Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2008

Nhân dịp sinh nhật lần thứ 97 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (25/8/1911 - 25/8/2008),

Start:     Aug 25, '08
Location:     Blog "Trường VHQĐ Nguyễn Văn Trỗi"

Nhân kỷ niệm lần thứ 97 của Võ Đại tướng, xin post lại kỷ niệm với ông nhân 40 năm Trường Trỗi.
Kiến Quốc


Xem bài viết:
1. BA MƯƠI PHÚT TIẾP KIẾN ĐẠI TƯỚNG - Kiến Quốc, 26/8/2008 - Blog "Trường VHQĐ Nguyễn Văn Trỗi"
2. Trao tặng kiếm lệnh và trống đồng cho Đại tướng - HữuThành, 28/5/2008 - Blog "Bạn Trường Trỗi"
3. THÔNG TIN CHƯA BIẾT: THƯ CỦA ĐẠI TƯỚNG GỬI THẦY TRÒ TRƯỜNG TA - Kiến Quốc, 23/5/2007 - Blog "Bạn Trường Trỗi"

0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Các Chi đội Vệ Quốc đoàn Nam bộ - HaMeoK6



CÁC CHI ĐỘI VỆ QUỐC ĐOÀN NAM BỘ



Các Chi đội Vệ Quốc đoàn Nam bộ trong thời gian từ CMT8 tới 1948 gồm có :

Chi đội 1 (Bình Xuyên) – hoạt động tại Tân Thuận - CH: ông Trần Văn Đối (6 Đối)
Trước đó có Chi đội 1 - hoạt động tại Thủ dầu Một – CH: ông Huỳnh Kim Trương (cò Trương) – sau giải thể
Chi đội 2 ( Bình Xuyên) - hoạt động tại Nhà Bè - CH: ông Đinh Văn Nhi (Hai Nhi) (bị địch bắt) – sau là ông Nguyễn Văn Chằng (Năm Chằng)
Chi đội 3 ( Bình Xuyên) - hoạt động tại Thủ Thiêm – CH: ông Từ Văn Ri (hy sinh) sau là ông Ngô Văn Lực (Mười Lực)
Chi đội 2 và Chi đội 3 do Ông Dương Văn Dương (Ba Dương) thành lập và trực tiếp nắm – sau khi ô. Ba Dương hy sinh, sát nhập thành Liên chi 2/3 – CH: ông Dương Văn Hà (Năm Hà)
Chi đội 4 (Bình Xuyên) - hoạt động tại Bà Quẹo – CH: ông Huỳnh Văn Trí (Mười Trí)
Chi đội 5 – hoạt động tại Tân An – CH: ông Phạm Hữu Đức (sau phản)
Chi đội 6 - hoạt động tại Thị Nghè – CH: ông Ba Nhỏ (sau bị xử) sau hoạt động tại Gia Định – CH: ông Nguyễn Văn Dung
Chi đội 7 (Bình Xuyên) - hoạt động tại Chánh Hưng – CH: ông Mai Văn Vĩnh (Hai Vĩnh)
Chi đội 8 ( Cao Đài) - hoạt động tại Tây Ninh – CH: ông   Nguyễn Hoài Thanh (Nguyễn  Văn Thành)
Chi đội 9 (Bình Xuyên) - hoạt động tại Phú Thọ - CH: ông Lê Văn Viễn (Bảy Viễn)
Chi đội 10 - hoạt động tại Biên Hòa – CH: ông Huỳnh Văn Nghệ (8 Nghệ)
Chi đội 11 - hoạt động tại Tây Ninh – CH: ông Trịnh Khánh Vàng
Chi đội 12 - hoạt động tại Hóc Môn / Bà Điểm – CH: ông Ba Tô Ký
Chi đội 13 (Tổng Công đoàn) “Chi đội Lý Chính Thắng” – hoạt động tại Gò Vấp / An Phú Đông – CH: ông Nguyễn Văn Bứa (Mười Thìn)
Chi đội 14 - hoạt động tại Tân An / Chợ Lớn – CH: ông Trần Văn Trà (Ba Trà) sau là ông Nguyễn Công Trung
Chi đội 15 - hoạt động tại Đức Hòa – CH: ông Huỳnh Văn Một (Út Một)
Các Chi đội 12, 14 và 15 sau hợp nhất thành Liên quân Hóc Môn / Bà Điểm / Đức Hòa – CH : ông Ba Tô Ký
Chi đội 16 - hoạt động tại Bà Rịa – CH: ông cò Vinh (phản – bị xử) sau là ông Hứa Văn Yến rồi ông Phan Đình Công
Chi đội 17 – hoạt động tại Mỹ Tho – CH: ông Phan Đình Lân
Chi đội 18 – hoạt động tại Trà Vinh – CH: ông Nguyễn Hữu Xuyến (Tám Xuyến)
Chi đội 19 – hoạt động tại An Hóa – CH: ông Đồng Văn Cống (Bảy Cống)
Chi đội 20 – hoạt động tại Trà Vinh / Vĩnh Long – CH: ông Ngô Văn Sung
Chi đội 21 (Bình Xuyên) - hoạt động tại Cần Giuộc – CH: ông Nguyễn Văn Hoạnh (Tư Hoạnh)
Chi đội 22 – hoạt động tại Vàm Cống, Long Xuyên - CH: ông Bửu Vinh
Chi đội 23 – hoạt động tại Rạch Giá - CH: ông Huỳnh Thủ (Bảy Thủ)
Chi đội 24 – hoạt động tại  Sóc Trăng - CH: ông Nguyễn Quốc Hùng (?)
Chi đội 25 (Bình Xuyên) – hoạt động tại Thủ Đức / Chợ Lớn - CH: ông Bảy Quai sau là ông Lâm Văn Đức (Tư Tỵ)
Chi đội 26 – hoạt động tại Châu Đốc / Hà Tiên - CH: ông Trần Đình Khôi (?)
Các Chi đội thành lập sau này (1947):

Chi đội 30 ( Hòa Hảo) “Chi đội Nguyễn Trung Trực”– hoạt động tại Chợ Mới, Long Xuyên - CH: ông Nguyễn Giác Ngộ
Chi đội 57 (tách ra từ Chi đội 13) – hoạt động tại Gò Dầu Hạ / Trảng Bàng – CH: ông Hoàng Thọ
Các Chi đội Hải ngoại về nước năm 1946 - 1947
Chi đội Hải ngoại I : hoạt động tại Tây Ninh / đông Campuchia - CH: ông Dương Tấn (Huỳnh Văn Vàng) – sau là ông Ngô Thất Sơn
Chi đội Hải ngoại II “bộ đội Quang Trung”: hoạt động Bạc Liêu / Cà Mau – CH: ông Phạm Ngọc Thuấn (Phạm Văn Thuận ?)
Chi đội Hải ngoại III “chi đội Trần Phú”: hoạt động tại Sa Đéc – CH: ông Nguyễn Chánh
Chi đội Hải ngoại IV tiểu đoàn “Cửu Long 2”: hoạt động tại Hà Tiên - CH: ông Dung Văn Phúc (Dương Quang Đông) – sau CH là ông Đào Mạnh Duệ

Ngoài ra còn có các Chi đội không thuộc Vệ Quốc đoàn (nhưng có rất nhiều chỉ huy và binh lính của các Chi đội này sau này tham gia Vệ Quốc đoàn):

Chi đội 7 ( Cao Đài) - hoạt động tại Tây Ninh – CH: ông Nguyễn Thanh Bạch (Nguyễn Thành Phương)
Chi đội An Điền (Đại Việt Quốc Dân Đảng) - CH: ông Bùi Hữu Phiệt (Trên danh nghĩa, Chi đội An Điền thuộc Đệ tam Sư Đoàn)
Bộ đội của các điền chủ:
CH: ông Ngô Hồng Giỏi - hoạt động tại Bình Thủy, Cần Thơ
CH: ông Lâm Quang Phòng - hoạt động tại Hà Tiên
CH: ông Trương Văn Khoát (Mười Khoát) - hoạt động tại Tân An, Cần Thơ
Các Chi đội thành lập sau 1947:
Chi đội 2 ( Hoà Hảo) – hoạt động tại Cần Thơ - CH: ông Trần Văn Soái (Năm Lửa)
Bộ đội Hoà Hảo – hoạt động tại Rạch Giá / Long Xuyên - CH: ông Lê Quang Vinh (Ba Cụt)
Bộ đội Hoà Hảo – hoạt động tại Long Xuyên / Châu Đốc - CH: ông Lâm Thành Nguyên (Hai Ngoán)
Bộ đội “Hắc Y” Cao Đài - hoạt động tại Tây Ninh - CH: ông Trịnh Minh Thế.

Đăng lại bài viết của Hà Mèo (đã đăng tại „Blog Út Trỗi”: Thứ sáu, ngày 29 tháng tám năm 2008)

1 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Thứ Tư, 27 tháng 8, 2008

Xem truyện ở trường - HaMeoK6






Xem truyện ở trường

 haeok6

Hồi trường mình lúc đã về Hưng Hóa, tôi không biết ai đã mang những cuốn truyện đó lên, nhưng là những cuốn như “Tam quốc diễn nghĩa”, “Thủy hử”, “Thuyết đường”… - hồi đó không còn xuất bản nữa - hay “Bồng lai hiệp khách”, “Hoàng giang nữ hiệp” - là những truyện kiếm hiệp nổi tiếng thời Tây, lúc bấy giờ đang bị cấm – toàn những truyện “mê ly”, hớp hồn cả bọn ở cái tuổi 14, 15. Mấy cuốn dầy như “Thủy hử” đều được tự động phân chia thành nhiều tập bằng cách xé ra từng xấp rồi truyền tay nhau xem.
Mà xem truyện cũng là 1 “mánh lới” lúc bấy giờ. Mượn được nó đâu phải dễ. Thường mấy đứa mượn được đàng hoàng hay tranh thủ xem vào giờ ngủ trưa, mà đứa nào “lỡ” ngủ mất là “toi”. Có đứa cẩn thận nhét xấp truyện xuống dưới gối, nằm lên cho chắc ăn. Và đấy cũng là việc chắc ăn cho tụi tôi, tụi chẳng biết làm sao mượn được mấy cuốn truyện đó cả. Chỉ đợi tụi nó ngủ rồi là mình lòn tay nâng đầu thằng bạn lên 1 cách nhẹ nhàng làm nhiều thằng lớ mớ cứ tưởng như đang ở nhà được mẹ nâng đầu khi ngủ vậy. Thế là tay kia rút ngay cuốn truyện ra. Thật mỹ mãn !
Nhưng tới lúc xem mới là “gay cấn”. “Thò” ra xem đàng hoàng nó đòi lại là xong. Chỉ có cách hay nhất mà cũng thích nhất là xem trong giờ học – không phải giờ Tự tu, vì lúc đó đứa nào cũng có thể tới “xem mày làm gì ?”.


Vậy là áp dụng ngay “chiến thuật copy” bài khi kiểm tra để xem. Nhiều khi ham quá, quên là trong giờ, khoái chí cười lớn bị thầy phạt thấy mẹ luôn. Mà tranh thủ ngay lúc mình bị phạt, thằng bên cạnh lập tức “chôm” luôn cuốn truyện - Phải thủ tiêu tang chứng để thầy không biết ! Thế là “họa vô đơn chí”!

Đó là thượng sách, còn hạ sách thì có thằng đợi tối tới, sau khi tắt đèn bèn trùm chăn lại đốt lên 1 cái đèn dầu riêng đã thủ sẵn trước đó để đọc. Cực kỳ yên tĩnh và không ai biết. Vấn đề ở chỗ là nếu chẳng may ngủ gục thì bỏ mẹ ngay và ngoài ra còn phải thường xuyên thò mũi ra ngoài hít thở “không khí trong lành” vài cái rồi mới tiếp tục được.
Các xấp truyện được trao đổi với nhau sau khi xem xong không theo 1 thứ tự, lớp lang nào hết. Việc xem phần đuôi trước, phần đầu sau là bình thường. Không những thế còn xem lẫn lộn 1 lúc nhiều truyện khác nhau nữa là. Tuy vậy tất cả đều mê mải “nghiên cứu” không sót từ nào rồi lại mang ra bình phẩm, trao đổi. Tôi nhớ, có thằng còn đọc vanh vách không sai chữ nào tới vài chục trang liền của 1 cuốn truyện mà nó có cơ hội giữ lâu – trong khi mấy câu dẫn chứng ngắn ngủn cho bài tập làm văn thì sai lên sai xuống, học mãi vẫn không vô !
Thiệt là hồi đó xem mấy cuốn truyện rách và thiếu trang (mà ngày nay tụi nhỏ gọi là Chưởng “thọt”) sao thấy hay thế và chẳng thể nào quên được. Sau này tôi có cơ hội xem lại 1 số truyện đó, nhưng đều cảm thấy không còn hay như xưa (?) Hay tại ngày nay NXB in thiếu !

Đăng lại bài viết của hameok6 (đã đăng tại „Blog Bạn Trỗi”: Thứ ba, tháng tám 26, 2008.
 




0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2008

Đại Nguyên soái - HaMeoK6



ĐẠI NGUYÊN SOÁI


Có bao nhiêu Đại Nguyên soái?
Tới nay, lịch sử Thế giới đã có 14 người được phong, được suy tôn hay tự nhận là Đại Nguyên soái (tiếng Anh: Field Marshal hay Grand Admiral, tiếng Đức: Generalissimus hay General der Generäle, tiếng Ý: Generalissimo, tiếng Nga: Генералиссимус) hay chính xác là Tướng của các vị Tướng.  

Trong cuộc Chiến tranh 30 năm (1618-1648) giữa Nhà thờ La Mã liên kết với Pháp chống lại Tập đoàn quý tộc Đức, Đan Mạch, Thụy Điển có tới 4 Đại Nguyên soái của cả 2 bên được phong. Trong đó có 2 Đại Nguyên soái của Đế quốc La Mã Thần thánh là:

Albrecht Wenzel Eusebius von Waldstein (1583-1634) người Séc.
Ông là Công tước xứ Friedland và Mecklenburg (thuộc Đức ngày nay) và là Ông hoàng xứ Sagan (thuộc Ba Lan ngày nay)
Ông là Tổng Tư lệnh Quân đội Hoàng gia Pháp trong Liên minh
Được Liên minh phong là Đại Nguyên soái của Đế quốc La Mã Thần thánh năm 1625
Năm 1634 ông bị các cận thận của Hoàng đế Pháp giết.
Johann t’Serclaes von Tilly (1559-1632) – người Bỉ
Ông là Nam tước xứ Villers-la-Ville trong Lãnh địa Công quốc Brabant (thuộc Bỉ ngày nay)
Ông là Tổng Tư lệnh Quân đội Nhà thờ trong Liên minh
Được Liên minh phong là Đại Nguyên soái của Đế quốc La Mã Thần thánh năm 1620
 

1 Đại Nguyên soái khác được Hoàng đế Pháp phong là:

Ruprecht von der Pfalz (1619-1682) – người Anh
Ông là Công tước xứ Cumberland (nay thuộc Anh)
Ông là Hoàng tử thứ 2 của vua Friedrichs V (Vua Boehmen - Séc) và con gái vua Jakobs I (Đảo quốc Anh và Ailen)
Ông theo Hoàng đế Pháp chống lại Cromwell (Quý tộc Anh)
Năm 1648: ông là Tư lệnh Hải quân Anh
Năm 1673: ông là Công tước (Lord) Đại Đô đốc Anh - được Hoàng đế Pháp phong là Đại nguyên soái các lực lượng Quân đội các Hoàng gia (sau chiến thắng Chiến tranh 30 năm).

 

Phe bên kia (Tập đoàn quý tộc Đức, Đan Mạch, Thụy Điển) cũng có 1 Đại Nguyên soái là:

Lennart Torstensson (1603-1651) – người Thụy Điển
Ông là Nam tước xứ Ortala (nay thuộc Thụy Điển)
Năm 1641 Ông được suy tôn là Đại nguyên soái – Người đứng đầu Đế chế và Viện Nguyên lão Thụy Điển.
Ông là Tư lệnh Quân đội Thụy Điển trong Chiến tranh 30 năm (1618-1648) và trong Chiến tranh chống Đan Mạch sau đó (1643-1645).
 

Các Đại nguyên soái khác trong lịch sử Trung đại là:

Friedrich von Hessen-Kassel (1676-1751) – người Thụy Điển
1718: Ông được vua Na Uy Karl XII phong hàm Đại nguyên soái (danh dự)
1720: Ông trở thành Vua Thụy Điển (Friedrich I.) 1730: Ông kiêm Toàn quyền xứ Hessen-Kassel (nay thuộc Đức)
Năm 1741: Ông là Nguyên soái Thụy Điển chỉ huy chiến tranh vệ quốc trước Nga hoàng (Thụy Điển thua trong Chiến tranh này).
Anton Ulrich von Braunschweig (1714-1776) – người Đức
Ông là Vua xứ Braunschweig (nay thuộc Đức)
Con thứ 2 của Công tước xứ Braunschweig-Bevern
1739: Ông cưới vợ là Nữ Nga hoàng và trở thành Đại nguyên soái - Tổng Tư lệnh Quân đội Nga
1740-1746: Ông trở thành Nga hoàng Ivan VI.
Alexander Wassiljewitsch Suworow Ryminkski (1729-1800) – người Nga
Năm 1786: Ông được phong Đại tướng
1788: Ông được phong các tước hiệu Bá tước Hoàng thân Ý - Bá tước của Đế quốc La Mã thần thánh
Ông là Tổng Tư lệnh thứ 4 và là cuối cùng của Nga hoàng chỉ huy các cuộc Chiến tranh (và toàn thắng): Chiến tranh Nga – Thổ (1768-1774), Bình định Ukraina và Crime (1779-1787), Chiến tranh Nga – Thổ (Đế quốc Ottoman) (1787-1791), Bình định Ba Lan (1794), Liên quân Áo – Nga chống Napoleon (1799-1801)
Năm 1794: Ông được phong Nguyên Soái
Năm 1799: Ông được phong Đại Nguyên Soái
Năm 1800: Ông bị Nga Hoàng đày đi Seberi và chết tại đây.

 

Thời Cận đại có các Đại Nguyên soái sau:

Zhang Zuolin / Trương Tác Lâm (1873-1928) – người Trung Quốc
Năm 1915: Ông lãnh đạo Chính phủ “Cộng hòa Trung Hoa” – Tập đoàn Quân phiệt Đông Bắc TQ – Ông là Tư lệnh Quân đội Đông Bắc TQ do Nhật hỗ trợ.
Năm 1926: Ông tự phong là Đại nguyên soái
Năm 1928: Ông chết vì bom Nhật.
Iosif Vissarionovich Stalin – người Gruzia / Liên Xô
Từ năm 1922 ông là Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô
từ 1941: Ông là Chủ tịch Đại biểu Nhân dân Xô Viết và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và là Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô trong Chiến tranh Thế giới thứ 2 – Ông được tôn vinh hàm Đại nguyên soái Liên Xô.
Ông giữ quyền lực tối thượng từ giữa thập niên 1922 cho đến khi qua đời.
Tiến sĩ Rafael Leonidas Trujillo Molina (1891-1961) – người CH Dominica.
Ông là Tổng thống CH Dominica trong 2 nhiệm kỳ: 1930-1938 và 1942-1952
1952-1960: em trai ông là Tổng thống
1932: Ông được tôn vinh là “Người cha của Tổ quốc mới” (Padre de la Patria Nueva)
1933: Ông được tôn vinh là Đại nguyên soái
1937: Ông chỉ đạo vụ thảm sát dân da đen Haiiti Trong Thế chiến 2: Ông ủng hộ phe Trục
Sau Chiến tranh Ông trở thành lãnh đạo (độc tài) Nhà nước CH Dominica.
Chiang Kai-shek / Tưởng Giới Thạch (1887-1975) – người Trung Quốc
1925: Ông là Lãnh tụ Trung hoa Quốc dân đảng (kế vị Tôn Trung Sơn)
1926: Ông tự phong là Thống chế (Đại nguyên soái)
1931-1936: Ông lãnh đạo cuộc Chiến tranh Dân quốc
1937-1945: trong Chiến tranh TG 2, Ông lãnh đạo cuộc Chiến tranh chống Nhật
1945-1948: Ông lãnh đạo chiến tranh chống Đảng CS TQ (Mao) và thất bại.
1950: Ông là Tổng thống Trung hoa Dân quốc (Đài Loan).
Francisco Paulino Hermenegildo Teodulo Franco y Bahamonde Saldago Pardo (1892-1975) – người Tây Ban Nha
1936: Ông là Tư lệnh quân đội Tây Ban Nha – được Vua Tây Ban Nha phong hàm Đại nguyên soái.
Năm 1937: Ông đã xây dựng nhà nước Phát xít trong Chiến tranh Công dân TBN chống lại lực lượng Dân chủ TG và liên minh với Phát xít Đức, Ý.
1939: Ông trở thành Quốc trưởng (độc tài) Tây Ban Nha.
Kim Il-sung / Kim Nhật Thành (1912-1994) – người Triều Tiên
Ông là Tổng Bí thư Đảng, lãnh đạo CHDCND Triều Tiên từ 1948
1948-1972: Ông là Thủ tướng CHDCND Triều Tiên
1972-1994: Ông là Chủ tịch nước CHDCND Triều Tiên
Từ 1966: Ông được tôn vinh là Đại nguyên soái - Lãnh tụ Vĩ đại.
Than Shwe (1933 - ) – người Myamar
1992: Ông là Chủ tịch Hội đồng Phục hồi Pháp luật và Trật tự Nhà nước lãnh đạo thay đổi Chính phủ và là Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng Myamar
Năm 1997: Ông tự xưng là Thống tướng (Đại Nguyên soái)
Từ năm 2003 tới nay: Ông là Lãnh tụ (độc tài) nhà nước Myamar.

Ghi chú: Lê văn Tỵ được chính phủ Việt Nam Cộng hòa phong là Thống tướng, nhưng đây không phải là Tướng của các vị Tướng nên không thể gọi là Đại Nguyên soái.

0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Thứ Năm, 21 tháng 8, 2008

Chữ Quốc ngữ - HaMeoK6



Chữ Quốc ngữ


Từ những năm 1550, khi các nhà truyền giáo Châu Âu đầu tiên tới Việt Nam, họ đã bắt đầu dùng mẫu tự La-tinh để viết lại âm giọng mà họ nghe được từ tiếng Việt. Cho tới năm 1615, các tu sĩ dòng Tên (Jesuit) Bồ Đào Nha bắt đầu truyền đạo ở Đàng Trong và từ 1617 họ khởi công la-tinh hóa tiếng Việt.

Người có công đầu trong việc này là linh mục Francis de Pina. Ông sinh tại Bồ Đào Nha năm 1585, đến giảng đạo tại Đàng Trong năm 1617 và sinh sống tại Việt Nam liền trong 8 năm. Lúc này, trụ sở của dòng Tên Bồ Đào Nha đặt tại Thanh Chiêm là dinh trấn của Nguyễn Phước Nguyên, nay là huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Bề trên của nhà dòng là linh mục Buzomi cũng là một nhà ngôn ngữ học và chính ông đã sáng tác một hệ thống văn phạm tiếng Việt.

Năm 1618, linh mục Francis de Pina là người đầu tiên dịch các bản kinh tiếng La-tinh sang tiếng Việt. Đến năm 1622, linh mục Francis de Pina hoàn thành một hệ thống ghi âm theo mẫu tự La-tinh thích hợp với lối phát âm và thanh điệu tiếng Việt. Năm 1624, linh mục Pina mở trường dạy nói tiếng Việt và dạy viết chữ quốc ngữ tại Thanh Chiêm để dạy các giáo sĩ mới đến giảng đạo tại Việt Nam, trong số đó có Alexandre de Rhode (tên Việt là Đắc-Lộ).

Linh mục người Pháp Alexandre de Rhode (1591 - 1660) đến Việt Nam vào khoảng cuối năm 1624 cùng với 4 linh mục dòng Tên khác và một tín hữu Nhật Bản. Ông bắt đầu học tiếng Việt từ một cậu bé khoảng 10 tuổi. Sau đó ông được linh mục Pina dạy tiếng Việt đến cuối năm 1625 thì chẳng may linh mục Pina bị tai nạn chết đuối tại bến cảng Đà Nẵng.

Alexandre de Rhode đã tập hợp và hệ thống hóa lại toàn bộ các công trình về tiếng Việt được La-tinh hóa bởi các người tiền nhiệm. Hai phần quan trọng liên quan đến chữ quốc ngữ là 2 cuốn tự điển Việt-Bồ và Bồ-Việt là công lao của 2 linh mục Bồ Đào Nha Gaspar de Amaral và Antonio de Barbose. Cả 2 ông đều đã chết sớm. Alexandre de Rhode là hiệu đính và bổ sung chứ không phải là tác giả của những cuốn tự điển quan trọng này, nhất là về phần Việt ngữ.

Trong vòng 20 năm, Alexandre de Rhode bị trục xuất đến sáu lần do các chính sách của triều đình lúc bấy giờ. Nhưng sau cả sáu lần ấy, ông đều tìm cách trở lại Việt Nam khi cơ hội cho phép. Ông mất năm 1660 ở Ispahan - Ba Tư, 15 năm sau lần cuối cùng bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam.

Đặc điểm của tiếng Việt là các dấu, trong đó có 4 dấu xuất phát từ tiếng Hy Lạp và dấu thứ 5 lấy từ tiếng La-tinh hoặc các tiếng Âu châu:

Dấu Sắc (accent aigu) dùng vào 1 âm đọc lên giọng mạnh, ký hiệu ( ´ ).

Dấu Huyền (accent grave) dùng vào 1 âm đọc giọng nhẹ, ký hiệu ( ` ).

Dấu Ngã (accent circonflexe) dùng vào âm đọc lên giọng rồi xuống giọng ngay, ký hiệu ( ~ ).

Dấu Nặng, vốn không phải là một Dấu mà là một Chữ trong tiếng Hy Lạp. Đó là chữ I (đọc là iota) viết tắt, ký hiệu là ( . ).

Dấu Hỏi, phát tích từ âm điệu của câu hỏi trong tiếng La-tinh hay Âu châu, ký hiệu ( ? )

0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Kỷ niệm 63 năm Cách mạng tháng Tám. Chung và riêng - Kiến Quốc

Start:     Aug 19, '08
Location:     Các Blog Trỗi

Trong số các nhân vật lịch sử tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa tại thủ đô Hà Nội, cũng như ở khắp các tỉnh, thành cả nước, có mặt nhiều phụ huynh Trường Trỗi.

“Thật tự hào về họ, những người đã hy sinh trọn đời cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc!”

Trần Kiến Quốc


Xem:
* Hà Nội, Hà Tây những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám - Đại tá Lê Trọng Nghĩa, nguyên Uỷ viên UBKN Hà Nội - Kiến Quốc, 30/8/2008 -Blog "Út Trỗi".
1. Chuyện về 1 cái cây - Kiến Quốc, 20/8/2008 - Blog "Bạn Trường Trỗi".
2. Tuổi hai mươi được tham gia lật trang sử nước nhà - Kiến Quốc, 16/8/2008 - Tien Phong Online

3. Cách mạng Tháng Tám qua hồi ức của một Ủy viên Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội - Kiến Quốc, 22/7/2008 - Blog Trường VHQĐ Nguyễn Văn Trỗi.
4. 60 năm Cách mạng Tháng Tám, theo chân 1 nhân chứng lịch sử. - Kiến Quốc, 15/7/2008 - Blog Trường VHQĐ Nguyễn Văn Trỗi.
5. ĐIỀU ÍT BIẾT VỀ “ÔNG CỐ VẤN” TRẦN ĐÌNH LONG VÀ 100 NGÀY VỚI CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG - Kiến Quốc, 17/8/2007 - Blog Trường VHQĐ Nguyễn Văn Trỗi.
6. TỔNG KHỞI NGHĨA 19-8: NHÂN DÂN HÀ NỘI ĐÃ DẠY CHÚNG TÔI - Ghi theo lời kể của ông Lê Trọng Nghĩa - Kiến Quốc, 16/8/2007 - Blog Trường VHQĐ Nguyễn Văn Trỗi.
7. NGUYỄN BÌNH VÀ TRẬN ĐÁNH ĐỒN BẦN YÊN NHÂN 12-3-1945 - Kiến Quốc, 14/8/2007 - Blog Trường VHQĐ Nguyễn Văn Trỗi.
8. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA CHA MẸ CHÚNG TA - Kiến Quốc, 22/6/2007 - Blog Bạn Trường Trỗi

0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Thứ Ba, 19 tháng 8, 2008

Chuyện buồn - HaMeoK6



CHUYỆN BUỒN



Nhân đọc bài của a.JM về việc “Quân ta chiến đấu với quân mình”, tôi nhớ tới hoàn cảnh đã từng trải của mình, xin kể ra đây để AE cùng thông cảm.

Trong thời gian tôi làm việc ở Liên doanh, lẽ tất nhiên như tất cả các doanh nghiệp khác, việc “trình bẩm”, “nhờ cậy”, “xin xỏ”…các cơ quan Nhà nước là không thể tránh khỏi. Vì công việc, tôi cũng đã từng phải “đánh đu” với các ổng nhiều lần, song kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng, mỗi khi trao đổi, bàn bạc với các cấp lãnh đạo, nếu có ít nhất 1 thằng nước ngoài thì công việc bao giờ cũng mang lại hiệu quả cao hơn (?).

Do vậy, mỗi khi “có chuyện”, tôi thường kéo 1 thằng Tây (là cấp dưới của tôi) cùng đi. Trước khi gặp các “sếp” tôi đều “mớm” cho nó (vì nó đâu có hiểu hết công việc): mày phải nói thế này, thế này…còn cái đó, cái đó …thì không nói, cái này, cái này…thì tao nói, vân vân. Nói chung là “kịch bản” phải được giàn dựng trước bởi vì các sếp VN thích nghe mấy thằng nước ngoài nói tiếng xí xa xí xô rồi có phiên dịch lại, còn thằng tôi chẳng qua chỉ là 1 thằng kỹ sư quèn, nhân viên hạng bét của Sở thuộc UBND TP thì quá xa mới nói chuyện được với mấy ổng! Mặc dù mấy thằng Tây đó là thuộc cấp của tôi!

Vậy đó, tôi đã phải dẹp cái “sĩ” của mình đi để được việc. Nhưng cuộc sống đâu có đơn giản như vậy. Mấy thằng Tây, sau vài lần diễn kịch hiểu ngay ra rằng: trước mặt các quan chức VN, nó là “sếp” của tôi! Mặt khác, các sếp VN cũng luôn luôn nói: Ông…. nói thế này, thế kia để thằng Thành làm cái này, cái nọ… Và thế là công việc điều hành trong Công ty lập tức có chuyện “rối loạn” liền. Lại phải giải thích, lại phải thuyết phục, nói nguyên tắc, kỷ luật….Ôi, hết sức mệt mỏi mà hiệu quả công việc nhiều khi chẳng đi đến đâu mới tức chớ!

Như vậy là “quân mình chơi quân ta” nên “quân ta mới chiến đấu với quân mình”. Đúng là chuyện thật đáng buồn. Biện pháp giải quyết nỗi buồn này là: say good bye. Vứt mẹ nó đi hết là xong!

"Đăng lại bài viết của Hà Mèo (đã đăng tại „Blog Bạn Trỗi”: Thứ hai, tháng tám 18, 2008)


Xem thêm:
1. Chuyện quân ta đá ... hất quân ta -

1 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

10 Nguyên soái TQ - HaMeoK6


10 Nguyên soái TQ



Để bổ sung cho bài của TQ uttroi, xin đưa ra đây danh sách 10 vị Nguyên soái TQ với các chức vụ cao nhất đã từng trải qua trong các lãnh vực (nếu đăng toàn bộ chức vụ qua từng thời kỳ thì rất dài)

Tên / Chức vụ cao nhất: Quân đội / Đảng / Chính quyền / Đoàn thể

Nhiếp Vinh Trăn (1899-1992) / TL chiến trường miền Bắc (1936-1946) / UV BCT (1960-1986) / phó Thủ tướng (19…)

Từ Hướng Tiền (1901-1990) / Tổng TMT (1949-1978) / UV BCT (1960-1986) / phó Thủ tướng (1978-1981) & Bộ trưởng QP (1978-1981)

Diệp Kiếm Anh (1897-1986) / TMT Bát lộ quân (1936-1946) / phó CT Đảng (1973-1982) / Bộ trưởng QP (1975-1978)

Lưu Bá Thừa (1892-1986) / TMT Hồng quân (1934-1935) / UV BCT (1956-1969)

Chu Đức (1886-1976) / TTL Bát lộ quân (1936-1946) / phó CT Đảng (1956-1969 và 1973-1976) / phó CT nước (1947-1959) / CT UB TV QH (1959-1976)

Bành Đức Hoài (1898-1974) / phó TTL Bát lộ quân (1946-1949) & TL Chí nguyện quân viện Triều (1950-1953) / UV BCT (1956-1969) / phó TT (1954-1959) & Bộ trưởng QP (1955-1958) / bị HVB bắt và giết (1974)

Trần Nghị (1901-1972) / TL Tân tứ quân (1931-1933) / UV BCT (1956-1969) / phó Thủ tướng (1954-1972) & bộ trưởng Ngoại giao (1958-1972) / bị HVB thanh trừng (1967)

Lâm Bưu (1907-1971) / TL QĐ số 1 (1932-1935) / phó CT Đảng (1958-1971) / phó Thủ tướng (1954-1971) & Bộ trưởng QP (1958-1971) / phó Thống soái CMVH (1969-1971)

Hạ Long (1896-1969) / TL TĐQ số 2 (1934) / UV BCT (1956-1969) / phó Thủ tướng (1954-1966) / bị HVB bắt và giết (1966-1969)

La Vinh Hoàn (1902-1963) / CN Tổng cục CT / UV BCT (1956-1963)

Đăng lại bài viết của Hà Mèo (đã đăng tại „Blog Út Trỗi”: Thứ hai, ngày 18 tháng tám năm 2008)

0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2008

Dân Do Thái - HaMeoK6



DÂN DO THÁI



Như đã nói bữa trước, hôm nay xin "trình" bài này để AE "duyệt".

Dân Hêbrơ, hay còn gọi là Do Thái, cái tên chỉ có từ Thế kỷ 1 sau khi đế quốc La Mã chinh phục được vùng đất (có tên cổ đại là Canaan) đặt tên là Juda mà theo âm Hán Việt là Do Thái, cái tên của kẻ “bán” Chúa Giêsu.

Dân Do Thái cũng là 1 trong số các bộ tộc người Ả Rập sống trải dài trên cái vùng đất sa mạc cát hoặc đồng cỏ khô cằn từ Bắc Phi cho tới giáp Ấn Độ. Cũng như mọi bộ tộc khác, ngay từ những năm 2.000 TCN, dân Do Thái đã có cuộc sống du mục truyền đời, lang thang khắp các sa mạc từ Trung Á tới Bắc Phi và điểm dừng chân khả dĩ nhất chỉ là vùng châu thổ sông Nil, nơi họ sẽ được người Ai Cập cho sống cuộc sống nô lệ. Bởi vậy họ kéo nhau đến Ai Cập theo từng đoàn bộ tộc lớn nhỏ khi đói rét và rời bỏ nó khi Ai Cập mất mùa hoặc cuộc sống nô lệ tiến tới quá tàn bạo. Tuy nhiên, dân Do Thái có 1 cuộc sống tinh thần đặc biệt hoàn toàn khác các bộ tộc khác. Điều đó không biết là hạnh phúc hay tai họa cho người Do Thái!

Ngay từ những năm 1.800 TCN, người Do Thái đã bắt đầu theo thứ tôn giáo thờ độc thần không như các bộ tộc khác phải tới khoảng năm 100 TCN mới có. Không những thế, từ những năm 1.200 TCN, hầu hết dân Do Thái đều theo 1 thứ tôn giáo và hầu như chỉ có họ theo thứ tôn giáo này. Thứ tôn giáo ngày nay được gọi bằng chính tên dân tộc họ: Do Thái giáo.

Đứng về lịch sử Triết học thì đây là 1 tiến bộ vượt bậc trong đời sống tinh thần của loài người. Nhưng đáng tiếc không phải là 1 cuộc cách mạng như Gia Tô giáo ra đời sau đó cả gần 2.000 năm. Lại càng đáng tiếc hơn khi toàn bộ dân Ả Rập đã “tẩy chay” những kẻ “cầm đèn chạy trước ô tô” này và đặc biệt khi những người Gia Tô giáo xuất hiện vào Thế kỷ 1 thì vì những lý do riêng (có thể là để phục vụ công cuộc cách mạng của họ?) đã “tô điểm” cho dân Do Thái cái “tội giết Chúa (Giêsu)”. Người Do Thái đã trở thành “tội đồ” của toàn Thế giới (Châu Âu và người Ả Rập) không dân tộc nào, không mảnh đất nào chấp nhận chứa chấp họ.

Trong suốt 4.000 năm lang bạt “không mảnh dất cắm dùi”, ngoài lối sống du mục với nền kinh tế chăn nuôi, dân Do Thái không thể định cư sản xuất nông nghiệp và càng không thể phát triển công nghiệp như mọi dân khác. Cách làm kinh tế duy nhất có thể được là kinh doanh và như vậy, đồng tiền đã được người Do Thái sử dụng có hiệu quả cao nhất. Có thể đồng tiền đầu tiên đã xuất hiện ở Trung Quốc hay nơi nào đó, nhưng ngay từ ngững năm 1.200 TCN, người Do Thái đã biết sử dụng tiền làm công cụ đo lường vật chất, hàng hóa và cả việc trừng phạt / khen thưởng con người! Họ đã trở thành dân tộc có khả năng tài chánh giỏi nhất Thế giới (chứ không phải chỉ biết cho vay nặng lãi để cướp giật sức lao động của người khác như 1 số người đã tuyên truyền). 1 số ít khác bắt buộc phải sử dụng tài năng vào công việc (không cần đất) là “bán” chất xám để kiếm sống. Số lượng bác học gốc Do Thái chiếm tỷ lệ đáng nể trên Thế giới có lẽ chính là từ đây.

Sự bí ẩn của Dân Do Thái

Các thế lực chính trị từ Vua Babilon (hơn 500 năm TCN) hay Ba Tư cổ đại (của Thế kỷ thứ 6, thứ 7) đến các chính phủ sau này như Hitler và cả các nước Đồng Minh sau Thế chiến 2 đều đã hết sức sử dụng các tài năng Do Thái phục vụ cho mưu đồ của mình và sau đó đều “phủi tay” hay thậm chí tiêu diệt họ.

Song chính bản thân người Do Thái lại không làm được cho chính mình vì những “đặc tính” rất kỳ lạ của Do Thái giáo (sách “Jelimi” chương 31 tiết 33 – 36 của Kinh Do Thái). Với “đặc tính” kinh doanh ngay từ xa xưa, Đạo Do Thái cho rằng Chúa Trời đã có 1 “thỏa ước” với dân tộc họ sẽ trở thành dân tộc vượt trội hơn tất cả mọi dân tộc của loài người, tuy nhiên đó không phải là 1 “đặc ân” mà sẽ là sự “trả giá” của Chúa Trời cho họ sau rất, rất nhiều những đau khổ mà dân tộc họ phải trải qua (lý thuyết này đã được đưa ra từ hồi ông Mosses – năm 1.255 TCN !). Điểm khác biệt cơ bản ở đây là Chúa Trời đã “thỏa thuận” chớ không phải “ban phát” cho dân Do Thái bất cứ thứ gì. Đối với họ không có Thiên đàng hay Địa ngục, không có Thế giới bên kia, không có kiếp luân hồi mà chỉ có Thế giới thực tại cho tới ngày Tận thế – Ngày “thanh lý Thỏa ước”? Phải chăng đây là 1 trong các luận điểm làm các giáo phái khác tức giận và tẩy chay họ?

Các giáo sĩ Do Thái - những người đã "ký thỏa ước" với Chúa Trời ?

Trong quá khứ, dân Do Thái đã 2 lần nhận được sự “trả giá” này là:

Lần thứ nhất vào khoảng năm 1.200 TCN, họ đã chiếm lĩnh và thống trị vùng đất Canaan (lãnh thổ Israel ngày nay) trong suốt gần 700 năm cho tới khi bị đế quốc Babylon đánh bại và đuổi đi.

Lần thứ 2, vào năm 510, dân Do Thái đã được “hưởng ké” do 1 người Ả Rập theo đạo Do Thái, dưới sự bảo trợ của đế quốc Ba Tư đã trở thành vua thống trị toàn bộ bán đảo Ả Rập trong vòng 15 năm và sau đó bị đế quốc Byzantine tiêu diệt.

Còn ngày nay, có lẽ từ khi chính phủ Israen – hiện đang đại diện cho dân Do Thái – nhận được sự ủng hộ của nước Mỹ (nơi có dân Do Thái đông nhất trừ Israen), thì họ cho rằng đã đến lúc Chúa Trời “trả” cho chăng ? Họ đang hành động đúng như “giá trị” mà họ phải được hưởng sau chừng đó Thế kỷ đã “trả giá”?

Xin không có lời kết vì sự việc vẫn còn tiếp diễn.


Người Do Thái trước họng súng của Phát xít Đức


người Palesti trước họng súng của lính Do Thái.

Xem thêm:
1. Có một dân tộc như thế! - tt_ngayxua tại Blog K8 "Út Trỗi".
2. Itxraen - Hà Chí Quang - Blog Bạn Trường Trỗi.

0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Thứ Năm, 14 tháng 8, 2008

Đỗ Tiến - Liệt sĩ thứ 30 của trường Trỗi - Kiến Quốc



Đỗ Tiến - Liệt sĩ thứ 30 của Trường Trỗi



...

Năm 2000 khi lên dự lễ Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho xã Mỹ Yên, anh Giao k2 cùng Phan Đình Nhân k6 có đến thăm gia đình LS Đỗ Tiến(?) là học sinh k6 Trỗi. Hôm vừa rồi anh Giao có xác nhận việc này. Vậy BLLk6 khẩn trương tìm hiểu và truy cập tư liệu cho BBT sách Tập 3. Như vậy số LS của trường Trỗi là 30 chứ không phải 29!
...

Đăng lại tin của Kiến Quốc (đã đăng tại „Blog Bạn Trỗi”: Thứ tư, 13 tháng 8, 2008)

Xem "Tin thêm" trong bài viết: Với An Mỹ từ cái nhìn khác! Kiến Quốc - 13/8/2008 tại „Blog Bạn Trỗi”.

 

1 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>

Thứ Bảy, 2 tháng 8, 2008

Côn Đảo - HaMeoK6





Hôm rồi tôi có ra Côn Đảo thăm lại nơi các phụ huynh của nhiều AE mình đã từng qua. Từ cầu tàu 914 đến Banh 1, Banh 2 rồi cầu Ma Thiên lãnh, Chuồng bò, Hầm xay lúa…tới các Chuồng cọp thời Pháp, thời Mỹ…thăm nghĩa trang Hàng Dương viếng mộ các tiền bối…đủ cả, những nơi mà AE ta chắc chắn đã nghe và xem nhiều trên sách vở, phim ảnh nhưng nay tôi mới được tận mắt chứng kiến. Đúng là trang lịch sử hào hùng không thể quên được, đặc biệt là đối với tôi, nơi mà phụ huynh đã từng trải qua.

Nhưng thôi, những chuyện này nếu tôi kể lại chắc không thể bằng lịch sử và sách báo. Tôi xin kể với AE chuyện Côn Đảo ngày nay, nơi mà chỉ có “1 trường, 1 chợ, 1 vợ, 1 cây xăng”. Và cây xăng này chỉ hoạt động vào giờ hành chánh.


Côn Đảo - nhìn ra biển từ trên núi
(cầu Ma Thiên Lãnh)

Toàn bộ dân trên đảo (kể cả bô đội, công an…) chỉ khoảng 8.000 người. Đảo Côn Lôn (đảo lớn nhất Côn Đảo) dài 15 km, chỗ rông nhất 9 km và chỗ nhỏ nhất chỉ có 1 km. Khu vực trung tâm đảo, vùng “đồng bằng” lớn nhất, nơi tập trung các chứng tích nhà tù, nơi là khu vực hành chánh của đảo chỉ khoảng 3 km trải dài theo biển. Nói chung là hoàn toàn có thể cuốc bộ. Nhưng nếu có nhu cầu “làm biếng” thì có thể thuê xe đạp (50.000 đ/ngày) hoặc xe gắn máy (120.000 đ/ngày bao gồm xăng).


Xe gắn máy để trên lề đường không gửi, không khóa
Đặc biệt có lẽ đây là nơi duy nhất ở VN không có chỗ gửi xe vì đi đến đâu cũng chỉ việc bỏ thí xe ngoài đường không cần khóa cổ, thậm chí có thể để nguyên hàng hóa trên xe mà ko hề có chuyện gì xảy ra. Dân đảo chạy xe giữa đường lỡ có hư hỏng thì bỏ xe bên vệ đường vẫy xe khác đi nhờ về nhà, hôm sau mới ra lấy xe về. Dân đảo nói : xe ko hề bị mất gì, có chăng là từ khi xăng lên giá thì thỉnh thoảng bị mấy cháu TN hút tạm chút xăng, nhưng đa phần là ngày hôm sau mấy cháu đó đều tới gặp chủ xe xin lỗi và xin trả tiền mà hầu hết các chủ xe đều cho qua. Xe ô tô thì chỉ phục vụ khách du lịch “xịn” (cỡ như tụi tôi thì chỉ đi bộ) và quan chức cao cấp của huyện nhà.

Đường chính giữa trung tâm đảo vào "giờ tầm" (11g30) - không bóng người, không miếng rác

Hàng ngày, vào lúc 5g30 sáng còi hụ khắp đảo và tiếp theo là loa phát thanh nhạc tập thể dục cho toàn dân. Sau đó vào lúc 11g30, 13g30 và 17g00 đều có còi báo giờ làm việc và tan tầm đúng nếp sống HN thời trước chiến tranh.

Tất cả các đường phố ở đây đều rất sạch sẽ, rác chỉ là lá cây và hoa héo rụng xuống, không hề có bao ny lông, vỏ chai, rác sinh hoạt…. thậm chí tàn thuốc lá cũng là điều hiếm thấy trên đường (có lẽ “thủ phạm” chỉ là dân du lịch như tôi). Các con đường đều được mang tên các chiến sỹ CM đã từng bị giam cầm nơi đây như Lê Hồng Phong, Lê Duẩn, Nguyễn An Ninh….và Nguyễn Huệ (có lẽ là gián tiếp nhắc tới Nguyễn Ánh chăng ?).

Mọi thứ nơi đây đều được chuyển từ đất liền ra. Bữa nào biển động là chợ thiếu hàng. Mỗi khi tàu hàng ra chậm, toàn dân đảo đều biết. Dân trên đảo chỉ tự cung, tự cấp cho mình cá biển và đá xây dựng (loại đá xây nhà tù). Bởi vậy tiệm nhậu ở đây cũng rất ít và rượu bia không có nhiều sự lựa chọn – chủ yếu là bia Sài Gòn và đế Cần Thơ, các thứ khác muốn có phải đặt trước đợi tàu đem ra !

KS đang xây của Saigontourist - dãy nhà nâu phía sau là cổng vào Banh 2 chỉ cách 1 con đường khoảng 4 m

Nói vậy, nhưng “phong trào” xây dựng đang ngày càng “nở rộ” tại đây cho dù tất cả sắt thép, gạch ngói, xi măng… đều “mang ra từ đất” như dân đảo nói. Đặc biệt 2 cái “Ủy” – Huyện ủy và UBND Huyện đã xây 2 VP hoành tráng nằm cạnh nhau lớn không thua gì UBND TP.HCM (tuy không đẹp bằng và theo kiến trúc tân thời). Saigontourist cũng đang tiến hành xây 1 khách sạn (ít nhất cũng cỡ 3 sao trở lên) nằm án ngữ ngay trước cửa Banh 2 – nơi chứng tích lịch sử nhà tù Pháp đã từng giam các đ/c Lê Duẩn, Phạm văn Đồng…
 
 
 
 
 
 

Ngay trước cửa nghĩa trang Hàng Dương, 1 ngân hàng vào loại bậc nhất của VN đã “tài trợ” 1 cái chuông đồng to tổ bố mà nghe nói có trị giá lên tới trên 5 tỷ đồng – trong khi dự toán xây hàng rào chống trâu bò vô Nghĩa trang sẽ chỉ tốn khoảng hơn 2 tỷ nhưng chưa được duyệt. Nghe kể lại rằng bữa khánh thành cái chuông này, hàng đoàn quan chức trong và ngoài đảo đã đến xì xụp vái lạy tới hơn 2 tiếng đồng hồ trong tiếng tụng kinh gõ mõ của 1 đội thầy chùa “rước từ đất ra”. Chẳng hiểu các vị tiền bối trong nghĩa trang có biết không nhưng nghi lễ CM duy nhất dự định thực hiện là nổi nhạc bài “Hồn tử sĩ” đã bị trục trặc kỹ thuật kêu rè rè mà không lên nổi (làm thằng nhỏ phụ trách KT bị "dzợt" lên bờ xuống ruộng).

Vài chuyện tầm phào, để biết tốt nhất về Côn Đảo, không gì bằng hãy 1 lần ra đó.
Xin đăng thêm mấy tấm hình để AE “thưởng nhãn”.

Hoàng hôn trên núi Chúa
(nơi Nguyễn Ánh ẩn trốn khi xưa)

Bãi biển đẹp, nhưng vắng hoe

Nói chung trừ các nhà tù ra thì Côn Đảo rất đẹp và hoang sơ - hoang sơ tới mức nếu có ai ra tắm biển (mà cũng chỉ có dân du lịch thôi) thì trẻ con ngồi kéo dài trên bờ xem như xem phim vậy !

Xem thêm bài liên quan:

1. Bẩy ngày Nam du. 3: Côn Đảo (sửa: 22h30, 12/1) - Hữu Thành, 8/1/2007, Blog "Bạn Trường Trỗi" .
2. ĐI CÔN SƠN - AK7, 5/8/2008, Blog "Út Trỗi" .
3. CÔN ĐẢO MÙA GIÓ CHƯỚNG - dathb136, 1/12/2008, Blog "Út Trỗi".
4. CHUYỆN VỀ MỘ CHỊ VÕ THỊ SÁU - dathb136, 1/2/2009, Blog “ÚT TRỖI”.


Đăng lại bài viết của Hà Mèo (đã đăng tại „Blog Út Trỗi”: Thứ bảy, ngày 02 tháng tám năm 2008)

0 comments:

Hãy viết bằng tiếng Việt có dấu trực tuyến:
Easy VN - Chương trình tự động thêm dấu tiếng Việt
VIETUNI - Tại Viet1Net (Nên chọn Kiểu Loạn)

- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>