Những năm tháng không quên

       Nhận được sách tặng của thầy Chi Phan, đọc ngấu nghiến. Cuốn sách gợi đoạn ký ức những năm tháng học tập ở Trường Văn hóa Quân đội Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi.
       Nhân dịp này, giới thiệu với các bạn nội dung cuốn sách - những đoạn có liên quan đến thời gian học tập tại trường
.
 

[...]

Công tác ở Bộ Tư lệnh Pháo binh 531 được gần một năm thì Quang phải xa Hà Nội. Trợ lý văn hóa của Tổng cục Chính trị, Đại úy Đào Châu điều anh về dạy văn ở trường Văn hóa Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi…

Buổi đầu, trường tạm ở Trại Cờ, Trại Hòe, tỉnh Bắc Giang để chiêu sinh. Anh từ biệt bố Lân, xách túi du lịch sọc đỏ và chiếc đàn viôlông, đi tàu hỏa lên nơi tập kết. Người đầu tiên gặp là Nguyễn Thân Bổng, đẹp trai, giáo viên vật lý; tiếp theo là anh Nguyễn Đỗ, người miền Nam, tổ trưởng tổ văn.

Năm 1965, tình hình chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ra miền Bắc ngày càng ác liệt. Thầy trò nhà trường khẩn trương sơ tán lên xã Yên Mỹ, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên để giảng dạy, học tập. Trường có gần 1.200 học sinh từ lớp 5 đến lớp 10 (hệ trung học phổ thông 10 năm); hầu hết là con em bộ đội, cán bộ cao cấp, đang tham gia chiến đấu ở miền Nam. Ngày 15 tháng 10 năm 1965, “mái trường sinh ra trong khói lửa” này làm lễ thành lập ở gốc đa Đại Từ, xã Yên Mỹ (sau là xã Mỹ Yên).

Cũng tại đây, ngày 18 tháng 5 năm 1966, nhân tối tập trung toàn trường để phát động thi đua dạy tốt, học tốt, Hồng Quang đã đọc bài thơ dài: “Đêm nay bên rừng Việt Bắc” chúc mừng:

Đêm nay bên rừng Việt Bắc

Tôi lắng nghe

Cây cỏ rì rầm

Suối khe thầm nhắc:

Đất anh hùng gieo hạt giống mùa xuân

Vạt lúa, vồng khoai, nương sắn nhân dân

Các thày giáo, cô giáo và học sinh nghe xong bài thơ, ai cũng xúc động như tác giả nói hộ lòng mình. Chính ủy nhà trường Bùi Khắc Quỳnh đến bắt tay và cảm ơn Hồng Quang… Ngay ngày hôm sau, bộ đội doanh trại và học sinh cấp III lội qua suối Bom Bom, vào rừng đẵn tre nứa, cắt cỏ tranh về dựng các lớp học và nhà ở. Có một chuyện buồn với nhà trường. Em Lâm Duy, con Đại tá Lâm ở Bộ Tư lệnh Pháo binh, đang hăng hái lao động cùng các bạn trong rừng thì bị một cây đã thối gốc lâu ngày đổ vào, đè chết. Thầy trò thương xót trò làm lễ tang. Em trở thành liệt sĩ đầu tiên của Trường Văn hóa Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi.

Tổ văn cấp II, ở Trại Cau, xã Yên Mỹ. Tổ trưởng là anh Cao Cự An. Các tổ viên có: Phùng Văn Bảo, Bùi Đức Thuận, Nguyễn Phượng Chử và Phạm Đình Trọng (từ Lào về). Anh em trong tổ luôn đoàn kết giảng dạy.

Trường sơ tán, giảng dạy và học tập ở Yên Mỹ được gần một năm. Ngày 17 tháng 7 năm 1966, Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn quốc chống Mỹ, cứu nước. Chiến tranh ném bom phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ ngày càng dã man hơn. Lệnh của Tổng cục Chính trị - Bộ Quốc Phòng phải chuyển trường sang Trung Quốc. Thày, trò phải nghỉ dạy, học cấp tốc hành quân về Hà Nội, lên tàu hỏa, xa Tổ quốc.

Thày trò lên tàu liên vận, qua thành phố Nam Ninh rồi tới thành phố Quế Lâm, thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Ban đầu, mọi người ở tạm trường Y – Trung. Trường toàn nhà một tầng rỗng không vì thầy trò họ đi tham gia Cách mạng Văn hóa, làm Hồng Vệ binh tại các nơi. Trường ở gần núi Ốc, có sân vận động, rộng dăm hécta.

Hồng Quang cùng nhà trường, chân ướt chân ráo tới Quế Lâm thì thời tiết ở đây rất rét và ẩm ướt. Đáng nói là, toàn thành phố đang có dịch viêm màng não, chết nhiều người. Thầy trò vừa phải ổn định chỗ ăn ở vừa lo lắng phòng chống dịch. Các bác sĩ, y tá túc trực ngày đêm bên học sinh và giáo viên các khối lớp để đo nhiệt độ, chăm sóc từng bữa ăn, giấc ngủ, chống lây lan dịch bệnh…

Mặc dù phòng và chống dịch quyết liệt nhưng chuyện buồn vẫn xảy ra: Em Hòa, học sinh Đại đội 5, mới 12 tuổi, không qua được, mất tại bệnh viện thành phố Quế Lâm. Để xua đi không khí lo toan, ảm đạm, nhà trường tăng cường hoạt động văn hóa – văn nghệ ở các khối lớp.

…Gần một năm tá túc ở trường Y – Trung cũ, cũng có một số vụ việc không vui do một số em học sinh gây nên, khiến Hồng Quang cùng với giáo viên phải suy nghĩ nhiều…

Số là, trường ở gần vườn đồi, nông dân Trung Quốc trồng nhiều cam. Tới mùa, cây nào cũng trĩu quả song còn non. Thế nhưng một học sinh khối cấp II, lợi dụng đêm tối, đột nhập vào vườn hái trộm về ăn vô tội vạ. Cam còn chua đắng, không ăn nổi, vứt bừa bãi. Một số bà con “thâm ý”, hái luôn một xe tải cam non “tặng” nhà trường!…

Lại nữa, bạn đang tiến hành Cách mạng Văn hóa. Hình ảnh Chủ tịch Mao Trạch Đông “thiêng liêng” lắm, treo khắp nơi. Một học sinh nhỏ tuổi, dùng súng cao su bắn vỡ một mảng kính. Bạn biết, phản ứng dữ dội. Nhà trường phải mở một cuộc điều tra, tìm trẻ nào nghịch dại dột. Trong vụ việc này, có thầy Hoàng Văn, giáo viên dạy tiếng Nga chứng kiến.

Hồng Quang thực sự đã khóc khi biết chuyện của thầy. Thường vậy, sau giờ lên lớp, hình ảnh một người thầy đứng tuổi, trắng trẻo, đẹp lão đeo kính trắng, rất trí thức. Thầy cầm ghita, solo những bản nhạc cổ điển và cách mạng… Xa gia đình, vợ con, tập kết ra Bắc năm 1954, thầy thủy chung, sống với đàn em nhỏ của nhà trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi. Thầy lòng dặn lòng, rèn luyện, tu dưỡng, mong trở thành đảng viên.

Song chuyện không may ập đến, ảnh hưởng không tốt đến quan hệ hai nước Việt – Trung. Vì vậy, Trung ương cử cán bộ từ bên nước sang điều tra. Ông cán bộ này thấy thầy Hoàng Văn được học sinh yêu mến, sẽ biết rõ em nào gây ra vụ việc nên động viên, thuyết phục nhiều lần, nói: “Nếu anh cho tổ chức biết “thủ phạm” thì chúng tôi sẽ có cơ sở báo cáo với nhà trường, kết nạp anh vào Đảng…”. Thầy Hoàng Văn lắc đầu từ chối. Và thế là thầy không được kết nạp vào Đảng cho tới ngày trở về miền Nam, khi đất nước thống nhất.

Sau này, trước lúc đi xa, thầy tâm sự với vợ và gia đình: “Các em học sinh nhà trường lúc đó còn trẻ dại, nghịch ngợm, khác gì con cháu mình. Việc làm đó là vô thức… Vì thế nên tôi không bao giờ vì quyền lợi riêng tư mà nói ra tên em đó. Nếu làm như vậy thì còn gì là thầy Hoàng Văn của các em mà tôi hằng yêu mến!”

Đó là tình đời, tình người, là nhân văn, nhân nghĩa của thầy Hoàng Văn.

Thời gian ở trường Y – Trung cũ vẫn chưa hết chuyện. Nguồn gốc bồ Tây, bồ Ta xuất phát từ học sinh cấp 3 – lớp 8. Hồi đó khóa này có một số em quậy phá, thầy cô phải chọn vài học sinh chững chạc theo dõi, kịp thời báo cáo cấp trên ngăn chặn và giáo dục. Vô hình trung hình thành hai nhóm mâu thuẫn nhau, gọi là “Bồ Tây”, “Bồ Ta”; dẫn đến cãi cọ, thậm chí ẩu đả nhau sau giờ học.

Trước tình trạng này, một số giáo viên phải rời hiệu bộ, xuống ở cùng học sinh. Hồng Quang được phân công xuống lớp do em Tống Thái Liên làm lớp trưởng. Thầy trò đang vui vẻ, bỗng có em học sinh (sau này đi bộ đội thành liệt sĩ chống Mỹ) cầm thanh sắt đuổi bạn Hà Chí đang chạy vào cầu cứu thầy. Quang lập tức xô Chí vào góc tường, lấy thân mình che đỡ cho em và nói: “Có thầy đây em, không được đánh bạn! Không được đánh bạn!...”

Em kia xin lỗi anh và rút lui ra ngoài. Chuyện bồ Tây, bồ Ta lan ra các khối lớp khác. Mãi sau này mới chấm dứt được.

Để thay thế trường Y – Trung cũ, bạn đã xây khu trường mới ở Phong Khẩu (cửa gió), cách xa thành phố Quế Lâm hang chục kilômét. Trường có nhiều nhà hai tầng, khang trang, rộng rãi. Đường đi lối lại đều lát bê tông xi măng. Đó là sự cố gắng lớn của địa phương bạn đối với Việt Nam. Bởi lẽ, tình hình Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc ngày càng gay gắt, quyết liệt.

Ngay từ đầu tháng 1 năm 1967, Hồng Quang cùng nhà trường, sang đây đã chứng kiến hai phái Liên chỉ, Tạo phản  “đấu văn” với nhau. Trong những bức tường lớn ở nơi công cộng, hai phái viết chữ to ở bên phải hoặc bên trái, nói xấu, bài xích nhau.

Sang năm 1968, phong trào Cách mạng Văn hóa trở nên quyết liệt nhất. Nhiều nơi chuyển từ “đấu văn” sang “đấu võ”. Hai phái chém giết, bắn bỏ nhau. Thành phố Quế Lâm có thời gian bị cúp điện. Điều đặc biệt là, cả hai phái đều ủng hộ nhà trường Việt Nam ở Phong Khẩu. Họ thường xuyên cung cấp lương thực, thực phẩm; khiêng máy nổ tới khi mất điện. Nhà bếp thiếu chất đốt, họ chặt cả rừng thông trên núi xuống, phơi làm củi để đun nấu.

Hồng vệ binh Cao Cẩm Quỳ, nguyên là học sinh trường Y – Trung, làm liên lạc viên tích cực giữa nhà trường với hai phái. Anh tiếp xúc thường xuyên với Chính ủy Bùi Khắc Quỳnh và Hiệu trưởng Dương Hưng Tuấn. Học sinh gọi anh bằng cái tên mới, thân mật: Cao Tư lệnh…

Trường ở Phong Khẩu, giáo viên các bộ môn, biên chế đầy đủ. Dạy môn văn cấp III có: Nguyễn Đỗ, Hồng Quang, Hoàng Xuân Tạp, Võ Trí Mật, Hoàng Sảng. Ngoài giảng dạy văn học lớp 9, Quang còn được phân công bồi dưỡng học sinh đi thi giỏi văn miền Bắc ở trong nước. Công việc thật mới mẻ nhưng anh tận dụng vốn hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân, tích cực bồi dưỡng cho em có năng khiếu để dự thi. Kết quả, nữ học sinh Châu Nguyên đã đoạt giải nhì môn văn toàn miền Bắc. Các thầy cô và Ban Giám hiệu nhà trường đã tới chia vui, chúc mừng thầy trò Hồng Quang.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, có hai thầy giáo và 28 học sinh Trường Văn hóa quân đội – Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi chiến đấu, hy sinh anh dũng. Trong số này có anh hùng liệt sĩ Huỳnh Kim Trung và liệt sĩ Võ Dũng, con trai cả Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Hồng Quang đã viết:

“Hình ảnh Võ Dũng cứ chập chờn trước mắt tôi. Bởi lẽ, hồi năm 1965, em vào trường, tôi cùng mấy thầy khác đã trực tiếp giảng dạy Võ Dũng và bốn em khác ở lớp “đặc biệt” một thời gian. Em khỏe mạnh; có gương mặt hao hao giống cha; hiếu động và rất lễ phép với các thầy giáo.

Sau này biết tin má Trần Thị Kim Anh và hai anh em Phan Ánh Hồng, Phan Chí Tâm đã mất vì bom đạn Mỹ - ngụy bắn rốc két xuống tàu Thuận Phong đang chạy trên sông Sài Gòn lên thăm ba ở chiến khu. Em uất nghẹn căm thù, tha thiết xin với nhà trường nghỉ học, về nước chiến đấu trả thù cho người thân. Trước khi lên đường, em hứa với hai người đỡ đầu là dì Bẩy Huệ (vợ đồng chí Nguyễn Văn Linh ở 16B Nguyễn Biểu – Hà Nội) và cô Tư Duy Liên: “Dì và cô cứ yên tâm. Con quyết trả thù cho má và hai em. Lần này con đi “một – xanh cỏ, hai – đỏ ngực!”. Võ Dũng đã sống đúng với lời hứa đó.

Sau ba tháng huấn luyên quân sự ở Trường Quân chính Quân khu Tả ngạn, em đi dọc Trường Sơn rồi xin về quê má Kim Anh chiến đấu, thuộc Mặt trận T3 – Khu 9. Xuống đơn vị, Võ Dũng đã rèn luyện và phấn đấu hết mình để làm nhiều việc có ích. Em lặn lội đi trinh sát cùng đồng đội; no, đói gian khổ cùng chia sẻ. Nhìn bề ngoài cứ ngỡ Võ Dũng ngỗ ngược lắm, những đằm sâu bên trong là người giàu tình cảm, đầy nhân nghĩa, ân tình.

Thật không ngờ, ngày 21 tháng 4 năm 1972, em cùng hai đồng đội rơi vào ổ phục kích của địch. Ba anh em chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và đã anh dũng hy sinh. Võ Dũng ra đi mới 21 tuổi, trên quê hương má Trần Thị Kim Anh.

Tấm gương hy sinh của liệt sĩ Võ Dũng đáng khâm phục. Nợ nước, thù nhà quyết tâm trả; bất chấp mọi gian khổ, nguy nan đến tính mạng. Tình đời, tình người sâu nặng đến thế!”

Không chỉ với học sinh, tình cảm của Hồng Quang với đồng nghiệp cũng rất sâu sắc. Hồi ở Phong Khẩu, Quế Lâm, Trung Quốc, anh ở chung phòng với tổ trưởng Tổ văn Nguyễn Đỗ. Bạn bè thấy vậy đều xì xào:

- Cậu Quang giỏi thật! Hằng ngày, dám chạm trán với ông “Trương Phi”.

Năm 1968, Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc mâu thuẫn diễn ra giữa hai phái Liên Chỉ và Tạo Phản ngày càng quyết liệt. Tháng 5 năm 1968, khóa 3 và khóa 4 của nhà trường về nước. Đến tháng 8 cùng năm, toàn trường cũng về nước. Thầy trò học sinh cấp II ở nhờ doanh trại đơn vị công binh huyện Trung Hà. Thầy trò học sinh cấp III ở doanh trại Trung đoàn Công binh Sông Thao, thị trấn Hưng Hóa, thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Hai nơi cách nhau 6 kilômét đường đê qua phà Trung Hà.

Mỗi lần từ Hà Nội lên Hưng Hóa, đi trên con đê này, Hồng Quang đã xúc động làm bài thơ “Con đê xanh”, trong đó có đoạn:

“…Con đê xanh

Dài như một bức thành ngăn lũ

Từng thước đất chất co lên quá khứ

Dãy mồ chôn cái kiếp khổ đau.

Tháng 7 lại về

Con lũ gối lên nhau

Đen nhãy mình trâu, mưa ngâu rí rắc

Ngô lúa mướt đồng xanh mát mắt

Um tùm vườn nhãn, vườn na

Con đê làng lảnh lót tiếng chim ca

Thị trấn Hưng Hóa chỉ có vài đường phố; về mùa hè, đỏ rực hoa phượng vĩ trên các hàng cây. Hoa quả như cam, quýt, chuối, bưởi ở đây rất rẻ. Địa phương chỉ có một cửa hàng bách hóa tổng hợp ở giữa thị trấn. Bà con nơi đây sống hiền lành, chan hòa, cởi mở. Thầy Chí Tâm dạy Nga văn, đã chọn cô mậu dịch viên đẹp người, đẹp nết làm một nửa của đời mình.

Ngót nghét 30 tuổi đời, vẫn phòng không, gối chiếc. Xong anh lại tự động viên: “Trai 30 tuổi đang xoan”, và yên tâm giảng dạy ở thị trấn Hưng Hóa gần hai năm, từ tháng 8 năm 1968 đến tháng 5 năm 1970. Sau đó, Trường Văn hóa Quân đội Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi làm lễ giải tán. Học sinh các khóa học dở dang, trả về gia đình để xin học ở những trường ngoài.

Các giáo viên nhà trường lên thành phố Lạng Sơn tập kết tại trường văn hóa cũ của quân đội. Nơi đây trường bổ túc văn hóa và dạy ngoại ngữ cho cán bộ quân đội để đi tu nghiệp ở nước ngoài.

[...]

(Trích đoạn cuốn tiểu thuyết Những năm tháng không quên của Nhà văn, Nghệ sĩ Ưu tú Chi Phan. NXB Hội Nhà văn. 2021)