- "Thơ Bút Tre", theo nghĩa hẹp, đơn giản là thơ của tác giả Bút Tre, nghĩa rộng là Trường phái thơ bút tre (vì Bút Tre là người khởi xướng).
- Bút Tre tên thật là
Đặng Văn Đăng Đặng Văn Đăng
Bút Tre (1911–1987), tên thật Đặng Văn Đăng là một nhà thơ theo trường phái dân gian của Việt Nam thời hiện đại. Với phong cách thơ độc đáo, sáng tạo và giàu sức lan tỏa, từ bút danh của một nhà thơ, Bút Tre đã trở thành một trường phái sáng tạo thơ dân gian vui vẻ rất thịnh hành ở Việt Nam cho đến tận ngày nay
(1911-1987), người xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Thời Pháp thuộc, ông học đến đậu tú tài triết học, có thời gian viết báo với bút danh Lục Y Lang. Dưới thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (nay đổi tên thành Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam), ông từng giữ chức vụ Bí thư thứ hai của Sứ quán Việt Nam tại Rumani, sau đó làm Trưởng ty (nay gọi là "giám đốc sở") Văn hóa tỉnh Phú Thọ và tham gia hoạt động trong Ban chấp hành Hội văn nghệ dân gian Việt Nam. Đ. V. Đăng sống bình dị, có tâm hồn trào lộng, là một trong rất nhiều "ông quan thanh liêm" thời nước nhà đang trong cảnh "Miền Bắc là hậu phương lớn, Miền Nam là tiền tuyến lớn", mà ngày nay hiếm "như sao buổi sớm" (lời Nguyễn Trãi).
- Thơ của Đ. V. Đăng đương thời (ở đây chỉ nói đến cái bộ phận với những yếu tố, những nét đóng vai trò hạt nhân, nòng cốt, tiên phong của dòng thơ Bút Tre ngày nay) chịu không ít sự dè bỉu của nhiều bậc "nghiêm túc và hàn lâm" về thơ. Mà đúng thật, thơ do chính ông sáng tác không có cái đẹp của tu từ, của sự trau chuốt, hơn nữa, thoạt nhìn, về hình thức, có vẻ dễ dãi, "gợi nhớ" đến thơ con cóc. Ấy vậy mà lạ lùng thay, thơ của ông không những không "chết" mà còn chính thức đóng vai trò khởi nguồn ra một dòng (gọi một cách "chính qui" là trường phái) thơ mới, đậm chất trào phúng dân dã, được quần chúng ưa thích, "dung dưỡng", làm thăng hoa, lưu truyền đến ngày nay, và có lẽ đến rất xa nữa trong tương lai mai hậu.
- Ngô Quang Nam viết: "Theo tôi, thơ Bút Tre không hay, không hay một tý nào, thậm chí còn là vụng về quê kệch nếu ta soi bằng lăng kính thơ văn bác học. Có một nhà thơ nổi tiếng đương thời khi nghe tôi nêu câu hỏi:
"Thưa anh, tỉnh Vĩnh Phú đã minh oan cho Kim Ngọc làm khoán hộ. Vị trí và những cống hiến của anh Kim Ngọc ngày nay đã được khẳng định và Quốc Hội đã thông qua việc trao huân chương cho anh Kim Ngọc...Còn cái oan của cụ Bút Tre về văn chương chưa được rửa?...". Nhà thơ nọ bĩu môi:
"Khó lắm! Bút Tre là vè". Tôi hiểu! Ông nhà thơ có lý khi ông nhìn Bút tre bằng lăng kính của nhà thơ bác học, nhưng tôi hỏi lại ông một câu: "Vậy sao thơ kiểu "bác học" của các anh thường chỉ mấy ông nhà thơ các anh "nhâm nhi" với nhau là chính, chứ thật dân tình không mấy ai thuộc và lại cũng không mấy ai có thể sáng tác được, trong khi đó Bút Tre nổi tiếng đến mức ai cũng thích? Và ai cũng sáng tác được?". Tôi liền lấy ngay tờ báo có in một bài của một "lão trượng" bút sắt viết ca ngợi Bút Tre:
"Tham quan, du lịch, nghỉ hè
Thơ văn trường phái Bút Tre đứng đầu
Gieo vần gãy nửa nhịp câu
Giữa dòng bạt mạng ngắt câu ngang phè
Mà sao ai cũng thích nghè
Cứ nghe mà biết Bút Tre là cười
Bao nhiêu Bút Sắt mòn rồi
Hôm nay còn mãi với đời Bút Tre"
Ông đọc xong rồi lặng đi.(...). Cũng như các nhà sành chơi đồ gốm khi đã quá quen với những đồ gốm bóng bẩy mỹ miều Giang Tây bỗng bắt gặp một cái bình gốm men rạn (tưởng như nung hỏng), song cái quí và độc đáo lại chính ở cái "rạn nứt" ấy, thậm chí gốm thô gan gà, nguyên của màu đất sét mà biết đặt đúng chỗ thì lại là sự độc đáo. Vậy theo tôi, nghệ thuật biến hóa không cùng. Thơ bác học cũng có cái hay, cái cao siêu của thơ bác học, nhưng ca dao dân gian, vè dân gian nó vẫn cứ có giá trị độc lập của nó, nó chẳng mỹ miều, nó thô ráp thì nó lại có vẻ đẹp của sự thô ráp ấy, bởi vì bên trong nó lại ẩn chứa những triết lý rất sâu sắc".
- Ca ngợi thơ Bút Tre còn có bài thơ sau:
Hoan hô đồng chí Bút Tre
Thơ phú ngang phè mà lại hóa hay
Phải chăng trường phái thơ ngây
Làm cho ai cũng mê say thích nghè (nghe)
Ngày nay cuộc sống bộn bề
Nụ cười thuốc bổ: ca vè dân gian
Bởi ai cũng có thể làm
Bút Tre, bút nứa, lại càng bút bi...
- Nhưng cụ thể hơn, điều gì đã làm cho Bút Tre trở thành nhà thơ khai sinh ra một dòng thơ có tính đặc thù như một trường phái thơ thực thụ, hơn nữa, tồn tại một cách sống động, được nhiều người ưa thích, học thuộc, sáng tạo thêm rồi đọc cho nhau nghe những lúc vui đùa, lúc trà dư tửu hậu, để từ đó được lưu truyền rộng rãi trong xã hội chủ yếu theo con đường có tính truyền thống dân gian: truyền khẩu (đây là điều rất đáng suy ngẫm!)? Trong "Bút Tre, thơ và giai thoại", N. Q. Nam đã phân tích xoay quanh vấn đề những thủ thuật mà Đ. V. Đăng đã sử dụng trong thơ, và cho đó là cái yếu tố quyết định đến sức sống "danh bất hư truyền" của thơ Bút Tre.
- Theo tôi, tựu trung lại, sở dĩ Đ. V. Đăng đã khơi mào, tạo nên được một lối thơ "không giống ai" để từ đó mà hình thành nên cả một dòng thơ được nhiều người ưa thích và hơn nữa cũng hết sức bình dị, ai cũng có thể góp sức sáng tạo, ngẫu hứng "thêm thắt" vào được, là vì ông đã phát hiện ra "một chất liệu" gợi nguồn cũng như định hướng cảm hứng có ngay trong đời sống dân dã và văn học dân gian, để từ đó hoạt động sáng tạo trên cơ sở kế thừa cái tinh thần lạc quan, trào lộng, đơn sơ mà tinh tế, dung dị mà sâu sắc, chất phác mà thâm thúy, nghiêm cách mà cũng không câu nệ...của thơ ca, hò vè dân gian Việt Nam. Trong đời sống dân dã vẫn thường xảy ra những hiện tượng vô tình như: nói hớ, nói nhịu (chẳng hạn thấy con gà thì nói là con lợn), nói đớt, nói trại, nói tắt (chẳng hạn nói: "Xe đạp tôi..." thì ai cũng hiểu đúng: "Xe đạp của tôi..."), nói tréo ngoe, nói tưng tửng, ..., mà trong nhiều trường hợp trở nên rất buồn cười, thành đàm tếu "vui là chính", và dần được phản ánh trong văn học - nghệ thuật, trước hết là văn học nghệ thuật dân gian trào phúng. Đặc trưng tiêu biểu nhất và cũng dễ nhận biết nhất của thơ ca, hò vè dân gian Việt Nam là dù hàm chứa những ý tưởng sâu xa thì câu chữ được dùng cũng vẫn rất giản dị, rất gần với cách nói dân dã, "đời thường", hay có thể nói hơi quá một chút rằng đó là cách nói dân dã có vần điệu.
Dưới đây là vài thí dụ:
- Kìa ai tiếng khóc nỉ non
Ấy vợ lính mới trèo hòn đèo Ngang
Chém cha cái giặc chết hoang
Làm cho thiếp phải gánh lương theo chồng
Gánh từ xứ Bắc, xứ Đông
Đã gánh theo chồng lại gánh theo con
- Sơn Bình, chợ Lối chẳng xa
Cách một cái quán với ba quãng đồng
Chẳng tin đứng lại mà trông
Bên tây có miếu, bên đông có chùa
Ở trong lại có đình thờ
Em còn kén chọn bán mua chốn nào
- Em về cắt rạ đánh tranh
Chặt tre chẻ lạt cho anh lợp nhà
Sớm khuya hòa thuận đôi ta
Hơn ai gác tía lầu hoa một mình
Ngôn ngữ Việt Nam vốn dĩ giàu âm điệu, cho nên theo truyền thống dân gian, tiêu chí số một để phân biệt ngôn ngữ thường và ngôn ngữ thơ chính là vần điệu và vần điệu đã trở thành tiêu chuẩn hàng đầu phải tuân thủ đối với thơ ca, hò vè dân gian Việt Nam. (Tôi cho rằng điều này cũng đúng với thơ ca Việt Nam hiện đại. Thuật ngữ "hiện đại" ở đây không bao hàm trường phái thơ "hiện đại" hay "hậu hiện đại" thực chất đã tự cự tuyệt cội rễ truyền thống, mù quáng theo mấy "ông thơ Tây" cũng mù quáng nốt. Đó là thứ thơ hàm chứa bệnh lý tâm thần, có tính phá phách, thoát thai ra từ sự bế tắc sáng tạo bởi hạn chế tài năng, bị đè nén quá độ trong sự đòi hỏi, hối thúc tiềm thức của cái tinh thần đã "lạc vào" sự hãnh tiến, háo danh. Thơ đó chỉ có thể tồn tại trong một nhúm nhỏ tự tâng bốc nhau là "hàn lâm, cao siêu" mà thôi chứ không thể sống còn trong lòng dân tộc được, hơn nữa, sự ngày càng tha hóa của nó sẽ "không chóng thì chầy" làm cho nó bị đào thải ra khỏi đời sống văn hóa xã hội. Bởi lẽ, nghệ thuật đích thực bao giờ cũng giản dị, trong sáng, hòa hợp với nhịp đập cuộc sống và nhờ thế mà gần gũi, thân thiết với đại chúng, được đại chúng yêu thích,ngợi ca, gìn giữ và lưu truyền). Tiếp tục, vì thơ ca, hò vè dân gian chủ yếu dùng từ ngữ dân dã nhưng lại phải tuân thủ vần điệu (theo luật bằng trắc và chủ yếu theo thể thơ lục bát) tương đối khắt khe, cho nên trông thì thấy đơn giản, thô mộc, dễ bắt chước sáng tác, nhưng thực ra không hề dễ dàng chút nào, thường giữ được ý thì mất vần, giữ được vần thì mất ý, hoặc để cho có vần, phải dùng những từ sáo mòn, khiên cưỡng nhiều khi phá hỏng cả tứ thơ. Có lẽ từ trước đến nay, đây là nguyên nhân làm xuất hiện (không phải là ít!) trong "phong trào văn hóa quần chúng" những bài thơ lục bát "ngang phè phè" đến "phát tức anh ách" hay ngô nghê "xuôi tuồn tuột" đến "cười lộn ruột"...
Phải chăng Đ. V. Đăng, một người có lối sống giản dị và hòa đồng, có tâm hồn thanh khiết mà cũng khoáng đạt, đã phát hiện được những yếu tố trào phúng tiềm ẩn trong những hiện tượng xảy ra do "trục trặc" vô tình, ngoài ý muốn, đại loại như đề cập sơ qua ở trên, từ đó mà chắt lọc, kết hợp lại, tạo nên một hướng sáng tạo có tính gây cười độc đáo, trên nền tảng thơ ca, hò vè dân gian truyền thống? Có thể nói, thơ Bút Tre là "thứ" thơ có hình thức tương tự như của những kẻ nhà quê ít học nhưng sính chữ, là những câu cú "nói trực" hồn nhiên bị ép vần "cho bằng được", do đó mà làm xuất hiện những tình huống "dở khóc dở cười". Nhưng thơ Bút Tre có giá trị thẩm mỹ và tính gây cười cao hơn hẳn vì ai đọc cũng "biết tỏng" đó là kết quả của sự cố ý sáng tạo, đầu tư trí tuệ có chủ đích.
-Thơ Bút Tre, trên bình diện là một dòng thơ tương đối độc lập, có đặc trưng trào lộng, gồm những bài thơ ngắn, thậm chí chỉ hai câu, được nhiều tác giả hữu danh cũng như khuyết danh góp phần xây dựng và cũng vì được rất nhiều người yêu thích nên cũng được phát tán nhanh qua con đường truyền khẩu mà các loại thơ khác không thể sánh được. Những đặc điểm đó khiến dòng thơ Bút Tre xứng đáng là một bộ phận hợp thành không thể thiếu được của thơ ca, hò vè dân gian Việt Nam, nếu chưa được chính thức thừa nhận hôm nay thì chắc chắn cũng trong một tương lai gần! Cái tuyệt hay của thơ Bút Tre chính là ở chỗ này!
- Chuyện rằng, lúc sinh thời Đ. V. Đăng không hề phản biện trực diện và công khai những lời chê bai chỉ trích gay gắt thơ ông. Ông đã gói gọn cái tinh thần tự tại, "bất chấp" ấy bằng hai "lời" thơ, mỗi "lời" chỉ gồm hai câu, gửi lại cho đời:
- Thế sự thăng trầm quân mạc vấn
Cây đa bến cũ vẫn ngồi nguyên
- Mai sau kẻ đoái người hoài mặc
Hạnh phúc hôm nay mát dạ người
- Về già, Đ. V. Đăng có dặn dò gia quyến cách tiến hành tang chế cho mình khi lâm hữu sự, bằng bài thơ... rất thương lắm:
Tôi dặn tiễn tôi tới suối vàng
Thưa kèn giảm trống, chẳng đò ngang
Dứt đường Tây Trúc kinh thôi tụng
Buông sách Thọ Mai, lễ chẳng màng
Xã hội, cơ quan ngừng phúng điếu
Họ hàng thân thuộc chút khăn tang
Hương thơm, đèn sáng, vòng hoa trắng
Trầm mặc cử hành đám lễ tang
- Quá trình hình thành và phát triển của dòng thơ Bút Tre tự nó phân ra tương đối thành mấy loại và có thể (tạm cho là) như sau: thơ đương thời Bút Tre (lúc Bút Tre còn sống) và thơ hậu Bút Tre. Trong thơ đương thời Bút Tre thì gồm thơ Bút Tre thật (do chính Đ. V. Đăng sáng tác) và thơ Bút Tre giả (do dân chúng
sáng tác). Thơ hậu Bút Tre cũng được phân thành hai gồm thơ hữu danh và thơ khuyết danh (chủ yếu).
0 comments:
Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)
- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>