THỰC TẠI & HOANG ĐƯỜNG 47/b




PHẦN V:     THỐNG NHẤT

“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
A. Anhxtanh

“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
Upanishad

CHƯƠNG VII: HÚT - ĐẨY

"Lực hút cũng như lực đẩy, là thuộc tính cơ bản của vật chất".
"Hấp dẫn cần phải được gây ra bởi một tác nhân thường xuyên tác động theo một qui luật nào đó, nhưng tác nhân này là vật chất hay phi vật chất thì tôi xin dành cho bạn đọc suy nghĩ"
Niutơn

(tiếp theo)
Ở đáy cùng của Vũ Trụ vi mô, như chúng ta quan niệm, tương tác giữa hạt là tương tác cảm ứng kích thích KG. Vì, cũng theo chúng ta quan niệm, tương tác ấy là nguồn gốc, là dạng nguyên thủy của mọi tương tác, cho nên phải suy ra từ đó được hằng số hấp dẫn G.
Khi có một hạt  cảm ứng kích thích một hạt , chúng ta nói rằng hai hạt KG ấy tương tác cảm ứng kích thích nhau. Vì hai hạt ấy được thấy như cùng tác động làm cho nhau di dời vị trí nên có thể coi tương tác của chúng là tương tác lực. Trong hình dung có thể thấy khi hạt nỗ lực kéo hạt  “về” vị trí của nó và đồng thời “đến” chiếm chỗ hạt , thì cùng lúc hạt cũng nỗ lực hành động như vậy đối với hạt . Trong Vũ Trụ vĩ mô, chúng ta cho rằng hai vật hình khối cầu bằng nhau, tương tác hấp dẫn nhau mạnh nhất khi tâm của chúng nằm ngay trên bề mặt của nhau, nghĩa là khoảng cách tâm của chúng đúng bằng bán kính của chúng, vì có khả năng lúc đó, tác động phản lực của sự phát xạ là mạnh nhất. Trong trường hợp hai hạt KG và  tương tác cảm ứng kích thích có lẽ cũng phải như vậy. Nếu gọi khối lượng của chúng là mo, đường kính của chúng là do thì lực cảm ứng kích thích của mỗi hạt đối với nhau là:

              
Với g gọi là hằng số cảm ứng kích thích
Trước đây, chúng ta đã có biểu thức:
Với c là vận tốc cực đại của Vũ Trụ
       to là đơn vị thời gian nhỏ nhất tuyệt đối
Sau khi tương tác, hạt  chuyển biến thành hạt và có một động lượng là:
Vì tương tác xảy ra trong “khoảng” thời gian to nên nếu qui đổi động lượng đó ra lực mà hạt KG bị tác động trong tương tác thì cường độ của lực đó bằng , nghĩa là:
Như vậy, sẽ có:
Suy ra:
Thay các ký hiệu bằng các giá trị số mà trước đây chúng ta đã xác định được vào biểu thức thì:
Với quan niệm: nền tảng của tương tác hấp dẫn thấy được ở Vũ Trụ vĩ mô chính là tương tác cảm ứng kích thích KG, lực hấp dẫn chính là tổng lực cảm ứng kích thích KG nào đó, chúng ta cho rằng có thể thay thế g bằng G trong biểu thức tính . Mặt khác, có thể giá trị G mà vật lý học đã xác định, do bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nhiễu loạn khách quan và chủ quan, nên dù là phù hợp với ứng dụng thực tiễn thì cũng chưa thật chính xác về mặt lý thuyết. Nếu loại bỏ được những yếu tố ảnh hưởng gây nhiễu loạn đi thì giá trị chính xác (hay có thể nói là lý tưởng), chắc bằng:
Vậy, có thể viết biểu thức tính lực như sau:
Nghĩa là:
g=G.1028
Còn một cách nữa xác định được giá trị hằng số g.
Từ biểu diễn cơ bản , chúng ta có được:
Và rút ra:
Thay vào biểu thức * * thì được:
Nhân tử số và mẫu số của vế phải cho 4:
Kể ra cũng vui thật! Đúng là hấp dẫn thật!
Chưa phải đã hết! Vấn đề rút ra được sau đây cũng vui và hấp dẫn không kém.
***
Bản chất của lực hấp dẫn theo quan niệm của chúng ta xét cho cùng lại chỉ là lực đẩy; là sự tổng hợp tương tác thể hiện ra trong Vũ Trụ vĩ mô của số đông các thực thể trong Vũ Trụ vi mô. Vì càng vào sâu Vũ Trụ vi mô, kích thước các thực thể trong đó càng nhỏ, nghĩa là số lượng các hàm chứa trong nội tại chúng càng ít, nên hiệu ứng hấp dẫn càng trở nên mờ nhạt. Đến một độ sâu vi mô nào đó thì coi như hiệu ứng hấp dẫn không còn nữa. Trong Vũ Trụ vi mô, quyết định đến sự vận động và chuyển hóa KG là những tương tác hút đẩy có tính thế mà xét đến cùng thì đều là tương tác lực.
Nếu xét ở góc độ tạo nên áp lực (còn gọi là áp suất thì trong Vũ Trụ thực tại, không thể có lực nào lớn hơn lực , cho nên chúng ta gọi nó là lực cực đại tuyệt đối. Tuy nhiên, nó lại đại diện cho một động lượng (hay xung lực) rất nhỏ, nhỏ nhất Vũ Trụ. Chúng ta có thể qui ước giá trị đó là đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối của động lượng (hay xung lực).
Giả sử rằng ở đáy cùng của Vũ Trụ vi mô, vẫn còn thể hiện ra lực hấp dẫn và lực hấp dẫn giữa hai hạt KG  và  có thể biểu diễn được là:
thì chúng ta có thể thấy, so với lực cảm ứng kích thích KG , giá trị đó nhỏ hơn đúng 1028 lần. Vì hằng số g cũng lớn hơn hằng số G 1028 nên chúng ta có thể coi về mặt thực chất, chúng chỉ là một. Quan niệm như vậy để thấy rằng G không phải là hằng số vì độ lớn của nó tăng dần theo hướng từ vĩ mô xuống vi mô của Vũ Trụ thực tại và đạt giá trị cực đại là 6,75.1020 ở đáy cùng Vũ Trụ vi mô. Nếu thế, phải chăng vì tính tương phản nghịch đảo của Vũ Trụ mà ở tầng trần cao nhất của Vũ Trụ vĩ mô, nó có giá trị cực tiểu là 6,75.10-20? Lúc diện kiến Tạo Hóa, vì câu hỏi này chưa phát sinh nên rất tiếc là không hỏi được!
***
Trường hấp dẫn đã không tồn tại thì trường điện từ có tồn tại thực sự như vật lý học đã khẳng định không? Đối với chúng ta, đây là một câu hỏi cực khó vì chúng ta hơi bị mù mịt về điện. Nhưng cũng cứ cố lần mò được đến đâu hay đến đó. Biết đâu chừng… “Hay không bằng hên” mà!
Chúng ta đã tưởng tượng ra được sự tồn tại của các hạt  và cho rằng đó là những thực thể nhỏ nhất mang điện tích nguyên tố của Vũ Trụ. Vậy, công việc đầu tiên cần phải thực hiện là đi xác định giá trị cụ thể lượng điện tích mà chúng hàm chứa.
Trước đây, chúng ta đã từng nhiều lần “lải nhải” và bây giờ lại lặp lại rằng, Tự Nhiên Tồn Tại là… Tồn Tại một cách Tự Nhiên, vốn dĩ là thế, hồn nhiên như thế đồng thời cũng buộc phải như thế chứ không thể khác. Đặc tính cơ bản nhất của Tồn Tại, có tính quyết định đến “số phận” của nó, có đến tận “chân tơ kẽ tóc”, cái gì cũng có và cũng có nghĩa là không được xuất hiện “cái không tuyệt đối” bên cạnh Tồn Tại. Nói cách khác, Tồn Tại là thực, là tuyệt đối, là bao trùm, Hư Vô là ảo, là tương đối và thuộc về Tồn Tại. Cũng vì lẽ đó mà có thể nói: Tự Nhiên Tồn Tại là tuyệt đối đầy đủ và chính vì thế mà nó gồm cả thiếu thốn đủ thứ cũng như dư thừa đủ thứ.
Trước bất cứ một quan sát và tư duy có tính đặc thù nào, Tự Nhiên Tồn Tại đều thể hiện ra đồng thời hai mặt cơ bản của nó là Không Gian và Vận Động. Nếu Không Gian là lực lượng của Tồn Tại thì Vận Động là hành vi Tự Nhiên của nó. Đến lượng Không Gian lại phân định tương đối và thành hai thể là môi trường không gian và thực thể KG. Như vậy Không Gian Vận Động là thể hiện của Tự Nhiên Tồn Tại trước quan sát, và đồng thời cũng chính là Tự Nhiên Tồn Tại.
Nếu cho rằng Không Gian là thực thể của Tồn Tại thì Vận Động là phương thức Tự Nhiên nhằm đảm bảo tuyệt đối Tồn Tại. Giữ vai trò như vậy thì Vận Động cũng có tính tuyệt đối, nghĩa là khắp nơi vận động, không ngừng vận động, vận động đến “chân tơ kẽ tóc”, đủ kiểu vận động, vận động phong phú về nhịp điệu và đầy đủ về mức độ. Tính tuyệt đối ấy của Vận Động Không Gian phải được “phơi bày” ra hết đến cùng cực, trước quan sát và tư duy nhận thức (dù có thể quan sát và tư duy nhận thức chưa đạt đến trình độ để “thấy” hết được), vì nếu không như thế sẽ có Hư Vô “bên cạnh” Tồn Tại. Mặt khác Tự Nhiên cũng phải tạo ra cho quan sát, tư duy và nhận thực cái khả năng phân biệt được các loại, các dạng, các nhịp điệu, các mức độ vận động để so sánh, đánh giá chúng. Một trong những “phương tiện” cơ bản nhất và Tự Nhiên “ban tặng” cho quan sát, tư duy và nhận thức để có khả năng phân biệt và đánh giá vận động chính là độ dài lâu mà thước đo nó được chúng ta gọi là thời gian. Vậy, thời gian là biểu hiện về độ dài lâu - một thuộc tính của Vận Động Không Gian. Vì thế mà thời gian không thể là cái gì đó độc lập, ở bên ngoài Không Gian được. Cũng chính vì thế mà Vận Động Không Gian là vĩnh cửu, Tự Nhiên Tồn Tại là vô thủy vô chung. Vũ Trụ thực ra chỉ gồm và cũng chính là Không Gian Vận Động hay Tự Nhiên Tồn Tại. Vũ Trụ đã không thể có bắt đầu mà cũng không thể có kết thúc trong thời gian, thì cái gọi là Big Bang cũng không hề có thực, hoặc nếu có thực thì nó chỉ hiện diện trong thế giới ảo vật lý học mà thôi.
Không Gian vốn dĩ phân định tương đối thành hai lực lượng (nhiều khả năng là không bằng nhau) là môi trường không gian và thực thể KG. Đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối của môi trường không gian là , đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối của thực thể KG là . Hai đơn vị ấy bằng nhau về lực lượng, kích thước, chỉ khác nhau về trạng thái nội tại và có thể chuyển hóa thành nhau theo phương thức gọi là cảm ứng kích thích không gian.
Một hạt  độc lập không thể “đứng yên” một chỗ mà phải lan truyền trong môi trường không gian với vận tốc cực đại tuyệt đối C. Khi ở đâu đó tương đối gần nó xuất hiện một hạt khác, trái dấu hoặc đồng dấu với nó, thì hai hạt đó xử sự đối với nhau như thế nào? Trước đây, chúng ta đã cho rằng trong trường hợp trái dấu, chúng hút nhau, và trong trường hợp đồng dấu, chúng đẩy nhau. Nhưng thực chất có phải như vậy không?
Để may ra có thể trả lời được câu hỏi đó, trước hết, chúng ta phải trả lời câu hỏi: bản chất của thứ gì đó gọi là “điện” đó, là thứ gì?
Chúng ta đã mường tượng vận động nội tại của một hạt KG thông thường () là sự chuyển hóa trạng thái lần lượt qua 4 trạng thái rồi cứ thế lặp đi lặp lại một cách chu kỳ tương tự như một giao động điều hòa. Vận động nội tại này được quyết định bởi sự chi phối của 4 vận động nội tại của 4 hạt KG quanh nó, tiếp xúc với nó và đồng thời cũng tạo “vỏ bọc” làm nên nó.
Vì hạt luôn cố định tuyệt đối trong mạng khối không gian và chỉ vận động nội tại một cách chu kỳ và điều hòa thôi nên còn có thể nói nội tại hạt KG giao động điều hòa với 4 trạng thái năng lượng của nó. Bốn trạng thái đó, xét ở góc độ này là không phân biệt được, xét ở góc độ khác là phải phân biệt được, và vì nội tại hạt  tồn tại như một điểm cố định tuyệt đối nhưng giao động, cho nên dẫn đến hình dung về một sự xoáy không gian như thế nào đó. Có lẽ sự xoáy không gian này phải là sự xoáy tổng hợp của hai sự xoáy thành phần. Tương tự như hiện tượng cảm ứng (tự cảm) trong điện học, sự xoáy này tăng lên về cường độ xoáy thì gây cảm ứng cho sự xoáy kia chống lại sự tăng ấy và ngược lại. Nghĩa là dưới sự chi phối của môi trường, hai sự xoáy không gian có mối quan hệ “sống còn” và là tiền đề tồn tại của nhau ấy tương tác nhau, chuyển hóa nhau và hợp thành một xoáy không gian thống nhất có tính điều hòa.
Khi tác động của môi trường không gian đến hạt trở nên bất thường thì sự xoáy không gian của nội tại nó cũng trở nên bất thường và sự xoáy điều hòa bị kích hoạt lên thành xoáy cưỡng bức. Chúng ta cho rằng, xoáy cưỡng bức là xoáy mà hai thành phần xoáy của nó hoạt động thuận chiều nhau, cộng hưởng nhau làm cho vận động nội tại của hạt KG đạt đến trạng thái tột độ, và lúc này hạt đã chuyển biến thành hạt .
Trạng thái tột độ của hạt  gây nguy cơ “nhãn tiền” làm nổ tung nó nếu nó không lập tức khắc phục được trạng thái ấy. Nếu hạt nổ tung thì một lỗ hổng Hư Vô sẽ xuất hiện và chúng ta đành… chấm dứt câu chuyện ở đây! May quá, Tự Nhiên Tồn Tại không bao giờ “chơi trò” phi tự nhiên như thế nên đã khắc phục trạng thái tột độ của hạt  bằng cách “ra lệnh” cho nó ngay tức khắc “trao cái vương miện tột độ” của nó cho một trong 4 hạt KG tiếp giáp quanh nó để trở về “làm thường dân” . Tuy nhiên, khi một trong 4 hạt KG vừa nói bỗng dưng “được” đội vương miện tột độ thì trạng thái của nó (có lẽ vì vui sướng quá?) cũng được kích thích lên tột độ. “Vui chưa tày gang” rồi cũng phải nhanh chóng trao cái vương miện đó cho hạt khác nữa. Cứ thể, trước “người trần mắt thịt”, hạt xuất hiện đầu tiên dù đã “ngủm củ tỏi” từ lâu, vẫn được thấy như còn sống, “tung tăng cưỡi ngựa xem hoa” trong Vũ Trụ với tốc độ “nhởn nhơ” và đều đặn bằng… C.
Như đã quan niệm, nguyên lý phân định của Tự Nhiên làm cho hạt KG phải có hai trạng thái tột độ tương phản nhau mà chúng ta qui ước gọi là trạng thái tột độ dương (+) và trạng thái tột độ âm (–) để phân biệt. Vậy thì hai hạt khác nhau ở chỗ nào? Nếu dựa vào hình dạng, kích thước, lực lượng thì chắc chắn tuyệt đối không phân biệt được. Hay là chúng khác nhau về màu sắc như đã nói? Thực ra màu sắc chỉ là qui ước của chúng ta thôi. Chỉ một bộ phận sinh vật mới cảm nhận được theo màu sắc thôi và hơn nữa, ở tầng nấc vĩ mô nào đó, làm gì có ánh sáng! Thế là cuối cùng, khả dĩ nhất, chỉ có thể phân biệt được hai hạt trái dấu nhau theo chiều xoáy nội tại của chúng. Cần nhớ rằng các hạt không bao giờ đứng yên mà luôn luôn lan truyền với vận tốc cực đại c. Vì c là vận tốc cực đại tuyệt đối nên hướng xoáy nội tại của mọi hạt phải vuông góc với hướng lan truyền của chúng, và có thể dựa vào hướng tiến của chúng mà phân biệt được chiều xoáy thuận hay nghịch. Nếu hạt có chiều xoáy thuận được gọi là mang điện dương thì có chiều xoáy nghịch được gọi là mang điện âm. Để không mâu thuẫn thì vì động năng của hạt , “nhìn” ở góc độ khác cũng là nội năng và đúng bằng năng lượng toàn phần của nó nên phải quan niệm rằng nếu thật có chuyển động thì không thấy sự xoáy nội tại của nó và ngược lại.
Khi hai hạt  trái dấu nhau tiếp xúc nhau, chúng sẽ chuyển hóa nhau để trở thành hai hạt . Có thể thấy sự tương tác đó như là một sự trao đổi một phần kích thích trái chiều cho nhau. Trong trường hợp hai hạt  trái dấu nhau tiến về phía nhau với cùng vận tốc c thì coi như so với nhau, chúng tiến đến nhau với tốc độ 2c và như thế tưởng chừng như lực tương tác của hạt này lên hạt kia phải lớn hơn trong trường hợp một trong hai hạt là . Nhưng có lẽ không phải vậy vì tương tác - được thấy như sự trao đổi kích thích hoàn toàn, còn tương tác - được thấy như sự trao đổi kích thích một phần, và như thế, lực tương tác của hai trường hợp ấy có thể là bằng nhau, cùng bằng , thậm chí còn có khả năng lực của trường hợp sau nhỏ hơn của trường hợp trước.
Thực nghiệm điện học đã chỉ ra, chắc chắn là có hiện tượng tự nhiên hạt vật mang điện trái dấu thì tiến về phía nhau, hai vật mang điện đồng dấu thì tiến ra xa nhau. Đối với hai hạt , tình hình có lẽ cũng như vậy. Nhưng thử hỏi, hai vật mang điện có tự thân chúng nỗ lực hút hay đẩy nhau không? Có thể coi môi trường không gian không phải là vật chất mà chỉ là “bệ đỡ”, tạo khả năng cho vật chất (tức các thực thể KG) vận động và tương tác lẫn nhau thì theo quan niệm “tác dụng gần” và hơn nữa, theo quan niệm truyền tương tác của chúng ta, điều đó không thể xảy ra được! Nếu chúng hút hay đẩy nhau thật thì ít nhất cũng phải có một cái gì đó từ môi trường ảnh hưởng tới chúng, kích thích chúng có hành vi như vậy và quá trình đó không phải ngẫu nhiên, tình cờ, mà phải theo qui luật. Nhất là đối với các hạt lại càng không thể hình dung được chúng tự thân hút hay đẩy nhau từ xa. Thứ nhất là vì chúng luôn “chuyển động” với vận tốc đều và cực đại c nên không thể hút hay đẩy nhau để làm tăng vận tốc đó lên nữa. Thứ hai là chẳng có cái gì khác làm trung gian để truyền tương tác lực của chúng. Thứ ba là khi các hạt  luôn chuyển động trong Vũ Trụ với vận tốc cực đại c rồi thì coi như trạng thái tột độ đe dọa đến sự bùng nổ hạt KG đã được giải quyết, và do đó chúng chẳng còn nỗi bức xúc nào thôi thúc để mà phải nỗ lực tìm đến nhau hoặc lánh xa nhau cả.
Vậy thì vì sao? Chỉ còn một cách giải quyết vấn đề duy nhất là bám vào nguyên lý ưu tiên lựa chọn hướng lan truyền năng lượng trong Vũ Trụ vi mô mà chúng ta đã phát hiện ra (hay bịa ra?). Theo nguyên lý đó, năng lượng luôn có xu thế phát tán từ miền có mức năng lượng cao hơn đến miền có mức năng lượng thấp hơn, và ưu tiên hướng đến nơi có mức năng lượng thấp nhất. Có thể hình dung hai miền có mức năng lượng cao thấp khác nhau đã làm cho vùng môi trường không gian giữa chúng đóng vai trò như một vùng dốc từ miền có mức năng lượng cao “xuôi về” miền có mức năng lượng thấp, mà độ dốc của vùng đó là do mức độ chênh lệch năng lượng giữa hai miền qui định. Cũng có thể coi vùng dốc đó là một trường lực thế ảo. Nếu ở trong trường đó xuất hiện một hạt  thì hạt này sẽ chuyển biến thành sóng và lan truyền tự do theo chiều dốc xuống khi vận tốc đạt đến cực đại có thể.
Tương tự như nguyên lý ấy hoặc coi như được rút ra từ nguyên lý ấy, về mặt điện, cũng có nguyên lý ưu tiên lựa chọn hướng lan truyền điện tích. Có thể phát biểu nguyên lý đó như sau: điện tích luôn có xu thế được phát tán từ miền có mức điện lượng trái dấu thấp hơn đến miền có mức điện lượng cao hơn, và hướng ưu tiên là đến nơi có mức điện lượng trái dấu cao nhất. Như vậy, theo nguyên lý này, đối với hai miền chênh lệch điện tích trái dấu, nếu hướng đến một miền là hướng phát tán của điện tích dương thì mặc nhiên, hướng đến miền còn lại là hướng phát tán của điện tích âm, nghĩa là giữa hai miền đó xuất hiện một hiệu ứng trao đổi điện tích cho nhau và như vậy vùng môi trường không gian giữa hai miền đó phải đóng vai trò cùng một lúc có hai chiều dốc ngược nhau. Cũng có thể coi vùng không gian đó tồn tại ảo một trường điện thế.
Chúng ta cho rằng nhờ có nguyên lý nêu trên mà hai hạt  ở xa nhau mới có khả năng tiến đến nhau hoặc tiến ra xa nhau được thôi. Khi hai hạt ở cách nhau một khoảng tương đối xa nào đó thì giữa chúng là hai con đường thẳng ảo “dốc xuống” từ hạt này đến hạt kia và ngược lại làm chúng tiến về phía nhau. Vì hai con đường ảo đó có độ dốc bằng nhau nên chúng cắt nhau tại điểm giữa khoảng cách của hai hạt trái dấu, và đó cũng là nơi mà chúng có thể gặp nhau. Tại sao lại chỉ là có thể mà không chắc chắn? Tại vì chúng ta đã từng lý giải rằng nếu số lượng các hạt “tạo nên” con đường dẫn hai hạt  trái dấu cùng đến gặp nhau là chẵn thì chúng mới gặp nhau để tương tác nhau  biến thành hai hạt được, còn nếu lẻ thì chúng không thể tiếp xúc với nhau vì cùng bị chặn lại bởi cùng một hạt  và do đó chúng hợp thành một hệ xoáy không gian gọi là hạt  (trung hòa về điện).
Có thể từ suy lý mà đi đến nhận định: tương tác chuyển hóa   - có tính cứng, đàn hồi, còn chuyển hóa hủy cặp - có tính mềm, không đàn hồi, do đó lực phát sinh trong tương tác  hủy cặp (gọi là lực tĩnh điện) cực đại, ký hiệu là ) rất có thể phải nhỏ hơn lực . Nhưng nhỏ hơn là bao nhiêu và có cách nào tính ra lực ấy không? Có.
Khi hai hạt  trái dấu tiến đến nhau và cách nhau một hạt  thì vì không thể có khả năng tiếp xúc để “yêu thương” nhau được mà cũng không thể cứ “đứng ì ra đó” được, nên lập tức chúng phải chọn cách: hạt này tiến xuống dốc “quanh co” đến phía “sau lưng” hạt kia và đồng thời hạt kia cũng tiến xuống dốc “quanh co” tương tự đến lưng hạt này, tạo ra một cuộc “theo đuổi” có lẽ là điên cuồng nhất Vũ Trụ mà cũng vô vọng nhất Vũ Trụ.
Sự xoáy không gian của nội tại hạt là tổng hợp của sự xoáy nội tại của hai hạt  trái dấu và sự quay quanh nhau của hai hạt ấy. Khó mà hình dung được sự xoáy không gian ấy trong thực tại ở tầng đáy cùng của Vũ Trụ vi mô, nhưng chúng ta tin rằng về mặt nguyên lý, nếu đặt hạt trong không gian Ơclit (Không gian của Vũ Trụ vĩ mô), thì mô hình của nó phải tương tự như minh họa ở hình 5.
Hình 5: Mô hình hạt
Khi hạt  chuyển động theo đường thẳng (trong không gian Ơclit) thì trục xoáy của nội tại nó trùng với trục của véc tơ vận tốc c. Nhưng khi nó chuyển động tròn quanh tâm O (xem hình 5), thì vì vẫn phải đảm bảo lan truyền kịp thời để giải quyết “bài toán” trạng thái tột độ nên vận tốc chu vi của nó vẫn phải bằng c. Muốn vậy, sự xoáy nội tại của hạt phải chuyển hóa sao cho không có phần tử nào trong nội tại nó được chuyển động lớn hơn mà cũng không được nhỏ hơn vận tốc c, nghĩa là trục xoáy của nó không còn trùng với trục của véc tơ vận tốc c nữa mà phải lệch đi. Lúc này có thể sự xoáy nội tại của hạt được thấy như là tổng hợp của hai thành phần xoáy không gian, một xoáy có trục trùng với trục của véc tơ vận tốc c, một xoáy có trục đi qua tâm hạt và vuông góc với trục của véc tơ vận tốc c. Xoáy “mới” xuất hiện này có tác dụng chống lại “nguy cơ” gây tăng, giảm vận tốc truyền trong nội tại hạt . Trên hình 5, chúng ta thấy hai hạt có vẻ như lăn chứ không trượt trên bề mặt hạt .
Hai hạt trái dấu trên hình 5 quay quanh tâm O được là nhờ hiệu ứng điện thế xuất hiện “ràng buộc” chúng với nhau, do chính chúng “hợp tác” tạo thành tuân theo nguyên lý ưu tiên lan truyền điện tích, và cũng vì không thể tiếp xúc với nhau được, mà cũng không thể đứng yên một chỗ được. Khi quay như thế, coi như mỗi hạt đều bị “ràng buộc” một lực hướng tâm bởi tâm O, đồng thời cũng chịu một lực ly tâm cân bằng với lực đó. Lực hướng tâm này chính là lực điện fe mà chúng ta đang tìm cách xác định giá trị cụ thể của nó.
Trước hết, chúng ta biết rằng, biểu thức tính gia tốc hướng tâm theo truyền thống là:
với: d1 là đường kính biểu kiến của hạt
       r1 là bán kính của nó
       t1 là thời gian chu kỳ xoáy (còn gọi là thời gian riêng) của
Theo hình vẽ 5 thì:
d1=2do
với do là đường kính của hạt  và cũng là của hạt
Vì năng lượng toàn phần của một thực thể KG chỉ tùy thuộc vào khối lượng của nó mà không phụ thuộc vào tỷ số giữa đường kính (gọi là riêng) và thời gian riêng của nó, nên có thể suy ra được:
t1=2to
Vậy lúc này:
Với gia tốc này, và bằng cách nào đó triệt tiêu vận tốc chu vi c của hạt  mà không làm ảnh hưởng đến bất cứ yếu tố nào khác, thì hạt  sẽ chuyển động tịnh tiến theo hướng kính vế phía tâm O và khi O+ trùng với O thì đạt vận tốc cực đại c' nào đó. Vì thời gian đi hết quãng đường phải là t1/4 hay to/2 nên:
Đó là điều lạ lùng vì không thể có c'>c được? Thực ra c' chỉ là một giá trị ảo, không thực, tương tự như vận tốc  trong sự lan truyền sóng ánh sáng, có thể lớn hơn vận tốc truyền sáng c. Trên hình 5, có thể thấy hình chiếu của quãng đường tròn (một phần tư đường tròn tâm O) mà hạt đi được, trên đường thẳng xuyên tâm 3 hạt KG là đoạn . Trên đoạn thẳng này, hình chiếu về sự chuyển động của hạt theo cung   là một chuyển  động nhanh dần, tăng vận tốc từ đứng yên và đạt đến vận tốc cực đại c tại tâm O. Hình chiếu chuyển động đó là một phản ánh phiến diện về một thực tại, cụ thể là về sự chuyển hóa phương chiều vận tốc c từ hướng thẳng đứng sang hướng ngang, và chỉ ra tốc độ của sự chuyển hóa ấy là:
Để khi O+ trùng với O, tức là sau t1/4 thời gian, có được:
Trước đây, chúng ta đã từng nêu ra biểu thức gia tốc này và ngộ nhận cho rằng đó là cách viết đúng. Bây giờ, chúng ta mới biết biểu diễn như thế là chưa chính xác. Dễ thấy, khi xét tại thời điểm t1/8 (hay to/4, vị trí A’ trên hình 5), vì góc lập giữa véc tơ vận tốc c và véc tơ vận tốc thành phần ngang c2 của nó là , nên giá trị thực của c2 là:
Trong khi tính theo công thức nêu trên, sẽ cho ra kết quả:
Sự chênh lệch về kết quả đó, không thể phủ nhận được: biểu diễn toán học về gia tốc a' ở trên có khiếm khuyết trầm trọng. Cần thấy rằng, quá trình ảo tăng vận tốc từ giá trị 0 đến giá trị c trên đoạn không phải đều đặn đơn thuần như chúng ta đã tưởng. Do chuyển động thực của hạt là quay quanh tâm O nên trong suốt quá trình ảo do phải chịu ảnh hưởng bởi sự biến đổi góc (cụ thể ở đây là giảm dần giá trị từ  đến 0) mà nhịp điệu tăng vận tốc có khác đi. Như vậy, biểu thức tính a' phải được bổ sung thêm “một chút” để có dạng như sau:
với: là vận tốc góc của quay quanh tâm O1 trên đường tròn có đường kính d1.
là giá trị góc tại thời điểm t (ký hiệu )
Nếu viết biểu thức đó theo do, to thì:
với
Rõ ràng là áp dụng biểu thức trên để tính giá trị c2 tại thời điểm hay , sẽ có được kết quả đúng với thực tế:
Khi đã biết các thông số vật lý cần thiết về quá trình chuyển động biến đổi ảo của hạt trên đoạn  rồi thì chúng ta cũng có thể viết ra biểu diễn toán học về mối quan hệ xung lực – động lượng của hạt trong quá trình ấy như sau:
Như chúng ta đã quan niệm thì chỉ khi một vật tương tác với vật khác, lực của nó mới xuất hiện và triển khai tác dụng. Vì vậy, trong trường hợp này, vế trái của biểu diễn trên không phải là một xung lực thực sự, mà chỉ được coi là một xung lực ảo, hay một tiềm xung lực theo hướng ngang, ẩn tàng trong nội tại hạt và thể hiện ra ngoài, trước quan sát, bằng một động lượng theo hướng ngang của hạt  tại thời điểm t’ khi nó chuyển động thực trên quĩ đạo tròn có tâm là O, có đường kính là d1 (trong khoảng cung tròn , vì biểu diễn toán học trên chỉ đúng trong khoảng  thôi, ngoài khoảng này phải điều chỉnh lại mới phù hợp). Điều đó cho thấy tiềm xung lực F1..to, trong hiện thực, không hướng đến tâm O’ mà chỉ có hướng đến vuông góc với đoạn . Sự hướng đó thực ra cũng chỉ là ảo và được chọn một cách “tùy hứng”, hoàn toàn chủ quan của chủ thể quan sát trước khi tiến hành khảo sát.
Từ biểu diễn ấy có thể viết được:
Và thấy: F1. không bao giờ có thể lớn hơn được , vì giá trị cực đại của t' trong trường hợp thiết lập biểu diễn toán học này chỉ cho phép bằng , và chỉ khi đó mới tồn tại .
Sự phản ánh của quá trình ảo về sự chuyển hóa vận tốc, hay động lượng của hạt “dẫn đến” sự chuyển hóa về tiền xung lực trong nội tại nó mà chúng ta vừa khảo sát có mang ý nghĩa đặc biệt nào không?
Một khoảng chân không mà trong đó, chúng ta không quan sát thấy bất cứ một thực thể nào, thì chúng ta còn gọi đó là một khoảng trống rỗng. Dù là trống rỗng thì khoảng đó vẫn là một thực thể chứ không phải Hư Vô (hư vô tuyệt đối). Bởi vì nó vẫn có nội dung là thể tích của nó và thể tích ấy có tính xác định hẳn hoi về mặt số lượng. Đã nói đến số lượng thì phải có các đơn vị hợp thành số lượng. Đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối của một khoảng không trống rỗng chỉ có thể là điểm không gian. Điểm không gian có nội dung hay không? Nó không thể là Hư Vô được nên phải có nội dung. Nội dung của nó là lượng thể tích (dù có thể cũng chỉ là trống rỗng!) nhỏ nhất tuyệt đối góp phần hợp thành số lượng thể tích không gian.
Theo chúng ta hình dung thì điểm không gian ấy còn được gọi là hạt không gian () hoặc hạt KG ( ). Cũng theo chúng ta hình dung thì hạt  cố định tuyệt đối trong Vũ Trụ thực tại, còn hạt thì luôn lan truyền trong đó với vận tốc cực đại c.
Không thể có chuyện Hư Vô chuyển động với vận tốc c, vì đã là không có gì tuyệt đối thì cũng không thể thể hiện ra bất cứ thứ gì, kể cả vận tốc. Như vậy, để phù hợp với thực tại khách quan, khi nói đến vận tốc thì phải nghĩ rằng vận tốc đó là của một thực thể nào đó.
Nói đến vận tốc c thì chúng ta cho đó là vận tốc cực đại tuyệt đối trong Vũ Trụ thực tại, đồng thời là vận tốc truyền bất biến trong môi trường không gian (và dễ hình dung là cả trong bất cứ môi trường vật chất nào!) của các hạt .
Vận tốc trước hết là “thước đo” mức độ nhanh chậm trong di dời vị trí của những vật chuyển động so với một gốc tọa độ được cho là đứng yên.
Trong hiện thực khách quan có thể thấy vận tốc của một vật có thể bị biến đổi theo hai mặt thể hiện của nó là phương chiều và mức độ nhanh chậm. Tùy thuộc vào sự biến đổi vận tốc ấy mà một vật đang ở trạng thái đứng yên chuyển sang trạng thái chuyển động và ngược lại, hoặc một vật đang chuyển động theo quĩ đạo này thì “tự nhiên” chuyển sang chuyển động theo quĩ đạo khác. Theo quan niệm của chúng ta thì trong Vũ Trụ thực tại, không thể có bất cứ thực thể nào không vận động nhưng cũng không có bất cứ thực thể nào tự thân vận động  được. Vì lẽ đó mà mọi thực thể đều không tự thân biến đổi vận tốc của chúng được. Nói cách khác, sự vận động và biến đổi vận động của một thực thể là do sự tương tác của thực thể đó với môi trường chứa nó (bao gồm cả các thực thể khác) quyết định. Như vậy, để tìm nguyên nhân làm biến đổi một vận tốc nào đấy thì chỉ còn cách là tìm trong tương tác (cơ học) của thực thể có vận tốc ấy với môi trường chứa nó.
Sự nghiên cứu chuyển động của vạn vật trong thời kỳ đầu lịch sử thiết lập nên nền vật lý cổ điển cũng đã theo một tiến trình có chiều hướng tương tự trình bày trên, nghĩa là lúc đầu chỉ nghiên cứu về sự biến đổi vận tốc đơn thuần (động học), kế tiếp sau mới là nghiên cứu về nguyên nhân thực sự gây ra những hiện tượng khác nhau về biến đổi vận tốc (động lực học). Như một tất yếu, tiến trình nghiên cứu ấy đã làm xuất hiện những khái niệm cũng như những đại lượng vật lý cơ bản, đặc trưng của quá trình tương tác cơ học và biến đổi chuyển động như: gia tốc, khối lượng, năng lượng, động lượng, lực, xung lực…
Chuyển động là biểu hiện trạng thái của các thực thể về mặt di dời vị trí trong không gian so với một gốc tọa độ nào đó được cho là đứng yên, do quan sát lựa chọn theo nhận định chủ quan đầy cảm tính của mình. Muốn tìm hiểu đầy đủ về một chuyển động thì không chỉ nghiên cứu nó về mặt định tính mà phải cả về mặt định lượng. Vì chuyển động là phải có chủ thể, tức là bàn đến chuyển động thì phải là “cái gì chuyển động” chứ không thể là “Hư Vô chuyển động” được, cho nên chỉ nghiên cứu sự biến đổi vận tốc của chuyển động một cách đơn thuần thôi là hời hợt, phiến diện. Như đã nói, sự biến đổi của một vận tốc có nguồn gốc từ sự tương tác giữa các lực lượng vật chất, mà nguyên nhân trực tiếp là do sự chuyển hóa vận động của chủ thể vận tốc ấy khi tham gia tương tác gây ra. Như vậy, trên bình diện này, muốn tìm hiểu và diễn tả được cặn kẽ, toàn diện một chuyển động thì ngoài việc xem xét định tính và định lượng về sự biến đổi vận tốc đơn thuần (về phương chiều, về mức độ di dời, về kiểu loại di dời…), còn phải nghiên cứu thực chất cái nguyên nhân gây ra sự biến đổi ấy, mà trước hết là sự chuyển hóa về mặt lực lượng trong vận động của chủ thể vận tốc khi tham gia tương tác. Nói tóm lại, trong hiện thực khách quan, không hề có Hư Vô chuyển động mà chỉ có Thực Hữu chuyển động, nghĩa là chỉ có lực lượng vật chất chuyển động. Như vậy, chuyển động và biến đổi chuyển động xét cho cùng, là sự thể hiện ra dưới dạng đặc thù (cơ học) trước quan sát về vận động và chuyển hóa vận động của một thực thể hoàn toàn xác định hoặc của một lực lượng vật chất nhất định. Vậy thì, ở mức độ nào đấy, có thể coi chuyển động là một lực lượng có vận tốc và chính sự chuyển hóa lực lượng này là nguyên nhân gây ra sự biến đổi vận tốc của nó. Do đó, muốn làm sáng tỏ một chuyển động và sự biến hóa của nó thì không những phải xác định được giá trị, phương chiều vận tốc cũng như sự biến đổi giá trị, phương chiều vận tốc ấy của nó, mà còn phải xác định được lực lượng và sự chuyển hóa lực lượng của nó cùng với mối quan hệ nhân quả giữa hai thể hiện ấy của một vận động duy nhất. Khái niệm động lượng và động năng xuất hiện là sự đáp ứng cho đòi hỏi khách quan đó, và chúng trở thành hai đại lượng vật lý vào hàng cơ bản nhất đặc trưng cho vật chất và vận động vật chất.
Khi điểm KG, tức là hạt , lan truyền với vận tốc c, thì có thể hiện ra một động lượng (hay động năng) nào đó. Biểu diễn động lượng được nêu ra lần đầu tiên bởi Niutơn và nếu áp dụng nó cho trường hợp hạt thì đó là moc (với mo là khối lượng của hạt). Khi xảy ra tương tác thì động lượng ấy chuyển hóa thành xung lực. Vì khi không xảy ra tương tác thì xung lực của một thực thể chuyển động không hề xuất hiện, cho nên động lượng moc chính là sự “phát lộ” tiềm xung lực của hạt ẩn chứa trong nội tại nó. Điều đó cho thấy nội tại của điểm KG không thể là một thể tích trống rỗng được. Vì thế mà cái khoảng chân không mà chúng ta thấy hoàn toàn trống rỗng chỉ là do năng lực quan sát bị hạn chế chứ thực ra không hề trống rỗng một tí nào? Nói khoảng không gian nào đó trống rỗng thì chỉ là tương đối và có tính qui ước.
Nội tại điểm KG không trống rỗng thì nó hàm chứa cái gì để làm tồn tại trong đó một tiềm xung lực? Theo quan niệm của triết học duy tồn thì đối với Vũ Trụ thực tại, bản thân Vũ Trụ là tận cùng của sự lớn và điểm KG là tận cùng của sự nhỏ. Tuy nhiên, nội tại điểm KG có thể thích khác 0 cho nên, để bảo vệ quan niệm đó, triết học duy tồn lại buộc phải quan niệm rằng thực sự tồn tại sự tương phản ảo - thực nghiệm đảo tuyệt đối trong tự nhiên. Theo sự tương phản đó, nội tại của điểm KG cũng là Không Gian, nhưng là ảo và nghịch đảo tuyệt đối với Không Gian thực tại. Hay nói cách khác: nội tại ảo và là nghịch đảo tuyệt đối của Vũ Trụ thực tại. Nếu chúng ta lọt được vào trong đó thì vì chúng ta luôn chọn mình là thực nên cũng chỉ thấy một Vũ Trụ thực tại “quen thuộc”, gồm một môi trường không gian bao la và vạn vật đang vận động, tương tác lẫn nhau, tạo ra đa dạng và phong phí hiện tượng trong đó.
Tin theo quan niệm trên đây của triết học duy tồn, giả sử rằng nội tại điểm KG được thấy như là Vũ Trụ thực tại mà chúng ta đang quan chiêm và chúng ta cũng tính được tổng giá trị tuyệt đối động lượng của tất cả các thực thể có trong đó thì tổng đó là một hằng số và có thể giá tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối của nó chính là lượng tiềm xung lực ẩn chứa trong nội tại điểm KG hay hạt .
Như vậy, điểm không gian hay điểm KG (hạt , hay ) đều có nội tại, nội tại ấy cũng mang nội dung vật chất (gồm không gian và KG dù là ở dạng ảo) và cũng vận động không ngừng, nghĩa là cũng hàm chứa một năng lượng với một tiềm xung lực. Chính cái quá trình chuyển động ảo trên của chuyển động thực trên  đã chỉ ra rằng, khi hạt  chuyển động tròn quanh tâm O (trong không gian Ơclit), xét theo một phương nào đó, thì động lượng của nó cũng chuyển hóa một cách chu kỳ cả về phương chiều chiều lẫn (số) lượng như một dao động điều hòa. Điều đó dẫn đến phải thừa nhận là chuyển động tròng của hạt làm cho động lượng của nó quay theo tiến trình của chuyển động ấy và vì thế cũng làm cho nội năng của hạt (hình như) xoáy quanh tâm hạt với vận tốc góc . Và (hình như) đồng thời cũng có sự xoáy nội tại cùng với vận tốc góc  nhưng theo chiều ngược lại. Do vận tốc C là cực đại tuyệt đối trong Vũ Trụ thực tại và hạt luôn phải lan truyền với đúng vận tốc ấy nên phải hình dung khi hạt  chuyển động trên quĩ đạo tròn (hay nói mở rộng hơn là quĩ đạo cong bất kỳ) nội tại của nó phải xoáy ngược chiều với chiều chuyển động quay của nó với vận tốc góc đúng bằng vận tốc góc của sự quay đó để triệt tiêu hiệu ứng làm tăng và giảm vận tốc. Hai sự xoáy nội tại “đối xứng” ấy triệt tiêu nhau. Nghĩa là: nếu so với hệ qui chiếu cố định trên mặt phẳng quĩ đạo quay thì nội tại hạt xoáy ngược chiều chuyển động với vận tốc góc , còn nếu so với hệ qui chiếu đặt cố định trong môi trường không gian thì không thấy sự xoáy ấy của nội tại hạt .
Rõ ràng, gia tốc a' không thể dùng được trong việc xác định lực lượng tâm của hạt  quay tròn quanh tâm O trên hình 5. Vậy chỉ còn cách sử dụng gia tốc a và có được vận tốc ảo c'. Như vậy, cũng có được một động lượng ảo moc' thuộc nội tại hạt . Động lượng ảo ấy cũng chính là một tiềm xung lực của hạt . Với đơn vị thời gian riêng (nhỏ nhất) của hạt t1, khi tiềm xung lực ấy chuyển biến thành xung lực thì lượng xung lực này đúng bằng (với là lực tĩnh điện) và biểu diễn xung lực - động lượng sẽ là:
              
Nên:       
Hay:       
Thay giá trị thực của các đại lượng trong biểu diễn (mà trước đây chúng ta đã phán đoán và liệt kê ra) thì giá trị của  sẽ là:
               
Đây là lực điện từ cực đại xét trong mối tương quan với khối lượng hạt mang điện mà Tự Nhiên có thể tạo ra được. Theo vật lý học, lực hút này dứt khoát phải do hai thực thể mang điện tích trái dấu tương tác nhau mà xuất hiện. Vậy thì hạt mang giá trị điện tích (âm hoặc dương) chính xác là bao nhiêu? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta tiếp tục diễn giải.
Từ biểu diễn lực fe nêu trên, chúng ta có thể triển khai:
               
Đó là một xung lực hay động lượng mà lực cực đại có thể phát huy được trong khoảng thời gian cực tiểu tuyệt đối của Vũ Trụ. Xung lực đó cũng phụ thuộc (tỷ lệ nghịch) với khoảng cách tương tác nếu qui ước: do=10-28.r (với r là một giá trị độ dài nào đó), thì có thể biểu diễn:
              
Vế phải của biểu diễn là một đại lượng đặc trưng cho hạt . Đại lượng đó bất biến một khi còn tồn tại. Vế phải bất biến thì đương nhiên vế trái cũng bất biến. Sự bất biến đó là thuần túy khách quan. Tuy nhiên nó không đòi hỏi ba thành phần fe, to r phải bất biến theo. Có thể thấy tùy thuộc vào thời gian và khoảng cách tác dụng lực mà fe bị biến đổi theo sao cho vế trái của biểu diễn trên bất biến. Mặt khác fe chính là giá trị cường độ lực tác dụng trong đơn vị thời gian nhỏ nhất tuyệt đối và đơn vị khoảng cách nhỏ nhất tuyệt đối. Nếu chuyển đổi hai đơn vị đó sang đơn vị tương đối (do chủ quan qui ước) là 1s và 1cm thì fe sẽ phải chuyển biến thành Fe. Lúc này, ta sẽ xác định được lực fe trong hệ đơn vị đo cm, gam, giây, (viết tắt là CGS):
              
Nếu khoảng thời gian và khoảng cách lần lượt được chọn là t r thì ta có biểu diễn tổng quát hơn, là:
               
Lực tương tác Culông có bản chất tự nhiên và như vật lý học chỉ ra, nó tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa hai hạt mang điện tích mà không phụ thuộc vào thời gian. Để phù hợp với khẳng định đã được thực nghiệm xác nhận chắc chắn ấy của vật lý, chúng ta phải biến đổi t trong biểu diễn trên thành:
              
Đó là một bất biến suy ra từ bài toán hai vật hay từ định luật 2 Képle và hơn nữa về mặt số trị thì luôn luôn có r=t nên cũng luôn có . Như vậy:
              
Vì mẫu số bằng 1 cho nên để hòa hợp với công thức Culông, tử số phải là bình phương điện tích mà hạt  mang. Nếu phải ước lượng điện tích của hạt qe thì:
              
Với dấu + để chỉ điện tích dương của hạt , dấu – là để chỉ điện tích dương của hạt .
Về mặt thứ nguyên, vật lý học qui ước:
                (đọc là Frănklin)
Lượng điện tích 0,48.10-9 Fr (hay 4,8.10-10 Fr) chính bằng điện tích nguyên tố mà vật lý học đã xác định được một cách gần đúng.
Trong vật lý học còn dùng đơn vị đo điện tích là Culông (Ký hiệu: C) với 1C=3.109 Fr. Có thể  tính ra giá trị điện tích nguyên tố theo đơn vị Culông như sau:
              
Một cách tổng quát, nếu có hai thực thể mang điện lần lượt là q1, q2. Cách nhau một khoảng r thì chúng hút (trường hợp hai điện tích trái dấu) hoặc đẩy (trường hợp hai điện tích đồng dấu) một lực điện là:
              
Thật là vui khi thiết lập được công thức Culông từ một sự hoang tưởng điên cuồng! Nhưng… biết có xác đáng không nhỉ? Thôi thì cứ nhắc lại lời Napôlêông để tự an ủi mình: “Lòng dũng cảm cũng như tình yêu, phải được nuôi dưỡng bằng niềm hy vọng”.
Khi hạt lan truyền theo đường thẳng thì nội tại nó ẩn chứa một tiềm lực đúng bằng fo, và đó cũng là tiềm lực toàn phần của nó. Nếu xuất hiện một tương tác hủy cặp giữa nó với một hạt   khác, trái dấu và lan truyền cùng phương nhưng ngược chiều với nó, thì so với nhau, coi như mỗi hạt  đó lan truyền với vận tốc là 2C. Vậy giá trị tuyệt đối của tổng xung lực xuất hiện trong tương tác sẽ là:
               2fo.to=mo2c
Biểu thức ấy chỉ có ý nghĩa về mặt cường độ của tương tác. Nếu xét theo sự tương ứng về khối lượng tham gia tương tác thì đó là tương tác có cường độ cực đại trong Vũ Trụ. Tuy nhiên, trong Vũ Trụ thực tại, vì mỗi hạt trong hai hạt  đó chỉ có thể phát huy được một lực tối đa là fo tác dụng lên hạt kia và ngược lại, để rồi cả hai hạt cùng một lúc bị “biến mất”. Đó là quá trình của hai tác động đồng thời nhưng độc lập nhau, xảy ra tuân theo nguyên lý tác dụng tương hỗ. Nghĩa là phải chia hai vế của biểu thức trên cho 2 để trở về dạng xung lực - động lượng tổng quát:
               fo.to=moc
Biểu diễn đó dẫn đến hình dung: khi hai hạt  trái dấu chuyển động trên quĩ đạo tròn theo mô tả ở hình 5 thì mỗi hạt ngoài việc phát huy một lực li tâm để cân bằng với lực hút f, còn phải phát huy một lực fc để cân bằng với một lực nào đó mà chúng ta chưa biết, nhưng biết chắc là phải có nguồn gốc từ môi trường không gian.
Theo điện học, một thực thể tích điện đồng dấu thì khi đứng yên, nó sẽ làm xuất hiện một trường tĩnh điện trong không gian xung quanh nó. Nếu xuất hiện một hạt điện tích trong điện trường đó thì nó bị tác động một lực đẩy ra xa tâm hay hút về phía tâm của thực thể tích điện, tùy thuộc và dấu của nó cùng dấu hay trái dấu với điện tích thực thể. Hạt  luôn chuyển động với vận tốc cực đại Vũ Trụ c. Nhưng cứ cổ giả sử rằng hạt cũng có lúc định xứ. Vậy khi định xứ, hạt đó có làm xuất hiện một điện trường xung quanh nó không? Theo công thức tính cường độ điện trường thì điện trường đó phải tồn tại và nếu ký hiệu cường độ điện trường là e hay E (theo hệ đo CGS) thì nó bằng:
        
Nếu hạt có thể thực sự định xứ trong không gian thì với quan niệm một thực thể luôn phải tương tác với môi trường chứa nó, cần thừa nhận rằng hạt đó cũng phải tuân theo qui định đó. Sự tương tác của hạt định xứ với môi trường không gian có thể là sự xoáy không gian bị kích thích tột độ, có tính cộng hưởng của nó đã gây ảnh hưởng sự xoáy không gian có tính điều hòa của các hạt (bốn hạt), làm cho những xoáy này bị cưỡng bức và “méo” đi theo qui luật nào đấy, ở một mức độ nhất định nào đấy. Đến lượt những hạt  này tác động các hạt tiếp giáp với chúng. Cứ thế, sự tương tác được thấy lan truyền ra xa dần hạt định xứ với mức độ giảm dần một cách tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách từ nơi muốn xác định mức độ ảnh hưởng đến nơi hạt định xứ. Sự tương tác ấy của hạt với môi trường không gian bao quanh nó tồn tại ổn định một khi hạt  còn định xứ. Như vậy, môi trường không gian quanh hạt định xứ đã bị biến đổi ở một mức độ nào đó và thể hiện ra như một trường điện tĩnh (điện trường).
Tuy nhiên, vì trong thực tại hạt tuyệt đối không thể định xứ được quá thời hạn to nên cũng tuyệt đối không tồn tại kiểu điện trường như thế.
Khi hạt  lan truyền thẳng đều với vận tốc c (trong không gian Ơclit), thì theo hình dung của chúng ta, sự xoáy không gian của nó phải có phương vuông góc với phương truyền của nó và coi như cũng được truyền đi vuông góc với phương truyền của nó và coi như cũng được truyền đi trọn vẹn với vận tốc c cho nên cần thấy hạt  tương tác với môi trường không gian theo duy nhất một hướng truyền của nó. Nghĩa là lúc đó hạt cũng không tạo ra được một điện trường nào cả.
Khi hạt chuyển sang lan truyền theo quĩ đạo đường tròn quanh tâm O như hình 5 mô tả, vì hướng lan truyền của nó biến đổi đều nên sự xoáy không gian của nó cũng bị biến đổi đều. Nó lan truyền được như vậy là nhờ có sự tương tác giữa nó với hạt “bạn”, trái dấu với nó, thông qua hạt làm trung gian. Sự tương tác này làm cho mỗi hạt  quay quanh nhau phải phát huy một lực là f.m để chống lại lực hút đến nhau của chúng là f.m. Vì sao lại là f.m chứ không phải là fe? Vì theo công thức tính lực tĩnh điện và đã qua qui ước mà chúng ta đã thiết lập ở trên thì khoảng cách giữa hai hạt lúc này là 2.do do=10-28 do đó:

Lực đó cũng chính là lực liên kết nội tại của hạt .
Đối với hệ quan sát được gắn cố định trên mặt phẳng quĩ đạo quay của hai hạt và cũng quay quanh tâm O với vận tốc góc của chúng thì lực f.m chính là lực tĩnh điện. Đối với hệ quan sát được gắn cố định trong môi trường không gian thì theo quan điểm của điện học, lực đó không thể khác mà phải là lực từ.
Ở một góc độ quan sát nhất định có thể thấy mỗi hạt trong hai hạt  ấy có vẻ đứng yên và hạt kia quay quanh nó với vận tốc c. Sự quay ấy là rất nhanh và nếu chọn một khoảng thời gian tương đối lớn làm đơn vị thì có thể coi đó là một dòng điện dịch có cường độ không đổi I=q/t nào đó. Cũng trên quan điểm của điện học, dòng điện đó sinh ra một từ trường đều và từ trường đều đó tác động lên hạt đứng yên một lực có phương chiều được xác định theo qui tắc bàn tay trái.
Điện học qui ước: chiều dòng điện là chiều chuyển động của các hạt điện dương. Trên hình 5, xét hạt “tạo thành” dòng điện quanh hạt đứng yên. Vì chiều của dòng điện hướng lên trên nên theo qui tắc vặn nút chai, véc tơ cảm ứng từ  tại tâm hạt có phương vuông góc với mặt phẳng chứa dòng điện, có chiều từ ngoài mặt giấy vào trong. Nếu xét trường hợp hạt “tạo thành” dòng điện quanh hạt  đứng yên, thì dòng điện này cũng có chiều hướng lên trên. Cũng theo qui tắc vặn nút chai thì véc tơ cảm ứng từ  qua tâm hạt cũng vuông góc với mặt phẳng chứa dòng điện, nhưng có chiều từ trong mặt giấy ra ngoài. Chính vì vậy mà theo qui tắc bàn tay trái, mỗi hạt đó đều phải chịu một tác động lực hút vào nhau (hay hướng đến tâm O) và chúng ta cho rằng, lực ấy chính là lực từ f.m.
Nếu gọi I là cường độ dòng điện dịch, l là một đoạn nhỏ của độ dài dòng điện thì I.l được gọi là phần tử dòng điện. Theo điện học:
I.l=q.v
với q là hạt điện; v là vận tốc chuyển động của hạt điện.
Trong trường hợp cụ thể ở đây:
Điện học chỉ ra rằng:
Với:  là véc tơ vận tốc cực đại
        là véc tơ cảm ứng từ
        ^ là dấu nhân tích véc tơ
         là góc lập giữa 
Thay số trị đã biết vào biểu thức:
0,576.10-18=0,48.10-9.3.1010.B
Suy ra: B=0,04.10-19
Về mặt thứ nguyên của B, chúng ta thấy rằng:
Theo một biểu diễn khác trong điện học, chúng ta suy ra được:
              
Với          do=0,96cm
Từ đó phải chăng có thể viết được dạng tổng quát là:
              
Quan sát ở góc độ khác, còn có thể cho rằng, sự đồng thời quay quanh tâm O của hai hạt trái dấu ở hình 5 cũng thể hiện ra như một dòng điện kín, biến đổi (còn lại là dòng điện xoáy). Theo quan điểm của điện học thì dòng điện xoáy và biến đổi này tất yếu phải sinh ra một điện trường xoáy và biến đổi để rồi điện trường này tạo ra một từ trường xoáy và cũng biến đổi.
Quan sát ở góc độ khác nữa, cũng có thể cho rằng một trong hai hạt  tạo ra một dòng điện xoáy biến thiên làm xuất hiện một từ trường xoáy biến thiên. Từ trường xoáy biến thiên này làm xuất hiện một dòng điện cảm ứng (thực ra là dòng điện của hạt còn lại) chống lại sự biến thiên đó.
Như vậy, với quan niệm trên của điện học, hệ thống quay gồm hai hạt ở hình 5 đã tạo ra một trường điện từ trong môi trường không gian bao quanh nó.
Dù vẫn chưa biết được trường điện từ có thực sự tồn tại và vận động theo cách mà điện học đã chỉ ra không, nhưng theo chúng ta hình dung, chắc chắn ở tầng đáy cùng của Vũ Trụ vi mô, trường điện từ không tồn tại. Hệ thống hai hạt  quay quanh tâm O với một hạt ở giữa làm trung gian còn được thấy là nội tại của hạt . Hạt này đã trung hòa về điện, do đó nó không thể tạo ra trường điện từ quanh nó được.
***
Hạt  rõ ràng là có thể định xứ trong môi trường không gian được và khi định xứ thì nội tại của nó xoáy không gian cực nhanh. Tuy nhiên, chúng ta cho rằng, trong Vũ Trụ vận động vô cùng náo nhiệt, sự định cư ấy của hạt  chỉ mang tính tạm thời. Trong hầu hết thời gian tồn tại của mình, hạt lan truyền với vận tốc cực đại C.
Khi lan truyền, hạt  được thấy như một sợi dây mảnh, uốn lượn mềm mại một cách thích ứng trong không gian phi Ơclit. Trong quá trình lan truyền ấy, hạt có thể bị “va chạm” ngẫu nhiên với các hạt KG khác, kể cả các hạt và cũng có thể bị phân rã do bị mất liên kết nội tại. Chẳng hạn, có thể có trường hợp một hạt nào đó “đâm sầm” vào hạt  trung gian của hạt , tương tác với hạt này và chuyển biến nó thành hạt . Hạt này lập tức tương tác hủy cặp với hạt trái dấu với nó của hạt . Hoặc cũng có trường hợp một hạt đến áp sát được hạt trái dấu với nó của một hạt (hay dây)  nào đó làm xảy ra tương tác hủy cặp làm cho hạt coi như chấm dứt tồn tại. Sự phân rã đứt đoạn của các dây KG cơ bản khác có lẽ cũng xảy ra tương tự như thế.
Như có lần trước đây chúng ta đã hình dung thì có thể phân loại các dây KG cơ bản thành hai loại chính là dây chẵn (gồm số lượng hạt chẵn) và dây lẻ (gồm số lượng hạt lẻ). Nhưng dây KG cơ bản chẵn là những dây trung hòa điện, những dây KG cơ bản lẻ là những dây mang điện thể hiện ra với đúng một điện tích nguyên tố (âm hoặc dương).
Tùy thuộc vào số lượng hạt  kết thành mà các dây KG cơ bản có thể dài ngoằn khác nhau nhưng bao giờ cũng là những dây đơn. Có thể hình dung đó là những sợi dây thắt nút và những nút đó chính là những hạt  trái dấu xen kẽ nhau.
Theo cách nào đó, những dây đơn lẻ kết hợp với nhau tạo thành những dây KG cặp đôi, cặp ba… gọi là những dây bội. Có thể sợi dây bội trông tương tự như sợi dây cáp bện trong hiện thực. Nói chung, theo chúng ta quan niệm, dây đơn hay dây bội đều lan truyền với vận tốc rất lớn, song, chỉ có các dây đơn mới đạt được vận tốc cực đại trong Vũ Trụ. Hoặc cũng có thể có một số dây bội không lớn lắm đạt được vận tốc ấy nhưng lúc đó, trong dây bội như một chùm dây đơn vì hầu như không còn sự liên kết nội tại.
Dây bội cũng được phân thành hai loại dây chẵn (có số lượng dây đơn chẵn) và dây lẻ (có số lượng dây đơn lẻ). Dây bội chẵn thì trung hóa về điện, dây bội lẻ thì mang điện và lượng điện thể hiện ra một “quang cảnh” có thể là như thế này:
Các dây KG khi đến bề mặt vật cản thì bị “dồn” lại làm hình thành một vùng không gian có mật độ KG (cũng là mật độ năng lượng) cao. Một số những dây lớn có lực liên kết nội tại không chịu nổi sự “va đập” thì phân rã thành những dây nhỏ hơn, ngắn hơn. Tất cả các dây KG, khi còn ở bề mặt vật cản đều cuộn lại thành các giả hạt. Do có sự làm giảm khả năng chuyển hóa KG trong vùng có mật độ năng lượng cao nên các giả hạt này luôn có xu thế lan truyền thoát ra khỏi đó. Cũng vì vậy mà các giả hạt này lại tương átc với nhau, tái kết hợp lại với nhau, tạo thành những dây KG mới trong quá trình lan truyền thoát ra khỏi vùng đó. Một số dây lan truyền trở lại môi trường mới theo những hướng phù hợp.
Phải chăng khi gặp vật cản, luồng dây KG (hay chùm sóng điện từ) đã vận động, chuyển hóa như thế và đó chính là nguyên nhân sâu xa nhất của các hiện tượng xảy ra trong hiện thực như: phản xạ, khúc xạ, tán sắc…?
Trước đây, có lần chúng ta đã cố hình dung ra cách cuộc của một dây KG (hình dáng của một giả hạt KG). Bây giờ nghĩ lại, thấy có vẻ không hợp lý.
Cần hình dung lại là khi một dây KG đang lan truyền mà bị ngăn chặn thì trong trường hợp không bị phân rã, nó sẽ định xứ trong một khoảng thời gian nhất định, và khi định xứ, nó sẽ cuộn lại như một lò xo xoáy rất nhanh quanh trục của nó. Hình dung này được minh họa ở hình 6/a đối với giả hạt trung hòa và ở hình 6/b đối với giả hạt mang điện tích nguyên tố dương.
Chúng ta cho rằng các giả hạt KG đơn và bội chính là những “vật liệu” cơ sở để kiến tạo nên những thực thể KG có tính hạt nổi trội hơn tính dây, nghĩa là có sự thể hiện về nội tại tơng đối rõ ràng hơn, ổn định hơn. Chúng ta gọi những thực thể đó là những hạt KG giả dây vì chúng vẫn còn lan truyền được với vận tốc rất lớn và khi lan truyền thì chúng bị “méo” đi, duỗi ra theo phương lan truyền trông như một đoạn dây phình ra ở khúc giữa, hay để dễ hình dung hơn, như dải Ngân Hà nhìn từ bên hông nó, cũng có thể trông như trái đậu đũa phình lên nhiều chỗ trên một chiều dài của nó. Tùy thuộc vào qui mô nội tại mà mỗi lọai hạt KG giả dây bị qui định một vận tốc lan truyền cực đại nhất định, mà nếu lan truyền một vận tốc này thì chúng không còn là chúng nữa vì nội tại của chúng đã bị phân rã đến mức độ nào đó. Phải chăng các hạt cơ bản mà vật lý học đã khám phá ra trong quá trình nghiên cứu thế giới hạ nguyên tử như: phôtôn, nơtron, điện tử, nơtrinô… chính là gồm một bộ phận thuộc về tập hợp dây KG bội và một bộ phận thuộc về tập hợp hạt KG giả dây?
Hình 6: Giả hạt và sự quay của chúng
Nhưng phải hình dung cấu trúc và hình dáng phổ biến của các hạt KG giả dây như thế nào cho có vẻ hợp lý? Có lẽ là thế này: hạt KG giả dây cũng được cấu tạo nên từ một dây KG bội duy nhất, nhưng dài hơn các dây KG giả hạt nhiều, thậm chí là rất nhiều. Khi định xứ, nếu các dây KG bội cuộn lại thành giả hạt trông như những khúc lò xo đơn, thì các hạt KG giả dây lại trông như những cuộn chỉ hình trụ với nhiều lớp dây hoặc như những cuộn len hình cầu (và cũng có thể là hình elipxôit).
Vì cũng chỉ được cấu tạo nên từ duy nhất một dây bội thôi nên các hạt KG giả dây cũng được chia làm hai loại trung tính và mang điện thể hiện ra với một điện tích nguyên tố.
Nói chung, sự phân biệt giữa dây KG bội giả hạt và hạt KG bội giả dây, về mặt bản chất, chỉ là tương đối. Mặt khác, có thể hình dung là các hạt KG giả dây đều có cấu tạo tương tự nhau, chỉ khác nhau về độ to nhỏ (số lượng dây đơn), về độ dài ngắn (số lượng các lớp dây) của sợi dây bội làm hình thành nên chúng. Trong quá trình vận động và tương tác với môi trường, do bị môi trường tác động mà sợi dây KG bội cấu thành một hạt KG giả dây nào đó có thể bị biến đổi về độ to nhỏ (thêm hay bớt số lượng dây KG đơn “bện” nên nó), về độ dài ngắn (bị đứt bớt hay được nối dài thêm), làm cho hạt KG giả dây đó chuyển biến thành hạt KG giả dây khác có qui mô nội tại to hoặc nhỏ hơn, mang điện hoặc trung hòa, đồng thời, cũng làm xuất hiện mới hoặc làm mất đi một vài hạt cũng như giả hạt KG trong môi trường. Nghĩa là, trong quá trình vận động và tương tác, hạt KG giả dây này có thể chuyển biến thành hạt KG giả dây khác. Cần phải coi sự chuyển hóa thành nhau giữa các hạt KG giả dây trong quá trình vận động và tương tác của chúng là một hiện tượng có tính thường xuyên phổ biến trong Vũ Trụ vi mô. Chỉ có như thế thì mới có được cái “hoạt cảnh” vận động, tương tác và chuyển hóa KG ở tầng qui mô hạ nguyên tử mà vật lý học đã chiêm nghiệm được.
Quá trình vận động để duy trì tồn tại của các hạt KG giả dây, sẽ làm xảy ra sự tương tác giữa chúng với nhau, chuyển biến nhau từ hạt này thành hạt khác, những hạt cũ biến mất để thay vào đó là những hạt mới. Nhưng không phải chỉ có thế, trong một điều kiện hoàn cảnh thích hợp của môi trường không gian, sự tương tác giữa những hạt KG giả dây còn dẫn đến kết quả không những chúng không “phá hủy” nhau mà còn “giúp nhau” cùng tồn tại bằng cách điều chính sự vận động của nhau để liên kết với nhau hợp thành một hệ thống vận động cân bằng (tương tự như sự cộng sinh trong thế giới sinh vật?).
Có thể định nghĩa hệ thống KG là sự hợp thành của hai hay nhiều thực thể KG có qui mô, cấu trúc nội tại, đặc tính tương đối giống nhau hoặc khác nhau, thông qua tương tác mà ràng buộc nhau, liên kết phối hợp nhau để cùng vận động một cách cân bằng. Tuy nhiên, cần thấy rằng, quan sát ở một góc độ thích hợp hay theo một qui ước nhất định, hệ thống KG cũng chính là một thực thể KG. Chẳng hạn, tùy thuộc vào mục đích trong việc tìm cách giải thích căn nguyên của Tự Nhiên Tồn Tại mà chúng ta đã có lúc hình dung nó như một hệ thống gồm hai hạt  trái dấu quay quanh nhau, nhưng cũng có lúc hình dung nó như một hạt xoáy nội tại mạnh mẽ. Hoặc chẳng hạn như trong quan sát thiên văn, hình ảnh các thiên hà là những khối liền lạc với tên gọi chung nhất là “vật thể”, nhưng xét theo khía cạnh khác thì chúng chính là một hệ thống vận động cân bằng gồm nhiều sao quay xung quanh một thực thể trung tâm gọi là Lỗ Đen. Vậy, cũng có thể tạm định nghĩa thực thể là gồm một hay nhiều hệ thống liên kết với nhau theo cách thức nào đó, hợp thành.
Rõ ràng là trong Vũ Trụ vĩ mô cũng như vi mô, có nhiều kiểu, loại hệ thống, hay có thể nói, hệ thống KG có tính đa dạng. Tuy nhiên, có thể suy lý ra được dạng gốc, dạng cơ sở, dạng đóng vai trò là xuất phát điểm của đa dạng các hệ thống KG chính là hệ thống được gọi là “hệ hành tinh”. Thường mỗi khi nói đến hệ hành tinh, chúng ta mường tượng ngay ra một hệ vận động mà trong đó có một hay nhiều thực thể vật chất quay quanh một thực thể trung tâm có lực lượng nội tại to lớn vượt trội hẳn, đóng vai trò như là “chủ thể” của hệ vận động đó. Mường tượng như vậy, về mặt thực dụng, nhiều khi là thỏa đáng, song, xét về mặt lý thuyết thì chưa thật chính xác. Cần thấy rằng, do bản chất của tác động (lực) giữa các thực thể với nhau là tương hỗ, và cũng do nguyên nhân sâu xa là KG phải chuyển hóa đến tận “chân tơ kẽ tóc”, nên một hệ hành tinh vận động tự nhiên (nghĩa là có tính điều hòa, không bị cưỡng bức, được coi như tự thân vận động) bao giờ cũng là hệ mà tất cả các thực thể hợp thành nó đều vận động quanh một điểm chung gọi là điểm cân bằng động hay còn gọi là trọng tâm của cả hệ thống.
Với quan niệm trên thì hạt khi định xứ chính là một hệ hành tinh và được coi là hệ thống vận động KG nhỏ nhất, mang ý nghĩa hệ thống đơn vị nhỏ nhất mà Vũ Trụ có (nếu không kể đến hạt KG ).
Sự định xứ của các hạt KG chỉ mang tính nhất thời và coi như không phổ biến. Một hạt  trong hầu hết thời gian tồn tại của nó luôn lan truyền trong không gian. Lúc đó, nội tại của hạt dù có thể hiện ra thì cũng rất mờ nhạt (thậm chí là không thể hiện) và đó là một hệ thống vận động không còn mang tính hành tinh nữa, hay có thể gọi đó là “hệ thống phi hành tinh”. Hệ thống này là cơ sở trực tiếp của các hệ thống làm nên nội tại các dây KG. Khi các dây KG định xứ thì biến thành các giả hạt và nội tại các giả hạt này được gọi là các hệ thống vận động “giả hành tinh” (trong như một lò xo xoay quanh trục của nó). Đến lượt các giả hạt tương tác với nhau và trong những điều kiện phù hợp thì làm xuất hiện các hạt KG giả dây mà nội tại của chúng rất có thể được thấy như những hệ thống vận động lưỡng tính: vừa có tính hành tinh vừa có tính phi hành tinh (hay giả hành tinh).
Trong số các hạt KG giả dây (những thực thể KG mà khi lan truyền với vận tốc rất cao (nhưng vẫn nhỏ hơn vận tốc cực đại được qui định cho chúng) thì thể hiện ra như một dây sóng (hay cũng có thể như một bó dây sóng) tương tự như dây KG bội giả hạt, nhưng vẫn còn thể hiện rõ rệt sự tồn tại một nội tại của chúng, nghĩa là cùng một lúc thể hiện ra cả tính sóng lẫn tính hạt, và khi định xứ trở lại mà vẫn không bị “sứt mẻ” do tương tác với môi trường gây ra thì chuyển biến trở lại thành hạt KG giả dây có cấu trúc như ban đầu, lúc trước khi lan truyền), có ba loại hạt chủ yếu, đóng vai trò quyết định đến việc làm hình thành nên một tập hợp các hệ thống vận động KG kiểu hành tinh dựa trên cùng một nguyên tắc cấu tạo, đó là các hạt điện tử (electron) prôtôn và nơtron. Các hệ KG hành tinh này, dưới góc độ quan sát khác, chính là những nội tại của những hạt KG mới. Loại hạt KG mới này hợp thành một tập hợp được vật lý học đặt cho một tên chung là “nguyên tử”.
Về mặt cấu tạo và vận động, nội tại nguyên tử gồm một thực thể trung tâm gọi là “hạt nhân” và các điện tử lan truyền xung quanh nó (tất nhiên là theo cách rất khác chứ không như cách quay giản đơn của các hành tinh xung quanh Mặt Trời của Thái Dương Hệ). Theo vật lý học ngày nay, hạt nhân nguyên tử được hợp thành từ hai loại hạt cơ bản là prôtôn và nơtrôn. Trong khi nơtrôn là hạt trung tính thì hạt prôtôn là hạt mang đúng một điện tích dương. Ở trạng thái bình thường thì một nguyên tử luôn trung hòa về điện và tùy thuộc vào số lượng prôtôn trong hạt nhân mà số lượng điện tử của nguyên tử được xác định (hai số lượng đó luôn bằng nhau khi nguyên tử ở trạng thái trung hòa điện). Nguyên tử có lực lượng KG nhỏ nhất là nguyên tử Hydrô, chỉ gồm hạt nhân là một hạt prôtôn và một điện tử quay quanh nó.
Đến đây đã có thể mường tượng đại khái thế này: hạt là thực thể nhỏ nhất, đóng vai trò đơn vị tuyệt đối cấu thành nên mạng khối không gian nếu quan sát Vũ Trụ ở góc độ vi mô, hay môi trường chân không, nếu quan sát Vũ Trụ ở góc độ vĩ mô, hạt là thực thể nhỏ nhất, đóng vai trò đơn vị tuyệt đối, trực tiếp làm hình thành nên các hực thể dây giả hạt mà nhỏ nhất trong số chúng là ; từ quá trình vận động và tương tác của các thực thể đó mà xuất hiện các loại hạt giả dây để rồi làm hình thành nên một tập hợp các thực thể được gọi với một tên chung là “nguyên tử” mà nhỏ nhất là nguyên tử Hydrô. Chúng ta cho rằng có thể coi nguyên tử đã là một hạt thực sự vì khi chuyển động với vận tốc dưới giá trị cực đại qui định cho nó, dù có thể bị biến dạng ở mức độ nào đó và theo cách nào đó thì vẫn có thể hiện là “một khối” KG chứ không như một dây KG. Nói cách khác, theo chúng ta thì nguyên tử là một vật mà tính hạt lấn áy hẳn tính sóng, nghĩa là chuyển động tự do của nguyên tử trong chân không (không bị ngoại lai tác động), nếu chưa hẳn thì cũng đã “trông” gần giống như một chuyển động thẳng đều.
Sự hình dung của chúng ta về một không gian thể hiện ra là một khối mạng ở tầng sâu vi mô và là một môi trường chân không đồng nhất ở tầng vĩ mô đã dẫn đến quan niệm: Không gian Vũ Trụ ở tầng vĩ mô có tính chất của không gian Ơclít, còn không gian Vũ Trụ ở tầng vi mô thì có tính chất của không gian phi Ơclit. Có sự phân biệt như vậy là do sự chi phối chủ quan của thực thể quan sát và nhận thức. Một cách khách quan thì Vũ Trụ là một thể thống nhất không thể tách rời hay phân chia được, cho nên có thể noi rằng: không gian Vũ Trụ có tính chất vừa Ơclit vừa phi Ơclit, tính ơclit càng ngày càng nổi trội và trở nên hoàn toàn lấn át theo chiều từ tầng nấc vi mô đến tầng nấc vĩ mô, ngược lại, tính phi Ơclit càng ngày càng nổi trội và trở nên hoàn toàn lấn át theo chiều từ tầng nấc vĩ mô đến tầng nấc vi mô. Nếu chuyển động tự do của nguyên tử đúng thật là có thể coi như “gần đúng” một chuyển động thẳng đều thì cũng có thể qui ước ranh giới giữa Vũ Trụ vĩ mô và Vũ Trụ vi mô “nằm ở” kích thước nguyên tử (khoảng 10-8cm). Với khoảng cách 10-8cm là bắt đầu thuộc về Vũ Trụ vi mô. Như vậy, tập hợp các nguyên tử bắt đầu từ nguyên tử Hydrô chính là tập hợp những thực thể KG nhỏ nhất của Vũ Trụ vĩ mô và đồng thời cũng đóng vai trò là những đơn vị đầu tiên cấu thành nên vạn vật của Vũ Trụ ấy.
Tương tự như nội tại hạt nội tại nguyên tử Hydrô cũng gồm hai thực thể KG là điện tử mang một điện tích âm và prôtôn mang một điện tích dương tương tác điện với nhau, liên kết hợp thành một hệ thống vận động kiểu hành tinh. Vì khối lượng prôtôn lớn hơn rất nhiều so với khối lượng điện tử nên có thể coi điện tử quay xung quanh Prôtôn. Vì ở tầng dưới 10-8cm đã thuộc Vũ Trụ vi mô, nghĩa là tính phi Ơclit của không gian đã bắt đầu nổi trội hơn tính ơclit, hơn nữa, khi lan truyền với vận tốc lớn, điện tử trở thành một giả dây (đúng hơn là một “bó” giả dây, còn gọi là “bó sóng”), cho nên không những sự quay của điện tử không thể “trơn tru và bằng phẳng”, mà còn không theo một quĩ đạo hoàn toàn các định như quĩ đạo (tròn, elip) của các hành tinh hiện hữu trong Vũ Trụ vĩ mô.
Chúng ta cho rằng, trong thực tại khách quan tồn tại một nguyên lý gọi là “nguyên lý cân bằng động”. Nguyên lý này phát biểu” vận động của mọi hệ thống KG luôn được duy trì trong tình trạng cân bằng động học, và nếu tác động từ môi trường làm biến đổi vận động mà không phá hủy hệ thống KG thì quá trình được tình trạng cân bằng động của nó. Từ nguyên lý phổ quát này có thể suy ra được định luật tác động tương hỗ. Khi chúng ta nói một hệ thống KG nào đó bị mất cân bằng vận động thì sự mất cân bằng ấy chỉ có ý nghĩa tương đối và đã được đặt trong qui ước.
Nhờ có nguyên lý cân bằng mà khi sự tác động của môi trường đến vận động nội tại của nguyên tử Hydrô được cho là ổn định, bình thường, thì ở một mức độ nhất định, có thể diễn tả chuyển động của điện tử quanh hạt prôtôn trong không gian phi ơclit vi mô như một chuyển động tròn đều trong không gian ơclit vĩ mô. Phải chăng vì thế mà nhà vật lý Bohr, vào năm 1913, dựa trên những phát kiến của Planck và Anhxtanh về tính gián đoạn của năng lượng bức xạ cũng như năng lượng ánh sáng, đã nêu ra hai định đề để từ đó xây dựng nên học thuyết mang tên ông (cho rằng quĩ đạo quay của điện tử là quĩ đạo tròn), giải thích thành công nhiều hiện tượng xảy ra đối với nguyên tử Hydrô?
Nguyên tử Hydrô được hợp thành từ hai thực thể mang điện tích nguyên tố trái dấu nên nó trung hòa về điện, nghĩa là xung quanh nó không tồn tại một trường điện nào cả, vì nếu hai thực thể đó có thực sự tạo ra hai điện trường trái dấu thì chúng cũng đã làm triệt tiêu nhau. Tuy nhiên, thật khó hình dung về sự tồn tại một điện trường (hay một điện từ trường) do hạt đứng yên một chỗ (hay đang lan truyền) gây nên. Giả sử rằng khi một prôtôn (hay một điện tử) định xứ một chỗ thì nó có tạo ra xung quanh nó một điện tĩnh điện không? Theo quan niệm của chúng ta thì tất nhiên là không rồi, vì dù prôtôn (hay điện tử) có định xứ thì nó vẫn phải vận động nội tại (xoáy KG) để đảm bảo cho chuyển hóa KG được kịp thời. Nghĩa là hạt điện tích nguyên tố dương (hay âm, ) vẫn phải lan truyền với vận tốc cực đại C trong một phạm vi không gian nào đó, và như vậy, nó chỉ có thể tạo ra xung quanh nó một trường điện từ như vật lý học đã hình dung. Nhưng theo quan niệm của chúng ta, là thực thể KG nhỏ nhất tuyệt đối trong Vũ Trụ thực tại, trong khoãng thời gian ngắn tuyệt đối chỉ tương tác với một hạt khác trái dấu với nó hay với một tiếp giap với nó, cho nên nó không thể tạo ra một trường tương átc điện từ xung quanh nó được. Có điều, khi trong không gian xung quanh cùng không gian chứa hai hạt mang điện tích nguyên tố trái dấu ấy trở nên biến thái, tạo nên một “tình thế ưu tiên” cho chúng tiến về phía nhau, và một cách hình thức, coi như chúng hút nhau với một lực tính theo công thức Culông.
Tình hình sẽ ra sao khi trong miền không gian tầng vi mô quanh prôtôn cùng một lúc xuất hiện hai điện tử? Có thể rằng ở tầng vi mô hạ nguyên tử, khi tính phi ơclit đã trở nên nổi trội thì tính đồng nhất và đối xứng đã bị xêm phạm, do đó đối với prôtôn, dù có hai hướng ưu tiên lựa chọn lan truyền nhưng có một hướng được ưu tiên lan truyền hơn hướng kia. Tình hình đó làm cho chỉ có một điện tử tương tác hút nhau được với prôtôn, tạo nên hiện tượng, trung hòa về điện. Phải chăng đây chính là nguyên nhân sâu xa nhất làm cho không thể tồn tại loại nguyên tử có cấu trúc gồm số điện tử nhiều hơn số prôtôn trong hạt nhân?
Nhưng vì sao bị hút như vậy mà điện tử không rơi vào hạt nhân của nguyên tử? Có thể là do hai hạt điện tích nguyên tố không hề đứng yên một chỗ mà luôn phải lan truyền theo chiều xoáy nội tại của điện tử và prôtôn, cho nên ngoài lực hút Culông ra còn một lực nữa gọi là từ lực. Tổng hợp hai lực đó làm cho điện tử không thể “rơi vào” Prôtôn được mà phải quay quanh nó theo một quĩ đạo cân bằng nào đó trong không gian vi mô phi Ơclit. Dù có như thế, nghĩa là dù có tồn tại tương tác điện từ trong nội tại nguyên tử hydrô thì cũng không phải vì thế mà hiện diện trường điện từ trong đó, nhưng có một cách hình thức, có thề dùng lý thuyết trường điện từ để giải thích một cách định tính hiện tượng, tương tự như trong trường hợp vận động nội tại hạt .
Trong tập hợp nguyên tử, nếu Hydrô là nguyên tử có lực lượng nội tại nhỏ nhất thì nguyên tử Hêli có lực lượng nội tại nhỏ thứ nhì. Nó có hai điện tử và một hạt nhân gồm hai prôtôn và hai nơtrôn. Có thể xếp tập hợp nguyên tử theo thứ tự tăng dần số lượng prôtôn từ 1, 2, 3… và qua đó mà cũng theo chiều hướng tăng dần số lượng nơtrôn như bảng tuần hoàn Menđêlêép đã thể hiện. Có hai điều đáng chú ý về cấu tạo nguyên tử là số lượng prôtôn và số lượng điện tử luôn bằng nhau (khi nó ở trạng thái trung hòa về điện), cón số lượng nơtrôn, trừ trường hợp Hydrô ra, luôn cân bằng hoặc lớn hơn số lượng prôtôn.
Như đã biết, hai thực thể mang điện tích trái dấu thì đẩy nhau. Nhưng vì sao các prôtôn lại “đoàn tụ” với nhau được và cùng với nơ trôn hợp thành hạt nhân nguyên tử. Vật lý học ngày nay chỉ ra rằng đó là nhờ giữa các hạt tạo thành hạt nhân tồn tại một lực hút đặc biệt gọi là lực hạt nhân. Cũng theo vật lý học, về mặt tác động và các tính chất, lực hạt nhân phức tạp hơn rất nhiều sơ với lực tĩnh điện và nhất là không phụ thuộc chút gì vào điện tích của các hạt prôtôn. Proton với prôtôn, nơtrôn với nơtrôn, prôtôn với nơtrôn, tất cả đều hút nhau với những lực gần giống nhau. Đặc tính lạ nhất của lực hạt nhân là bán kính tác động cực kỳ nhỏ của nó. Ở khoảng cách chừng 10-13cm, lực hạt nhân hút hai proton lại với nhau lớn gấp 40 lần lực đẩy tĩnh điện giữa chúng. Nếu tăng khoảng này lên 4 lần, lực hút hạt nhân sẽ bằng lực đẩy tĩnh điện. Còn nếu tăng lên 25 lần, lực đẩy tĩnh điện  sẽ lớn hơn lực hút hạt nhân tới 106 lần. Mặt khác, các nhà vật lý đã có đủ lý lẽ để giả định rằng ở khoảng cách nhỏ hơn 0,5.10-13cm, tác động hút của lực hạt nhân thay đổi đột ngột và trở thành tác động đẩy còn mạnh hơn thế nữa.
(còn tiếp)