lang). Phải chăng vua Hùng đặt tên nước là Văn Lang (hoặc do người đời sau đặt ra?) để nói về một đất nước đề cao vai trò của người đàn ông, về nghĩa vụ và quyền lợi nổi bật của người đàn ông đối với đất nước nói chung và đối với gia đình nói riêng? Văn Lang phải chăng hàm nghĩa là chế độ phụ quyền?
Nhà nước Văn Lang thời kỳ đầu vẫn còn đơn giản, đứng đầu là vị trưởng bộ lạc mạnh nhất, đông nhất, dưới là hội đồng các trưởng bộ lạc (đứng đầu các khu vực, còn gọi là Lạc tướng), bên cạnh đó là những người thừa hành, giúp việc cho chính quyền trung ương (thu tô, thuế, phối hợp điều hành các hoạt động trong liên bang bộ lạc) gọi là Lạc hầu. Nhà nước đó mang bản chất do dân và vì dân một cách hồn nhiên, Nguyên thủ nhà nước không theo thể chế cha truyền con nối mà vẫn do được tín nhiệm, được bầu ra, do “sống lâu lên lão làng” và đảm nhận cương vị đến mãn đời. Trong “Lịch triều hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú viết: “Lúc bấy giờ, vua tôi cùng đi cày, cha con tắm cùng (sông) không chia giới hạn, không phân bậc uy quyền thứ bậc… cùng nhau vui chơi vô sự, gọi là đời rất hồn nhiên” và “Hùng Vương đi săn được thú, lấy bộ lòng cùng ăn ngay tại chỗ, thịt về nhà chia”.
Động lực lao động, sản xuất không còn bị kìm hãm bởi sự phân phối bình quân bao cấp trở nên lạc điệu cuối thời Âu - Lạc, đã đưa đất nước Văn Lang tiến nhanh trên con đường đến phồn thịnh. Xã hội thái bình, tươi đẹp, sung túc, chất lượng cuộc sống của cư dân nói chung đạt đến trạng thái hầu như thỏa nguyện, gần như là “cầu được, ước thấy”, “muốn gì được nấy”.
Cái xã hội thanh bình và tươi đẹp đó có thể đã tồn tại lâu dài, khi mà thiên nhiên (chủ yếu là đồng bằng Bắc Bộ) vẫn còn đầy tiềm năng và vẫn tiếp tục đáp ứng được đầy đủ, dồi dào nhu cầu tiêu dùng ngày một nâng cao của cộng đồng dân cư, khi mà nhà nước Văn Lang chưa mang tính chất vương quyền, cha truyền con nối, và sự tồn tại đó có thể là đến gần giữa thời đại Hùng Vương, hay trong khoảng cuối văn hóa Gò Mun - đầu văn hóa Đông Sơn.
Sau khi đạt đến trạng thái sung mãn nhất, mặt trái của chế độ tư sản nguyên thủy trở nên nổi trội, gây ra những mâu thuẫn gay gắt, xung đột trong lòng xã hội làm cho đất nước Văn Lang lâm vào suy thoái, loạn lạc can qua. Hiện tượng “kẻ ăn không hết người lần không ra” trở nên phổ biến, các bộ lạc gây hấn, cướp bóc lẫn nhau, nhà nước Văn Lang chuyển hóa theo hướng tăng cường quyền lực và trở thành quân chủ chuyên chế ích kỷ, đi đàn áp, thống trị xã hội, xa rời cái bản chất do dân và vì dân vốn có một cách tự phát trước đó. Có thể hình dung hình thái xã hội nước Văn Lang thời kỳ này tương đối giống với chế độ phong kiến phân quyền, các Lạc tướng trở thành lãnh chúa cát cứ, có thực lực mạnh mà vua Hùng không dễ gì trấn áp được dù vẫn được họ tôn trọng ở vị thế đứng đầu thiên hạ.
Sự phát triển nghề đúc đồng làm xuất hiện hàng loạt công cụ lao động bằng đồng ưu việt hơn công cụ bằng đá, gốm, cùng với việc sử dụng sức súc vật trong sản xuất nông nghiệp đã như một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật tác động mạnh mẽ vào xã hội, giải quyết được tình trạng suy thoái kinh tế và qua đó mà cũng giảm thiểu các cuộc xung đột trong đất nước Văn Lang, đưa nước này bước vào giai đoạn tăng trưởng mới tiến lên thịnh vượng, nhưng không bao giờ còn có được cái thanh bình, khoáng đạt, tươi đẹp, đầy chất phác, hồn nhiên của một thời đã qua. Bởi vì, dù có đạt thịnh vượng đến mức rực rỡ đi chăng nữa thì do cái bản chất của nhà nước quân chủ chuyên chế cùng với chế độ tư hữu tư nhân mà trong xã hội luôn tồn tại ở mức độ nào đó nạn áp bức, bất công, nạn cường hào, ác bá, bóc lột gây ra đói nghèo, hay nói gọn là sự nhẫn tâm, độc ác và đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa và cơ bản làm cho xã hội bất ổn, tích tụ bạo lực, luôn có nguy cơ xảy ra xung đột, tranh đấu.
Nửa cuối thời đại Hùng Vương, sự phân tầng xã hội thành giàu - nghèo trở nên ngày một rõ rệt, sự đối kháng giữa giai cấp thống trị giàu có và giai cấp bị trị nghèo khó xảy ra ngày một thường xuyên hơn. Vì thế mà nạn bạo lực trong xã hội được dung túng và hoành hành ngày càng dữ dội làm cho nước Văn Lang trở nên hỗn loạn, dân tình tan nát, nhà nước hoàn toàn phản động và bất lực. Tình hình đó đòi hỏi bức thiết một sự biến cải xã hội triệt để, trước hết là triều đại Hùng Vương phải bị diệt vong. Thục Phán là người đứng ra gánh vác trách nhiệm đó.
Khoảng giữa thời đại Hùng Vương cũng là khoảng thời gian phát triển rực rỡ nhất của văn hóa Đông Sơn (văn hóa đồng thau). Nghiên cứu khảo cổ nền văn hóa này, người ta có thể biết và suy đoán ít nhiều về đời sống xã hội của một thời đã quá xa mờ, tít tắp trong quá khứ đó.
Tài liệu khảo cổ học không cho biết nhiều về cách thức cụ thể biến sản phẩm thừa trong xã hội thành tài sản riêng của tầng lớp người nào đó, song lại khẳng định một cách chắc chắn sự hiện diện rất rõ ràng của phân hóa giàu nghèo, sự chênh lệch rất đáng kể về tài sản tư hữu giữa các thành viên hay nhóm thành viên trong cộng đồng dân cư Đông Sơn. Một trong những chỗ dựa chính để tìm hiểu đời sống xã hội thời Đông Sơn (cũng là nửa cuối thời đại Hùng Vương) là việc khai quật và phân tích những ngôi mộ táng thời đó. Đối với một ngôi mộ, người ta xem xét, đánh giá đồ tùy táng (chôn theo người chết) theo số lượng nhiều hay ít, theo giá trị, mức độ quí hiếm, theo chủng loại, chức năng (dụng cụ hay đồ trang sức…) mà phân loại giàu nghèo hay trung bình (trung lưu).
Trên cơ sở đó, qua phân tích 714 ngôi mộ có niên đại Đông Sơn ở 5 khu mộ nổi tiếng là Thiệu Dương, Đông Sơn (Thanh Hóa), Làng Cả (Phú Thọ), Vinh Quang (Hà Tây) và Làng Vạc (Nghệ An), các nhà khảo cổ cho biết số ngôi mộ nghèo chiếm 51,9%, thứ đến số ngôi mộ người bình dân (có chút ít của nả mà thư tịch cổ gọi là Lạc dân) chiếm 41,4%; số ngôi mộ giàu (chôn theo nhiều đồ đồng, đồ sắt, trong đó có các đồ đồng được cho là quí, sang trọng như trống đồng, tháp đồng, bình, lọ…) chỉ chiếm 6,5%.
Việc khảo sát 714 ngôi mộ nêu trên, xét ở góc độ khác, còn thấy những ngôi mộ không có đồ tùy táng hay chỉ có đồ dùng sinh hoạt mà tuyệt đại đa số là những thứ thông thường bằng gốm, chiếm tới 53,6% tổng số mộ. Những ngôi mộ có chôn theo công cụ sản xuất bằng đồng hay bằng sắt chỉ chiếm 11%. Điều đó nói lên tình trạng đồ kim loại còn quí, người xưa không dễ dàng để bao giờ cũng chôn theo cho người chết, hơn là nói về tình trạng thoát ly sản xuất người đó. Những ngôi mộ có chôn theo vũ khí cùng đồ vật khác chiếm tỷ lệ đáng kể, tới 34,5%. Điều đó cho thấy vũ khí có ý nghĩa to lớn như thế nào đối với đời sống con người thời Đông Sơn, đồng thời cũng nói lên xung đột xã hôi, nội chiến hoặc đánh trả kẻ thù tiến công xâm lấn từ ngoài tới, đã trở thành hiện tượng có tính thường xuyên, nổi trội. Trong số 2.280 đồ vật tùy táng được tìm thấy, trong khi đồ vật dùng cho sinh hoạt sang trọng là 271 đơn vị, chiếm 11,8% thì đồ vật là vũ khí lên đến 1.110 đơn vị, chiếm 48,6%. Tỷ lệ các ngôi mộ có chôn theo vũ khí ở từng khu mộ có niên đại sớm muộn theo thời gian, đã phản ánh mức độ bạo lực; căng thẳng của thực trạng xã hội có xu thế ngày càng tăng.
Tài liệu khảo cổ học còn cho thấy một hiện tượng đáng chú ý. Sự phát triển về mặt số lượng của vũ khí từ mức dưới 3% tổng số hiện vật ở thiên niên kỷ II - đầu thiên niên kỷ I TCN đã tăng vụt lên tới trên 60% tổng số hiện vật ở nửa sau thiên niên kỷ I TCN. Hơn thế, vào giai đoạn Đông Sơn, nhiều loại vũ khí mới bằng đồng thau ra đời như dao găm, kiếm ngắn, mũi tên ba cánh, lao… chứng tỏ vào cuối thời Hùng Vương và thời An Dương Vương, con người và xã hội đã phải trải qua những biến động lớn lao, với những cuộc chiến tranh đã trở nên phổ biến và ngày càng quyết liệt…
***
Theo nhãn quan của mình, chúng ta đã kể một cách sơ lược tiến trình lịch sử định hình nước Việt và dân tộc Việt để thấy rằng đó là một khoảng thời gian dài lâu như thế nào với biết bao nhiêu thăng trầm xã hội và tổ tiên chúng ta cũng nhận đủ đắng cay, ngọt bùi xuyên suốt tiến trình ấy, liên tục vật lộn với cuộc sống, nỗ lực tìm kiếm những phương cách sống tốt hơn, vươn tới chất lượng cuộc sống thỏa mãn hơn. Chính tiến trình ấy cùng với sự nỗ lực vượt thoát những giai đoạn cam go và đi tìm sự sung túc đã thúc đẩy nhận thức về xã hội và tự nhiên của người Việt cổ ngày càng được mở rộng và thêm sâu sắc. Yêu cầu của cuộc sống buộc họ phải tìm hiểu nhiều điều và nâng cao sự hiểu biết đó về toán học, thiên văn học, lịch trình biến đổi của thiên nhiên, khí hậu… và cũng phải tìm tòi ra những phương tiện để mô tả, lưu nhớ, lưu truyền những hiểu biết ngày càng phong phú đó để học hỏi, sáng tạo, áp dụng vào sản xuất và đời sống.
Khi nói đến một nền văn hóa thì cũng phải nói đến nhận thức thế giới của con người làm nên nền văn hóa ấy. Nền văn hóa Đông Sơn không phải là ngoại lệ, do đó chúng ta tin chắc rằng ẩn chứa trong nền văn hóa ấy là cả một quan niệm về thế giới (dù còn ngây thơ) nói chung và một nền khoa học - kỹ thuật (dù còn sơ khai) nói riêng của cả dân tộc Việt thời Văn Lang.
Dù khi xâm chiếm nước ta, Mã Viện đã phá hủy biết bao nhiêu đồ đồng, bia đá, làm mất đi biết bao nhiêu những thông tin có thể là rất quí giá cho việc nghiên cứu sau này đối với trình độ nhận thức thế giới thời Đông Sơn nhưng vẫn có thể suy đoán được phần nào nhờ vào những di vật, di tích còn lại mà giới khảo cổ đã phát hiện được và còn có thể phát hiện thêm được trong tương lai.
Trống đồng là loại di vật độc đáo và có thể nói là tiêu biểu cho nền văn minh Việt cổ. Trong đó, trống Đông Sơn là loại tiêu biểu nhất, đẹp nhất và cổ nhất. Qua những hoa văn hình khắc trên trống đồng Đông Sơn và những đồ đồng khác, các nhà khảo cổ đã hiểu được nhiều điều về cuộc sống - văn hóa và cũng đưa ra nhiều phỏng đoán khá hợp lý về thế giới - nhân sinh quan của thời bấy giờ. Chúng ta sẽ liệt kê một số ý kiến đó.
Có thể trống đồng, lúc đầu được chế tạo ra nhằm mục đích sử dụng như một nhạc cụ thuộc bộ gõ trong sinh hoạt cộng đồng khi nhảy múa, ca hát, hò reo… Sau, nó mang thêm chức năng quan trọng và dần trở thành chính yếu là thể hiện quyền uy nên cũng được chế tác cầu kỳ, tinh xảo để tăng tính thẩm mỹ, quí báu. Người ta cho rằng trống đồng Đông Sơn có giá trị như cây gậy chỉ huy của nhiều bộ tộc khác trên thế giới. Chủ nhân của trống đồng chắc phải là người thuộc tầng lớp lãnh đạo, có quyền lực nhất định trong cộng đồng xã hội. Theo “Văn hiến thông khảo”, thì tục người Di Lạo ở phía nam Ngũ - Lĩnh “muốn đánh nhau thì đánh trống (đồng?) lên. (Nghe tiếng trống) người đến ùn ùn như mây. Người có trống được gọi là Đô Lão, được dân chúng suy tôn và phục tùng”.
Theo nhà sử học Lê Văn Lan, trống đồng ban đầu được cư dân Đông Sơn đúc ra trên đó thể hiện quan niệm về Vũ Trụ của họ và được xem như mô hình Vũ Trụ của người Việt cổ, là vật thiêng của cộng đồng được thủ lĩnh bảo giữ, và sau đó chiếm giữ, từ đó trống đồng có thêm một chức năng mới là biểu hiện quyền uy, chỉ có thủ lĩnh của cộng đồng mới có quyền đó. Rất có thể ban đầu nó được thủ lĩnh tối cao ban phát cho các thủ lĩnh dưới quyền như một kiểu sắc phong, một loại ấn kiếm sau này, nó khẳng định chức trách với bề trên và quyền lực trước thần dân của người được trao trống. Nghiên cứu chức năng của trống Đông Sơn, có nhà nghiên cứu nước ngoài cũng có ý kiến xem trống đồng như một thứ sắc phong nhuốm đậm màu sắc tôn giáo.
Còn theo nhà nghiên cứu Bùi Huy Hồng thì bề mặt các trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ còn là những thiên đồ (đồ hình thiên văn), cũng có thể dùng làm nhật quỹ để đo bóng mặt trời, lại còn có thể dùng làm tấm lịch theo hệ thống dương lịch nếu theo năm và tiết khí, và có tính âm lịch nếu theo tháng và ngày. Cũng theo Bùi Huy Hồng, nếu làm thí nghiệm đo bóng mặt trời trên mặt trống đồng, người ta có thể xác định rõ được các điểm đông chí, hạ chí, xuân phân và thu phân. Và cũng theo ông, người thời Hùng Vương đã chia đêm, ngày thành 10 giờ, mỗi giờ lại chia nhỏ thành 10 khắc.
Có nhà nghiên cứu còn liên hệ những hình trên mặt trống đồng Đông Sơn với một số nghi lễ nông nghiệp và hội cầu mưa…
Bây giờ, đến lượt chúng ta nhìn nhận vấn đề như thế nào trong thế giới hoang tưởng của mình?
Trước hết chúng ta cho rằng trống đồng ngay từ buổi xuất hiện đầu tiên đã không phải dùng để “đánh”, bởi vì ở những trống đồng được nhiều nhà khảo cổ xác định là có niên đại sớm nhất (khoảng thế kỷ VII - VI TCN; trống Tùng Lâm), dù những mô típ hoa văn trên trống còn khá đơn giản, chỉ gồm những đường hoa văn gấp khúc thành hình bình hành, văn thừng và văn que diêm, nghệ nhân còn chưa chú ý hoặc chưa có kinh nghiệm về việc chia các khoảng cách giữa các hoa văn, thì cũng phải thừa nhận rằng so với trình độ lúc đó, việc chế tạo được trống đồng như thế cũng là một việc làm tốn nhiều công phu và đòi hỏi sự tinh xảo của tay nghề. Do đó mà trống đồng trở thành sản phẩm có giá trị cao, quí báu, được giữ gìn nâng niu mà giới bình dân không thể có khả năng “mua” được, sở hữu được. Quí báu như thế thì sao lại dùng dùi gỗ hay tre đánh vào? Hay là đánh bằng tay? Đánh bằng tay thì âm thanh vang tới đâu trong khi khảo cổ cho thấy bên cạnh trống đồng đã có các loại nhạc cụ, tạo âm thanh có cường độ âm vang hơn nhiều như trống da, cồng chiêng, chuông…? Mà đánh bằng dùi cũng không sợ làm biến dạng mặt trống?
Nhưng nếu trống đồng không phải là trống thì có thể nào có công dụng như cái bàn trong những gia đình giàu có, quyền quí không? Cũng có thể là về sau này, trống đồng Đông Sơn mới mang chức năng như cái bàn, cái bệ để bày ra thờ cúng tổ tiên vào những dịp tưởng nhớ thiêng liêng hay vào những lần cầu đảo thiên nhiên mưa thuận gió hòa. Trên mặt trống đồng Yên Quang, niên đại sớm nhất cũng vào khoảng đầu Công Nguyên, có 4 tượng cóc đúc nổi. Mà quan niệm của người xưa về cóc thì vẫn còn truyền lại đến ngày nay:
                           “Con cóc là cậu ông Trời
                           Cóc mà nghiến lợi thì trời đổ mưa”,
                           “Cóc kêu trời mưa”,
                           “Gan cóc tía”,
                           “Con cóc là cậu ông Trời
                           Ai mà đánh nó thì Trời đánh cho”.
(Vào thời này việc đúc đồng đã dễ dàng hơn rất nhiều và “giá thành” nói chung của một chiếc trống đồng đã giảm xuống đáng kể cho nhiều gia đình bình dân có thể “sắm” được). Phải chăng nhờ cái chức năng thờ cúng thiêng liêng cùng với tính thẩm mỹ cao của trống đồng mà nó được “xuất khẩu” ra khắp Đông Nam Á để rồi đến lượt các nơi đó cũng học cách đúc nó, và cũng… phải chăng vì chức năng thờ cúng tổ tiên, thần linh mà Mã Viện đã tịch thu triệt để trống đồng của người Việt cổ, đem nấu chảy đúc ngựa, hầu dễ bề cai trị?
Dù sao thì thuở ban đầu, trống đồng không có chức năng dùng cho việc thờ cúng. Vậy nó có chức năng gì và ai có đủ khả năng về “tiền bạc”, về trí tưởng tượng phong phú cũng như vế kiến thức hình họa để đặt nghệ nhân chế tạo ra nó, như một sáng tạo hình như chưa có tiền lệ? Không thể là những người giàu có, trưởng giả, cũng không thể là những kẻ quyền quí, cao sang, càng không thể là một nghệ nhân nào đó. Phải cho rằng những trống đồng được làm ra vào nửa đầu thời đại Đông Sơn là những kiệt tác và để làm ra những kiệt tác đó, phải là công sức của một tập thể tài giỏi mà người qui tập, đặt hàng không ai khác, chính là nhà nước Văn Lang, đứng đầu là Hùng Vương.
Chúng ta biết rằng, hiện nay khảo cổ học vẫn chưa có luận văn nghiên cứu chuyên khảo nào về trống đồng. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là hiện tượng khá nhiều trống đồng được phát hiện ngẫu nhiên, lẻ loi, ít khi nằm cùng với những hiện vật có niên đại được xác định rõ ràng, cho nên việc xác định niên đại xuất hiện và tồn tại của nó vẫn chưa được soi tỏ một cách cơ bản (vì trống đồng có thời kỳ là vật thiêng. Quí giá nên nó cũng được gìn giữ, lưu truyền có khi đến nhiều đời và việc nó bị vùi lấp hoặc tùy táng bên cạnh những đồ vật có niên đại muộn hơn nó hàng trăm năm là điều có thể xảy ra!).
Điểm chung nhất của mọi trống đồng Đông Sơn là luôn có hình mặt trời nhiều tia (hay ngôi sao nhiều cánh) ở giữa, sau đó là những hoa văn hình học tạo những vành tròn đồng tâm và hình tượng người, vật được khắc họa có tính lặp lại trên các vành đó. Có điều đặc biệt là số cánh của ngôi sao ở giữa mặt trống đồng không đồng nhất ở các trống đồng đã phát hiện được, lúc thì 8 cánh, lúc 10 cánh, lúc 12 cánh và lúc 14 cánh. Vì sao vậy? Phải chăng ngôi sao nhiều cánh đó là biểu thị nước Văn Lang chói lọi như mặt trời và số lượng các tia chính là số các bộ (lãnh địa chư hầu trong hình thức liên bang) của nó, tùy thuộc vào triều đại hoặc khoảng thời gian các khu vực lãnh địa đó giảm, tăng số lượng (do tách thành nước riêng, hoặc bị chinh phục lại) mà những trống đồng được chế tác lúc đó có số tia cũng giảm, tăng theo?
Có thể rằng trong số các trống đồng Đông Sơn thì trống đồng Ngọc Lũ có mặt trống khắc họa tinh xảo nhất, đẹp nhất. Chúng ta sẽ làm một cuộc khảo cứu mini, có tính chất “tại gia” về nó.
Vua Hùng cho chế tác ra trống đồng Ngọc Lũ để làm gì nếu không phải để “đánh” nó? Con người hành động không bao giờ ngoài mục đích danh lợi (như là sự đáp ứng đòi hỏi của đời sống, xoa dịu thèm khát, thỏa mãn dục cảm…), cho nên có thể cho rằng vua Hùng đặt làm một đồ vật tinh xảo, cầu kỳ và đẹp tuyệt như thế để ngắm nhìn cho thỏa lòng, hả dạ. Nhưng nếu chỉ thế thôi thì chưa đủ động lực để sáng tạo nên một đồ vật cùng với sự bài trí hình họa của nó, về tổng thể là tuân theo đối xứng nhưng xét ở tiểu tiết là vi phạm đối xứng. Chẳng hạn như ở vành tròn ngoài cùng có chứa hình vật là những con chim, gồm các con chim Lạc (một giống cò?) đang bay và các con chim khác, nhỏ hơn (hay gà, vịt?) đang đứng, trong khi 18 con chim Lạc giống hệt nhau thì 18 con chim kia lại có hình dáng hoặc điệu bộ chẳng con nào giống con nào. Hoặc ở vành tròn khắc họa người vật, khi hai ngôi nhà mái vòm hoàn toàn giống nhau và đối xứng nhau qua mặt trời trung tâm thì cử chỉ của mỗi con người đứng trong mỗi nhà đó lại khác nhau… Chính sự phá vỡ đối xứng đó đã làm cho sự bài trí hoa văn - hình họa sinh động hẳn lên và hàm chứa những ý nghĩa sâu xa nào đó mà cho đến nay vẫn còn là điều bí hiểm đối với chúng ta. Từ gợi ý này cũng như qua tham khảo, quan sát, suy ngẫm, chúng ta đi đến nhận định: trống đồng Ngọc Lũ được chế tác ra nhằm phục vụ cho một mục đích có tính trọng đại, lớn lao của triều đại Hùng Vương (có thể là) thứ 18, tồn tại trong khoảng thời gian (có thể là) từ thế kỷ VI đến giữa thế kỷ III TCN. Với nhận định đó, chúng ta tiếp tục góp thêm ý kiến (trên cương vị những nhà nghiên cứu “phi” khảo cổ học) về ý nghĩa của trống đồng Ngọc Lũ cũng như về những ý nghĩa mà bức đồ họa gồm hệ thống các hoa văn và hình người vật, mà nó (có thể) hàm chứa để rộng thêm đường dư luận, để vui vẻ và cũng để… mua đường cho ngắn bớt cuộc hành trình.
Thời gian đầu triều đại Hùng Vương thứ 18, nhà nước Văn Lang lại trở nên hùng cường sau khi chấm dứt nạn can qua ở cuối triều đại trước. (Nói 18 đời vua Hùng có thể chỉ là cách nói ước lệ về khoảng thời gian tồn tại của thời đại Hùng Vương, 18 đời vua Hùng là gồm 18 triều đại vua Hùng, mỗi triều đại bình quân là 100 năm, tuy có những triều đại chỉ có một ông vua, nhất là những triều đại đầu tiên khi chưa có chế độ cha truyền con nối, nhưng cũng có triều đại kéo dài hàng trăm năm hoặc vài trăm năm với nhiều ông vua cha truyền con nối; Vua Hùng chỉ như là một danh từ chung, là tên gọi chung của các triều đại dưới thời nước Văn Lang, đất nước có một cấu trúc xã hội tương đối ổn định, ít biến đổi trong suốt thời gian tồn tại của nó).
Theo tiền lệ là (một vài?) triều đại trước đã đúc trống đồng, triều đại vua Hùng thứ 18 cũng cho đúc trống đồng Ngọc Lũ và nhờ kinh nghiệm, những hiểu biết mới rút ra từ những lần đúc trống đồng trước đó mà trống đồng Ngọc Lũ đã thể hiện được tay nghề điêu luyện của những nghệ nhân, trở thành kiệt tác, thành niềm tự hào của đất nước Văn Lang lúc đó cũng như của các thế hệ người Việt sau này.
Trống đồng được đúc ra phỏng theo một dạng nồi gốm tròn xoay, bụng bầu, cổ thon miệng rộng và bị lật úp. Muốn làm ra được cái nồi gốm có đường bao uốn lượn như thế, người Việt cổ phải có bàn quay. Bàn quay và nồi gốm tròn xoay, “thắt đáy lưng ong” ở phần giữa đã là tiền đề cảm hứng chế tác trống đồng. Hơn thế nữa, trong sâu thẳm tiềm thức, hình đáng tổng thể của trống đồng Ngọc Lũ còn gợi cho chúng ta nhớ về cái ý thức đề cao Linga - Yôni (Dương vật - Âm vật, biểu tượng của khoái lạc (hạnh phúc) và sinh nở (sung túc) trong quan niệm phồn thực, hồn nhiên, mở đầu cho cái triết lý của người Việt tiền sử, dung dị mà hóa ra cực kỳ sâu sắc về tính lưỡng phân lưỡng hợp, tương phản đối ứng của thế giới khách quan, thể hiện trong vận động, biến đổi, chuyển hóa, xoay vần ở mọi sự vật - hiện tượng tự nhiên cũng như trong đời sống xã hội. Tượng nam nữ giao hoan được đúc nổi trên nắp thạp đồng Đào Thịnh đã biểu hiện cái tinh thần công khai thượng tôn niềm đam mê khoái lạc mà Tạo Hóa đã ban phước cho con người. (Niềm đam mê xác thịt đó vẫn không hề thay đổi trong mỗi con người ở thế hệ ngày nay. Tuy nhiên sự phân hóa về nhân tính càng trở nên sâu sắc, càng làm cho mặt trái tha hóa của đam mê xác thịt nổi trội dẫn tới nguy cơ suy đồi xã hội. Cùng với hiện tượng đó, tiến trình vận động của xã hội đã phân quyền nam nữ và cả sự thăng tiến của trình độ tiêu dùng đã làm nảy sinh những ước lệ xã hội về hôn nhân gia đình, rồi lâu dài định hình thành thuần phong mỹ tục, tập quán có tác dụng dung dưỡng niềm đam mê xác thịt đó một cách có chừng có mực. Sử sách chép, đến khoảng đầu Công nguyên, nhiều làng người Việt vẫn giữ lệ cũ, cho trai gái được tự do gắn bó vào mùa thu, và mãi đến đời Trần, ở những gia đình nghèo, trai gái vẫn tự do lấy nhau, hoặc có những ngày cuối năm, “tháo khoán” cho trai gái tự do lấy nhau, không cần theo điển lễ phong kiến. Sau này, sự hợm hĩnh, sự cao ngạo và ích kỷ của giới vương tôn quí tộc thượng lưu trong xã hội phong kiến phân tầng sang - hèn đã làm xuất hiện ra một quan niệm lễ giáo màu mè đạo đức giả, coi việc nói đến những hành vi quan hệ xác thịt là dung tục, thậm chí chỉ gọi ra tên các bộ phận sinh dục thôi đã là tục tĩu, thiếu đạo đức và đáng xấu hổ. Cái quan niệm đạo đức giả đó trở thành chuẩn mực đánh giá nhân cách con người và còn “di hại” đến tận ngày nay, hàng ngày hàng giờ gây ra cảnh tréo ngoe, nực cười không phải ở riêng khu vực nào mà ở toàn thế giới: Chế độ một vợ một chồng luôn được tung hô; được luật pháp ra tay bảo hộ, song cứ thường xuyên bị “xé rào”, đổ vỡ; chê bai bài bác gay gắt trong công khai nhưng thèm khát trong ngấm ngầm; nhiều vị đạo mạo, khả kính và được ca tụng nhờ lối sống chuẩn mực mô phạm theo định kiến xã hội trên chính trường nhưng trong bóng tối ở hậu trường thì ôi thôi, cũng sinh hoạt tình dục luông tuồng, xả láng có khi còn “ghê” hơn dân đen! Chúng ta cho rằng nếu thực sự nằm trong sự thỏa thuận “đôi bên” và không làm tổn hại đến tình yêu thương (tập quán và định kiến xã hội đúng đắn sẽ giải quyết được vấn đề này) thì một ông lấy 10 vợ (nếu có khả năng!) hay một bà lấy 10 chồng vẫn chẳng có gì đáng nói, thế nhưng dù là một vợ một chồng mà sống trong cảnh lừa dối, đày đọa, ức hiếp lẫn nhau thì mới là điều phải phê phán, phải lên án).
Rõ ràng, Vua Hùng đã “cố tình” đòi hỏi phải đúc cho được một đồ vật thật độc đáo, thật đặc biệt với độ khó về kỹ thuật cũng như độ khó về mức độ thể hiện tinh xảo hệ thống họa tiết trên đó đến độ không ai có thể chế tác được ngoài nhóm nghệ nhân và nhà thông thái mà vua Hùng đã huy động khắp đất nước (do đó mà công nghệ chế tác trống đồng Ngọc Lũ có khả năng trở thành bí mật quốc gia trong một thời gian dài?).
Trống đồng Ngọc Lũ ra đời phải đáp ứng được cái yêu cầu rất cao đó, ắt hẳn phải hàm chứa chức năng bảo vật, mang những ý tưởng trọng đại của vua Hùng muốn gửi gắm và như vậy, đồng thời cũng chất chứa những nội dung lớn lao mà các nhà khảo cổ đã suy đoán ra được một phần ít nhiều!...
Nói đến đây, chúng ta chợt thấy chẳng còn biết gì thêm nữa về bí mật đang ẩn chứa trong trống đồng Ngọc Lũ (hay người anh em của nó là trống đồng Hoàng Hạ), ngoài những điều mà các nhà khảo cổ đã biết. Anh chàng Khảo Của mà ngày xưa chúng ta gặp trên đường phiêu du tìm đến bến Vượt Thời Gian chắc chắn là điếc con ráy. Bởi vì những kẻ như thế thường chỉ biết món đồ là thật hay giả và bán được bao nhiêu tiền mà thôi. Rất có thể NTT và HTB (Hoàng Tử Bé) còn biết được nhiều điều nữa về trống đồng này nhưng đã từ lâu lắm chúng ta chưa gặp lại họ. Không biết giờ này họ lang bạt kỳ hồ ở đâu nhỉ? Thật là buồn khi gặp bế tắc mà chẳng hỏi ai được. Phía trước, khối Tu Di còn mút tận đường chân trời, phía sau, quê hương trống đồng đã chìm khuất, bốn bề vắng ngắt, chỉ còn những đợt gió lành lạnh lướt qua không thành tiếng trong cái biếc xanh chan hòa trời - biển. Nỗi cô đơn tự nhiên trỗi dậy đến gai người! Chúng ta là những kẻ luôn tự hào rằng đã nghiện nỗi cô đơn và luôn thấy vị đê mê dịu ngọt cũng như vị chua cay gây hứng khởi trong đó. Ấy vậy mà nỗi cô đơn lúc này sao làm cho lòng chúng ta tê tái quá! Chúng ta có cảm giác như niềm ao ước được chiều chuộng yêu thương, được an ủi vỗ về, được vuốt ve đồng cảm, chưa lúc nào nguôi ngoai trong suốt đời lầm lũi của một tâm hồn ấm ức, khốn khổ bỗng dồn tụ về đây đè ép đến ngạt thở, đến muốn nổ òa con tim… Thôi đi mấy cha, từ đầu cuộc hành trình đến nay, lúc nào cũng tự xưng là “chúng ta” để mà trò chuyện, thế thì còn cô đơn nỗi gì mà than van? Đúng là một lũ nói bố láo, bố toét. Ủa? Ai nói thế? Chúng ta quắc nhìn  bốn bề, nổi cơn thịnh nộ. Một sự xúc phạm ghê gớm! Nhưng rồi bình tĩnh nghĩ lại, thấy… cũng đúng!
Cái cảm giác nặng như chì ấy cũng qua đi. Tính tò mò cố hữu đã trở lại. Trống đồng Ngọc Lũ thiêng liêng ơi! Hãy thổ lộ cho chúng ta nghe những uẩn khúc mà trống còn chất chứa! Chúng ta nhớ ra rồi! Trong hành trang chúng ta luôn có một bảo bối và chúng ta vội lôi ra: nếu trống không lên tiếng thì sự hoang tưởng sẽ lên tiếng, song trước hết vận khí cái đã!
Khí công là một phương pháp dưỡng sinh kỳ diệu. Vì đã qua thực hành nên chúng ta cảm giác rất rõ điều đó dù chưa đạt đến thượng thừa. Nếu có dịp thuận tiện, chúng ta sẽ kể câu chuyện về nó. Còn bây giờ thì chưa, phải điều hòa lưu chuyển khí để… hoang tưởng một phen.
Sau khi khí đã vận hành nhịp nhàng, lưu chuyển thành “dòng êm đềm” xuôi ngược khắp cơ thể, chúng ta kết tụ thành một bầu xoáy ở vùng dưới rốn một chút (gọi là Đan Điền) và nó trở thành như một trạm trung chuyển dòng khí ấy. Thế rồi trong tâm tưởng, chúng ta mơ hồ thấy bầu xoáy ấy dần phát sáng. Thứ ánh sáng tươi tắn ấy cứ lan tỏa dần và đồng thời dòng khí luân chuyển trong cơ thể cũng trở nên vừa ấm vừa tươi sáng. Tùy vào mục đích chữa bệnh, dưỡng sinh mà chúng ta vận dụng công lực của dòng khí đã được kích hoạt đó. Lúc này, với mục đích cố moi móc thông tin từ trống đồng Ngọc Lũ, chúng ta chuyển sang trạng thái thiền (vì đang hành trình đến Tu Di nên chúng ta gọi là “hành thiền”). Thiền là một quá trình đưa tâm trí hướng về cân bằng tĩnh tại. Mọi suy nghĩ vụn vặt, chồng chéo mà chủ yếu là từ vô ý thức dần dần tan biến. Không cố gắng tìm hiểu điều gì cả, kể cả sự cố gắng tập trung không suy nghĩ, chỉ láng máng hơi tưởng về vùng ánh sáng dưới rốn. Chúng ta quên mất mình đang thở và… ánh sáng tương tự như của buổi sớm mai hừng lên thanh lắng, tươi dịu trong đầu. Hình như không còn não nữa, trong đầu trở thành một vùng không gian rộng lớn ửng lên bởi thứ ánh sáng huyền diệu ấy. Thế rồi chúng ta nhẹ nhàng mơ thấy trống đồng Ngọc Lũ (mơ trong sự tỉnh táo hoàn toàn!). Sự giác ngộ sẽ đến (nhưng chân lý chưa chắc đã đến!!!).
Trong bầu ánh sáng dịu nhẹ, trống đồng Ngọc Lũ hiện ra rạng rỡ nhờ cái ánh sáng trong suốt, hơi lợt xanh phát ra từ mặt trời nhiều cánh ở trung tâm. Hình ảnh ấy được “chụp lại” và chúng ta trình bày ở hình 1 dưới dạng trắng đen (muốn thấy được màu sắc nguyên thủy phải ở trong trạng thái “lên đồng”!).
À, ra thế! Trống đồng Ngọc Lũ trước hết là biểu tượng của đất nước Văn Lang có từ lâu đời và thịnh đạt, đóng vai trò như một quốc huy, đồng thời cũng là bảo vật mà từ vóc dáng đường bệ lẫn hệ thống hoa văn của nó toát lên cái quyền uy tối thượng của vương triều Hùng Vương. Với chức năng là một bảo vật chứng thực quyền lực thì trống đồng Ngọc Lũ chính là sự chứng thực cho quyền lực tối cao - quyền lực vua. Ngoài ra còn xuất hiện hàng loạt trống đồng được lưu dụng trong bộ máy hành chính nhà nước với những kích thước khác nhau (độ to nhỏ, sự cao thấp) hoặc với những dấu hiệu, cách bài trí hoa văn khác nhau để xác định mức độ quyền lực của người lưu giữ. Những Lạc tướng, Lạc hầu, Bố chính (người đứng đầu các làng xã (Kẻ chạ), đầu lĩnh quân sự… có thể đều được ban phát trống đồng… Khi cộng đồng xã hội gặp tai biến, những người có trống đồng có quyền (và nghĩa vụ) huy động trong quần chúng để lập những đội dân binh trong địa phận mình cai quản và khi nước nhà gặp nạn ngoại xâm thì những đạo dân binh ấy theo các Đô Lão (thủ lĩnh quân sự địa phương?), kéo về “ùn ùn như mây”, hợp thành lực lượng vũ trang của vương triều. Cách thức điều động ấy là biểu tượng trong thực tiễn chính sách “toàn dân vi binh” của nhà nước Văn Lang. Trong thời bình, để có đủ lực lượng kịp thời đi đắp đê, chống lũ lụt, và nói chung là trị thủy trong khoảng thời gian nhất định, cách huy động ấy cũng được áp dụng.
Chúng ta sẽ chuyển sang bàn (hay tán hươu tán vượn?) nhiều hơn về hệ thống hoa văn trên mặt trống đồng Ngọc Lũ (hay Hoàng Hạ, hay là cả hai mà cũng không phải cả hai?!).
Ở vị trí trung tâm là mặt trời chói lọi (sự chói lọi chỉ nhìn thấy được trong tâm tưởng!). Có Trái Đất thì mới có vạn vật - sinh linh. Mặc nhiên là thế rồi! Nhưng nguồn sống sâu xa và duy nhất làm nên mọi nguồn sống, cội rễ của mọi nguồn cảm hứng, mọi niềm hứng khởi, vui sống lại chính là mặt trời. Có mặt trời là có tất cả. Cho nên, ngay từ buổi bình minh của sự nhận thức, con người tối cổ đã coi mặt trời là thiêng liêng nhất, mặt trời trở thành thần linh của mọi thần linh trong cõi Trời - Đất này.
Từ xa xăm tối cổ, đã có một nền văn minh đồ đá rực rỡ, tôn vinh, thờ phụng mặt trời, tồn tại đâu đó ở vùng Đông - Nam Châu Á - Tây Thái Bình Dương (có thể nói, tổ tiên của sinh vật là đơn bào và tổ quán của chúng là đại dương. Gần hơn, người và vượn cùng xuất phát từ một loài gốc tổ và bản quán của chúng là rừng rú. Tuy nhiên, như ngày nay chúng ta thấy, nét khác biệt rất lạ lùng và rất rõ ràng về chế độ ăn uống giữa chúng là con người có thói quen ăn mặn, không thể thiếu muối còn con vượn thì ăn lạt, không cần bổ sung muối trực tiếp và chủ động đã cho phép nghĩ rằng con người đã có một thời gian đủ dài sống và kiếm ăn tại các vùng duyên hải để chuyển hóa từ ăn lạt sang cách ăn mặn (nhưng vẫn không thể uống nước biển để giải khát được), và như vậy, có thể nói, con người có cùng bản quán rừng rú với con vượn khi nó vẫn còn hầu như là vượn, nhưng khi nó thực sự là người thì nó quen ăn mặn và bản quán của nó là duyên hải - biển cả nhiệt đới. Địa Đàng đã từng ở đâu đó trong khu vực ấy, nơi có ngọn núi Tu Di huyền thoại).
Nền văn minh Địa Đàng đột ngột biến mất nhưng không tan biến tất cả mà dấu vết của nó cũng như tập tục thờ thần mặt trời của cư dân Địa Đàng vẫn còn lưu truyền trong cư dân nguyên thủy Đông Nam Á nói chung hoặc cũng có thể chỉ trong cư dân nguyên thủy miền duyên hải tồn tại xưa kia thuộc dải đất rìa lục địa sau này hình thành nên nước Văn Lang. Phải chăng tục thờ thần mặt trời đã khắc sâu trong tâm khảm con người ở đó đến tận thời đại Hùng Vương và việc Hùng Vương cho hình mặt trời nổi lên rạng rỡ giữa mặt trống đồng là có ý coi vương triều của mình như một mặt trời tỏa sáng khắp bờ cõi, hoặc cũng có thể có ngầm ý: Văn Lang là hậu duệ của đất nước Mặt Trời thời xa xăm chỉ còn lưu lại một cách nhạt nhòa, mờ khuất trong tâm trí người đời?
Có thể quan sát được trên mặt trống đồng Ngọc Lũ: ngoài hình mặt trời tỏa chiếu ở trung tâm và 3 vành trang trí người - vật, còn có nhiều đường tròn đồng tâm vạch cặp đôi, cặp ba song song nhau và xen kẽ giữa chúng là những vòng hoa văn hình học gồm: chấm dải, những vòng tròn nhỏ có chấm giữa nối tiếp nhau bằng đường tiếp tuyến, chữ S gấp khúc nối tiếp nhau, đường răng lược (ở các trống đồng khác còn có vòng chấm giữa không tiếp tuyến, vòng tròn lồng nhau, chữ V ngược lồng nhau…). (Xem mô tả ở hình 2)
Trên cơ sở nào mà các nghệ nhân thời đó sáng tác ra các loại hoa văn hình học như vậy? Các nhà khảo cổ cho thấy hầu hết các họa tiết hoa văn hình học thể hiện trên trống đồng Đông Sơn đều đã thể hiện trên bề mặt các đồ gốm Gò Mun, giai đoạn văn hóa sớm của thời đại đồ đồng mà văn hóa Đông Sơn là giai đoạn thăng hoa của nó. Hơn thế nữa, những họa tiết hoa văn đó đã có dáng ban đầu khá ổn định và cũng thực sự phong phú từ thời đại văn hóa Phùng Nguyên (cách nay khoảng 4 - 5 ngàn năm), và như thế, chúng ta phỏng đoán rằng cội rễ của những họa tiết hoa văn đó còn ở sâu hơn nữa, có thể là ở thời văn hóa Bắc Sơn - Quỳnh Văn, khi đồ gốm đã xuất hiện và “chữ viết” chỉ là những “chấm dải”, “khắc vạch” ngẫu hứng biểu diễn số lượng được in dấu trên đó. Người ta thấy rằng, nối tiếp văn hóa Quỳnh Văn là văn hóa Bàu Tró. Trong giai đoạn văn hóa này, bàn xoay sử dụng trong chế tác đồ gốm (như nồi, niêu, chén…) đã xuất hiện. Sự sáng chế ra bàn xoay (chắc chắn là có sự gợi ý từ công việc gia công tiện tròn các đồ vật dụng, đồ trang sức bằng đá có dạng tròn, trụ và có lỗ xỏ xâu…) đã là một bước tiến dài, nhảy bậc về trình độ không những của nghề gốm mà của cả những hiểu biết về toán học, nhất là những kiến thức liên quan đến đường tròn. Chúng ta phỏng đoán rằng sự phát hiện ra đồ gốm đã là một trong những phương tiện giúp cho con người cổ đại thuận tiện hơn trong việc lưu giữ những thông tin về những nhận thức và sáng tạo mà họ đã tích lũy được trước đó. Xuất hiện đầu tiên trên bề mặt đồ gốm là những chấm tròn, những vạch song song biểu thị số đếm, số lượng, rồi đến những hình đơn giản đóng vai trò như những chữ tượng hình, chữ biểu đạt ý sơ khai… Quá trình đó cũng sẽ làm xuất hiện ra những họa tiết hoa văn. Hoa văn thuở ban đầu chính là mượn những ký hiệu mô tả những sự vật - hiện tượng tự nhiên có sẵn trước đó để gởi gắm những quan niệm đương thời về thế giới quan, nhân sinh quan một cách cách điệu hóa, biể tượng hóa và thẩm mỹ hóa (cân đối hài hòa, phong phú, đa dạng, biến đổi, ổn định… cũng chính là những biểu hiện đồng thời và có thể thấy được của tự nhiên). Có thể nói rằng bàn xoay đã tạo tiền đề cho những sản phẩm đồ đồng có dạng tròn xoay sau đó (ít ra thì cũng có vai trò quan trọng trong việc tạo khuôn mẫu đúc đồng). Và cùng với sự thành thạo trong việc thể hiện hoa văn trên đồ gốm mà làm xuất hiện một sản phẩm đồ đồng độc đáo: trống đồng Đông Sơn. Biết đâu chừng trước khi xuất hiện trống đồng đã xuất hiện tiền thân của nó là trống… gốm?
Chúng ta đoán nữa: những họa tiết hoa văn cổ xưa nhất (của cả loài người chứ không riêng khu vực nào), là những vạch khắc song song nhau, rồi đến chấm dải, và cuối cùng là chấm tròn (hình tròn nhỏ) kế tiếp nhau. Chúng có nguồn gốc từ yêu cầu tự nhiên về việc đếm và biểu diễn số lượng của con người nguyên thủy.
Ba đơn vị họa tiết nói trên vừa in dấu trực tiếp trên các di vật ít ra là từ thời Phùng Nguyên đến thời Gò Mun và sang cả thời Đông Sơn, đồng thời cũng là 3 yếu tố cơ bản kiến tạo nên các thể loại hoa văn hình học khác, ngày càng đa dạng qua các thời kỳ và đặc biệt được thể hiện vừa phong phú vừa tinh tế trong văn hóa Đông Sơn, nhất là ở trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ…
Trước khi tiếp tục huyên thuyên, chúng ta kể chuyện bên lề một chút xíu.
Ai Cập ở vùng Đông Bắc Châu Phi, là một vùng thung lũng hẹp và dài nằm dọc theo lưu vực sông Nin. Ai Cập là vùng hạ lưu của con sông này, có độ dài khoảng 700 km, chia làm hai miền rõ rệt theo hướng Nam - Bắc. Miền Nam gọi là Thượng Ai Cập, bề rộng chỉ khoảng 15 - 22 km, Miền Bắc gọi là Hạ Ai Cập, có hình tam giác, Ở vùng Hạ Ai Cập, sông Nin chia ra làm nhiều nhánh trước khi đổ ra biển nên có nơi rộng tới 50 km.
Khí hậu Ai Cập nóng và khô, ít mưa vì chịu ảnh hưởng của thời tiết sa mạc. Nếu không có sông Nin chảy qua thì có lẽ xứ ấy cũng hoàn toàn hoang vu. Hàng năm vào khoảng từ tháng 6 đến tháng 11, xuất hiện lũ làm nước sông vùng hạ lưu dâng lên cao, bồi tụ phù sa màu mỡ cho đồng bằng Ai Cập. Hiện tượng đó tạo ra điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho các bộ phận dân cư quần tụ về sinh sống, tạo ra nền văn minh Ai Cập mà đến ngày nay vẫn được nhiều người cho là một trong vài nền văn minh thuộc hàng sớm nhất trong lịch sử xã hội loài người.
Tuy nhiên, chúng ta cho rằng dù có sớm mấy chăng nữa thì nền văn minh Ai Cập cổ đại cũng chỉ có thể xuất hiện sau thời kỳ biển tiến. Hơn nữa một nền văn minh (một nền văn hóa vụt nổi lên rực rỡ hơn hẳn nền văn hóa khu vực xung quanh) không thể đột khởi từ “tay không” mà phải kế thừa những nền văn hóa trước đó và nhất là phải có “bà đỡ” từ sự sung túc, thịnh vượng vượt trội do cuộc cách mạng nông nghiệp (mà then chốt là phát hiện ra loại cây lương thực đóng vai trò như cây lúa nước ở Đông Nam Á, hoặc cùng gốc loài, thậm chí là hậu duệ của nó).
Một câu hỏi đặt ra: văn hóa làm cơ sở cho nền văn minh Ai Cập là văn hóa nào? Hay cũng có thể hỏi tổ tiên của người Ai Cập cổ đại là ai và ai đó có gốc tích bản thổ hay từ đâu tới? Có thể sự xuất hiện người Ai Cập cổ gắn liền với sự di cư dần từ thượng nguồn sông Nin xuống mà xa xôi hơn nữa là sự di cư từ Đông và Bắc Phi sang, rồi muộn hơn là một bộ phận dân tộc người Xêmít từ Châu Á tới. Nhưng có thể thấy được một dòng chảy văn hóa liên tục và nhất quán, xuyên suốt từ thời tối cổ đến đó và trở thành một đặc trưng cơ bản của nền văn minh Ai cập? Mặt khác, không biết điểm xuất phát đầu tiên của ý tưởng là gì mà các Pharaon (vua Ai Cập cổ đại) đua nhau xây dựng những Kim Tự Tháp khổng lồ để làm nơi an nghỉ đời đời cho mình? Phải chăng đó là từ sự hồi ức về ngọn Tu Di thiêng liêng, nơi được cho là trung tâm Vũ Trụ và tồn tại vĩnh cửu? Đúng không rằng: vào một thời thậm chí là trước cả lần biển tiến sau cùng rất lâu, đã có những cuộc lan tỏa dân cư mạnh mẽ từ Địa Đàng sang Nam Mỹ và nhiều nơi khác trên khắp thế giới, qua đó mà nền văn minh của nó cũng lan tỏa theo? Trong một huyền thoại cổ Ai Cập có nói đến một con thuyền chở Mặt Trời đi xuyên qua bầu trời giữa ban ngày. Vào thời đồ đồng, Châu Âu vẫn còn lưu truyền tình tiết này. Năm 1902, tại một vùng đầm lầy ở Bắc Âu, người ta tìm thấy một bức tượng chiếc xe ngựa kéo Mặt Trời.
Chữ viết xuất hiện rất sớm trong thời Ai Cập cổ đại. Người ta đoán rằng nó đã có từ cuối thiên niên kỷ IV TCN. Cũng như các loại chữ viết cổ của người Sume, người Ấn Độ, hay người Trung Quốc, văn tự cổ Ai Cập được hình thành từ những hình vẽ và các kiểu hoa văn có từ thời nguyên thủy. Về hình dạng, chữ Ai Cập cổ lúc đầu rất giống với hình các sự vật thật muốn mô tả, vì thế còn gọi là kiểu chữ tượng hình. Thí dụ muốn nói về “nước”, họ vẽ 3 đường lượn sóng ; muốn ám chỉ sự khát nước, họ vẽ 3 làn sóng và thêm cái đầu con trâu. Và đây là điều chúng ta quan tâm: muốn nói về mặt trời, người Ai cập cổ vẽ một vòng tròn nhỏ, ở giữa thêm một cái chấm . Nhưng mặt trời thực tế đâu có chấm giữa nào mà thể hiện như thế?
Điều lạ là trong chữ giáp cốt tượng hình đời nhà Thương bên Trung Quốc (thế kỷ XVI - XII TCN) cũng biểu thị mặt trời là vòng tròn chấm giữa và nước là 3 làn sóng. Nếu chữ viết cổ Ai Cập ra đời sớm hơn nhiều so với chữ giáp cốt, là thứ chữ ra đời sớm nhất thời Trung Quốc cổ đại mà các nhà khảo cổ phát hiện được (dù theo truyền thuyết thì từ thời Hoàng Đế, nửa đầu thiên niên kỷ III TCN, sử quan Thương Hiệt đã sáng tạo ra chữ viết), thì phải cho rằng người Trung Quốc cổ đã tiếp thu chữ viết của người Ai Cập cổ. Nhưng đã tiếp thu thì sao không tiếp thu hầu hết mà chỉ một vài “chữ” thôi? Còn nếu cho rằng chính người Ai Cập cổ đã vay mượn vài “ký tự” đó của người Trung Hoa cổ thì hoặc lùi thời gian xuất hiện nền văn minh Ai Cập cổ đại về gần ngày nay hơn hoặc “đẩy” nền văn minh Trung Quốc cổ đại ra xa hơn. Cả hai cách ấy đều không phù hợp với chứng tích khảo cổ. Vậy thì chỉ còn cách cho rằng người cổ của hai khu vực văn minh ấy đã vay mượn ít ra là (và cũng có thể chỉ là) hai ký hiệu ấy từ một nền văn minh sớm hơn để đưa vào hệ thống chữ tượng hỉnh của mình? Chúng ta có cảm nghĩ rằng nền văn minh Trung Quốc cổ đại ra đời muộn, nhưng nói tương tự như triết gia Nietzsehe nói về nền văn minh Hi Lạp cổ đại, thì người Trung Quốc cổ đã biết nhanh chóng nhặt lấy ngọn thương mà vài dân tộc khác do nhiều nguyên nhân khác nhau, đã phải buông ra, đặt nằm bất động, để nhanh chóng phóng đi xa hơn, vươn lên cao hơn, vượt các dân tộc láng giềng.
Về vấn đề vòng tròn có chấm giữa và 3 làn sóng, lạ lùng hơn nữa là chúng, nhất là vòng tròn chấm giữa, với vai trò là họa tiết, hoa văn, không những xuất hiện khá phổ biến và thường xuyên trên trống đồng và các đồ vật khác thuộc văn hóa Đông Sơn, mà còn thấy được dễ dàng trên các đồ vật chế tác ở những giai đoạn văn hóa sớm hơn thuộc văn hóa Gò Mun, sớm hơn nữa thuộc văn hóa Phùng Nguyên (xem minh họa ở hình 3).
Đặc biệt, trên trống đồng Ngọc Lũ, hình tròn nhỏ chấm giữa nằm kế tiếp nhau thông qua một đường nối tiếp tuyến giữa chúng, tạo thành hàng loạt những vòng hoa văn đồng tâm, đều tăm tắp quanh mặt trời trung tâm, đã đóng vai trò chủ yếu trong hệ thống hoa văn hình học nền, cạnh những vành hoa văn người - vật.
Hình 3: Hoa văn trang trí trên đồ gốm Đông Sơn
Đặc biệt, trên trống đồng Ngọc Lũ, hình tròn nhỏ chấm giữa nằm kế tiếp nhau thông qua một đường nối tiếp tuyến giữa chúng, tạo thành hàng loạt những vòng hoa văn đồng tâm, đều tăm tắp quanh mặt trời trung tâm, đã đóng vai trò chủ yếu trong hệ thống hoa văn hình học nền, cạnh những vành hoa văn người - vật.
Quan niệm ngày nay vẫn cứ bám vào việc lấy sự xuất hiện nhà nước (và nhà nước xuất hiện là do sự phân chia giai cấp trong xã hội) làm tiêu chuẩn đầu tiên xác định một nền văn minh, nghĩa là một nền văn hóa chỉ có thể tiến lên văn minh, trở thành nền văn minh khi đã có nhà nước (?). Thế thì văn hóa và văn minh, ngoài tiêu chí nhà nước ra còn khác nhau chỗ nào ? Có đỏ mắt tìm trong các tài liệu nghiên cứu khảo cổ và lịch sử, cũng khó lòng phân biệt được về mặt nội dung giữa văn hóa và văn minh nếu tạm quên đi “ông” nhà nước. Nói thêm rằng đúng là trước khi xuất hiện nhà nước theo quan niệm ngày nay, đã xuất hiện sự phân biệt giàu nghèo trong xã hội. Song sự phân biệt ấy không có nghĩa là đã xuất hiện 2 lực lượng tương phản có thực, gọi là giai cấp trong xã hội. Việc cho rằng đã xuất hiện hai lực lượng giai cấp trước khi xuất hiện nhà nước chỉ là một sự tưởng tượng duy ý chí trong mê lầm, một sự tổng hợp những đơn vị rời rạc kiểu toán học thuần túy (môn khoa học đầy trí tuệ nhưng không ít lạc hậu, đầy chân lý nhưng cũng lắm sai trái!), và hoàn toàn không… “vật lý” một tý nào! Theo cách hiểu riêng thì chúng ta nói: đã là một lực lượng người, hay một giai cấp thì nó phải thể hiện ra trước quan sát như một thực thể phân biệt được và phải sống động, nghĩa là nó phải có tính “sự vật” và tính “vận động nội tại”, hay nói cách khác nghe khoái tai hơn là nó phải có một thể xác và thể xác đó phải “chứa đựng” một linh hồn (ở sự vật vô tri, linh hồn của nó là sự vận động nội tại “mù quáng”, lệ thuộc vào môi trường, quanh một “đầu não”, cái gốc “có tính khí luôn thất thường” của cân bằng nội tại). Sự phân biệt giàu - nghèo, thông thường, chưa đủ sức làm nên những thực thể giai cấp, nhưng chính nó, cùng với những yếu tố khác nữa, trong tiến trình vận động xã hội đã tăng cường chức năng và quyền lực cho bộ phận thủ lĩnh sơ khai), làm cho nó trở thành một nhà nước thực thụ theo qui ước ngày nay. Nhà nước thực thụ, ban đầu chủ yếu là do dân, vì dân, tuy nhiên sự thèm khát danh lợi duy ý chí trong mù quáng của con người đã làm cho nó thoái hóa đi, biến thái thành một thể xác (gồm vua, đám quan quyền và bộ phận người hưởng lợi từ nó), có một linh hồn chủ yếu là do nó và vì nó. Đó chính là thực thể giai cấp thống trị. Quá trình hình thành và tồn tại cái thực thể ấy cũng là quá trình tập hợp lực lượng làm hình thành nên thực thể Đại Chúng (với đa số là người nghèo) bị trị. Khi nhà nước là do dân và vì dân thì Đại Chúng là do nhà nước và vì nhà nước, khi nhà nước là do nó và vì nó thì Đại Chúng cũng do nó và vì nó. Lúc này quyền lợi của hai lực lượng là quyền lợi của hai giai cấp đối kháng một mất một còn và trong cuộc đấu tranh dài lâu lúc được lúc thua ấy, cuối cùng, thắng lợi hoàn toàn bao giờ cũng thuộc về Đại Chúng và nhà nước tiêu vong (một cách tương đối thôi vì sẽ lại “mọc ra” một nhà nước mới!)).
Nếu không ràng buộc nền văn minh với sự xuất hiện nhà nước thì một nền văn hóa (được qui ước là sự biểu hiện trình độ nhận thức xã hội về tự nhiên, cũng như trình độ lao động và cuộc sống) sẽ được gọi là nền văn minh nếu nó vượt trội một cách rõ rệt so với thời gian dài nhất định và trở thành một (trong số vài) trung tâm văn hóa tiên tiến nhất trên bình diện văn hóa thế giới đương thời nói chung.
Theo quan điểm đó thì văn hóa Hòa Bình đã từng là một nền văn minh ít ra là của khu vực Đông Nam Á và sự rực rỡ của nó đã đủ sức lan tỏa những nét tiên tiến nhuốm bản sắc văn hóa của nó ra xung quanh. Sau này trên nền tảng của văn hóa Bắc Sơn (văn hóa hậu Hòa Bình), tiếp thu trở lại những ưu việt của các nền văn hóa lân cận và gặp được thời cơ biển lùi làm xuất hiện đắc địa có một không hai là Đồng bằng Bắc Bộ, một trung tâm văn hóa xuất hiện, tiến nhanh lên văn minh: đó chính là nền văn minh sông Hồng, có tính kế thừa văn hóa Hòa Bình và rực rỡ nhất vào thời đại Hùng Vương.
Những đặc thù về địa hình lãnh thổ, về thổ nhưỡng, thời tiết, khí hậu… sẽ làm nên đặc tính con người, làm nên những sắc thái, bản chất có tính riêng của dân tộc. Trên một khu vực lãnh thổ sẵn nhiều thuận lợi cho cuộc sống và sau khi được khai phá lại càng tỏ ra được thiên nhiên ưu đãi một cách hào phóng, tổ tiên dân tộc Việt đã là những con người dũng cảm, chí thú trong lao động, hồn nhiên, hào hiệp, lạc quan trong cuộc sống, có tinh thần yêu tự do, chuộng hòa bình, thích đoàn kết. Kế thừa những đức tính ấy, Dân tộc Việt ngay từ khi hình thành đã là một dân tộc hiền hòa, ít tham vọng, chỉ cầu an thái nên cũng ghét bạo lực, nhưng kiên trinh, bất khuất khi quê hương, tổ quán bị xâm phạm. Đó là một dân tộc biết ơn biết nghĩa, biết uống nước thì phải nhớ nguồn nên từ rất sớm đã có tập tục thờ kính tổ tiên.
Một nền văn minh được xây dựng nên từ những con người như vậy, từ một dân tộc như vậy, ắt không thể để lại những công trình khổng lồ, những đền đài lăng tẩm nguy nga tráng lệ có tính vĩnh cửu cho hậu thế được. Một nền văn minh mà trong đó nổi bật lên lối sống phồn thực hồn nhiên, cách sống dung dị, khoáng đạt, hòa đồng, với tinh thần đoàn kết bên nhau cùng hướng đến cuộc sống ngày một an khang hơn, sẽ không bao giờ tự hủy hoại mình bằng cách tạo ra núi xương sông máu. Sự vĩ đại đầy kiêu hãnh của các kim tự tháp Ai Cập không bao giờ có thể che giấu được tội ác cứ hiển lộ ra trong nền văn minh Ai Cập cổ đại. Vạn Lý Trường Thành, cái công trình mà chỉ trên tàu vũ trụ mới có thể nhìn thấy rõ toàn cảnh của nó có thể là bài ngợi ca không tiếc lời về thành quả lao động vô song của con người nhưng đồng thời cũng là bản tố cáo tội ác ghê gớm mà con người đã gây ra cho chính con người trong một lần ngu muội.
Có thể gọi nền văn minh Hòa Bình rồi tiếp nối nó là nền văn minh sông Hồng là hai nền văn minh (hay hai giai đoạn của một nền văn minh duy nhất?) “nhu mì” để phân biệt với những nền văn minh “đồ sộ” và “dữ tợn”. Cũng vì thế mà hiện tượng chậm xuất hiện nhà nước (theo số đông qui ước, định nghĩa) trong một nền văn minh đã hình thành từ sớm, là điều dễ hiểu.
Như vậy là chí ít, vòng tròn có chấm giữa đã xuất hiện trong 3 nền văn minh cổ đại mà chúng ta cho là thuộc hàng sớm nhất thế giới sau nền văn minh Địa Đàng. Phải chăng họa tiết đó có xuất xứ từ một nơi duy nhất: Đại Lục Mẫu? Đó là một biểu tượng của một đất nước thờ Thần Mặt Trời (chấm giữa) nằm ở giữa đại dương mênh mông (vòng tròn) và đồng thời cũng có thể hiểu đó là biểu tượng của một đất nước (vòng tròn) có ngọn Tu Di huyền thoại (chấm giữa) sừng sững ở trung tâm Vũ Trụ?
Không, có lẽ cái vòng tròn bé nhỏ có chấm giữa ấy chỉ là một khắc họa ước lệ cho một biểu tượng thực sự nào đó đã từng tồn tại. Nếu chúng ta tin vào sự hiện hữu của đất nước Mặt Trời và tự cho phép mình được quyền lựa chọn cho nó một biểu tượng thì chúng ta sẽ không do dự mà chọn ngay Linga Ngọc Lũ, xin lỗi, trống đồng Ngọc Lũ cùng với hệ thống hoa văn trên bề mặt của nó. Phải nói rằng đó là một biểu tượng hoàn hảo: một đất nước sống động tươi vui, thanh bình dưới ánh mặt trời sáng lạn, có sông ngòi đan xen (những đường tròn được coi là đã biến điệu từ những đường lượn sóng, cặp đôi song song), có nước nổi mênh mông (cặp ba đường tròn song song ở rìa mặt trống) và những con thuyền theo nhau ngược xuôi, ra khơi vào lộng mà cũng sẵn sàng hành trình dài hơi đi khắp năm châu bốn bể.
“Ngộ” ra được như thế quả là “siêu” nhưng có vẻ còn xa sự thật và quá đà. Có một hướng “ngộ” khác về vòng tròn có chấm giữa, nghe “thực tế” hơn nhiều.
Văn hóa Hòa Bình tồn tại trong khoảng thời đại đồ đá giữa, khoảng giao thời giữa thời đồ đá cũ và thời đại đồ đá mới. Gọi là khoảng giao thời chứ thời gian tồn tại của nó không ngắn chút nào, và nói như thế chỉ là tương đối theo quy ước. Thời đó, tổ chức xã hội còn “lỏng lẻo” hoặc tính xã hội của cộng đồng dân cư Hòa Bình cổ, đang trong giai đoạn hình thành. Đó là một cộng đồng bao gồm các thành viên quan hệ với nhau một cách “rời rạc”. Thành viên của cộng đồng ấy là một “gia đình” mẫu hệ, có mẹ, có con (con theo mẹ) mà không có cha. Mẹ nuôi nấng, dạy dỗ, quyết định trong phân phối thức ăn, con lớn lên ở với mẹ, làm lụng suốt đời, phụng sự cho cái “gia đình” ấy và hưởng thụ từ sự ban phát của gia đình ấy. Con gái đến tuổi lại sinh con đẻ cái làm cho cái thành viên cộng đồng có hình thức “gia đình” ấy “phình ra” thành một tập thể kiểu “tam, tứ đại đồng đường”. Quá trình đó cùng với việc mẹ ngày càng già yếu đã làm nảy sinh sự ủy quyền lãnh đạo, phân cấp chỉ huy, thay mẹ điều hành công việc “gia đình”. Số lượng tăng đến mức độ “tới hạn” hoặc do người mẹ đã chết và do những nguyên nhân gây rối loạn nào đó mà gia đình thuở ban đầu phải phân ra thành những gia đình nhỏ hơn, làm xuất hiện những thành viên mới của cộng đồng. Thuở ấy, cái cộng đồng có mối quan hệ nội tại còn lỏng lẻo ấy hầu như chưa có thủ lĩnh hoặc chỉ xuất hiện thủ lĩnh trong từng lúc nhất định khi cần, phải liên kết các thành viên thực hiện một công việc cần kíp nào đó, chẳng hạn như chống kẻ lạ xâm nhập. Xong rồi thôi, thủ lĩnh “vì dân” ấy lại về làm dân. Chính vì thế cũng chưa có sở hữu cộng đồng hay còn gọi là công hữu, mà chỉ có sở hữu của từng thành viên gia đình, gọi là sở hữu tập thể.
Gia đình mẫu hệ nói trên là kết quả của phương thức kiếm ăn, lấy trồng trọt chăn nuôi làm chủ yếu, của cách sống lấy định cư làm chủ yếu và bản thân nó chính là mầm mống của xã hội mang hình thái công xã thị tộc sau này. Quá trình đó là tự phát một cách tất yếu nên bầy người nguyên thủy nào ở trên trái đất này cũng đều phải trải qua.
Hơn thế nữa, có thể nói rằng gia đình mẫu hệ là hạt nhân đầu tiên, là cội nguồn của mọi hình thái, mọi thể chế xã hội sau này, bởi vì trong vận động nội tại của nó, chúng ta thấy phảng phất tất cả những yếu tố của mọi xã hội sau này biểu hiện ra, dù ở chế độ Chiếm hữu nô lệ hay Xã hội chủ nghĩa cũng vậy.
Khi con người chuyển sang lấy trồng trọt, chăn nuôi làm phương thức kiếm ăn chủ yếu thì yêu cầu phải biết và nâng cao trình độ cân đo đong đếm, “làm toán”, lưu nhớ, theo dõi sự tăng giảm về mặt số lượng gia súc, của cải tích lũy được… ngày càng trở nên bức thiết. Việc lưu nhớ, lúc đầu có thể được thực hiện bằng cách cất giữ những hòn sỏi, viên đá. Nhưng làm cách đó có bất tiện là khó bảo quản, dễ rơi rớt, thất lạc, cho nên trong thời đại Hòa Bình, con người nguyên thủy đã có sáng kiến dùng vỏ ốc biểu trưng số lượng và mài thủng lưng vỏ ốc để xỏ xâu. Những xâu vỏ ốc ấy đã giải quyết thỏa đáng những hạn chế của cách lưu nhớ bằng những viên sỏi, đá rời rạc. Những xâu vỏ ốc đó luôn được thêm hoặc bớt theo tình hình thực tế số lượng gia súc và những lượng “của cải” nào đó đã tích lũy được, nghĩa là người ta thực hiện sự tính toán, chia chác, thu gom thành quả lao động một cách trực quan ngay trên những xâu vỏ ốc ấy và khi di dời chỗ ở hay thực hiện việc trao đổi sản phẩm lao động giữa các thành viên với nhau, người ta thường mang chúng theo, đeo vào tay, đeo vào cổ…
Chức năng ban đầu của các xâu vỏ ốc các loại là như thế chứ chưa có chức năng trang sức làm đẹp. Trong thời đại đồ đá mới (tương ứng là văn hóa Bắc Sơn) đã xuất hiện những phiến đá có lỗ xỏ ở giữa, những hạt chuỗi dùng để xỏ xâu bằng đất nung hình trụ hay hình thoi, giữa có xuyên lỗ, và ở giai đoạn sau thì bắt đầu xuất hiện những chuỗi xâu những viên đá được tiện tròn xoay và khoan lỗ theo lối tách lõi giữa. Qua hàng ngàn năm, thậm chí là hàng vạn năm lao động trồng trọt chăn nuôi kết hợp với săn bắt hái lượm, lên bờ xuống ruộng, vào rừng ra biển, nhận thức về mọi mặt và trình độ lao động của người tối cổ trên đất Việt đã đạt được đến những tầm cao nhất định so với khu vực. Nghiên cứu khảo cổ học đã chứng minh điều đó. Nhờ trình độ nhận thức đã được nâng cao mà những hiểu biết toán học (số học, hình học) và thiên văn học cũng trở nên ngày một sâu sắc hơn.
Chắc rằng vào cuối thời đại này đã bắt đầu phôi thai tính hàng hóa trong những thành phẩm lao động mang đi trao đổi. Khi cường độ trao đổi và khoảng cách trao đổi sản phẩm tăng lên trong xã hội thì tất yếu xuất hiện đòi hỏi phải có những vật phẩm có giá trị, tiện lợi trong tích lũy, trong việc chứa đựng, mang theo khi di chuyển, được xã hội thừa nhận để làm vật trung gian của một quá trình trao đổi. Những hạt đá, vì có tính bền vững, tốn nhiều công sức chế tác, có tính quí giá vì sự công phu của chúng, đã được đưa ra đảm nhận vai trò đó. Và các xâu chuỗi viên đá xỏ xâu, ngoài chức năng “kế toán” như vỏ ốc xỏ xâu, từ đây có thêm chức năng là những vật ngang giá chung dùng trong các cuộc trao đổi. Chức năng trao đổi trong “thương mại” của các hạt đá xâu chuỗi dần dần làm cho chúng ngày một xa rời chức năng “quản lí, kế toán” trong lao động sản xuất của con người. Ai có những hạt đá xâu chuỗi đó thì với một số lượng thỏa thuận nhất định, có thể trao đổi lấy bất cứ thứ gì đó được cho là tương xứng trong thiên hạ. Vì vậy mà chúng cũng trở nên quí báu. Cái quí báu thì phải giữ gìn, bảo quản, cất giấu chứ không thể mang ra làm “sổ sách kế toán” “dầm mưa dãi nắng” trong lao động sản xuất được. Đòi hỏi phải có một loại xâu chuỗi đơn giản, “rẻ tiền” (dễ làm) khác đảm nhận chức năng “thấp hèn” đó và dây thắt nút ra đời như một sáng kiến tuyệt vời nhất. (Thực ra rất có thể dây thắt nút xuất hiện trước).
Các xâu chuỗi hạt đá, sau khi đã xa rời cái nguồn gốc “tầm thường” của mình để hoàn toàn đảm nhận chức năng tiền tệ “cao sang, quyền quí”, lại càng trở nên quí báu.
Đấu tranh sinh tồn khi được trang bị tư duy sẽ tạo ra sự thèm khát lý tính. Phàm những gì thỏa mãn sự thèm khát đó đều đáng được chú ý. Cái đáng chú ý càng có khả năng làm tăng mức độ thèm khát (tăng cảm giác thỏa mãn) thì càng có vẻ hiếm hoi và do đó càng đáng quí để rồi trở nên quí báu. Cái đáng quí, bản thân nó cũng trở thành đối tượng của sự thèm khát, lâu dần, tạo nên một cảm giác nền tảng trong vô thức và biểu hiện ra ở 5 giác quan của con người, được con người phân biệt, định nghĩa thành những cặp khái niệm tương phản như thơm - thối, ngon - dở… mà ở mức độ cao nhất là cặp hạnh phúc - bất hạnh. Đối với thị giác thì có cặp khái niệm đặc trưng và cơ bản là đẹp - xấu. Nguồn gốc của thẩm mỹ cũng từ đó mà ra. Cái đáng quí đồng thời cũng thường là cái đẹp và ngược lại cái đẹp cũng là cái đáng quí. Sự đáng quí của một cái gì đó không phải là bất biến, ổn định theo không gian và thời gian, do đó quan niệm thẩm mỹ có tính thời đại và tính tư tưởng.
Những vòng xâu chuỗi hạt đá được khoan, tiện công phu trở thành một thứ “tiền tệ” có khả năng “mua” được những thứ đáng quí nên bản thân chúng trở nên quí báu. Con người giữ gìn cẩn thận chúng, trân trọng nâng niu chúng. Sở hữu chúng tạo một niềm mãn nguyện và càng có nhiều chúng thì càng tự hào. Người ta đeo chúng vào tay, vào cổ (rồi sau này hạt đá còn biến tướng thành vòng đeo tai, thành nhẫn xỏ ngón tay…) để tiện “đi buôn” và cũng còn để “khoe của”.
Sự quí giá của những vòng hạt đá đeo trên người làm nên một hình tượng “đẹp quá” nên có thêm chức năng làm đẹp, làm đồ trang sức. Sau này, theo đà tiến triển về trình độ sống, trình độ lao động của con người mà đồ trang sức trở nên đa dạng, phong phú và khi đã nhường chức năng tiền tệ cho những vật thể khác (tiện lợi hơn trong mua bán, cất giữ) thì chúng chỉ còn chức năng làm đẹp và đối với những thứ rất quí giá (bán được nhiều tiền, có từ cổ xưa, là kỷ vật thiêng liêng, có cuộc đời “ba chìm bảy nổi” lừng danh, hiếm hoi…) thì được xung vào hàng ngũ những báu vật.
Có thể nói thẩm mĩ nguyên thủy gắn liền với tính dục (hiểu theo nghĩa rộng là thèm muốn bản năng được tăng cường bởi lý trí). Điều này giúp chúng ta hiểu được vì sao có nhiều thứ người cổ xưa cho là tuyệt đẹp trong khi trước mắt chúng ta là “tuyệt xấu xí”; vì sao thời đó lại thấy được cái đẹp của hình thể của các bộ phận sinh dục ở người để mà dựng tượng tôn vinh chúng (cặp Linga - Yôni) trong khi chúng ta thường coi chúng là đồ xấu xí và thật là xấu xa khi nhắc công khai đến chúng bằng những cái tên “dân dã” (thật ra trong phòng the lúc nổi hứng vẫn thấy chúng “đẹp quá”!). Sự sung túc sẽ phân định rõ rệt dần cái đẹp thành hai bộ phận là cái đẹp vật chất và cái đẹp tinh thần. Cũng có thể gọi cái đẹp tinh thần là cái đẹp thuần túy và trở thành đối tượng của “mua bán”. Người ta trang điểm chỉ vì muốn… đẹp.
Ngày nay, quan niệm thẩm mĩ đã đạt đến mức độ trừu tượng hóa ở cao độ, xa rời tương đối cái bản chất “thực dụng” thuở ban sơ của nó. Gốc gác “hèn kém” của quan niệm thẩm mĩ đã bị bề dày thời gian che mờ khó thấy, nhưng nếu chú tâm để ý thì vẫn nhận ra được sự “phàm tục” đó thể hiện “nhan nhản” ở khắp nơi. Chẳng hạn, trong văn chương, người ta vẫn gọi một bài thơ hay là bài thơ đẹp, một đĩa thức ăn bày biện đẹp bao giờ cũng gợi nên sự ngon miệng, đàn ông Nam Bộ thấy một cô gái đẹp thường thốt lên: “Trông ngon quá!” (nhưng nếu được “ăn” thì những gã đó “ăn” bằng cách nào?), một con người tốt còn được gọi là người có tâm hồn đẹp! Kim tự tháp Ai Cập trở thành kì quan bởi sự phi thường của nó, cái phi thường đó toát lên sự hùng dũng, ngạo nghễ, gan góc, can trường, bất khuất trước mưa nắng, thời gian đến trường tồn, vĩnh cửu…, đó cũng chính là niềm ao ước của con người; sự quyến rũ giữa đàn ông và đàn bà với nhau bao giờ cũng bắt đầu từ dục tình, trong khi người đàn bà quyến rũ người đàn ông bằng những đường cong cơ thể đầy đặn hài hòa, bằng làn da mịn màng trơn tru, bằng những cử động hình thể duyên dáng, uyển chuyển, dịu dàng… khêu gợi nên niềm vui thú xác thịt, thì người đàn ông lại quyến rũ người đàn bà bằng một cơ thể cường tráng gân guốc, bằng sự hào hoa, phong nhã, bằng sự sung túc, giàu có… khêu gợi nên một cuộc sống yên ổn, đủ đầy cho một gia đình trong tương lai, và tất cả những cái đó đều được gọi là vẻ đẹp giới tính…
Đến thời Phùng Nguyên, kỹ thuật chế tác đá càng điêu luyện. Người cổ dùng các loại đá như amphibolít, néphrit cho việc chế tạo các viên đá có lỗ xỏ xâu. Sau khi đã được tiện, khoan, mài bóng những viên đá đó có hình dáng tròn xoay, tâm có lỗ xỏ, bề mặt trông như sừng, ngà, ngọc, thường có màu xanh biếc, trắng muốt hay tím hồng rất đẹp. Thời này, chức năng tiền tệ của các hạt đá xâu chuỗi, chắc rằng càng được tăng cường, thậm chí là đóng vai trò chính trong việc trao đổi, “mua bán” trong nền sản xuất hàng hóa sơ khai đã hình thành.
Nhờ đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội cũng như hình dáng hài hòa, cân đối của các viên đá hình tròn xoay mà những chuỗi xỏ xâu những viên đá đó trở nên quí báu, đẹp đẽ và đương nhiên hình dáng của chúng phải được ghi nhớ, lưu giữ trên đồ gốm, đồ đồng như một sự trang trí làm đẹp, nâng cao giá trị của đồ vật mà chúng được thể hiện trên đó. Sau khi đã được cách điệu hóa, những hình chuỗi viên đá xỏ xâu hóa thành những vòng hoa văn gồm các hình tròn chấm giữa liên kết với nhau bằng những đường lượn tiếp tuyến và được ưu tiên thể hiện dồi dào trên trống đồng Ngọc Lũ với ý nghĩa: sung túc, thịnh vượng. Bản thân vòng tròn có chấm giữa nói lên sự quí giá, cao sang. Đó chính là hình tượng “đồng tiền” của đất nước mà người đương thời gọi là Mặt Trời, người đời sau gọi là Văn Lang (hoặc cũng có thể đất nước Mặt Trời xuất hiện và tồn tại vào thời xa xưa hơn nữa và là tiền thân cổ xưa nhất của đất nước Văn Lang?).
(Xin kể thêm: công cuộc khảo cổ đã phát hiện được nhiều di vật được cho là những quả cân thuộc thời đại Đông Sơn, một số bằng gốm nhưng phổ biến hơn cả là bằng đá. Người ta cũng phát hiện được 4 quả cân bằng đồng tại các di chỉ Đông Sơn, Đào Thịnh, Làng Cả và Làng Nhâm. Quả cân Làng Nhâm có dáng nửa hình cầu dẹt, trên mặt được trang trí hoa văn hình sao 10 cánh, xen giữa các cánh sao là hoa văn tam giác gạch chéo (mô típ này giống như trên một số trống đồng Đông Sơn), bao quanh ngôi sao là vành trang trí các đường gạch chéo. Quả cân Đông Sơn có trang trí hoa văn thừng xoắn nổi đánh đai gợi lên hình ảnh những quả cân được buộc dây treo khi cân. Đặc biệt là quả cân Làng Cả (xem hình 4). Trên mặt quả cân này được trang trí những cặp hoa văn gồm hai vòng tròn có chấm giữa liên kết nhau bằng đường lượn tiếp tuyến (như nói lên sự tương phản đối ứng khi cân hay cũng có thể mang ý nghĩa về sự liên quan đến “tiền bạc”, mua bán).
Chú tâm vào những xâu chuỗi hạt đá quí báu, chúng ta đã “bỏ rơi” dây thắt nút. Để cho công bằng, chúng ta nên nói một chút về nó. Có thể thân phận của dây thắt nút là nghèo hèn, nhưng chắc chắn nó đã có một cuộc đời oanh liệt. Công lao to lớn của nó trên lãnh thổ Việt Nam, thời tiền - sơ sử là không thể phủ nhận. Có thể lúc đầu, dây thắt nút chỉ đóng vai trò là phương tiện lưu nhớ về số lượng thành quả lao động trong hoạt động sống của con người, sau đó thêm chức năng dùng để “tính toán” giản đơn như thêm, bớt, gom vào, phân ra… Khi trình độ tính toán của con người được nâng lên đến mức những kết quả tính toán nhờ dây thắt nút, chỉ cần nhẩm cũng ra (cách tính nhẩm này đã trở thành kỹ năng gần như bẩm sinh nhờ được học truyền miệng từ tấm bé, qua các trò chơi dân dã, tương tự như chẳng hạn trò “ô ăn quan”, “chơi chuyền”, “nhảy lò cò”, “trốn tìm”…), thì dây thắt nút cũng mất chức năng này (hoặc xuất hiện chức năng cao hơn), xuất hiện chức năng khác như theo dõi thời gian (xác định ngày trăng tròn, thời điểm chuyển biến thời tiết khí hậu…), lưu nhớ các sự kiện, diễn giải các hiện tượng bằng cách biểu thị sự tăng giảm về số lượng kèm theo một số qui ước nào đó (sinh nở, tuổi đời, hôn nhân, tang ma, lễ hội, cúng kiếng…). Nhiều khả năng nhờ có dây thắt nút mà lịch pháp xuất hiện. Dần dần sự biểu đạt các ý tưởng bằng dây thắt nút ngày càng phong phú làm cho nó trở thành một loại chữ viết tạm gọi là “sắp đặt”. Để biểu đạt một nội dung nào đó, người ta sắp xếp (các) dây thắt nút theo một hình dáng nào đó, trong một trình tự nào đó, thông qua một hệ thống những qui ước đã có sẵn và người “đọc” nó sẽ hiểu được ý người sắp xếp muốn thổ lộ. Chúng ta có thể tưởng tượng loại chữ viết đó, không phải tượng hình, cũng không phải tượng thanh mà tương tự như cách biểu đạt súc tích trong “ngôn ngữ toán học”, tương tự như tín hiệu “moóc” (chấm gạch) trong thông tin vô tuyến thời mới qua gần đây. Nhiều khả năng, do sự thao tác phức tạp và đặc thù xã hội (tồn tại nhiều loại chữ viết sơ khai khác nhau trong liên minh các bộ lạc) mà loại chữ viết “sắp xếp” bằng dây thắt nút chỉ phổ biến trong bộ máy chính quyền, như một “văn tự” chung để phục vụ cho mục đích điều hành đất nước liên minh (liên bang). Sau này, để lưu giữ những nội dung quan trọng như những tài liệu, những câu chuyện lịch sử trên những “trang” đất sét, những mặt đồ gốm trước khi nung, chữ sắp xếp dây thắt nút được cải tiến, giản lược hóa, dùng ngay hoa văn vòng tròn tiếp tuyến có chấm giữa là hình tượng dây thắt nút, thêm vào những ký hiệu phụ trợ như dấu chấm tròn , dấu móc mà thành chữ viết thực thụ. Có thể rằng đến thời Thục Phán - An Dương Vương, chữ viết dây thắt nút đã được thay thế bằng loại chữ ở hình 5e (và ký hiệu các số từ 1 đến 8 được ký hiệu như hình 5d?).
Hình 5: Có thể là những dấu vết về chữ viết cổ của người Đông Sơn?
Rất nhiều biển hiệu trong những di tích khảo cổ cho phép nhận định rằng thời Hùng Vương, dây thắt nút đã trở thành phương tiện biểu đạt đa năng và chữ viết trên cơ sở dây thắt nút đã được dùng phổ biến trong tầng lớp trên, ở những người có học thức cao và hàng ngũ thư lại của chính quyền trung ương.
Để giải trí một chút, chúng ta thử chế một câu văn viết kiểu “thắt nút” xem sao. Trước hết, chúng ta qui ước:

 “Vợ chồng, buổi sáng ra sông bắt được 2 con cá, buổi chiều, ra đồng gặt lúa.”
Phải chăng văn tự thắt nút ngày xưa đại khái như thế? Trong “An Nam chí” có ghi là thời Hùng Vương: “Chưa có chữ nghĩa, còn dùng lối thắt nút dây làm dấu ghi nhớ”. Trong “Việt sử lược” cũng viết: “Chính sự dùng lối kết nút”. Kinh nghiệm cho thấy trong cổ sử thiếu gì những nhận định không chính xác. Có thể thời Hùng Vương, chữ viết kiểu dây thắt nút như một thứ “xa xỉ”, không bức thiết đối với cuộc sống thường nhật nên cũng không phổ biến và lưu truyền trong dân dã, nơi mà ngôn ngữ và những sợi dây thắt nút đã đủ đáp ứng nhu cầu trong lao động và sinh hoạt (hiện tượng hầu hết dân thường mù chữ trong xã hội là phổ biến trên thế giới ở mọi thời đại cho đến thời cận đại, và tương tự như thế, ngày nay, dân chúng không nhất thiết phải thông đạt những kiến thức khoa học kỹ thuật tiên tiến mới sinh tồn được, thậm chí là hoàn toàn không cần thiết vì đã có bộ phận các nhà thông thái hướng đạo.)
Sử xanh nói khác, các nhà ngôn ngữ học còn ý kiến này nọ, mặc lòng, chúng ta tin tưởng vào sự ước đoán của mình: thời Hùng vương đã có chữ viết đích thực. Niềm tin đó càng được củng cố vững chắc vì chúng ta đã nghiền ngẫm rất lâu trước di vật bằng đồng thuộc thời Hùng Vương được tái hiện trên hình 6c.
Thế thì các “dây chuyền” gồm các vòng tròn chấm giữa nối nhau bằng đường lượn tiếp tuyến, có trên trống đồng Ngọc Lũ, ngoài sự tượng trưng cho sung túc, thịnh vượng ra, có mang thêm chức năng là những dòng văn tự không? Có lẽ chúng chỉ mang thêm chức năng trang trí. Ngay thời nay, trên quốc huy của các nước cũng rất “kiệm lời”.
Hình 6: Tái hiện di vật bằng đồng thuộc thời Hùng Vương
***
Trong số các di vật đồng thau thời văn hóa Đông Sơn đã phát hiện được, có một loại mà ba đại diện của chúng được thể hiện trên hình 6. Đó là những tấm đồng hình vuông hay hình chữ nhật dày khoảng 0,1 cm được trang trí hoa văn khá đẹp.
Trước đây, các học giả xem là đồ trang sức trên áo váy phụ nữ, dù vẫn có đôi chút nghi ngờ rằng đó không phải là đồ trang sức dành riêng cho phụ nữ vì cũng còn bắt gặp nó cùng với các vũ khí và đồ dùng khác trong ngôi mộ mà chủ nhân hẳn phải là người đàn ông.
Đến nay, người ta đã có 30 tiêu bản của loại hiện vật độc đáo này, gồm 5 chiếc hình chữ nhật và 25 chiếc hình vuông. Ý kiến ngày nay của các nhà nghiên cứu hầu như cho rằng những hiện vật đó không hẳn đã là đồ trang sức mà chính là những tấm che ngực, phòng vệ trong chiến đấu.
Đối với loại hình chữ nhật, chúng có kích thước trung bình 31,1 x 13,3 cm và được trang trí hoa văn khá nhất quán. Hoa văn trung tâm (theo nhiều nhà nghiên cứu) là cảnh người hóa trang lông chim, ngồi dọc sát nhau với động tác cùng chèo thuyền theo một nhịp thống nhất, được trang trí trong một khung chữ nhật lớn ở giữa với kích thước trung bình khoảng 24 x 38 cm và được viền xung quanh bằng các dải hoa văn hình học quen thuộc là vòng tròn tiếp tuyến và chấm dải. Đối với loại hình vuông (có chiếc chỉ gần vuông), chúng có kích thước trung bình (đo trên 100 chiếc) là 14,4 x 14,3 cm. Hoa văn trang trí của loại này: tất cả đều có hoa văn hình chữ X ở trung tâm, xung quanh để trơn, trang trí thành các khung kín hay các mảng rời đối xứng. Cụ thể hơn, người ta chia làm 3 kiểu thể hiện hoa văn như sau:
Kiểu 1: Là những tấm thường có kích thước nhỏ hơn so với cùng loại, đơn giản chỉ có hoa văn chữ X ở giữa.
Kiểu 2: Hoa văn được bố trí theo các nhóm dạng mảng đối xứng nhau quanh hoa văn chữ X ở trung tâm. Các hình hoa văn đối xứng ấy có thể khác nhau trên các tấm, có chiếc trên 4 góc là hình 4 cặp cá sấu cách điệu, có chiếc lại là 4 mặt trống đồng Đông Sơn, cũng có khi là gồm hình 4 con chim đứng xen kẽ giữa các cặp cá sấu và các cặp người hóa trang được thể hiện cùng với thuyền (4 thuyền ở 4 mảng đối xứng).
Kiểu 3: Phần lớn các tấm loại hình vuông đều trang trí theo kiểu này, với đặc điểm nổi bật là các vành hoa văn hình học và hiện thực xem kẽ nhau bao kín quanh hoa văn chữ X ở giữa. Các băng hoa văn hình học, ngoài hoa văn chấm dải và vòng tròn tiếp tuyến, còn gặp hoa văn xương cá, văn hoa thị, nổi đậm là bảng hồi văn gấp khúc chữ nhật ở giữa và nhọn góc, ở các góc có hoa văn động vật với đề tài duy nhất thể hiện các cặp cá sấu cách điệu. Ở những chiếc có 2 vành hoa văn cá sấu thì vành ngoài lớn hơn thường khắc họa tới 8 cặp, còn vành đơn hay vành trong bao giờ cũng có 4 cặp (xem hình 6a).
Về nhận định cho rằng các tấm đồng nói trên dùng để che ngực phòng vệ hoặc dùng làm đồ trang sức, chúng ta có ý kiến khác.
Thường, chúng ta vẫn định kiến cho rằng con người ngày nay thông minh hơn con người cổ đại, trí não ngày nay, xét về mặt thuần túy tư duy, sắc sảo hơn trí não cổ đại. Có thể là như thế, song nếu đặt trên cùng một bình diện kiến thức thì chắc gì chúng ta đã suy nghĩ sâu sắc hơn họ? Vì được sống ở một trình độ văn minh cao hơn, người ta, phần đông vô tình hay hữu ý đều có cái nhìn “bề trên” đối với những tộc người được phát hiện đâu đó trong rừng sâu, núi thẳm trong tình trạng gọi là tách biệt với thế giới văn minh, thấy ở họ chỉ là sự ngu muội, dã man… Thực dân châu Âu khi xâm chiếm châu Mỹ đã nhìn những tộc người da đỏ bằng cặp mắt như thế. Thực dân Pháp khi tiến hành xâm lược Việt Nam cũng từng nhìn dân tộc Việt bằng cặp mắt như thế. Những người thợ đúc đồng ngày nay với những công cụ và phương tiện của người Đông Sơn, chắc gì đã đúc được những chiếc trống đồng với hệ thống hoa văn tinh xảo hơn trống đồng Ngọc Lũ?
Suy nghĩ trên tinh thần đó, cũng như quan sát trên những di tích, di vật còn lưu lại được của nền văn hóa Đông Sơn, chúng ta có cảm nhận là con người Việt cổ thời kỳ Hùng Vương đã có được nhận thức tinh tế về thẩm mĩ, và nếu như thế thì không ai lại đeo vào người hoặc buộc gắn vào quần áo những tấm đồng đó (có tấm dài “thậm thượt” đến hơn 80 cm) để làm đẹp cả. Cũng không phải dùng chúng làm tấm che ngực; bởi vì với độ cứng của đồng thau thì các cạnh do chỉ mỏng có 0,1 cm sẽ trở thành những lưỡi dao sắc và các góc trở thành những đầu nhọn sắc dễ gây thương tích, vướng víu trong vận động chiến đấu cho những người đeo chúng, hơn nữa với những bề rộng chỉ khoảng trên dưới 14 cm thì tác dụng che chắc là hạn chế và muốn khắc phục hạn chế đó, phải đeo lên mình một lúc nhiều tấm; nghĩa là làm cho cơ thể phải mang một khối lượng không nhỏ. Trong khi đó, việc dùng những tấm chắn bằng gỗ, bằng tre nứa đan, ghép lại có thể tỏ ra hữu hiệu và tiện lợi hơn trước các loại vũ khí còn thô sơ thời ấy.
Nhưng nếu không mang chức năng trang sức hay hộ vệ thì những tấm đồng có khắc họa hoa văn phải nói là công phu ấy được chế tác ra để làm gì? Về những tấm đồng hình chữ nhật, có thể chúng là những bài vị, bản văn viết bằng chữ dây thắt nút mang những nội dung có tầm quan trọng nhất định, cần được lưu giữ lâu dài, chẳng hạn như sắc phong của vua, chiếu chỉ của vua, “sách” dạy binh pháp, diễn giải nội dung hàm chứa bên trong khung chữ nhật trung tâm mà nội dung đó có vẻ nói về những vấn đề liên quan đến số lượng (chưa hẳn là những người hóa trang lông chim đang chèo thuyền) hay liên quan đến sóng nước, mưa nắng, thủy triều…
Với trình độ khắc họa đã khá tinh luyện thể hiện trên các đồ vật bằng đồng khác hoặc trên ngay chính những tấm chữ nhật ấy mà trong khung chữ nhật trung tâm, các đường khắc vạch, đường cong lại được thể hiện có vẻ vụng về, lộn xộn, cũng hình thành nên các phần giống nhau về hình thức nhưng số lượng đường vạch ở mỗi phần là không đồng nhất, cho thấy việc làm đó là có chủ ý khác thường. Biết đâu chừng hệ thống các đường vạch trong khung chữ nhật trung tâm hàm chứa một nội dung nào đó bằng loại chữ dùng dấu chấm và vạch, mà tiền thân của chữ này là chữ sắp xếp bằng các dây thắt nút, và hai hàng chữ bên ngoài (cách điệu từ dây thắt nút, đã được cải tiến cho tiện dụng hơn) là những dòng diễn giải thông dịch?...
Còn về những tấm hình vuông, chúng có thể đóng vai trò như những chiếc “ấn” xác nhận vai vế, quyền lực của những người thừa hành trong chính quyền trung ương (Hùng Vương) - những quan lại, tướng lĩnh…, mà cũng có thể chúng đơn giản chỉ là những tấm bùa hộ mệnh được gán cho cái chức năng trừ tà ma, xua đuổi thuồng luồng, thú dữ…
Như đã nói, điểm chung nhất trong bài trí, sắp xếp bố cục hoa văn ở những tấm đồng hình vuông này là hoa văn chữ X luôn xuất hiện và nằm ở vị trí trung tâm. Một điểm chung nữa, có để ý mới thấy, là cách bài trí sắp xếp đó mang tính đối xứng về đại thể nhưng bất đối xứng về tiểu tiết (tương tự như trường hợp trống đồng Ngọc Lũ). Ngay bản thân hoa văn chữ X cũng vậy, nó đối xứng qua trục mà không đối xứng qua tâm, hơn nữa có thể nói nó “trái ngược” qua tâm, hay “nghịch đảo” qua tâm. Cuối cùng, còn một điểm chung nổi bật là các khối mảng hoa văn thường biểu hiện tính cặp (như cặp cá sấu, cặp trống đồng, hoa văn chữ X được coi như là cặp chữ C…).
Sự thể hiện hoa văn chữ X ở trung tâm như là một sự bắt buộc đối với tất cả các tấm đồng hình vuông nói trên (thậm chí có những tấm chỉ thể hiện nó mà không cần thể hiện các hoa văn khác) đã nói lên tầm hết sức quan trọng của nó trong suy nghĩ của người Việt cổ thời Hùng Vương. Vậy thì hoa văn chữ X mang ý nghĩa trọng đại gì, hay là biểu trưng về điều thiêng liêng gì?
Trên một lưỡi cày đồng thời Đông Sơn (minh họa ở hình 5c), người ta thấy ở 2 vị trí đối xứng nhau qua đường trục lưỡi cày, có khắc 2 họa tiết lần lượt như sau:
                         
Trong khi một hình là đường tròn (kín) thì hình kia là 2 nửa đường tròn “áp lưng” vào nhau. Rõ ràng đó là hai hình, về vị trí là đối xứng nhau nhưng về hình dáng là trái ngược nhau. Chúng ta tạm gọi đó là hiện tượng đối xứng nghịch đảo (dù không đúng tí nào!). Sự đối xứng nghịch đảo còn được thấy rất nhiều trên mặt đồ gốm, đồ đồng thời Phùng Nguyên cho đến Đông Sơn. Người việt cổ từ rất lâu đã ưa thích những họa tiết hoa văn có dạng đối xứng nghịch đảo như:
  
Và cách sắp xếp bài trí đối xứng trên đại thể nhưng bất đối xứng ở chi tiết.
Chúng ta cho rằng mọi hình trang trí, mọi sự bài trí hoa văn đều mang tâm tư, tình cảm của người thực hiện chúng, và một khi việc sử dụng những họa tiết, những cách thức bài trí hoa văn lặp đi lặp lại một cách phổ biến toàn xã hội thì chúng cũng chính là  sự biểu hiện tư tưởng, quan niệm của con người thời đại đó về thế giới khách quan.
Tóm lại, chúng ta dông dài nãy giờ chỉ nhằm muốn nói lên ý này: từ rất lâu trong thời gian, người Việt cổ đã quan sát được một hiện tượng đặc trưng và phổ biến của thiên nhiên, đó là sự phân ly tương phản đồng thời với hợp thành thống nhất, nhờ có tương khắc đồng thời với tương sinh mà có tàn lụi và sinh nở, có cái chết và sự sống, thời gian trôi đi cho thiên nhiên xoay vần. Từ đó làm hình thành nên cái quan niệm hết sức đặc sắc và nói chung là đúng đắn về thế giới khách quan, mà có tính cơ bản, cốt lõi, nền tảng là quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp. Lưỡng phân là phân đôi nhưng phân đôi ở đây không phải là phân chia ra thành hai phần bằng nhau một cách cơ học mà phân ra thành hai tương phản, trái ngược nhau như (người) đực (người) cái, (mùa) hạ (mùa) đông… Do bị tương khắc mà những thứ trái ngược nhau gặp nhau sẽ hủy diệt nhau. Nhờ có tương sinh mà có những cặp vừa giống nhau vừa trái ngược nhau. Sự trái ngược làm cho chúng cần đến nhau và sự giống nhau làm cho chúng tác hợp được với nhau theo từng cặp gọi là tương hợp. Lưỡng hợp làm cho sự sống được duy trì và sinh sôi nảy nở.
Quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp đã in đậm vào tâm trí người Việt cổ và bộc lộ ra rõ rệt trong trang trí hoa văn. Một trong những bộc lộ ấy là sắp xếp và trình bày hoa văn theo lối đối xứng nghịch đảo. Gọi đối xứng nghịch đảo là không hợp lý, cho nên chúng ta gọi lại là “đối ứng tương phản”. Đối ứng tương phản là trường hợp phổ biến của Tự Nhiên và sự đối xứng (lệ thuộc rất nhiều vào sự qui ước!) chỉ là trường hợp riêng của đối ứng tương phản. Vậy, hai hình  và  chính là 2 tương phản đối ứng của nhau. Nếu hình tượng trưng cho quả trứng, có ý nghĩa như đóng kín, sự sống chưa thành hình, sau này có thể còn thêm nghĩa là mái, cái, thì hình  cũng tượng trưng cho quả trứng nhưng có nghĩa ngược lại là mở ra, nở ra, sự sống đã thành hình (gà con, vịt con…), sau này có thêm nghĩa là trống, đực. Thêm nữa, vì chỉ chú ý đến sinh nở thôi nên  là quả trứng, nghĩa là không có gì, còn là quả trứng đã nở ra (ra gà con chẳng hạn) nên có nghĩa là đã có, hay đó chính là cặp mang khái niệm tương phản Có - Không có, hoặc Đóng - Mở.
Mê man suy diễn tiếp, như vậy, trứng nở là từ “vô” mà sinh “hữu”. Nhưng trứng từ đâu ra? Từ gà mẹ lưỡng hợp với gà trống mà ra. Gà mẹ và gà trống từ đâu ra? Từ sự sống ra. Sự sống từ đâu ra? Từ hoa lá cỏ cây ra. Còn hoa lá cỏ cây? Từ Đất ra. Đất từ đâu ra? Từ cái vĩ đại, mênh mông, cao vời thăm thẳm, cái bao trùm lên tất cả, cái sinh ra tất cả và chẳng còn cái gì sinh ra được nó (ngoài Tự Nhiên), sinh ra. Cái đó còn được gọi là cái Hằng Cửu hay Trời!
Khi Trời chưa sinh ra Đất thì Trời là Vô, khi Trời đã sinh ra Đất thì Trời là Hữu. Trời là vô của mọi cái vô nên gọi là vô cực, là hữu của mọi cái hữu nên gọi là thái cực. Vậy Trời là tất cả, là thiêng liêng nhất và uy quyền nhất, là vô cực mà cũng thái cực, là ngọn nguồn sinh ra Đất. Đất nhờ có Trời, lưỡng hợp với Trời mà tạo ra thiên nhiên xoay vần, sinh ra cỏ cây vạn vật và con người.
Quả trứng đã nở () là hữu đối với quả trứng chưa nở () và là vô đối với gà con mới được sinh thành, do đó nó cũng vừa là hữu vừa là vô, và là “bà đỡ” cho sự sống ra đời nên nó cũng có tính thiêng liêng đầy quyền uy. Nó giống Trời nhưng là con của Đất nên không thể bằng Trời mà chỉ có thể, giỏi lắm, là con của Trời - Đất, hay còn gọi là con Trời - Thiên tử.
Hình , nếu được nhìn ở góc độ khác, hoặc xoay nó một góc 90o, chính là hình chữ , tiền thân của hoa văn chữ X thể hiện ở trung tâm các tấm đồng hình vuông. Nếu quả đúng thực như vậy thì hoa văn chữ X là sự biểu trưng của sức mạnh, uy quyền. Người nào được trao tấm “ấn” hình vuông sẽ trở thành người có quyền lực. Nếu tấm “ấn” hình vuông là biểu hiện một cương vực lãnh thổ nhất định thì người có nó chính là quan đầu lĩnh của khu vực đó. Nếu mặt của tấm hình vuông được coi là nước Văn Lang thì hoa văn chữ X được coi như Hùng Vương, có quyền uy tối thượng sau Trời - Đất, là cha của muôn dân nhưng là con của Trời (Thiên tử). Nếu mặt của tấm vuông được coi là Đất thì hoa văn chữ X chính là Mặt Trời (đời sau gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế), đấng thiêng liêng có quyền uy vô địch, và khi Trời, Đất hợp nhau thì sẽ tạo ra sự xoay vần của thiên nhiên theo chu kỳ hàng năm, mà một năm gồm 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông và 8 tiết khí gọi là “tứ thời bát tiết” hay mượn cách gọi của người Trung Hoa là “Tứ tượng, Bát quái” (xem hình 6b).
Phải chăng người Trung Hoa đã tiếp thu cái quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp, đối ứng tương phản về thế giới cùng với những cách thức biểu đạt, diễn tả trong khắc họa của người Việt cổ, rồi từ đó cùng với những sáng tạo mới hết sức độc đáo của riêng họ như: khái niệm âm - dương, ký hiệu âm dương bằng vạch liền, vạch đứt, khái niệm lưỡng nghi, tương sinh, tương khắc… mà mở rộng hơn nữa về ý nghĩa và ứng dụng, vượt ra ngoài cả các nội dung ban đầu của nó là nhận thức tự nhiên, để có được một Kinh Dịch vô tiền khoáng hậu?
Nhìn đồ hình Bát quái của người Trung Hoa (hình 7), chúng ta không cưỡng nổi ý nghĩ rằng nó có xuất xứ từ hình 6b. Trong tiếng Trung Quốc, “quái” là từ “quải” mà ra, có nghĩa là treo, cái dùng để treo, người Trung Quốc và người Việt Nam thường treo hình Bát quái trên mặt tiền nhà ở để trừ tà. Có lẽ tập tục này đã có từ thời Hùng Vương với miếng bùa được treo là tấm đồng hình vuông như hình 6a và 6b?
Hình 7: Đồ hình Bát Quái
Những hoang tưởng vừa rồi thật kỳ quặc, nhưng kỳ quặc nhất vẫn là hoang tưởng sau đây. Nếu đặt hình 6a và 6b cạnh nhau mà quan sát một cách thật chăm chú, mắt chúng ta sẽ đột nhiên mờ đi, không còn thấy điều gì khác ngoài một màu nền trắng mịn như ngà, trên đó ảo huyền, nổi lên một màu xanh biếc như ngọc, và bên tai chúng ta văng vẳng tiếng vọng về từ đâu đó trong âm u ngàn xưa mà qua thần giao cách cảm hình như là mách bảo: “Các con thấy chưa? Đó chính là hồn vía của Hà Đồ, Lạc Thư, hai trang của pho sách đá bất hủ mà tổ tiên dân tộc Việt đã sáng tác ra được! AUM!”.
Sau khi hồi tỉnh lại, chúng ta không bao giờ nghi ngờ về điều đã chiêm nghiệm. Nếu ở hình 6a toát lên cái hồn vía của Hà Đồ, thì ở hình 6b toát lên cái hồn vía của Lạc Thư.
Yêu cầu của cuộc sống sẽ tự nhiên đưa con người nguyên thủy đến với sự đếm và tính toán. Sự đếm và tính toán dựa trên các ngón tay đã làm xuất hiện “bản cửu chương” Hà Đồ. Sau khi việc tính toán theo chỉ dẫn của “bản cửu chương” đã trở thành “quá dễ”, không cần thuộc cũng nhẩm ra kết quả một cách nhanh chóng như một bản năng thì công dụng tính toán của Hà Đồ cũng mất đi. Nó chỉ còn như một kỷ niệm. Tuy nhiên do tính hợp lý tự nhiên trong cách sắp xếp của nó mà theo nguyên lý tương tự, nó cũng phản ánh được phần nào nét cơ bản của thiên nhiên và sự vận hành của thiên nhiên. Một nhà thông thái nào đó đã có sáng kiến dùng Hà Đồ để mô tả, lý giải tính lưỡng phân lưỡng hợp, đối ứng tương phản của thiên nhiên. Rồi sau đó, một nhà thông thái khác thấy như thế là chưa đủ, bèn nảy ra sáng kiến xoay đi một chút theo cách đặc biệt, sắp xếp lại “hàng ngũ” một chút và làm Hà Đồ “biến tướng” thành Lạc Thư, trên cơ sở Lạc Thư mà tiếp tục mô tả, lý giải các hiện tượng thiên văn, địa lý cũng như sự chuyển vận của thiên nhiên trong khoảng Trời - Đất.
Nhiều khả năng pho sách đá Lạc Thư (gồm hai “trang” Hà Đồ - Lạc Thư) xuất hiện đâu đó trong thời Phùng Nguyên, thời đại mà kỹ thuật chế tác đá đã đạt đến tinh xảo, đủ khả năng tạo nên một báu vật có một không hai của tổ tiên dân tộc Việt. Đến lúc đó chắc rằng chức năng “dạy” tính toán của Hà Đồ đã bị quên lãng từ lâu mà chỉ còn chức năng, cùng với Lạc Thư, “luận về chuyện Trời - Đất”. Nếu thế thì thời điểm ra đời của Hà Đồ còn sớm hơn rất nhiều, có thể là trước cả thời điểm ra đời của dây thắt nút một khoảng thời gian dài. Lúc đầu, có thể chỉ khi cần tính toán, người ta mới lấy những hòn sỏi viên đá ra sắp xếp Hà Đồ. Sau người ta dùng dây thắt nút để sắp xếp, sau nữa thì dùng những chuỗi hạt đá. Khi không còn chức năng tính toán số lượng nữa và Lạc Thư đã xuất hiện, người ta đã cố định hình dáng chúng lên mặt đất sét nung với những dấu tròn biểu thị hạt đá.
Nói riêng về cụm gồm 5 đơn vị ở trung tâm Hà Đồ cũng như Lạc Thư. Thuở sơ khai, đó chỉ là một túm hỗn độn, ngẫu nhiên. Dần dần, theo quan niệm thẩm mỹ và nhận thức tự nhiên mà nó được thể hiện một cách có trật tự theo dạng này hay dạng khác, để rồi cuối cùng thành hình hoa văn chữ X cách điệu trên các tấm đồng hình vuông, như chúng ta thử trình bày dưới đây:
Nếu trên trống đồng Đông Sơn, chúng ta không thấy xuất hiện hình hoa văn chữ X ở trung tâm trống đồng thì đơn giản chỉ có thể là chúng đã ra đời trước thời điểm ra đời của trống đồng và đến thời trống đồng Đông Sơn thì những hình hoa văn chữ X ấy chỉ còn đóng vai trò đơn thuần là… hoa văn, và ý nghĩa của chúng chỉ còn “phục vụ” trong phạm vi bùa chú, trừ tà, chiếu yêu mà thôi. Hoặc cũng có thể là chúng ta đã đoán sai một chi tiết. Có thể chính hình  mới mang ý nghĩa là: cái, mái, đàn bà… chứ không phải hình , và các tấm hình vuông đó ra đời vào thời kỳ mà xã hội vẫn còn tồn tại phổ biến chế độ Mẫu quyền. Sau này, đến thời trống đồng, chế độ Phụ quyền mới phổ biến nổi trội hẳn.
Nghề đúc đồng, chỉ sau khi biết cách chế tạo ra các hình thể tròn xoay thì trống đồng mới ra đời. Lúc này, để biểu thị cái quyền uy vô biên của Trời đã cụ thể hóa bằng Mặt Trời. Mặt Trời đóng vai trò Thiên sứ đến cai quản, điều hành thiên nhiên. Mọi biến động vĩ đại trên mặt đất này đều do thần Mặt Trời gây ra cả cho nên để có một cuộc sống may mắn, an lành, con người phải khiêm cung thờ phụng vị thần thiêng liêng số 1 ấy (tuy nhiên cũng phải thờ phụng, cúng kiếng những vị thần khác như thần núi, thần sông, thần nước, thần lửa… nhưng tất cả những vị thần này đều đứng dưới thần Mặt Trời, đều là sứ giả do thần Mặt Trời phái đến thế gian, và vua cố “chen chân”, tự nhận mình cũng là một sứ giả được thần Mặt Trời phái đến trị vì thiên hạ).
Cho dù hình hoa văn chữ X, thứ một thời là biểu trưng cho uy quyền tối cao, là “tâm điểm” diễn giải sự lưỡng phân lưỡng hợp, tính đối ứng tương phản của thực tại, không được thể hiện trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, song hệ thống hoa văn với lối bài trí sắp xếp đối xứng qua tâm về đại thể nhưng bất đối xứng ở tiểu tiết một cách có dụng ý, vẫn bảo lưu cái quan niệm truyền thống về một thế giới tương phản đối ứng, lưỡng phân lưỡng hợp, phân ly để thống nhất và thống nhất để sinh thành.
Trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, xen kẽ với những vòng tròn hoa văn hình học là 3 vành hoa văn người - vật. Chắc chắn nhiều thông tin còn chưa biết về nội dung cũng như ý nghĩa của trống đồng Ngọc Lũ ẩn chứa ở 3 vành hoa văn đó. Chúng ta sẽ quan sát chúng và cố đưa ra một vài ý kiến có tính nghi vấn. Nhưng trước tiên, chúng ta sẽ xem xét lần nữa vùng hình tròn trung tâm, nơi nổi lên ngôi sao 14 cánh.
Nếu các cánh sao chỉ là tượng trưng cho những tia sáng rực rỡ của mặt trời (hay là của ngôi sao đêm nào đó) thì tại sao lại cần phải thể hiện ra nhất thiết có 14 cánh? Trên đồ gốm của cư dân tiền Đông Sơn, người ta đã thấy cách sắp xếp họa tiết hoa văn lặp lại, chạy kín khắp một vòng tròn quanh vật thể, chiếm đúng 6 khoảng bằng nhau. Điều đó cho thấy, ngay từ buổi đó người Việt cổ có thể đã phát hiện được bán kính một đường tròn bằng dây cung của 1/6 đường tròn. Vậy tại sao trên trống đồng Ngọc Lũ, họ không chọn thể hiện ngôi sao 12 cánh cho dễ dàng hơn? (Chia đường tròn thành 14 khoảng bằng nhau với thước kẻ và compa là một điều khó khăn, mà chia được chính xác là điều bất khả!).
Chúng ta nhớ lại: theo sử cũ thì nước Văn Lang được chia làm 15 bộ, nghĩa là gồm 15 khu vực lãnh thổ tương đối độc lập với nhau, hợp thành theo thể chế liên minh, trong đó, bộ Văn Lang mạnh nhất, nắm quyền lãnh đạo (minh chủ). Tuy nhiên, có điều lạ là trong 15 bộ ấy, có 14 bộ có “địa chỉ” rõ ràng, riêng bộ có tên gọi là Bình Văn thì không biết nằm ở đâu. Hay là thực ra chỉ có 14 bộ thôi, bộ mang tên Văn Lang chính là bộ Bình Văn còn Văn Lang là tên của đất nước gồm 14 bộ, người đời sau ngộ nhận cho là Hùng Vương chia nước thành 15 bộ?
Cứ tạm cho rằng nước Văn Lang thời xuất hiện trống đồng Ngọc Lũ là gồm 14 khu vực lãnh thổ hợp thành thì đó là do tồn tại thực tế trước đó và Hùng Vương thần phục, thừa nhận, hay chính Hùng Vương là người đã phân chia địa phận cho các lạc tướng - trưởng bộ lạc độc lập cai quản (gọi là bộ lạc nhưng thực ra đã là khu vực dân cư gồm một vài hay nhiều tộc người sống chan hòa)? Theo chúng ta thì sự hình thành nên 14 bộ là do nhân tạo. Hùng Vương phân chia như vậy là tùy tiện hay có chủ ý?
Trong quá trình luận giải, minh chứng cho cái quan niệm về tính lưỡng phân lưỡng hợp của thế giới, người Việt cổ xưa đã sáng tạo ra đồ hình Lạc Thư và cho đó là “tượng Trời”. Trời là cao cả, phi thường và tối thượng uy linh, vì thế mà “tượng Trời” cũng thể hiện ra những điều, đối với người xưa là huyền bí, thiêng liêng.
Chúng ta đã quá quen thuộc Hà Đồ, Lạc Thư. Nhưng ở đây, để cho câu chuyện diễn tiến thuận lợi hơn, chúng ta sẽ tái hiện chúng dưới dạng “kỹ thuật số” ở hình 8. (Nhân tiện, với hệ thống được cho là ký hiệu số thời Hùng Vương ở hình 5d và thêm ký hiệu , chúng ta cũng thể hiện Lạc Thư như ở hình 8d)
Trước đây, chúng ta có suy diễn rằng Hà Đồ là hình tượng của Trời - Đất lúc chưa phân. Nhưng có lẽ điều suy diễn đó không đúng. Nếu Lạc Thư được cho là “tượng Trời” thì Hà Đồ chính là “tượng Đất”. Từ tượng Đất mà có thể sinh ra tượng Trời và ngược lại từ tượng Trời có thể sinh ra tượng Đất. Tuy nhiên chúng là hai thể lưỡng phân tương phản của nhau, giống nhau về tượng số, cùng nhận tượng số 5 làm Thái cực, làm cái căn cốt sinh thành của chúng, và tổng lực lượng của mỗi thể đều là 45 (bằng nhau về lực lượng).
Cái quan niệm Trời và Đất bằng nhau về lực lượng thật là đáng ngờ, khó lòng thuyết phục được ai vì trực giác mách bảo Đất là lớn nhưng Trời còn lớn hơn, bao trùm cả Đất. Vậy thì 45 không hẳn là lực lượng của riêng Đất mà tạm cho rằng nó còn phải hàm chứa lực lượng của vạn vật, muông thú, trong đó có cả con người (lực lượng này là tạo tác của chung Trời - Đất và thực ra, tất cả, kể cả Đất đều do Trời sinh ra). Cách lý giải này cũng chưa ổn lắm. Nhưng thôi, hãy tạm hiểu và nếu ai đó thắc mắc thì chúng ta sẽ gân cổ hét lên không ngần ngại: “Trời sinh ra thế đấy!”.
Hình 8: Hà Đồ, Lạc Thư “cách điệu”
Dù sao thì chúng ta chẳng quan tâm lắm tới điều nói trên mà là điều này: trên Lạc Thư hình tròn 8b có một hiện tượng đặc biệt là tổng các số nằm trên một đường kính (kể cả số 5 ở trung tâm) luôn bằng 15. Lạ lùng hơn nữa, nếu sắp xếp Lạc Thư theo dạng hình vuông (hình 8c) thì tổng các số theo bất cứ hàng cột nào hay đường chéo qua tâm hình vuông đều bằng nhau và cũng bằng 15. (Trong toán học, người ta gọi cách sắp xếp các con số có tính chất như vậy là ma phương. Hình vuông như vậy gọi là hình ma phương và Lạc Thư chính là ma phương nhỏ nhất. Tuy nhiên, nếu cho phép số nguyên âm xuất hiện trong ma phương thì ta có thể trừ tất cả các số của hình 8c cho 5, ta sẽ làm xuất hiện một bóng ma thực thụ ở hình 8e. Đó là một ma phương chỉ có linh hồn chứ không có thể xác, vì tổng các số theo hàng, cột, hàng chéo đều bằng hư vô - số 0). Chính sự lạ lùng đó đã toát lên cái vẻ huyền bí huyn hoặc của tượng Trời - Lạc Thư đối với người xưa và cả đối với chúng ta nữa. Bởi vì không phải người ta ngay từ đầu đã có chủ đích đi tìm một hình như thế mà là từ sự tìm tòi cách sắp xếp hợp lý cho Hà Đồ. Quá trình tìm tòi đó chính là quá trình thống nhất giữa quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp, tương phản đối ứng về thế giới khách quan (vốn dĩ là đúng đắn) với bản chất tự nhiên của số đếm cũng như sự biến đổi, chuyển hóa có tính bảo toàn, hiển nhiên, “hợp đạo lý” giữa chúng với nhau. Sự thống nhất đó đã tác thành nên một Hà Đồ độc nhất vô nhị, vừa cân đối, vừa hài hòa, vừa cực kỳ sinh động, như vốn dĩ phải thế chứ không thể khác. Hà Đồ đẹp như vậy nên Lạc Thư (được suy diễn ra từ Hà Đồ) cũng thật là đẹp bởi cũng mang cái bản chất hợp lý, cũng như một thực thể đầy biến hóa, cân bằng trong sống động xoay vần đến vĩnh viễn đồng thời lại như bất biến, hằng cửu. Hiện tượng ma phương của Lạc Thư cứ như là một hiện tượng tình cờ “chẳng ai muốn” vậy và nhờ thế mà con số 15 trở nên thiêng liêng. Nó được cho là số lượng biểu trưng đặc tính của tượng Trời và vì Trời sinh ra Đất nên cũng là biểu trưng đặc tính của Trời - Đất.
Tượng Trời còn có một đặc tính khác thường nữa. Số 5 ở trung tâm Lạc Thư là Thái Cực mà cũng chính là cái căn cốt của tượng Trời, tượng Đất. Nếu đem nó nhân với số 3 sẽ sinh ra con số 15 thiêng liêng:
5 x 3 = 15
Lấy số thiêng liêng nhân với 3, sẽ ra lực lượng của tượng Trời:
15 x 3 = 45
Lực lượng đó cũng chính là Thái Cực nhân với 9:
5 x 3 x 3 = 5 x 9 = 45
Ở hình tượng Hà Đồ cũng bàng bạc con số 15. Nếu chúng ta giả sử rằng Thái Cực 5 ở Hà Đồ bây giờ ám chỉ con người và tổng các số trên đường tròn phía trong (bằng 10 đơn vị) là vạn vật muông thú thì tổng của vạn vật muông thú và người chính là bằng 15 (nghĩa là 1+2+3+4+5=15). Vậy lực lượng của riêng Đất thôi là tổng các số trên đường tròn ngoài và bằng 30. Với giả sử này, ta thể hiện một tượng Đất giống tượng Trời ở hình 9a.

Hình 9: Hà Đồ “rút gọn” và tượng Trời - Đất
Ta thấy tổng các cặp số đối ứng qua tâm đường tròn (không tính số 15 ở trung tâm) đều cho ra con số 15 và tổng các số có trên đường tròn cho ra số 30. Rõ ràng nếu nhân đôi số 15 sẽ cho ra lực lượng của Đất:
15 x 2 = 30
Phải chăng cái ý tưởng số Đất là 2, số Trời là 3 xuất phát từ việc nhân số thiêng liêng với số 2 hoặc 3:
15 x 2 = 30 = lực lượng của Đất (khi đứng phân ly)
15 x 3 = 45 = lực lượng của Trời (khi đứng phân ly)
Chúng ta có thể tổng kết thế này: 5 là tượng trưng con người (còn gọi là (chúng ta đặt) số tiểu diễn của Trời).
5 x 2 = 10 là tượng trưng của vạn vật, muông thú (gọi tắt là vạn vật)
5 x 3 = 15 là số thiêng liêng của Trời và cũng là lực lượng vạn vật, và người
15 x 2 = 30 là tượng trưng cho Đất
15 x 3 = 45 là tượng trưng cho Trời
Nếu chia tất cả vế phải cho 5 ta được dãy số:
1, 2, 3, 6, 9 (Cộng năm số đó lại được số 21. Chia số 21 cho 3 ta được số 7. Cộng 21 với 7 ta được số 28. Chia số 28 cho 2 ta được số 14 - là số cánh của ngôi sao trung tâm trên mặt trống đồng Ngọc Lũ).
Số 1 là tượng trưng cho sự bắt đầu, chỉ Thái Cực mà cũng tượng trưng cho người, nên con người cũng giống Trời, tuy nhỏ nhoi hơn, được gọi là con Trời và tự vỗ ngực ta đây là… tiểu Vũ Trụ).
Có thể cái hình tượng ở hình 9a đã khơi gợi ý tưởng cho các nhà thông thái Việt cổ (chắc là uyên thâm, giàu trí tưởng tượng hơn NTT của chúng ta!) tạo tác nên hình tượng đầy công phu, sắc sảo và thật là tươi sáng, đẹp đẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, vừa đóng vai trò là biểu tượng của đất nước Văn Lang hùng cường, an thái, vừa là nơi gửi gắm quốc hồn quốc túy ngàn đời của một thời khai mở, tạo dựng và thăng hoa lên văn minh của một nền văn hóa có lịch sử xuyên suốt, liên tục từ rất sâu trong tối cổ.
Đất và Trời ở trạng thái lưỡng phân là tượng Đất, tượng Trời “đứng” tách biệt thành 2 thể tương phản đối ứng. Khi lưỡng hợp, chúng tạo nên sự vận động biến hóa không ngừng của vạn vật hiện tượng. Trong thực tại, Trời và Đất tỏ vẻ lưỡng phân nhưng không tách biệt hẳn thành hai thể độc lập như mô tả ở hình 8a+b, tỏ vẻ lưỡng hợp nhưng không thành khối hỗn độn hay “hòa tan” vào nhau.
Lưỡng phân rồi lưỡng hợp, lưỡng hợp rồi lưỡng phân, phân phân hợp hợp là quá trình tự nhiên của vạn vật, là nguyên nhân làm cho vạn vật biến biến hóa hóa thành muôn hình vạn trạng và không ngừng đến bất tuyệt. Trời và Đất cũng thế, phân rồi hợp, hợp rồi phân, phân mà hợp, hợp mà phân. Theo quan niệm người xưa, thoạt kỳ thủy, Trời và Đất chưa phân, chỉ là một thể hỗn mang, Trời Đất trộn lộn làm một. Thế rồi trong cõi tối tăm, mịt mùng, không đầu không cuối ấy, kết tụ một Thái Cực thúc đẩy một năng lực vĩ đại: Ông Đùng. Ông Đùng vươn vai đứng dậy, đạp Đất đội Trời, đắp đá thành cột trụ chống Trời. Từ đó Đất và Trời lưỡng hợp trong trạng thái lưỡng phân, bộn bề trở nên trật tự, tươi sáng, vạn vật đâu vào đấy. Cỏ cây, muông thú, loài người lần lượt được Đất sinh ra và dung dưỡng…
Chắc rằng sau khi đã có tượng Đất, tượng Trời, thì người xưa sẽ nảy ra băn khoăn: tượng của Đất, Trời hợp nhất trông như thế nào? Một nhà thông thái Việt cổ đã có sáng kiến “trộn” tượng Trời và tượng Đất làm một để cho ra tượng Trời - Đất lúc chưa phân (được mô tả ở hình 9a) và cả tượng Trời - Đất sau khi đã “lưỡng phân lưỡng hợp” (được mô tả ở hình 9c).
Hình 9b cho thấy, khi Trời - Đất chưa phân, đúng là hỗn độn thật, chẳng biết đâu là Trời và đâu là Đất. Chỉ biết rằng tổng số lượng trên vòng tròn ngoài là 70, trên vòng tròn trong là 10 và ở trung tâm (vị trí Thái Cực) cũng là 10. Do đó mà cũng biết được tổng lượng Trời - Đất là:
70 + 10 + 10 = 90
Khi Trời - Đất ở trạng thái lưỡng phân - lưỡng hợp (hình 9c), hình tượng của nó rõ ràng là “nề nếp”, sáng sủa. Vòng tròn ngoài cùng tượng trưng cho Trời, có tổng lượng là 50 (mà người Trung Hoa gọi là số đại diễn của Trời). Vòng tròn trong (được Trời bao bọc) tượng trưng cho Đất, có tổng lượng là 30. Vòng tròn nhỏ ở trung tâm (được Đất bao bọc) tượng trưng cho muôn vật (mà con người là đại diện) có tổng lượng là 10. Ba số đó có mối quan hệ:
10 + 30 = 40
10 + 40 = 50
10 x 3 = 30
10 x 5 = 50
Đem chia tất cả các vế cho số Đất (số 2), sẽ có:
5 + 15 = 20
5 + 20 = 25
5 x 3 = 15
5 x 5 = 25
Chia tiếp cho số tiểu diễn của Trời (số 5) để được một biểu diễn mới, có thêm một biểu diễn nữa, rồi lại nhân với 2:
                    
Nếu gọi số 1 là số Thái Cực (cũng là số tiểu diễn của Thái Cực) thì khi nó hợp với số Đất (số 2) sẽ cho ra số Trời (số 3 - chúng ta gọi thêm là số tiểu diễn của Đất); số Đất hợp với số Trời sẽ cho ra số Trời - Đất (số 5 và chúng ta gọi thêm là số tiểu diễn của Trời). Theo cách gọi qui ước như vậy thì số 9 chính là số tiểu diễn của Trời - Đất và số 90 là số đại diễn của nó (hay còn gọi là (số) lượng Trời - Đất).
Nếu gọi số 10 là số đại diễn của Thái Cực thì lượng Trời - Đất bằng số tiểu diễn của nó (số 9) tích hợp với số đại diễn Thái Cực (9 x 10 = 90)…
Nói chung, chúng ta có thể tung hứng đủ kiểu đối với những con số trên, nhưng sẽ chỉ gây ra những nhàm chán, nên chỉ xin nói thêm đôi điều mà chúng ta cho là rất đáng quan tâm.
Như vậy, những số: 1, 3, 5 (số tiểu diễn Thái Cực, Đất - Trời) đóng vai trò như mật mã thông tin, như cơ sở nền tảng, thiết yếu làm hình thành nên tượng số Trời - Đất. Đó là một điều huyền bí có nguồn gốc từ thực tại. Bàn tay năm ngón của con người đã làm nên vô vàn điều kỳ diệu và chính nó đã là xuất phát điểm làm nên Hà Đồ, cội nguồn của tất cả các hình tượng diễn tả Trời - Đất mà người Việt cổ xưa đã sáng tạo ra được. Phải nói rằng Hà Đồ vừa giản dị vừa cao siêu, vóc dáng tưởng nhỏ bé mà hóa ra thật là vĩ đại. Nó là biểu tượng tuyệt vời về sự thống nhất huyền bí giữa tư tưởng đầy ắp tính sáng tạo của con người và nguyên lý linh diệu của Tự Nhiên Tồn Tại. Con người đã may mắn được Tạo Hóa trao cho chiếc chìa khóa là bàn tay năm ngón (với 4 ngón 3 đốt, một ngón 2 đốt, gồm vị chi là 14 đốt) để có cơ hội biểu diễn nói chung là đúng đắn hình tượng và sự vận hành của Trời - Đất mà tổng quát hơn là của Thế giới Tự Nhiên, hay con người sở hữu bàn tay năm ngón là một định mệnh “bắt buộc”? Nếu là định mệnh phải như thế chứ không thể khác, thì cần phải tìm nguồn gốc của nó ở đâu đó rất sâu trong thế giới vi mô và thậm chí với ý nghĩa là một thực thể được hợp thành từ 5 yếu tố, thì đặc tính ấy có khả năng đã được thể hiện ra ngay từ thể nhỏ nhất của Vũ Trụ: hạt Không Gian.
Nếu cộng 3 số ấy ta có tổng là 9 - số tiểu diễn của Trời - Đất.
Vì số Trời - Đất là tổng hợp của số Trời và số Đất (5 = 3 + 2) nên khi “bớt” số Trời, sẽ có số Đất. Số Đất hợp với các số 1, 3, 5 sẽ được dãy số thiêng liêng mới: 1, 2, 3, 5. Tích hợp (nhân) tất cả các số đó với số Trời - Đất (số 5) rồi tổng hợp (cộng) lại sẽ có kết quả là số 55 (Kinh Dịch gọi số này là số Trời - Đất!).
Nếu lấy số Đất tích hợp với chính nó, sẽ xuất hiện số 4. Chúng ta gọi số 4 là số Phương Chiều của Đất hoặc của Trời, hay còn gọi là số tiểu diễn Không Gian và đặt thêm tên cho số 2 là số tiểu diễn phương chiều. Cộng 2 với 4 sẽ có 6 và được chúng ta gọi là số tiểu diễn phương chiều không gian của Đất hoặc của Trời khi chúng “đứng” riêng biệt. Nếu chúng ta cộng 4 với 4 (hoặc nhân 4 với 2) sẽ cho ra số 8. Số 8 là hỗn hợp các số phương chiều của Trời và Đất, đồng thời cũng là số đại diễn phương chiều của Trời hoặc Đất. Ở trạng thái “gắn bó” với nhau, Trời và Đất lưỡng phân mà cũng lưỡng hợp, do đó giữa chúng cũng có sự liên thông với nhau về mặt phương chiều. Vậy phương chiều của Trời hợp với phương chiều của Đất thông qua một cặp phương chiều chung, nghĩa là:
4 + 4 + 2 = 10,
và chúng ta gọi số 10 là số phương chiều không gian của Trời - Đất. Số phương chiều không gian của Trời - Đất còn có thể được tính ra bằng cách tổng hợp số phương chiều không gian của Trời (hay Đất) với số phương chiều không gian của Đất (hay Trời), nghĩa là:
6 + 4 = 10
Nếu cho rằng Tự Nhiên là cái còn lớn hơn cả Trời - Đất, thao túng cả Trời - Đất, thì số 10 (số đại diễn của Thái Cực, số phương chiều không gian của Trời - Đất) còn được gọi là số tiểu diễn của Tự Nhiên và số đại diễn của nó là:
10 x 10 = 100
Nếu không có phương chiều thì cũng không thể xác định được vị trí của Thái Cực. Vô Cực hiển nhiên thành Thái Cực là nhờ có phương chiều. Có thể thấy số tiểu diễn Thái Cực hợp với số tiểu diễn Phương Chiều sẽ tạo ra số tiểu diễn của Đất (số Trời):
1 + 2 = 3;
số tiểu diễn Phương Chiều hợp với số tiểu diễn của Đất sẽ tạo ra số tiểu diễn của Trời:
2 + 3 = 5
Đặc biệt, nếu hợp số tiểu diễn Không Gian với số tiểu diễn của Đất, hoặc hợp số tiểu diễn Phương Chiều với số tiểu diễn của Trời, chúng ta sẽ có được một số mới, rất ít xuất hiện:
4 + 3 = 2 + 5 = 7
Số 7 cũng chính là hợp của số 6 (tiểu diễn Phương Chiều Không Gian) với số 1 (tiểu diễn Thái Cực). Trong thực tại, nếu không có điểm gốc tọa độ thì phương chiều không gian cũng không được xác định, nghĩa là không có số 1 thì số 6 không thể hiện hữu và biến hóa được. Vậy, chúng ta có thể gọi số 7 là số tiểu diễn Không Thời Gian và có tính thiêng liêng.
Đến đây, chúng ta đã có thể thiết lập được một dãy số từ 1 đến 10 và gọi nó là dãy tiểu diễn, hay dãy cơ sở của thế giới khách quan “kỹ thuật số”. Dãy này có tổng bằng 55(!) và có thể phân nó thành 2 dãy chẵn lẻ (tương phản đối ứng) như sau:
1 + 3 + 5 + 7 + 9 = 25
10 + 8 + 6 + 4 + 2 = 30
(Thấy ngay: 25 + 30 = 55, hay 11 x 5 = 55)
25 là một số đặc biệt, là kết quả của số Trời - Đất (số tiểu diễn của Trời) tích hợp với chính nó (5 x 5 = 25), nếu nhân nó với số 2 ta sẽ có số đại diễn của Trời (lượng Trời). Một số tích hợp với chính nó còn gọi là tích hợp tự nó (bình phương). Điều huyền bí nhất là ở đây:
           
Là trường hợp đặc biệt của Định lý Pitago nổi tiếng: trong một tam giác vuông, tổng bình phương hai cạnh góc vuông bao giờ cũng bằng cạnh huyền bình phương).
Có thể phát biểu trường hợp độc nhất vô nhị của Định lý Pitago bằng lời như sau: tích hợp tự nó của số Trời (mà cũng là số tiểu diễn của Đất) cộng với tích hợp tự nó của số Phương Chiều (mà cũng là số tiểu diễn của Không Gian) sẽ bằng với tích hợp tự nó của số Trời - Đất (mà cũng là số tiểu diễn của Trời) hay là bằng với một nửa số đại diễn của Trời.
Nói thêm:
1 + 2 + 3 + 4 + 5 = 15
      2 + 3 + 4 + 5 = 14
            3 + 4 + 5 = 12
                  4 + 5 = 9
Tổng cộng: 55
Con số 55 làm chúng ta nhớ lại hình tượng Hà Đồ do Khổng An Quốc (cháu đời thứ 12 của Khổng Tử) lập ra. Tổng số các chấm tròn trên hình Hà Đồ đó cũng bằng 55 đơn vị với sự xuất hiện 2 hàng 5 chấm tròn nằm đối xứng qua cụm trung tâm.
Theo truyền thuyết Trung Hoa thì Hà Đồ xuất hiện từ thời Phục Hi. Mà thời Phục Hi thì có sách nói là ở khoảng thời gian 4.300 năm TCN và cũng có sách cho rằng ở khoảng 3.400 năm TCN. Dù sao thì điều có thể chắc chắn là Hà Đồ đã xuất hiện vào thời Thái cổ. Sự lưu truyền qua một thời gian khổng lồ (trong đó có một quãng mấy ngàn năm chưa có chữ viết) để đến được thời Khổng An Quốc (khoảng thế kỷ II TCN) mà không bị “tam sao thất bổn” mới là chuyện lạ! Có lẽ hình Hà Đồ và cả ý nghĩa triết học của nó (ý nghĩa toán học của nó thì đã mất từ lâu!) đã được Khổng An Quốc tiếp thu một cách “mang máng”, chủ yếu là suy ra từ hình tượng Lạc Thư (với cách sắp xếp, “may quá”, vẫn còn đúng), và cả từ sự suy diễn chủ quan như chúng ta vừa rồi, cũng như bị ám ảnh bởi con số 55 (cho là phải thể hiện hết số lượng đó trên Hà Đồ mới được gọi là đầy đủ?).
Theo Nguyễn Hiến Lê (trong “Kinh Dịch, đạo của người quân tử”) thì ngay cả người Trung Hoa xưa cũng không biết hình tượng Hà Đồ và Lạc Thư hồi mới xuất hiện ra sao. Người ta ước đoán rằng đến thế kỷ VII TCN đã không thấy bóng dáng chúng nữa. Không biết Khổng An Quốc đã căn cứ vào đâu mà dựng lại được hai hình đó. Có lẽ vì Lạc Thư là hình tượng xuất hiện muộn hơn nhiều so với Hà Đồ và là “tượng Trời”, đã từng là cơ sở để giải thích nhiều hiện tượng địa lý – thiên văn, nên nó cũng tồn tại đủ dài lâu để Khổng An Quốc, qua truyền khẩu dân gian cũng như qua những thể hiện đâu đó trên đồ gốm, đồ đồng thuộc hàng cổ vật còn lưu lại được đến thời đó, đã hình dung ra tổng số lượng các chấm tròn và cách phân nhóm, sắp xếp theo đúng hình tượng ban đầu. Còn đối với Hà Đồ thì chỉ còn là một sự truyền khẩu có nội dung mờ nhạt và chủ yếu là do Khổng An Quốc suy luận ra khi biết về đại thể, nó cũng gồm những nhóm chấm tròn có số lượng giống như Lạc Thư, để rồi ông mô tả lại nó dưới một hình tượng tạm gọi là “Hà Đồ bị dư 10 đơn vị” (xem hình minh họa dưới dạng “kỹ thuật số” ở hình 10b).
Hình 10: Hình tượng Hà Đồ theo Khổng An Quốc
Trong quá trình “tung hứng” các con số ở phía trên, chúng ta đã làm xuất hiện 2 cột số là:
                        
Đối với cột 1, nếu chúng ta không sắp xếp các số theo cột mà trên một đường tròn lần lượt là 5, 3, 5, 4 theo chiều kim đồng hồ thì sẽ làm xuất hiện ý tưởng sắp xếp Hà Đồ như Khổng An Quốc (xem hình 10a).
Chúng ta cũng có thể thao tác tương tự đối với cột 2.
Khổng An Quốc đã suy diễn như chúng ta hay thực sự đã quan sát thấy cách biểu diễn cột 1 theo đường tròn ở đâu đó?
Trong Kinh Dịch, ở phần Hệ từ truyện có viết: “Số của trời là 1, số của đất là 2, của trời là 3, của đất là 4, của trời là 5, của đất là 6, của trời là 7, của đất là 8, của trời là 9, của đất là 10”. (Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập).
Nhiều người cho rằng câu trên có thể đã được viết ra vào đầu đời Hán. Đoạn tiếp theo viết: “Có 5 số về trời, 5 số về đất đứng tương hợp thành cặp với nhau. Tổng số trời là 25, tổng số đất là 30. Cả số trời và đất hợp lại thành 55. Do đó mà thành ra biến hóa và hành động như quỉ thần”. (Thiên số ngũ, địa số ngũ. Ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ. Thử sở dĩ thành biến hóa nhi thành quỉ thần dã).
Khổng An Quốc có dựa vào những lời ấy trong quá trình tái tạo lại hình tượng Hà Đồ không? Hay chính ông đã là tác giả của những lời ấy? Thật khó lòng biết được! Chỉ có điều đời sau, có người đã lớn tiếng mắng Khổng An Quốc là kẻ có tội nặng nhất với thánh nhân, đã làm cho Kinh Dịch mất ý nghĩa triết lý sâu xa đi mà biến nó thành một tác phẩm vô nghĩa lý. Theo chúng ta thì nhiều khả năng nguồn gốc của Kinh Dịch bắt nguồn từ một “tác phẩm” truyền khẩu xa xưa, có nội dung giải nghĩa Hà Đồ, Lạc Thư, giảng về Vũ trụ dựa trên hình tượng của chúng. Việc sau này xuất hiện môn tượng số học vừa rối rắm huyền bí, vừa cực kỳ mê hoặc lòng người, chắc chắn không phải là lỗi của Khổng An Quốc.
***
Quay lại vấn đề chính: Hùng Vương chia nước thành 14 bộ là tùy tiện hay cố ý? Theo chúng ta thì đó là một sự cố ý mang màu sắc tín ngưỡng. Đối với các nhà thông thái Việt cổ trước khi đúc trống đồng Ngọc Lũ, biểu hiện ma phương của tượng số Lạc Thư đã được họ biết rất rõ và con số 15 đã trở thành rất thiêng liêng; là đặc trưng của quyền năng sáng tạo của Trời, Đất. Do đó cần phải thể hiện nó tại vùng trung tâm của mặt trống đồng Ngọc Lũ. Tuy nhiên, với quan niệm số thiêng đó là của Trời - Đất, con người sở hữu nó là phạm thượng, thì các nhà thông thái Việt cổ cho rằng không được phép thể hiện tường minh mà phải ở dạng ẩn dấu. Cũng theo quan niệm này mà trước đó Hùng Vương cũng phải “né” số 15, bớt đi “một chút” và chia nước ra thành 14 khu vực lãnh thổ tự trị. Tên riêng của 14 khu vực tự trị đó cùng với tên chung (Văn Lang) của đất nước sẽ hợp thành con số 15. Thể hiện ẩn con số 15 (phô diễn ra 14 thôi nhưng thực ra là 15) là như vậy. Nói vui: chắc bàn tay trời có 5 ngón, mỗi ngón 3 đốt, vị chi có 15 đốt vì bàn tay người tuy cũng có 5 ngón nhưng không thể như trời được, “bị thiếu” mất 1 đốt, chỉ còn 14 đốt thôi!
Nội tiếp vòng tròn trung tâm trên mặt trống đồng Ngọc Lũ là ngôi sao 14 cánh. 14 cánh ấy là 14 vị đầu lĩnh của 14 khu vực lãnh thổ tự trị thuộc nước Văn Lang với một nhà nước mà thủ lĩnh tối cao là Hùng Vương. Đây là ý nghĩa thứ nhất của hình tròn có ngôi sao trung tâm.
Ý nghĩa thứ 2: hình tròn đó biểu trưng cho mặt trời, cho uy quyền cao thượng của nhà nước, của vua. Mặt trời còn là biểu thị của ban ngày và như vậy, ngôi sao 14 cánh là tượng trưng cho sao Thiên Lang (ngôi sao sáng nhất của vòm trời) biểu thị ban đêm. Nếu chia số 14 cho 2 ta có hai số 7, một biểu thị cho không thời gian ban ngày, một biểu thị cho không thời gian ban đêm. Hai không thời gian đó tương phản đối ứng nhau, lưỡng phân mà cũng lưỡng hợp, chuyển hóa lẫn nhau, tạo nên sự biến chuyển ngày thành đêm, đêm thành ngày và “độ dài” của quá trình ấy làm xuất hiện ra thời gian. Lúc đầu, thời gian của 1 ngày đêm được chọn là 14 “tiếng”, tiếng thứ 14 là lúc mặt trời trực chỉ ngay trên đỉnh đầu (sau này gọi là Chính Ngọ); tiếng thứ 7 là giữa đêm. Nếu phân tương đối một ngày gồm ban ngày và ban đêm thì người ta căn cứ vào lúc mặt trời mọc, lặn để chọn mốc tính thời gian đầu tiên cũng như cuối cùng của một ban ngày (đồng thời của ban đêm) và vì thực tại cho thấy có những khoảng thời gian ban ngày dài hơn ban đêm và ngược lại nên tùy thuộc vào đó, không phải lúc nào số tiếng ban ngày cũng bằng số tiếng ban đêm (7 - 7) mà người ta qui ước có những giai đoạn số tiếng của ngày nhiều hơn số tiếng của đêm (8 - 6) và ngược lại (6 - 8). Về sau, thực tế cuộc sống lao động và sinh hoạt xã hội thời đó đòi hỏi phải có những đơn vị thời gian ngắn hơn nữa để đáp ứng. Mặt khác, các nhà thông thái cũng nhận thấy rằng Không Thời Gian không “đứng” trong Trời - Đất, không hợp với Trời - Đất thì sẽ không sao biểu hiện được, chỉ là một thứ vô hình (dù có gốc tọa độ!), do đó họ đã cho hợp số 7 và số 5 thành số 12, nghĩa là một ngày có 12 tiếng ban ngày và 12 tiếng ban đêm (tùy vào sự dài ngắn của ngày và đêm mà cũng có ngày dài đến 14 tiếng (Hạ chí) hoặc chỉ ngắn còn có 10 tiếng (Đông chí), tương ứng là đêm ngắn nhất (Hạ chí) và đêm dài nhất (Đông chí); không thể qui ước ngày (hay đêm) dài 15 tiếng vì sẽ phạm vào số thiêng liêng). Như vậy, một ngày (ngày - đêm) có tổng cộng 24 tiếng. (Hình tròn trung tâm mặt trống là biểu tượng của Mặt trời và là đại diễn của Thái Cực, số của nó là 10, hợp với số cánh của ngôi sao Thiên Lang (hay sao Mai, sao Hôm?) cho ra số 24 - số tiếng của ngày - đêm). Chia một ngày ra 24 khoảng thời gian như thế thì một tiếng vẫn còn dài. Vì vậy, người ta tiếp tục chia 1 tiếng ra 5 phần gọi là “khắc” và 1 ngày, tính ra gồm 120 khoảng khắc. (Cũng có thể người xưa thích chia cho 4 hơn và như vậy, một ngày sẽ là 96 khắc gồm 4 buổi mà mỗi buổi có số khắc là 24, một con số quen thuộc của ngày. Đó là một biểu hiện đẹp vì dễ nhớ?)
Chúng ta kể ra “vanh vách” như thế là do sự mách bảo tâm linh trong lúc thiền ngộ. Nội dung đó ra đời vắng bóng bà đỡ thực chứng nên không biết có đủ độ tin cậy không? Không thể biết được! Dù sao thì nó cũng không đáng nghi ngờ hơn chút nào so với nhiều ước đoán “sặc sỡ màu sắc Trung Hoa”, nhan nhản trong các sách nói về cổ sử nước nhà. Chúng ta chắc một điều rằng từ rất sớm trong thời đại Hùng Vương, nước ta đã có lịch pháp riêng, độc đáo, được cải tiến dần và đến thời xuất hiện trống đồng Ngọc Lũ thì đã đạt mức chính xác cao. Ai chê bai, mặc lòng, chúng ta vẫn tin vào sự mách bảo tâm linh trong thiền ngộ và tiếp tục câu chuyện “không giống ai” của mình.
Tuân theo nguyên tắc chung nhất của Tự Nhiên, loài người không thể sống tách biệt với môi trường. Loài người phải sống trong thiên nhiên, hòa quyện với thiên nhiên, dựa vào thiên nhiên, nhờ thiên nhiên mà sinh tồn. Quá trình sinh tồn đó, cùng với tính chủ động thích nghi và năng lực sáng tạo của mình, loài người ngày một nhận thức rõ ràng hơn, đúng đắn hơn thiên nhiên cùng với sự chuyển hóa, xoay vần có tính lặp lại của nó. Cũng từ đó, họ nhận thức được rằng thời tiết, khí hậu (mưa, nắng, nóng, lạnh…) nói chung gồm 4 “kiểu” (gọi là 4 mùa) khác nhau tồn tại trong những khoảng thời gian kế tiếp nhau theo thứ tự nhất định, sau này gọi là 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Lúc đầu, có thể là loài người chỉ biết qui ước mông lung: cứ hết 4 mùa (với bắt đầu là mùa xuân; mùa chuyển từ lạnh giá sang ấm áp, bầu trời trở nên tươi sáng, cây cỏ bắt đầu đâm chồi nảy lộc) thì được gọi là một năm. Cứ qua một năm thì cây cỏ cũng qua một, hai hay vài lần (gọi là mùa màng) đơm bông kết trái, muông thú và cả bản thân con người sinh đẻ, lớp lớn lên, lớp già đi. Vậy thì một năm có bao nhiêu ngày - đêm, mỗi mùa có bao nhiêu ngày đêm? Cuộc đấu tranh để sinh tồn cùng với trình độ sống ngày một nâng cao đã làm xuất hiện câu hỏi đó cũng như vô vàn câu hỏi khác về thế giới khách quan và đòi hỏi phải trả lời. Nói nôm na: Con người là chúa tò mò tọc mạch nhưng không phải bỗng dưng mà có bản tính ấy. Chính tạo hóa đã buộc con người phải tò mò tọc mạch “dữ dội” hơn con vật. Muốn tích cực chủ động thích nghi thì phải sáng tạo, muốn sáng tạo thì phải tư duy, tư duy là để hiểu biết, muốn hiểu biết thì trước hết phải tò mò tọc mạch, tò mò tọc mạch làm cho hiểu biết thăng hoa đi đến sáng tạo. Sáng tạo là bắt chước thiên nhiên, trên nền tảng các nguyên lý của thiên nhiên cũng như trên cơ sở kế thừa mà tác thành ra những thứ chưa từng có trong tự nhiên - xã hội (vẫn có thể gọi gộp lại là thiên nhiên!) để phục vụ (danh lợi) con người. Sau này sự tò mò tọc mạch trở thành bản chất nổi trội ở mỗi con người và đôi lúc sự tò mò tọc mạch đó thể hiện ra cứ như là một bệnh lý truyền nhiễm: tò mò tọc mạch chỉ là để thỏa mãn sự thèm khát tò mò tọc mạch chứ chẳng vì điều gì khác. (Nếu có bệnh viện chuyên điều trị bệnh lý này thì chắc rằng chúng ta chính là những bệnh nhân nhập viện đầu tiên!). Dù sao đi nữa thì loài người tiến dần lên trình độ văn minh ngày một cao là nhờ đã đạp bằng hết tò mò tọc mạch này đến tò mò tọc mạch khác trong khi tò mò tọc mạch vẫn đâm chồi nảy lộc chưa bao giờ ngừng.
Tổ tiên dân tộc Việt cũng phải đi trên con đường ấy. Trong quá trình đo đạc xác định thời gian (cho ngày - đêm) và sau cả một quá trình quan sát, tìm hiểu thiên văn, khí tượng… người Việt cổ đã xác định được thời điểm mốc để tính ra số ngày của một năm, đó là ngày Đông chí như sau này gọi.
Để xác định thời điểm Đông chí, có thể người xưa đã cắm một cây sào xuống đất để quan sát độ dài của bóng nó dưới ánh mặt trời. Họ đánh dấu chiều dài của bóng cây sào lúc nó ngắn nhất (lúc giữa trưa) trong vài ngày trước và sau ngày Đông chí rồi dùng phương pháp loại suy. Càng gần Đông chí, mặt trời giữa trưa càng thấp nên bóng giữa trưa càng dài. Trong mùa Đông lạnh giá có một ngày như thế. Người xưa gọi khoảng thời gian từ Đông chí này, trải qua 4 mùa đến Đông chí sau là một năm. (Tuy nhiên cũng rất có thể họ chọn Xuân Phân - thời điểm ngày và đêm có thời gian bằng nhau, cảnh sắc đất trời tràn trề sức sống, làm mốc đếm ngày của một năm).
(còn nữa)
 



 


Mời xem:

LỜI PHÂN TRẦN

PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

PHẦN II: NỀN TẢNG

PHẦN III: NGUỒN CỘI

PHẦN IV: BÁU VẬT